Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

HUỲNH ANH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HUỲNH ANH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.50

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THANH BÌNH

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sỹ Nguyễn Thanh Bình. Luận văn có kế thừa
các tư tưởng, kết quả nghiên cứu của những người đi trước.
Mọi thông tin, số liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực và có trích
dẫn nguồn đầy đủ.
TP. Hồ Chí Minh, ngày ….. tháng 11 năm 2010
Tác giả

Huỳnh Anh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHTG

: Bảo hiểm tiền gửi

NGT

: Người gửi tiền

NH

: Ngân hàng

NHNN

: Ngân hàng Nhà nước

TCTD


: Tổ chức tín dụng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1 - Tính cấp thiết của đề tài ...............................................................................................1
2 - Tình hình nghiên cứu đề tài .........................................................................................3
3 - Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu ...............................4
4 - Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu ....................................................................5
5 - Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài .......................................................5
6 - Kết cấu của luận văn ....................................................................................................6

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
CỦA NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG ....... 7
1.1.

Tổ chức tín dụng và hoạt động của tổ chức tín dụng .......................................... 7

1.1.1. Khái quát về tổ chức tín dụng ...................................................................................7
1.1.2. Các hoạt động của tổ chức tín dụng .........................................................................9
1.2.

Khái quát tiền gửi ................................................................................................. 16

1.2.1. Khái niệm tiền gửi ...................................................................................................16
1.2.2. Các hình thức tiền gửi .............................................................................................17
1.3.

Vai trò của tiền gửi ............................................................................................... 19


1.3.1. Đối với người gửi tiền .............................................................................................19
1.3.2. Đối với tổ chức tín dụng .........................................................................................20
1.3.3. Đối với nền kinh tế ..................................................................................................21
1.4.

Ngƣời gửi tiền tại các tổ chức tín dụng ............................................................... 24

1.4.1. Khái quát về người gửi tiền ....................................................................................24
1.4.2. Phân loại chủ thể gửi tiền .......................................................................................25
1.5.

Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi tiền ....................................... 27

1.5.1. Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo sự bình đẳng giữa tổ chức tín dụng và người gửi
tiền...........................................................................................................................28
1.5.2. Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền từ những rủi ro của hoạt động tài chính ngân
hàng.........................................................................................................................29
1.5.3. Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền góp phần đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức
tín dụng ...................................................................................................................30


1.5.4. Thông qua hoạt động cung cấp dịch vụ, tổ chức tín dụng có thể gây thiệt hại
cho người gửi tiền ...................................................................................................31
1.6.

Những quyền lợi của ngƣời gửi tiền cần đƣợc bảo vệ ....................................... 32

1.6.1. Quyền được tạo thuận lợi khi gửi tiền và rút tiền. ..................................................32
1.6.2. Quyền được trả đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi mọi khoản tiền gửi...........................33
1.6.3. Quyền được đảm bảo bí mật thông tin tiền gửi (số dư tài khoản, số tài

khoản,...), an toàn tài khoản. ..................................................................................34
1.6.4. Quyền được cung cấp thông tin về tiền gửi: lãi suất, số dư,... ...............................37
1.6.5. Quyền định đoạt tiền gửi, để lại di sản thừa kế ......................................................38
1.6.6. Quyền được bảo hiểm chi trả khi tổ chức tín dụng gặp rủi ro ...............................39
1.6.7. Quyền khởi kiện tổ chức tín dụng có hành vi vi phạm hợp đồng đã cam kết theo
quy định của pháp luật. ...........................................................................................39

CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN ....................................................... 41
2.1.

Quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi tiền ............................. 41

2.1.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền .................................................................................................. 41
2.1.2. Thực tiễn pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền .............. 42
2.2.

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của
ngƣời gửi tiền ......................................................................................................... 78

2.2.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người
gửi tiền ................................................................................................................... 78
2.2.2. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền ......................................... 86
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................. 8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1 – Tính cấp thiết của đề tài
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, bảo vệ tốt quyền lợi
người gửi tiền có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo an toàn tổ chức tín dụng,
hệ thống tài chính ngân hàng, cũng như góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Bởi khi
người gửi tiền tin rằng quyền lợi của họ được đảm bảo thì họ sẽ tích cực gửi tiền
vào tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng huy động được nguồn vốn dồi dào để cho
vay, từ đó nguồn vốn được lưu thông, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội. Đồng thời, khi quyền lợi được đảm bảo thì người gửi tiền cũng không dễ dàng
nghe theo những tin đồn thất thiệt dẫn đến việc rút tiền ồ ạt, ảnh hưởng đến an toàn
hệ thống ngân hàng. Tại Việt Nam, sự đổ vỡ hàng loạt các hợp tác xã tín dụng nông
thôn và quỹ tín dụng đô thị trên toàn quốc trong những năm cuối thập niên 80 của
thế kỉ XX đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người gửi tiền. Thực tiễn ở các nước trên thế giới cũng cho thấy điều đó
qua các cuộc khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
năm 2008 vừa qua1.
Xét ở một khía cạnh khác, quyền lợi người gửi tiền cần được bảo vệ xuất
phát từ vị thế của người gửi tiền trong mối quan hệ với tổ chức tín dụng. Theo đó,
quyền lợi của người gửi tiền chưa thật sự bình đẳng với tổ chức tín dụng. Người gửi
tiền khi gửi tiền vào tổ chức tín dụng, chủ yếu dựa vào niềm tin và uy tín của tổ
chức tín dụng, vì không có tài sản nào bảo đảm từ phía tổ chức tín dụng. Trong khi
đó, tổ chức tín dụng thường yêu cầu khách hàng vay phải có tài sản thế chấp để bảo
đảm tiền vay. Điều này đòi hỏi phải có cơ chế bảo vệ người gửi tiền trong tương
quan với việc bảo đảm khả năng chi trả của tổ chức tín dụng. Hiện nay, để khắc
phục một phần vấn đề này là sự can thiệp của bảo hiểm tiền gửi. Theo đó, tổ chức
nhận tiền gửi sẽ đóng tiền bảo hiểm cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi, trong trường hợp
tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng
ra chi trả cho người gửi tiền một lượng tiền nhất định theo hạn mức do pháp luật
quy định. Tuy nhiên, ở Việt Nam cho đến nay, những quy định pháp luật về vấn đề

