TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TỪ THỊ THANH MỴ
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
AN GIANG, 2011
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TỪ THỊ THANH MỴ
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
GVHD: THS. TRẦN ĐÌNH PHỤNG
AN GIANG, 2011
LỜI CẢM ƠN
XYZW
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại
học, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các
anh chị và các bạn cùng khóa học. Với lòng kính trọng và sự tri ân sâu sắc
tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu, Phòng đào tạo Trường Đại học An Giang đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, thực tập sư phạm và
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Khoa Lý luận chính trị - nơi truyền đạt cho tôi những tri thức trong
suốt quá trình học tập. Đó không chỉ là nền tảng cho quá trình tôi nghiên cứu
khóa luận tốt nghiệp mà còn là hành trang quý báu để tôi bước vào đời một
cách vững vàng và tự tin.
Thạc sĩ Trần Đình Phụng, người đã hết lòng hướng dẫn, giúp đỡ, dạy
bảo, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Các trường THPT trên địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An
Giang: Trường THPT Thoại Ngọc Hầu, THPT Long Xuyên, THPT Bình
Khánh, THPT IShool Long Xuyên, THPT Mỹ Thới cùng tất cả các quý thầy
cô, các em học sinh đã tận tình hợp tác, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu, khảo sát và thu thập tài liệu tại trường
để tôi có thể hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp.
Chân thành cám ơn đến tất cả quý thầy cô, bạn bè trong Khoa Lý
luận chính trị đã không ngừng động viên, chia sẻ những kinh nghiệm quý
báu, chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình học tập, rèn luyện và hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
AN GIANG, THÁNG 5 /2011
SINH VIÊN
TỪ THỊ THANH MỴ
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................1
NỘI DUNG.........................................................................................................................4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO
DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN
GIANG......................................................................................................4
1.1. Đặc thù môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông. ..........................4
1.1.1. Vị trí và nhiệm vụ của môn Giáo dục công dân
trong trường trung học phổ thông.........................4
1.1.1.1. Vị trí của môn Giáo dục công dân trong trường trung học phổ thông ....4
1.1.1.2. Nhiệm vụ của môn Giáo dục công dân
trong trường trung học phổ thông .......................5
1.1.2. Đặc thù tri thức môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông............8
1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo dục công dân
ở trường trung học phổ thông............12
1.2.1. Công nghệ thông tin............................................................................................12
1.2.1.1. Khái niệm công nghệ thông tin................................................................12
1.2.1.2. Vai trò của công nghệ thông tin trong dạy học môn
Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông...........16
1.2.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ....................................................18
1.2.2.1. Giáo án điện tử .......................................................................................18
1.2.2.2. Bài giảng điện tử ....................................................................................18
1.3. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo dục công
dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Long xuyên, tỉnh
An Giang............................................................................................................................19
1.3.1. Quan điểm ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông .............19
1.3.2. Những thành tựu và hạn chế trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học môn ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Long xuyên,
tỉnh An Giang .....................................................................................................................23
1.3.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân của những thành tựu .........................26
1.3.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế...............................28
CHƯƠNG 2: GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG .....................31
2.1. Xây dựng cơ sở vật chất cho việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học môn Giáo dục công dân...........31
2.1.1. Xây dựng thư viện tư liệu điện tử .......................................................................31
2.1.2. Xây dựng quy trình thiết kế bài giảng điện tử ....................................................34
2.1.3. Đầu tư trang thiết bị phục vụ hoạt động ứng dụng
Công nghệ thông tin trong dạy học.....................42
2.2. Phối hợp ứng dụng công nghệ thông tin trong việc sử dụng
các phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân...........44
2.2.1. Phương pháp trực quan........................................................................................44
2.2.2. Phương pháp thuyết trình ....................................................................................46
2.2.3. Phương pháp thảo luận nhóm..............................................................................47
2.2.4. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình (phương pháp tình huống).......49
2.3. Đẩy mạnh các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học .............50
2.3.1. Tăng cường các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin
trong đào tạo giáo viên môn Giáo dục công dân...............50
2.3.2. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng giáo viên nâng cao
kỹ năng ứng dụng Công nghệ thông tin..............52
2.3.3. Tổ chức những hội thi thiết kế bài giảng điện tử, trao đổi, thảo luận, chia sẻ
kinh nghiệm ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học ........................................53
2.4. Một số kiến nghị trong việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học môn Giáo dục công dân ..............55
KẾT LUẬN ........................................................................................................................58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
XYZW
BGD & ĐT:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
CNTT:
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
GAĐT:
GIÁO ÁN ĐIỆN TỬ
GDCD:
GIÁO DỤC CÔNG DÂN
GV:
GIÁO VIÊN
HS:
HỌC SINH
PPDH:
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
SGD & ĐT:
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
THPT:
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THCS:
TRUNG HỌC CƠ SỞ
Trang 1
MỞ ĐẦU
Tên đề tài:
U
Thực trạng và giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn
Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Long
Xuyên, tỉnh An Giang.