1

Đối với các nước bảo vệ tốt quyền lợi người gửi tiền là yếu tố quan trọng trong giải quyết khủng hoảng tài
chính, nhờ đó thị trường tài chính không bị rối ren, các tổ chức tín dụng giải thể, phá sản trong vòng trật tự
(điển hình là Mỹ); ngược lại, ở các nước không bảo vệ tốt quyền lợi người gửi tiền đã làm cho hệ thống tài
chính - ngân hàng bị rối loạn, hiện tượng rút tiền hàng loạt đã diễn ra (điển hình là ở Anh). Đó là lí do vì sao
sự sụp đổ của ngân hàng ở Anh là rất lớn còn ở Mỹ thì có nhiều ngân hàng sụp đổ nhưng khủng hoảng dây
chuyền không nặng nề như ở Anh.

Huỳnh Anh


2

này vẫn còn những hạn chế, từ hạn mức chi trả bảo hiểm đến ghi nhận vai trò, mô
hình của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chưa thật phù hợp nên hiệu quả bảo vệ quyền
lợi người gửi tiền chưa cao. Bởi bảo vệ quyền lợi người gửi tiền không chỉ dừng lại
ở việc chi trả bảo hiểm mà còn phải hạn chế sự sụp đổ của tổ chức tín dụng, hạn chế
tình trạng mất khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng. Thực tiễn cho thấy người
gửi tiền chưa thật sự yên tâm về sự an toàn tiền gửi của mình. Minh chứng là người
gửi tiền dễ dàng nghe theo tin đồn thất thiệt, dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng loạt
tại một số ngân hàng trong thời gian qua như Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á
Châu (2003), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nông thôn Ninh Bình (2005),…
Ngoài ra, an toàn tiền gửi cũng như đảm bảo những quyền lợi liên quan đến
tiền gửi (lãi suất, giá trị và tiện ích của các dịch vụ được cung ứng) là sự quan tâm
của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi gửi tiền tại các tổ chức tín dụng. Đặc biệt, khi
đó lại là những khoản tiền dành dụm, chắt chiu để đảm bảo cuộc sống thì tiền gửi
đối với người gửi tiền càng trở nên quan trọng. Ước tính khoảng 60% - 65% tổng
lượng tiền gửi tại các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng hiện nay là của
người dân với số người gửi tiền lên tới hàng chục triệu người. Vì thế, bảo vệ quyền

lợi người gửi tiền không chỉ có ý nghĩa bảo vệ lợi ích chính đáng của người gửi tiền
mà còn có ý nghĩa đảm bảo an sinh xã hội.
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập, vì vậy, những tác động tiêu cực từ
thị trường tài chính thế giới cũng sẽ ảnh hưởng đến hệ thống tài chính nước ta, từ đó
ảnh hưởng đến khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền2. Mặt khác, hiện nay
năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính - ngân hàng của nước ta so với nhiều
nước trên thế giới còn thua kém về chất lượng sản phẩm, về công nghệ áp dụng, về
quy mô vốn… có thể sẽ có một số tổ chức tín dụng nhỏ dễ bị đổ vỡ trước sự cạnh
tranh của các ngân hàng nước ngoài. Đặc biệt là khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị
trường tài chính, với tính chất của nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh sẽ khốc liệt
hơn thời điểm hiện nay. Khi đó, quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín
dụng nhỏ này sẽ bị đe dọa. Vì vậy, cần có những giải pháp góp phần hạn chế sự sụp
đổ của các tổ chức tín dụng này để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền trong thời
gian sắp tới. Điều này cũng phù hợp với chính sách của Nhà nước về xây dựng các
loại hình tổ chức tín dụng theo đó “xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng hiện đại,
2

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập và trong giai đoạn tiến đến là một quốc gia phát triển. Để đạt được
mục tiêu này, Việt Nam không thể tách khỏi sự ảnh hưởng của bên ngoài, những biến động của tình hình thế
giới. Đặc biệt là sự tác động trong trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm và
nhiều rủi ro, có tính chất ảnh hưởng dây chuyền. Một khi có khủng hoảng thì không chỉ xảy ra ở một hay một
vài quốc gia mà nó có thể lan rộng khắp nơi trên thế giới, Việt Nam không ngoại lệ.

Huỳnh Anh


3

đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế và dân cư, góp
phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức

tín dụng, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền”3.
Từ những lý do trên, việc đúc kết kinh nghiệm của các nước, kết hợp thực
tiễn Việt Nam để bổ sung, hoàn thiện những quy định của pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người gửi tiền là rất cần thiết. Do đó, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng” để làm luận văn tốt
nghiệp cao học luật của mình.
2 - Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, với phạm vi và mức độ nghiên cứu khác nhau, có nhiều tác
giả có bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi người
gửi tiền tại các tổ chức tín dụng như: luận văn tốt nghiệp cử nhân luật “Một số vấn
đề pháp lý về bảo hiểm tiền gửi”(2004) của tác giả Đặng Thị Đỉnh; luận văn tốt
nghiệp cử nhân luật “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong hình thức
nhận tiền gửi của tổ chức tín dụng”(2005) của tác giả Bùi Thị Thúy Triều; luận văn
tốt nghiệp cử nhân luật “Một số vấn đề pháp lý về bảo hiểm tiền gửi”(2005) của tác
giả Nguyễn Thị Thu Thảo; luận văn tốt nghiệp cử nhân luật “Bảo hiểm tiền gửi công cụ pháp lý bảo vệ quyền lợi người gửi tiền” (2006) của tác giả Vũ Tuyết
Minh; luận văn tốt nghiệp cao học luật “Bảo hiểm tiền gửi - quy định của pháp luật
và thực tiễn áp dụng” (2009) của tác giả Nguyễn Thị Diệu Linh. Một số bài viết của
các tác giả như: “Bàn thêm về vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo
vệ người gửi tiền và đảm bảo sự phát triển an toàn của hệ thống ngân hàng”(2009)
của TS. Phùng Văn Hùng; “Tăng cường bảo vệ quyền lợi người gửi tiền”(2009) của
TS. Nguyễn Thị Kim Oanh & ThS. Lê Việt Nga…
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ bảo hiểm tiền
gửi, tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến bảo hiểm tiền gửi mà không
đặt trọng tâm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Cũng có tác giả đặt trọng tâm bảo vệ
quyền lợi người gửi tiền (tác giả Bùi Thị Thúy Triều, Vũ Tuyết Minh) nhưng chỉ
nghiên cứu trong mối tương quan với bảo hiểm tiền gửi, đồng thời các công trình
nghiên cứu này cũng đã lâu (2005), đến nay điều kiện kinh tế - xã hội cũng như
những quy định của pháp luật đã có sự thay đổi. Vì vậy, có thể nói, việc nghiên cứu
một cách tập trung và hệ thống những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của
người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng trong điều kiện hội nhập hiện nay là một nội