1. Lí do chọn đề tài
Đã từ rất lâu, môn GDCD bị xem là "môn phụ" nên tình trạng học sinh học với
tinh thần uể oải, đối phó, hầu như không lắng nghe bài giảng, không ghi bài, ít phát
biểu là phổ biến, cộng thêm xu hướng ngày nay học sinh chạy theo các môn khoa học
tự nhiên ngày càng mạnh mẽ, nhất là học sinh ở thành thị, coi môn GDCD như một
môn điều kiện thi để qua. Tuy được xác định là môn học rất quan trọng trong trường
phổ thông nhưng trong thực tế lại chưa thật sự được quan tâm đúng mức cả trong việc
học tập và giảng dạy. Vì vậy, chất lượng học tập của học sinh còn nhiều hạn chế.
Nguyên nhân chủ yếu là do cách thức và phương pháp truyền đạt của giáo viên còn
hạn chế, xuất phát từ tính đặc thù của bộ môn.
Với quan điểm xem giáo dục là quốc sách hàng đầu. Những năm qua việc đổi
mới nội dung, chương trình sách giáo khoa được thực hiện khá đồng bộ. Việc đổi mới
nội dung, chương trình yêu cầu phải đổi mới PPDH. Đổi mới phương pháp dạy học
đòi hỏi phải sử dụng phương tiện dạy học phù hợp và CNTT là một trong những
phương tiện quan trọng góp phần đổi mới PPDH bằng việc cung cấp cho giáo viên
những phương tiện làm việc hiện đại. Cho đến nay, phải nói rằng không một ai nghi
ngờ về vai trò to lớn và những tác dụng kỳ diệu của CNTT trong các lĩnh vực của đời
sống. Trong giáo dục, việc ứng dụng CNTT trên thực tế cũng đã đem lại kết quả đáng
kể và những chuyển biến lớn trong dạy học, nhất là về PPDH.
GDCD là một môn học rất nhạy bén đối với những vấn đề xã hội, việc cung cấp
thông tin, liên hệ thực tế là một trong những yêu cầu quan trọng xuất phát từ đặc trưng
của bộ môn. Để giảm bớt tính khô khan, nhàm chán và khắc phục những khuyết điểm
của bộ môn GDCD, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các bài giảng giúp giáo
viên tiết kiệm được nhiều thời gian trong việc ghi bảng, thay vào đó, giáo viên có điều
kiện tốt hơn để tổ chức cho học sinh trao đổi, thảo luận, phát huy tính năng động tích
cực và sự say mê, hứng thú của học sinh trong học tập. Đồng thời trong một thời gian
ngắn của một tiết học, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh tiếp cận một lượng
kiến thức lớn, phong phú đa dạng và sinh động. “Một hình ảnh, một đoạn phim có thể
thay thế cho rất nhiều lời giảng”, vì vậy đối với bài giảng có phim, hình ảnh thực tế
mô phỏng hợp lý, sinh động sẽ thu hút được sự thích thú say mê học tập của học sinh,
lớp học sôi nổi, học sinh tiếp thu bài nhanh hơn, giờ dạy có hiệu quả cao hơn.
Trang 2
Bản thân là một sinh viên chuyên ngành giáo dục chính trị, tương lai trở thành
giáo viên dạy môn giáo dục trường trung học phổ thông, sống trong cơn lốc công nghệ
thông tin đang trên đà phát triển, hơn ai hết tôi thấy mình cần phải nhanh chóng nắm
bắt và hội nhập, góp phần vận dụng đổi mới phương pháp giảng dạy một cách tích cực
để nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD nói riêng và chất lượng giáo dục nói
chung.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông trên
địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang” làm khóa luận tốt nghiệp đại học.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong quá trình dạy học môn GDCD, việc ứng dụng CNTT trên thực tế đã đem
lại nhiều kết quả đáng kể, bên cạnh đó cũng gặp không ít những khó khăn, thử thách.
Thấy được tính cấp thiết cần phải ứng dụng CNTT trong dạy học môn GDCD, nhiều
giáo viên các trường THPT, THCS đã có những nghiên cứu về thực trạng cũng như đề
ra những giải pháp hữu hiệu cho vấn đề này. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu chỉ
mang tính khái quát, hay chỉ nghiên cứu một phần, một khía cạnh nào đó của vấn đề
mà chưa đi sâu vào phân tích từng thực trạng cũng như đề ra cụ thể từng giải pháp
tương ứng với các thực trạng. Hoặc các đề tài nghiên cứu đi sâu, cụ thể nhưng chỉ
dừng lại ở phạm vi của từng chuyên môn, từng trường…chưa đáp ứng với quy mô phổ
biến và mang tính rộng rãi của đề tài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng và giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo
dục công dân ở trường trung học phổ thông.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của khóa luận tốt nghiệp, đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc ứng dụng công nghệ thông tin, đồng thời đề ra giải pháp ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học môn GDCD các trường trung học phổ thông trên
địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng và đề ra giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học môn Giáo dục công dân ở các trường THPT trên địa bàn thành phố
Long xuyên, tỉnh An Giang nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Qua đó, bản
thân có thể ý thức được việc rèn luyện kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong
Trang 3
giảng dạy môn GDCD nhằm đổi mới phương pháp dạy học, chuẩn bị cơ sở vững chắc
cho công tác giảng dạy trong tương lai.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, tìm hiểu thực trạng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học môn GDCD ở các trường THPT trên địa bàn thành phố Long xuyên, tỉnh An
Giang.
Thứ hai, trên cơ sở thực trạng, đề ra giải pháp để phát huy tính tích cực trong
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học
môn GDCD ở các trường THPT trên địa bàn thành phố Long xuyên nói riêng, chất
lượng dạy học nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp logic và lịch sử, phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp so sánh và hệ thống, phương pháp điều tra, phương pháp quan
sát và phương pháp thống kê…
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận tốt nghiệp góp phần phát hiện thực trạng và đề ra giải pháp ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học môn GDCD ở các trường THPT trên địa bàn thành
phố Long xuyên, tỉnh An Giang. Qua đó khẳng định tầm quan trọng của việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phương pháp dạy học, góp phần giảm bớt sự
khô khan, nhàm chán trong dạy học môn Giáo dục công dân, tạo hứng thú học tập cho
học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục công dân ở các trường
THPT trên địa bàn thành phố Long xuyên nói riêng, tỉnh An Giang nói chung.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, khóa
luận được kết cấu thành hai chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT trên địa bàn thành phố Long
xuyên, tỉnh An Giang.
Chương 2: Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo
dục công dân ở trường THPT trên địa bàn thành phố Long xuyên, tỉnh An Giang.