3

Xem Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 1997

Huỳnh Anh


4

dung cần tiếp tục hoàn thiện.
3 - Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu về hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng
bằng hình thức nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, qua đó làm sáng tỏ sự cần
thiết bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng.
Từ những quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, luận văn sẽ làm rõ những bất cập,
hạn chế trong các quy định của pháp luật hiện hành về quyền lợi chính đáng của
người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng; đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức
tín dụng trong điều kiện hiện nay.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Các vấn đề lý luận về tổ chức tín dụng và các hoạt động của tổ chức tín
dụng, trong đó có hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi và phát hành
giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng, các quyền và lợi ích của ngƣời gửi tiền tại
các tổ chức tín dụng. Quy định của pháp luật hiện hành cũng nhƣ thực trạng
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng. Từ đó, kiến nghị một
số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi người
gửi tiền.
3.3. Phạm vi nghiên cứu

Hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng bao gồm huy động vốn bằng
nhận tiền gửi, huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá, huy động vốn bằng vay
vốn giữa các tổ chức tín dụng, vay vốn của . Trong phạm vi luận văn này, tác giả
chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng bằng nhận
tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá. Người gửi tiền được nghiên cứu trong luận văn
này là cá nhân, tổ chức có tiền gửi tại tổ chức tín dụng thông qua hoạt động nhận
tiền gửi của tổ chức tín dụng và phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng nhằm
huy động vốn. Người gửi tiền ở đây không bao gồm, các tổ chức tín dụng là chủ nợ
cho vay nợ, .

Huỳnh Anh


5

Tác giả tập trung nghiên cứu những quy định cơ bản nhất về quyền lợi của
người gửi tiền trong các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá của tổ
chức tín dụng.
4 - Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Thực hiện đề tài này tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ những quy định về hoạt động của tổ
chức tín dụng và quy định pháp luật về bảo vệ người gửi tiền tại các tổ chức tín
dụng. Trên cơ sở đó luận văn đi từ cơ sở lý luận đến thực trạng pháp luật và chỉ ra
những hạn chế; đồng thời đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
5 - Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài có những đóng góp mới như sau:
Một là, tác giả phân tích để thấy rõ hơn khái niệm tiền gửi, có liên hệ so sánh
giữa khái niệm tiền gửi theo quy định hiện hành và khái niệm tiền gửi theo Luật
Các tổ chức tín dụng 2010.

Hai là, luận văn đã chỉ ra được những cở sở cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền tại tổ chức tín dụng; nêu rõ những quyền lợi nào
của người gửi tiền cần được bảo vệ. Đồng thời lý giải vì sao người gửi tiền có
được các quyền ấy, vì sao cần bảo vệ các quyền ấy.
Ba là, phân tích được những quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền bao gồm những ghi nhận trực tiếp quyền lợi của
người gửi tiền; những công cụ pháp luật điều chỉnh nhằm đảm bảo an toàn tổ
chức tín dụng, gián tiếp bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền như quy định về lãi
suất, hạn chế tín dụng,... Đặc biệt, những quy định về bảo hiểm tiền gửi, một
thiết chế bảo vệ quyền lợi người gửi tiền hữu hiệu. Qua đó, giúp độc giả có được
những kiến thức chung nhất về quy định của pháp luật hiện hành trong việc bảo
vệ quyền lợi người gửi tiền.
Bốn là, phân tích thực tiễn pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, kết
hợp khảo sát thực tiễn cho thấy những bất cập của quy định pháp luật hiện hành
liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Bao gồm những bất cập về
quy định đóng, phong tỏa tài khoản, những quy định về thừa kế, rút vốn trước
hạn, cung cấp thông tin và bảo mật thông tin, khuyến mại, chuyển tiền, bảo hiểm
tiền gửi...

Huỳnh Anh


6

Năm là, đề xuất những giải pháp nhằm góp phần bảo vệ tốt hơn nữa quyền
lợi người gửi tiền. Gồm hai nhóm giải pháp:
- Nhóm giải pháp hoàn thiện những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền.
- Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
6 - Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
cấu trúc thành 2 chương, bao gồm:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại
các tổ chức tín dụng.
- Chương 2: Thực tiễn pháp luật bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các
tổ chức tín dụng và hướng hoàn thiện.

Huỳnh Anh


7

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
CỦA NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1.

Tổ chức tín dụng và hoạt động của tổ chức tín dụng

1.1.1. Khái quát về tổ chức tín dụng
1.1.1.1. Khái niệm
Khi xã hội loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định, xuất hiện nhu
cầu trao đổi sản phẩm cho nhau và hàng hóa xuất hiện, sản xuất hàng hóa ra đời.
Khi sản xuất hàng hóa hình thành và phát triển thì tiền tệ xuất hiện và ngành nghề
kinh doanh tiền tệ cũng ra đời. Từ đó, xuất hiện những tổ chức chuyên thực hiện các
hoạt động thu nhận các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và sử dụng để cấp tín dụng,
làm các dịch vụ tiền tệ khác, người ta gọi chúng là các TCTD. Hiện nay, các TCTD
tồn tại với nhiều loại hình, tên gọi khác nhau, nghiệp vụ kinh doanh ngày càng đa
dạng, phức tạp. Ngày càng có nhiều các loại hình kinh doanh mới bên cạnh các loại
hình kinh doanh truyền thống như kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm,...
Hoạt động của các TCTD vốn phức tạp và có vai trò không nhỏ đối với nền

kinh tế của mỗi quốc gia. Do vậy, các nước đều có những chế định pháp luật quy
định về TCTD nhằm điều chỉnh hoạt động của chúng. Ở nước ta, theo Luật Các
TCTD 1997, sửa đổi, bổ sung năm 2004 (sau đây gọi là Luật Các TCTD 2004),
định nghĩa: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của
Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng.”
Theo quy định trên, TCTD là doanh nghiệp thực hiện “hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng
số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”4. Trên thực tế, có
nhiều tổ chức được gọi là TCTD nhưng không thực hiện đầy đủ các hoạt động ngân
hàng như định nghĩa đã nêu, tức không thực hiện đồng thời hoạt động “kinh doanh
tiền tệ” và “dịch vụ ngân hàng”.
Xuất phát từ thực tế trên, Luật Các TCTD 2010, định nghĩa TCTD như sau:
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động
ngân hàng”.
So với định nghĩa TCTD của Luật Các TCTD 2004 thì Luật Các TCTD 2010
định nghĩa phù hợp hơn. Các doanh nghiệp thực hiện một hoặc một số hoạt động

4

Khoản 3 Điều 9 Luật HNNN 2003

Huỳnh Anh


8

NH cũng được xem là TCTD, TCTD không nhất thiết phải hoạt động đồng thời tất
cả các nghiệp vụ ngân hàng.
Như vậy, các định nghĩa đều khẳng định TCTD là doanh nghiệp, có thực hiện
hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, các TCTD khác nhau có thể có phạm vi hoạt động

ngân hàng tùy theo hình thức tổ chức và hoạt động của loại hình TCTD đó, từ đó
một TCTD có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng.
Theo luật hiện hành, căn cứ vào phạm vi hoạt động, TCTD gồm các loại: TCTD
là NH và TCTD phi NH. Cụ thể5:
- Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Tùy theo tính chất
và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm: ngân hàng thương
mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách,
ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
- Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực
hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường
xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ
thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công
ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.
1.1.1.2. Đặc điểm của tổ chức tín dụng
Từ khái niệm TCTD có thể thấy TCTD có những đặc điểm sau:
- Một là, TCTD là doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ.
Cũng giống như các doanh nghiệp khác, TCTD kinh doanh vì mục tiêu lợi
nhuận, nhưng đối tượng kinh doanh trực tiếp không phải là hàng hóa phục vụ thông
thường, mà đó là tiền tệ - một loại hàng hóa đặc biệt, vật ngang giá chung trong trao
đổi và chịu sự tác động của nhiều yếu tố chính trị - xã hội .
- Hai là, TCTD là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu,
thường xuyên và mang tính chất nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. Đó là các
hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Từ những hoạt động này dẫn đến những nét rất riêng biệt của TCTD.
+ Thứ nhất, TCTD hoạt động trên nguyên tắc “đi vay để cho vay”, nghĩa là
nguồn vốn cho vay của TCTD chính là vốn huy động từ khách hàng dưới
5

Theo Khoản 2 và Khoản 3 Điều 20 Luật Các TCTD 2004.


Huỳnh Anh


9

các hình thức huy động vốn chủ yếu như nhận tiền gửi các loại, phát hành
trái phiếu ngân hàng, vay của TCTD khác hoặc vay của NHNN trên thị
trường liên NH.
+ Thứ hai, hoạt động của TCTD luôn tìm ẩn những nguy cơ, rủi ro, bất trắc
so với hoạt động kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp khác, bản chất
nghề nghiệp của TCTD là người cho người khác sử dụng vốn của mình và
mình huy động được để thu lợi nhuận mà chỉ có thể đòi được lại vốn sau
một thời hạn nhất định. Mặt khác, còn phải tùy thuộc vào hiệu quả, mục
đích sử dụng vốn của người đi vay.
+ Thứ ba, hoạt động ngân hàng của TCTD có ảnh hưởng quyết định đến sự
tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế đất nước. Bởi vì, những tác động
tiêu cực hay tích cực từ hoạt động kinh doanh của TCTD có tác động dây
chuyền đối với quyền lợi của nhiều tổ chức, cá nhân trong xã hội.
- Ba là, TCTD là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước của NHNN
và thuộc phạm vi áp dụng của pháp luật ngân hàng.
Đây là một trong các dấu hiệu nhận dạng một tổ chức kinh tế là TCTD. Các tổ
chức kinh tế khác chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước khác mà
không phải là NHNN. Chẳng hạn, công ty chứng khoán chịu sự quản lý nhà nước
của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các tổ chức kinh doanh thương mại chịu sự
quản lý nhà nước của Bộ Công thương,…
1.1.2. Các hoạt động của tổ chức tín dụng
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hoạt động của TCTD gồm: huy
động vốn, hoạt động tín dụng, dịch vụ thanh toán và ngân quỹ và các hoạt động
khác.

1.1.2.1. Huy động vốn
Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của
TCTD. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để TCTD có thể thực hiện các hoạt động
khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ khác cho khách hàng. Hoạt động
huy động vốn của TCTD gồm các nội dung như nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có
giá, vay vốn giữa các TCTD và vay vốn của NHNN.
a) Nhận tiền gửi
Nhận tiền gửi là hoạt động huy động vốn chủ yếu của TCTD, nó chiếm tỉ lệ
lớn trong tổng nguồn vốn huy động ở mỗi TCTD. Theo Luật Các TCTD 2004