Trang 4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN,
TỈNH AN GIANG
1.1. Đặc thù môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông
1.1.1. Vị trí và nhiệm vụ của môn Giáo dục công dân trong trường trung học
phổ thông
1.1.1.1. Vị trí của môn Giáo dục công dân trong trường trung học phổ thông
Trên cơ sở xác định mục tiêu đào tạo con người Việt Nam phát triển hài hòa,
toàn diện và tính chất xã hội chủ nghĩa của nền giáo dục, Điều 27 của Luật Giáo dục
(2005) nước ta xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển
toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh học
lên và tiếp tục đi sâu vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trên cơ sở mục tiêu chung của giáo dục phổ thông, Luật giáo dục của nước ta đã xác
định rõ mục tiêu của từng cấp học, bậc học. Trong đó, mục tiêu của cấp THPT là:
“Nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của THCS, hoàn thiện học
vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có
điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại
học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi sâu vào cuộc sống lao động”.
Mục tiêu trên đã trở thành định hướng chỉ đạo cho toàn bộ các hoạt động của hệ
thống giáo dục quốc dân mà trước hết là thông qua quá trình dạy học các môn học ở
trường THPT, trong đó có môn GDCD. Liên quan đến vai trò và vị trí môn GDCD,
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (Khóa VIII) của Đảng đã nhấn mạnh “hết sức coi
trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực
thực hành…” nhằm “giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung và phương
pháp giáo dục – đào tạo”, góp phần phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Vị trí của môn GDCD ở nhà trường phổ thông đã được xác định trong Chỉ thị
số 30/1988/CT-BGD & ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 20 tháng 5 năm 1998.
Theo đó, “Môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông có vị trí hàng đầu
trong việc định hướng phát triển nhân cách của học sinh thông qua việc cung cấp hệ
Trang 5
thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức – nhân văn, đường lối chính sách lớn của
Đảng, Nhà nước và pháp luật, kế thừa các truyền thống đạo đức, bản sắc dân tộc Việt
Nam; trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tiếp thu những giá
trị tốt đẹp của nhân loại và thời đại”.
Xuất phát từ vị trí đã được xác định, trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã thực thi nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn như: Cải
tiến nội dung chương trình, sách giáo khoa; đào tạo bồi dưỡng GV để nâng cao chất
lượng đội ngũ, bổ sung thêm tài liệu, trang thiết bị dạy học; khuyến khích GV bộ môn
tích cực đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học… Tuy nhiên, việc nhận thức hoặc đánh giá
không đúng về vị trí của môn GDCD vẫn còn là một tình trạng khá phổ biến ở nhiều
trường phổ thông hiện nay. Nhiều nhà quản lý, giáo viên (kể cả giáo viên bộ môn),
học sinh và phụ huynh vẫn còn có những nhận thức, quan niệm lệch lạc khi cho rằng
GDCD chỉ là môn học phụ, môn bổ trợ hoặc đồng nhất môn GDCD với môn chính trị
hoặc đạo đức thuần túy. Những sai lầm trong nhận thức đã kéo theo những hạn chế
trong hoạt động thực tiễn dạy học bộ môn. Nhiều trường học và cấp quản lý không
chú ý quan tâm đầu tư cho môn GDCD, đội ngũ giáo viên không được đào tạo chính
quy, tình trạng giáo viên dạy chéo môn vẫn còn khá phổ biến, công tác bồi dưỡng giáo
viên chưa được chú trọng đúng mức. Nhiều giáo viên dạy qua loa, chiếu lệ còn học
sinh thì coi thường môn học…Hiện trạng của sự nhận thức và quan niệm sai lầm về vị
trí của môn học đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học cũng như vị thế của bộ
môn này ở trong nhà trường phổ thông hiện nay. Để khắc phục tình trạng này, Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo: “Các cấp quản lý Giáo dục - Đào tạo từ Bộ
đến địa phương cần có nhận thức đúng vai trò vị trí và mục tiêu đào tạo của bộ môn
GDCD cấp Trung học phổ thông, có kế hoạch và các giải pháp tích cực nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đồng thời cần tăng cường
công tác chỉ đạo bảo đảm chất lượng giảng dạy, giáo dục đạo đức và pháp luật trong
các trường Trung học phổ thông, đáp ứng yêu cầu “dạy người và dạy chữ, dạy nghề,
trong đó mục tiêu dạy người là quan trọng nhất” nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”.