Huỳnh Anh


10

không đưa ra khái niệm nhận tiền gửi. Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt
động này, Luật Các TCTD 2010 đưa ra khái niệm nhận tiền gửi như sau:
Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi
khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền
theo thỏa thuận6.
Tùy thuộc vào hình thức hoạt động của TCTD, các TCTD sẽ nhận tiền gửi với
phạm vi khác nhau. TCTD là NH không bị giới hạn về hình thức nhận tiền gửi, tức
là có thể thực hiện tất cả các hình thức nhận tiền gửi. TCTD phi NH chỉ được nhận
tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của
NHNN. Như vậy, TCTD phi NH không thể nhận tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi
không kỳ hạn7. Quy định này nhằm góp phần đảm bảo khả năng chi trả cho khách
hàng của các TCTD phi NH. Bởi vì các TCTD phi NH chủ yếu cấp tín dụng trung
và dài hạn8, nếu cho phép tổ chức này nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc nhận tiền

gửi có kỳ hạn dưới một năm thì sẽ khó bảo đảm khả năng thanh khoản khi không
thể rút vốn để đáp ứng nhu cầu thu hồi tiền hoặc thanh toán của khách hàng gửi
tiền.
Trong thời gian sắp tới, khi Luật Các TCTD 2010 có hiệu lực (01/01/2011),
phạm vi nhận tiền gửi của các TCTD phi NH sẽ tiếp tục bị thu hẹp, theo đó các
TCTD này không được phép nhận tiền gửi cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh
toán qua tài khoản của khách hàng9.
b) Phát hành giấy tờ có giá
Ngoài việc huy động vốn qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tài khoản tiền
gửi thanh toán, các TCTD có thể huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá.
Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành là một công cụ vay nợ trên thị trường
tiền tệ, thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi, trong
đó TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất định.
6

Khoản 13 Điều 4 Luật Các TCTD 2010.

7

Xem Khoản 1 và Khoản 2 Điều 45 Luật Các TCTD năm 2004: “1. Ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ
chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác” và “2. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng được nhận tiền gửi có kỳ
hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước."
8

Xem Điều 16 Nghị định số16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính; xem
Mục 2 Nghị định số 79/2002/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính.
9

Xem Khoản 4 Luật Các TCTD 2010.


Huỳnh Anh


11

Theo Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD ban hành kèm
theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008 của Thống đốc
Ngân hàng nhà nước (sau đây gọi là Quy chế phát hành giấy tờ có giá), tại Khoản 1
Điều 4 định nghĩa:
“Giấy tờ có giá” là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy
động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một
thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa
tổ chức tín dụng và người mua”.
Giấy tờ có giá do TCTD phát hành có thể là loại giấy tờ có giá ngắn hạn
hoặc dài hạn, giấy tờ có giá ghi danh hoặc giấy tờ có giá vô danh. Cụ thể10:
+ “Giấy tờ có giá ngắn hạn” là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một 1
năm bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
+ “Giấy tở có giá dài hạn” là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở
lên, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá
dài hạn khác.
+ “Giấy tờ có giá ghi danh” là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức
chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu.
+ “Giấy tờ có giá vô danh” là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức
chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc
quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá.
Về điều kiện phát hành giấy tờ có giá, các TCTD muốn phát hành giấy tờ có
giá phải thỏa mãn những điều kiện do pháp luật quy định. Theo quy định hiện hành,
tùy theo loại giấy tờ có giá được phát hành, pháp luật quy định điều kiện khác nhau.
Nó tùy thuộc vào TCTD phát hành giấy tờ có giá là loại giấy tờ có giá ngắn hạn,

giấy tờ có giá dài hạn hay trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền. Có
thể nhận thấy các điều kiện này đều nhằm mục đích đảm bảo an toàn trong hoạt
động của TCTD và đảm bảo khả năng chi trả của TCTD cho khách hàng mua giấy
tờ có giá. Vì vậy, một trong các điều kiện không thể thiếu trong phát hành là TCTD
được phát hành giấy tờ có giá phải tuân thủ đầy đủ các hạn chế để đảm bảo an toàn
trong hoạt động theo quy định của Luật Các TCTD và hướng dẫn của NHNN11.
10

Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 và Khoản 5 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá.

11

Xem Điều 18, Điều 22 Quy chế phát hành giấy tờ có giá.

Huỳnh Anh


12

Các TCTD có thể phát hành giấy tờ có giá theo bốn phương thức: TCTD trực
tiếp phát hành giấy tờ có giá; bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá thông qua TCTD
khác, công ty chứng khoán được phép hoạt động bảo lãnh giấy tờ có giá và các định
chế tài chính theo quy định tại giấy phép hoạt động; hoặc phương thức đại lý phát
hành, theo đó TCTD ủy quyền cho một số tổ chức khác phát hành giấy tờ có giá;
hoặc phát hành theo hình thức đấu thầu giấy tờ có giá.
Hiện nay, theo Luật Các TCTD 2004, phát hành giấy tờ có giá là một trong
các hình thức huy động vốn, được quy định riêng rẽ với hình thức huy động vốn là
nhận tiền gửi. Điều này đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau khi xác định tiền
gửi12. Thực chất, có một số loại giấy tờ có giá (như chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ
phiếu) khi TCTD phát hành chúng xét về bản chất cũng là một hình thức nhận tiền

gửi. Bởi vì khi tổ chức, cá nhân mua giấy tờ có giá này do TCTD phát hành chính là
tổ chức, cá nhân đó đã gửi tiền vào TCTD và TCTD có trách nhiệm trả lãi và vốn
khi đến hạn (kỳ hạn được ghi trên giấy tờ có giá).
Xuất phát từ bản chất hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD, cũng là
một hình thức nhận tiền gửi, Luật Các TCTD 2010 đã đưa ra khái niệm nhận tiền
gửi, trong đó khẳng định việc phát hành một số loại giấy tờ có giá như “phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu” là một hình thức nhận tiền gửi. Điều này đã
tạo được sự thống nhất giữa các quy định về nhận tiền gửi và khái niệm tiền gửi,
đồng thời cũng tạo được cách hiểu thống nhất về tiền gửi.
c) Vay vốn giữa các TCTD
Hình thức huy động vốn là nhận tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá là
những hoạt động chính nhằm thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ của TCTD, đó
là đi vay để cho vay. Tuy nhiên, lượng vốn huy động được và nhu cầu về lượng tiền
cho vay của TCTD không phải lúc nào cũng cân đối như mong đợi. Vì vậy, để góp
phần bảo đảm khả năng thanh toán và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của các
TCTD, pháp luật còn cho phép các TCTD có thể cho nhau vay. Hoạt động này giúp
TCTD đi vay khắc phục được tình trạng thiếu vốn tạm thời, đồng thời giúp được
TCTD cho vay tìm kiếm thêm lợi nhuận trên số vốn nhàn rỗi do huy động được
nhưng chưa có khách hàng vay.
12

Cách hiểu thứ nhất: Tiền gửi phải hình thành trên cơ sở hoạt động nhận tiền gửi, vì vậy tiền mua giấy tờ có
giá không phải là tiền gửi vì luật không ghi nhận điều này; cách hiểu thứ hai: xem tiền mua các loại giấy tờ
có giá là tiền gửi với lập luận phát hành giấy tờ có giá là một hình thức gửi tiền khác bên cạnh các hình thức
gửi tiền có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, dẫn đến việc mặc nhiên thừa nhận tiền gửi có thể không hình thành
thông qua hoạt động nhận tiền gửi hoặc mặc nhiên xem hoạt động phát hành giấy tờ có giá là một hình thức
nhận tiền gửi (dù Luật Các TCTD 2004 chưa quy định điều này)

Huỳnh Anh



13

"Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng" là việc cấp tín dụng dưới hình thức cho
vay của tổ chức tín dụng (bên cho vay) cho một tổ chức tín dụng khác (bên vay)”.
TCTD có thể vay vốn của TCTD nước ngoài13.
Như vậy, việc vay vốn giữa các TCTD cũng là hoạt động cấp tín dụng. Vì
vậy, cũng tương tự như hoạt động cho vay của TCTD đối với các tổ chức, cá nhân
khác. Điểm khác biệt trong quan hệ này là bên vay cũng là một TCTD. Nội dung
quan hệ vay vốn cũng bao gồm những thỏa thuận về nghĩa vụ trả gốc và lãi của bên
vay, các khoản phí khác phải trả của bên vay, về thời hạn cho vay, về các biện pháp
bảo đảm, về phương thức cho vay,...
Hoạt động vay vốn giữa các TCTD được thực hiện trên thị trường liên NH.
Các TCTD trong khi tham gia hệ thống thanh toán có thể mở tài khoản tại các
TCTD khác. Qua tài khoản này, các TCTD có thể cho nhau vay vốn. Thông thường
các TCTD chỉ vay vốn của TCTD khác nhằm đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp
bách, trong nhiều trường hợp nó bổ sung và thay thế cho các khoản vay từ NHNN.
d) Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước
Trong quá trình hoạt động của TCTD, có những trường hợp TCTD rơi vào
tình huống tạm thời mất khả năng chi trả vì chưa kịp thu hồi nguồn vốn đã cho vay
để chi trả cho khách hàng khi họ có yêu cầu. Vì vậy, pháp luật quy định các TCTD
là NH được phép vay vốn của NHNN trong trường hợp này, qua đó giúp các TCTD
vượt qua khó khăn tạm thời về thanh khoản, bảo vệ quyền lợi cho NGT.
Đây cũng chính là một công cụ mà NHNN sử dụng nhằm thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia - công cụ tái cấp vốn. Qua việc tái cấp vốn cho NH đang gặp
khó khăn về thanh khoản, NHNN đã góp phần đảm bảo ổn định chung cho nền kinh
tế, bởi rủi ro của một NH có tính dây chuyền, có thể ảnh hưởng đến nhiều tổ chức,
cá nhân khác và có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của cả hệ thống NH.
Theo quy định hiện hành, “Tổ chức tín dụng là ngân hàng được vay vốn
ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định tại

Điều 30 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”14. Như vậy, theo quy định này
chỉ TCTD là NH mới được NHNN cấp tín dụng và chỉ cấp tín dụng ngắn hạn. Việc
cấp tín dụng có thể thực hiện dưới các hình thức: 1. Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng;
2. Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; 3.
13

Khoản 1 Điều 2 Quy chế vay vốn giữa các TCTD ban hành kèm theo quyết định Quyết định số 1310/
2001/QĐ-NHNN ngày 15/10/2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước; Điều 47 Luật Các TCTD 1997.
14

Điều 48 Luật Các TCTD 1997.

Huỳnh Anh


14

Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác15.
Các TCTD không phải là NH về nguyên tắc không được vay vốn dưới hình
thức tái cấp vốn của NHNN, trừ trường hợp đặc biệt là đối với TCTD tạm thời mất
khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các TCTD thì có thể
được NHNN cho vay tái cấp vốn nhưng phải được Chính phủ chấp nhận16.
1.1.2.2. Hoạt động tín dụng
Tín dụng là quan hệ kinh tế trong đó một chủ thể thỏa thuận để chủ thể khác
được sử dụng một số vốn của mình (dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hóa) trong
một thời gian nhất định với điều kiện có hoàn trả dựa trên cơ sở tín nhiệm.
Bên cạnh hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng là một trong những
hoạt động chủ yếu của TCTD trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Theo quy định của
pháp luật hiện hành “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn

vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”17.
Thẩm quyền cấp tín dụng của TCTD được quy định tại Điều 49 Luật Các
TCTD 2004 như sau: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân
dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo
lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước.”
Như vậy, theo quy định trên, hoạt động tín dụng của TCTD thực chất là một
giao dịch hợp đồng, theo đó TCTD thỏa thuận để cho khách hàng sử dụng một số
tiền của mình trong một thời gian nhất định với điều kiện có hoàn trả trên cơ sở sự
tín nhiệm. Loại giao dịch này có những đặc điểm:
- Một bên chủ thể tham gia quan hệ giao dịch là TCTD. TCTD đóng vai trò
là bên cung cấp vốn.
- Nguồn vốn mà TCTD cung cấp cho khách hàng chủ yếu là nguồn vốn huy
động.
15

Điều 17 Luật NHNN 1997; Theo Luật NHNN 2010 các hình thức cho vay tái cấp vốn được quy định như
sau: a) Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá; b) Chiết khấu giấy tờ có giá; c) Các hình thức tái cấp
vốn khác.
16

Xem Điều 30 Luật Các TCTD 1997

17

Khoản 8 Điều 20 Luật Các TCTD 2004. Theo Điều 10 Luật Các TCTD 2004, “Cấp tín dụng là việc tổ
chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp
vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.