1.1.1.2. Nhiệm vụ của môn Giáo dục công dân trong trường trung học phổ
thông
Môn GDCD ở trường THPT có những nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, trang bị cho học sinh hệ thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức –
nhân văn, đường lối chính sách lớn của Đảng, Nhà nước và pháp luật.
Môn GDCD ở trường THPT là một hệ thống kiến thức liên quan đến nhiều lĩnh
vực như triết học, đạo đức học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học,
đường lối, quan điểm của Đảng, một số chính sách quan trọng của Nhà nước, pháp
Trang 6
luật…Vì thế nhiệm vụ đầu tiên của môn học là phải trang bị và giúp học sinh nắm
vững hệ thống tri thức cơ bản, thiết thực của bộ môn.
Đối với Phần thứ nhất: Công dân với việc hình thành thế giới quan và
phương pháp luận khoa học (GDCD 10), giáo viên phải giúp cho học sinh nhận biết
được nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng.
Hiểu được bản chất của thế giới là vật chất. Thế giới vật chất vận động và phát triển
theo những quy luật khách quan. Con người có thể nhận thức và vận dụng được những
quy luật ấy. Giúp học sinh thấy được mối quan hệ giữa hoạt động của chủ thể và
khách thể qua các mối quan hệ: Thực tiễn với nhận thức, tồn tại xã hội với ý thức xã
hội, con người là chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển của xã hội.
Đối với Phần thứ hai: Công dân với đạo đức (GDCD 10), giáo viên phải giúp
cho học sinh nắm vững một số phạm trù cơ bản của đạo đức học có quan hệ trực tiếp
đến mục tiêu đào tạo THPT. Giúp học sinh nắm được các yêu cầu cơ bản về đạo đức
của người công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đối với Phần thứ ba: Công dân với kinh tế (GDCD 11), giáo viên phải giúp
cho học sinh hiểu được một số phạm trù, quy luật kinh tế cơ bản và phương hướng
phát triển kinh tế trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Giúp học sinh
hiểu được trách nhiệm của công dân trong việc xây dựng, phát triển kinh tế cá nhân,
gia đình và xã hội.
Đối với Phần thứ tư: Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội (GDCD 11),
giáo viên phải giúp cho học sinh hiểu được tính tất yếu và đặc điểm của thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hiểu được bản chất của Nhà nước và nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Giúp học sinh nắm vững được một số nội dung cơ bản về
những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước hiện nay.
Đối với Phần thứ năm: Công dân với pháp luật (GDCD 12), giáo viên phải
giúp học sinh hiểu được bản chất giai cấp, xã hội của pháp luật; mối quan hệ biện
chứng giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức. Giúp học sinh nhận biết được vai
trò và giá trị cơ bản của pháp luật đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi công dân,
Nhà nước và xã hội. Giúp học sinh hiểu được một số nội dung cơ bản của pháp luật
liên quan đến việc thực hiện và bảo vệ quyền bình đẳng, tự do, dân chủ và phát triển
của công dân.
Thứ hai, giúp học sinh từng bước hình thành thế giới quan đúng đắn và phương
pháp luận khoa học.