Huỳnh Anh



15

- Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao, hậu quả của
rủi ro có tính dây chuyền.
- TCTD hoạt động tín dụng dưới các hình thức như: cho vay, chiết khấu các
giấy tờ có giá, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính, bao thanh toán.
1.1.2.3. Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ là hoạt động gắn liền với hoạt
động huy động vốn và cấp tín dụng. Bởi khi thực hiện nghiệp vụ huy động vốn,
TCTD là NH tiến hành mở tài khoản cho khách hàng ký gửi tiền. Qua nghiệp vụ
này, một mặt NH huy động được vốn từ khách hàng, mặt khác NH có thể cung cấp
cho khách hàng các dịch vụ ngân hàng khác, trong đó có dịch vụ thanh toán. Khách
hàng vay cũng là những chủ thể thường xuyên sử dụng các dịch vụ thanh toán của
NH. Hơn nữa, thông qua một số dịch vụ thanh toán, khách hàng cũng có thể thực
hiện vay tiền của TCTD (chẳng hạn dịch vụ thấu chi, ủy nhiệm chi,…).
Để thực hiên hoạt động này, pháp luật quy định cho TCTD có một số quyền
và nghĩa vụ như sau:
- TCTD được mở tài khoản tiền gửi tại NHNN, tại các TCTD khác. Riêng
đối với TCTD có nhận tiền gửi của khách hàng thì phải duy trì số dư trong tài khoản
gửi tại NHNN không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do NHNN quy định.
- TCTD được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng. Ngoài
ra, đối với TCTD là NH thì có thêm một số quyền riêng như được mở tài khoản
thanh toán cho khách hàng trong và ngoài nước, được cung ứng các dịch vụ thanh
toán,…
1.1.2.4. Các hoạt động khác
Bên cạnh những hoạt động nêu trên, các TCTD cũng được phép thực hiện
một số hoạt động kinh doanh khác nhằm tăng hiệu quả kinh doanh và giảm bớt rủi
ro trong kinh doanh. Pháp luật có một số quy định về các hoạt động kinh doanh

khác của các TCTD như sau:
-

TCTD góp vốn, mua cổ phần trong giới hạn pháp luật quy định.

-

TCTD được kinh doanh ngoại hối và vàng ở thị trường trong nước và
quốc tế khi được NHNN cho phép.

-

TCTD được ủy thác, nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan
đến hoạt động ngân hàng.

Huỳnh Anh


16

-

Được thành lập công ty độc lập để kinh doanh bảo hiểm theo quy định
pháp luật.

1.2.
1.2.1.

Khái quát tiền gửi


Khái niệm tiền gửi
Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức tín dụng hoặc tổ
chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được
hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi
tiền.(Theo Khoản 9 Điều 20 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các
TCTD 2004).

Với cách giải thích trên, tiền gửi theo pháp luật tín dụng ngân hàng hiện hành
là khoản tiền khách hàng gửi tại các tổ chức có hoạt động ngân hàng, trong đó gồm
TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng. Tiền gửi tồn tại dưới nhiều
hình thức khác nhau, có kỳ hạn, không kỳ hạn hoặc hình thức khác, có thể hưởng lãi
hoặc không. Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hình thức khác có thể hiểu
là phát hành giấy tờ có giá18, vì thế tiền mua loại giấy tờ có giá cũng được xem là
một dạng tiền gửi. Tuy nhiên, (như đã trình bày trong Điểm a, Điểm b Mục 1.1.2.1),
pháp luật đã quy định hình thức phát hành giấy tờ có giá là một hình thức tồn tại
riêng biệt. Vì vậy, để đảm bảo sự rõ ràng, thống nhất cần phải khẳng định rõ hoạt
động phát hành một số loại giấy tờ giá cũng là hình thức nhận tiền gửi.
Theo Luật Các TCTD năm 2010, khái niệm tiền gửi không được đặt ra một
cách riêng rẽ, tiền gửi được xác định thông qua khái niệm hình thức nhận tiền gửi
(như đã trình bày tại Điểm a Mục 1.1.2.1). Trong đó, bên cạnh các hình thức tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, khái niệm còn xác định nhận tiền gửi bao gồm
hoạt động nhận tiền nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức “phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo
nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận”19.

18

Một số văn bản quy phạm pháp luật ghi nhận tiền mua giấy tờ có giá là một loại tiền gửi được trả bảo hiểm
tiền gửi theo quy định pháp luật như: Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm

tiền gửi; Nghị định số109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm tiền gửi; Thông tư số 03/2006/TTNHNN ngày 25 tháng 4 năm 2006 về việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày
01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm tiền
gửi.
19

Khoản 13 Điều 4 Luật Các TCTD 2010.

Huỳnh Anh


17

Như vậy, thông qua khái niệm huy động vốn, chúng ta nhận thấy tiền gửi có
thể được hiểu như sau: Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức
nhận tiền gửi dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm; tiền của tổ chức, cá nhân mua một số loại giấy tờ có giá như chứng chỉ
tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu của các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức khác có
hoạt động ngân hàng.
Theo khái niệm mới này, Luật không liệt kê cụ thể các tổ chức nhận tiền gửi
như trước đây để tránh sự thiếu sót, phạm vi tiền gửi được đưa ra rộng hơn, phù hợp
hơn. Đây cũng là phạm vi nghiên cứu mà chúng tôi hướng đến.
Thực tế có một số tổ chức khác như các tổ chức thực hiện dịch vụ tiết kiệm
bưu điện vẫn có hoạt động nhận tiền gửi. Theo đó, các tổ chức này có thể nhận tiền
gửi tiết kiệm bưu điện, phát hành chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá khác theo quy
định của pháp luật20.Theo khái niệm mới này, những khoản tiền này cũng được xem
là tiền gửi.
1.2.2.