Trên cơ sở từng bước tiếp cận và nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản của môn
GDCD, học sinh sẽ từng bước có những hiểu biết cơ bản để hình thành cho bản thân
thế giới quan đúng đắn và phương pháp luận khoa học. Giúp học sinh biết cách quan
sát để có được quan niệm đúng đắn, khách quan về thế giới xung quanh. Xuất phát từ
Trang 7
thế giới quan đúng đắn, phương pháp luận khoa học, học sinh sẽ vận dụng nhằm nâng
cao hiệu quả quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của bản thân.
Nhiệm vụ này được tập trung trong phần: Công dân với việc hình thành thế giới quan,
phương pháp luận khoa học (GDCD 10). Để thực hiện được nhiệm vụ này, trong quá
trình dạy học, giáo viên bộ môn không nên sa đà vào các khái niệm, phạm trù, nguyên
lý, quy luật triết học mang nặng tính chất hàn lâm, kinh điển. Thông qua việc dạy các
khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật, giáo viên phải hướng học sinh đến các ý
nghĩa về mặt phương pháp luận. Từ những ý nghĩa phương pháp luận rút ra sau mỗi
bài học, tiết dạy, học sinh sẽ tự liên hệ, rút ra những bài học cho bản thân, thông qua
đó giúp các em từng bước hình thành cho mình phương pháp luận khoa học.
Thứ ba, môn GDCD có nhiệm vụ góp phần giúp học sinh hình thành nhân sinh
quan tiến bộ.
Thông qua hệ thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức - nhân văn, đường lối
chính sách lớn của Đảng, Nhà nước và pháp luật, môn GDCD giúp học sinh ý thức
được các giá trị của con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giúp
các em có được những hiểu biết đúng đắn về xã hội xã hội chủ nghĩa, về nhà nước xã
hội chủ nghĩa, về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, về các định hướng phát triển kinh tế xã hội, về vai trò và giá trị của pháp luật đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá
nhân, Nhà nước và xã hội. Học sinh có cái nhìn đúng đắn về thế giới và thời đại, về
con người và cộng đồng, về các hiện tượng khác nhau đang diễn ra trong đời sống.
Các em biết phân tích, đánh giá các hiện tượng xã hội theo quan điểm khoa học tiến
bộ, biết đấu tranh để ủng hộ và bảo vệ cái mới, cái tích cực và chống lại những cái tiêu
cực, lạc hậu, lỗi thời.
Thứ tư, trang bị cho học sinh những kỹ năng sống cần thiết
Trong quá trình dạy học môn GDCD, nhiều giáo viên bộ môn đã không hoàn
thành nhiệm vụ này. Nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến việc truyền thụ tri thức trong
khi không chú ý đến việc giáo dục các kỹ năng sống cần thiết cho học sinh. Do đó, bài
học GDCD trở nên hàn lâm, đơn điệu, nhàm chán, không cuốn hút được học sinh,
không đạt được mục tiêu đề ra. Những kỹ năng trong các bài học GDCD như: giao
tiếp và ứng xử, tổ chức quản lý, hoạt động chính trị - xã hội, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh, định hướng lao động nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp, thích ứng với những
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể trước những biến động không ngừng của đời sống xã
hội,…hoặc những kỹ năng cụ thể hơn như quan hệ bạn bè, đồng chí, những cư xử
trong tình yêu, hôn nhân, gia đình,…luôn cần thiết cho học sinh. Thông qua mỗi bài
học, tiết dạy, người giáo viên GDCD cần trang bị cho học sinh những kỹ năng tương
ứng, giúp các em uốn nắn những biểu hiện, cử chỉ, hành vi lệch lạc, không ngừng tự
hoàn thiện bản thân, biết đón nhận và giải quyết những thách thức của cuộc sống một
cách khoa học và hiệu quả.
Trang 8
Thứ năm, môn GDCD định hướng phát triển nhân cách của học sinh
Đối với môn GDCD, “mục tiêu dạy người” luôn được xác định “là quan trọng
nhất”. Vì thế, môn GDCD luôn ở “vị trí hàng đầu trong việc định hướng phát triển
nhân cách của học sinh”. Mỗi học sinh là một chủ thể của sự phát triển nhân cách,
phát triển xã hội. Do đó, thông qua mỗi bài dạy, tiết học, người giáo viên GDCD phải
tích cực giáo dục, bồi dưỡng để giúp mỗi học sinh hình thành được cho mình lẽ sống,
niềm tin và lý tưởng lành mạnh. Giáo dục để các em trở thành những công dân có ích
cho bản thân, gia đình và xã hội. Trở thành những con người phát triển cao về trí tuệ,
trong sáng về đạo đức và có đời sống tinh thần phong phú. Thông qua các bài học
GDCD, người giáo viên bộ môn phải giúp các em trở thành những con người sống có
nghĩa có tình, thủy chung sau trước, có tinh thần tập thể, có ý thức tổ chức kỷ luật, có
lòng nhân ái, khoan dung, biết yêu quê hương, đất nước, yêu chủ nghĩa xã hội, luôn tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, luôn có ý
thức trách nhiệm trước tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước, dân tộc… Để
thực hiện được nhiệm vụ này, người giáo viên GDCD phải biến những tri thức vốn
khô khan, trừu tượng, khó hiểu của môn học thành tình cảm, lẽ sống, lý tưởng, niềm
tin ở học sinh, thôi thúc các em hành động theo lẽ phải và không ngừng nổ lực phấn
đấu để tự hoàn thiện bản thân, vươn tới “chân- thiện- mĩ”.
Đối với người giáo viên GDCD, những nhiệm vụ nói trên hết sức nặng nề
nhưng đó cũng là những nhiệm vụ rất đỗi vinh quang. Để hoàn thành được những
nhiệm vụ ấy đòi hỏi mỗi giáo viên GDCD với lương tâm và trách nhiệm của mình,
phải không ngừng học hỏi, lắng nghe và trải nghiệm để mang lại cho học sinh những
bài học GDCD bổ ích và hiệu quả.
1.1.2. Đặc thù tri thức môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông
Là môn khoa học xã hội ở trường THPT có vị trí, nhiệm vụ, mục tiêu riêng do
đó hệ thống tri thức của môn học GDCD có những đặc thù sau:
Thứ nhất, hệ thống tri thức môn GDCD ở THPT mang tính đa dạng, tổng hợp.
Đặc điểm này thể hiện ở cấu trúc nội dung chương trình cũng như ở từng bài học, từng
đơn vị kiến thức trong sách giáo khoa. Hệ thống tri thức của môn GDCD ở THPT
được tổng hợp từ nhiều lĩnh vực, nhiều bộ môn khoa học khác nhau như triết học, đạo
đức học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, đường lối, quan điểm của
Đảng, một số chính sách quan trọng của Nhà nước, pháp luật học, mọi đơn vị kiến
thức lại có những nội dung liên quan đến các lĩnh vực, các môn khoa học khác nhau
như: dân số, môi trường, y tế, ngoại giao, quốc phòng, giới tính và sức khỏe sinh sản,
vật lý, sinh học, hóa học, lịch sử, địa lý, văn học…
Đặc thù nói trên đòi hỏi người giáo viên GDCD bên cạnh việc nắm vững hệ
thống tri thức triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, pháp luật học,
Trang 9
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước phải nắm vững nội dung
liên quan ở những lĩnh vực, những bộ môn khoa học khác nhau. Người giáo viên
GDCD phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ, phải am hiểu nhiều lĩnh vực,
nắm vững và biết vận dụng kiến thức của các lĩnh vực, các bộ môn khoa học khác
nhau vào bài học GDCD.
Sự đa dạng của hệ thống tri thức cũng đòi hỏi người giáo viên GDCD phải sử
dụng một cách đa dạng và linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học sau
cho phù hợp với đặc thù tri thức của từng phần, từng bài học GDCD.
Thứ hai, hệ thống tri thức môn GDCD ở THPT mang tính khái quát, trừu
tượng.