Các hình thức tiền gửi

1.2.2.1. Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà giữa khách hàng và TCTD không
tồn tại một thỏa thuận về thời hạn rút tiền. TCTD nhận tiền gửi không kỳ hạn có
nhiệm vụ chi trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền.
Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm tiền gửi thanh toán (còn gọi là tài khoản
dịch vụ hay tài khoản thanh toán, ở Mỹ gọi là tiền gửi theo yêu cầu, ở Pháp thì gọi
là tiền gửi theo tài khoản séc) và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
- Tiền gửi thanh toán là tiền gửi được khách hàng gửi tại các TCTD để thực
hiện các khoản chi trả, thanh toán.
Chủ tài khoản của loại tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thông thường là các
chủ thể tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, cá nhân có hoạt động kinh
doanh hoặc các chủ thể khác. Mục đích của khách hàng gửi tiền trong trường hợp
này là để gửi giữ tiền hoặc hưởng các tiện ích từ các dịch vụ thanh toán của TCTD,
chẳng hạn khách hàng được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả như séc, ủy
nhiệm chi và các lệnh chi khác; yếu tố lãi suất chỉ là thứ yếu, có thể không được trả
lãi suất hoặc được trả mức lãi suất rất thấp.
20

Quyết định số 270/2005/QĐ-TTG ngày 31 tháng 10 năm 2005 về việc tổ chức, huy động, quản lý và sử
dụng nguồn tiền gửi kiệm bưu điện.

Huỳnh Anh


18

Một dạng tài khoản thuộc loại này đang được sử dụng phổ biến hiện nay là
tài khoản tiền giao dịch chứng khoán. Đây là loại tài khoản tiền gửi thanh toán

chuyên dùng của khách hàng để phục vụ cho mục đích kinh doanh chứng khoán.
Hiện nay, để thu hút khách hàng, hầu hết các NH không thu phí duy trì tài khoản
loại này và khách hàng vẫn được tính lãi trên số dư tiền gửi trong tài khoản.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi
tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ
chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm tiền gửi.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà NGT có thể rút tiền
theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của tổ chức
nhận tiền gửi tiết kiệm. Đây là loại tiền gửi của các tầng lớp dân cư trong xã hội
nhằm mục đích an toàn tiền gửi, tích lũy và tiết kiệm. NGT được hưởng lãi và được
BHTG. Loại tiền gửi này là tiền để dành của cá nhân chứ không phải để thanh toán.
Tài khoản tiền gửi loại này không được sử dụng để phát hành séc và thực
hiện các giao dịch thanh toán bằng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt để
chi trả cho người khác, trừ trường hợp tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam của
người cư trú được sử dụng để chuyển khoản thanh toán tiền vay của chính chủ sở
hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm tại tổ chức nhận tiền
gửi tiết kiệm đó; hoặc chuyển khoản sang tài khoản khác do chính chủ sở hữu tiền
gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là chủ tài khoản tại tổ chức
nhận tiền gửi tiết kiệm đó.
1.2.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn
Bao gồm tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân, tổ chức và tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn của cá nhân.
- Tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân, tổ chức là loại tiền gửi mà khách hàng gửi
tại các TCTD trên cơ sở có sự thỏa thuận với TCTD nhận tiền gửi về thời gian rút
tiền. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các tổ chức nhận gửi đều cho phép khách hàng có
thể rút tiền trước hạn nếu thỏa mãn những điều kiện nhất định như thời gian báo
trước hoặc có thỏa thuận.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà NGT chỉ có thể rút tiền

sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết
kiệm. Tuy nhiên, NGT cũng có thể rút tiền trước hạn nếu hội đủ các điều kiện nhất

Huỳnh Anh


19

định như phải có thỏa thuận với TCTD và phải đảm bảo thời gian báo trước,...Trong
trường hợp không đủ điều kiện nhưng TCTD đồng ý thì khách hàng vẫn có thể rút
tiền trước hạn nhưng phải trả mức phí do TCTD quy định21.
Trên thực tế, có rất nhiều dạng của các hình thức tiền gửi dựa trên phân chia
kỳ hạn, tính chất của tiện ích và cả hình thức khuyến mại như tài khoản tiền gửi
kinh doanh chứng khoán, tài khoản thẻ, tiết kiệm linh hoạt,...
1.3.
1.3.1.

Vai trò của tiền gửi

Đối với NGT

Khi gửi tiền vào TCTD, nhu cầu gửi tiền của khách hàng rất đa dạng. Vì vậy,
sự mong đợi những lợi ích có được từ tiền gửi của từng khách hàng cụ thể cũng
khác nhau. Nói cách khác, vai trò của tiền gửi đối với mỗi cá nhân gửi tiền không
giống nhau, phụ thuộc vào loại sản phẩm tiền gửi mà khách hàng lựa chọn. Tuy
nhiên, chúng ta có thể khái quát vai trò của tiền gửi đối với khách hàng gửi tiền ở
những khía cạnh sau:
- Tiền gửi mang ý nghĩa tiết kiệm và đầu tư sinh lợi
Cá nhân có thể có những khoản tiền dành dụm để dự phòng rủi ro, bất trắc
trong cuộc sống. Khi đó, tiền gửi có ý nghĩa tiết kiệm, tổ chức nhận tiền gửi sẽ giữ

hộ NGT đối với phần tiền gửi của họ, đáp ứng nhu cầu tiết kiệm cho khách hàng.
Đối với khách hàng gửi tiền, lợi ích mà họ có được từ việc gửi tiền tại TCTD
trước hết đó chính là khoản lãi của tiền gửi. Những số tiền tiết kiệm này sẽ không tự
nhiên đem lại thu nhập cho chủ sở hữu nhưng từ hoạt động nhận tiền gửi của các
TCTD đã tạo thu nhập cho NGT thông qua việc trả lãi. Vì thế, tiền gửi cũng mang ý
nghĩa đầu tư, bởi tiền gửi sẽ sinh lợi, tạo cơ hội cho NGT gia tăng tiêu dùng trong
tương lai. Khi gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi, NGT sẽ được nhận một khoản lãi
trên số tiền gửi, từ đó số tiền của khách hàng ngày càng gia tăng. Số tiền lãi khách
hàng nhận được phụ thuộc vào giá trị tiền gửi và hình thức gửi tiền mà khách hàng
lựa chọn. Chẳng hạn, với cùng một số tiền gửi nhưng lãi suất gửi tiết kiệm có kỳ
hạn cao hơn lãi suất gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
- Việc gửi tiền tại TCTD có ý nghĩa đảm bảo tính an toàn tiền gửi, bí mật cá
nhân liên quan đến tiền gửi

21

Điều 16 Quy chế về tiền gửi tiết kiệm được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN.

Huỳnh Anh


×