Tính khái quát, trừu tượng của hệ thống tri thức GDCD trước hết thể hiện ở
những nội dung, luận điểm được đề cập trong mỗi bài học, mỗi đơn vị kiến thức.
Những nội dung đó thường là những vấn đề lớn ở tầm vĩ mô, chẳng hạn: Những vấn
đề cấp thiết của nhân loại, pháp luật với hòa bình và sự phát triển tiến bộ của nhân
loại…hoặc bao trùm một lĩnh vực rộng lớn nào đó như chính sách quốc phòng và an
ninh, chính sách đối ngoại, chính sách dân số và giải quyết việc làm, chính sách tài
nguyên và bảo vệ môi trường…
Tính khái quát, trừu tượng của tri thức môn GDCD còn thể hiện thông qua một
hệ thống khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật hết sức đặc thù. Những khái niệm,
phạm trù của môn GDCD thường là những khái niệm, phạm trù của triết học, đạo đức
học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học như: Thế giới quan, phương pháp
luận, lượng, chất, phủ định, biện chứng, thực tiễn, phương thức sản xuất, đạo đức,
lương tâm, nghĩa vụ, sản xuất vật chất, phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế, giá trị hàng
hóa, chủ nghĩa xã hội…Những nguyên lý, quy luật của môn GDCD cũng chủ yếu là
những nguyên lý, quy luật của triết học, kinh tế chính trị học, được trình bày một cách
ngắn gọn, như: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất (Nguyên lý phát triển
trong triết học Mác- Lênin), nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng
(quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập), cách thức vận động và sự phát
triển của sự vật và hiện tượng (quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất và ngược lại), khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng (quy
luật phủ định của phủ định), tồn tại xã hội và ý thức xã hội, mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật giá trị trong
sản xuất và lưu thông hàng hóa, quy luật cạnh tranh trong sản xuất và lưu thông hàng
hóa, quy luật cung cầu trong sản xuất và lưu thông hàng hóa…Phạm vi phản ánh của
những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật nói trên rất rộng vì thế chúng đều
mang tính khái quát hóa, trừu tượng hóa rất cao.
Đặc thù nêu trên đòi hỏi người giáo viên GDCD trước hết phải nắm vững nội
dung, bản chất, đặc điểm của từng khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật, luận điểm
Trang 10
liên quan. Người giáo viên GDCD phải lựa chọn được các phương pháp, hình thức và
phương tiện dạy học phù hợp với đối tượng để truyền thụ và giúp học sinh lĩnh hội
chính xác những nội dung của bài học. Việc tăng cường thực tiễn và đảm bảo tính vừa
sức trong dạy học luôn là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong dạy học GDCD, đặc
biệt là đối với những nội dung có tính khái quát, trừu tượng.
Thứ ba, hệ thống tri thức môn GDCD ở trường THPT mang tính thời sự.
Tri thức của tất cả các môn học điều gắn liền với thực tiễn cuộc sống ở những
góc độ và lĩnh vực khác nhau. Đối với môn GDCD, bên cạnh tính thực tiễn thì tri thức
của môn học luôn mang tính thời sự sâu sắc. Những tri thức của môn học dù khái quát,
trừu tượng hay cụ thể đều tập trung phản ánh những vấn đề, những hiện tượng đang
nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày. Những vấn đề thách thức của toàn cầu như bùng
nổ dân số, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường,…Ngay cả những nội dung khái quát, trừu
tượng như: Quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng
hóa, quy luật cạnh tranh trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, quy luật cung cầu trong
sản xuất và lưu thông hàng hóa…cũng đang hằng ngày, hằng giờ biểu hiện, tác động
trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Đặc thù này đòi hỏi người giáo viên GDCD phải luôn làm cho tri thức của bài
học bắt nhịp với cuộc sống đang đổi thay từng ngày. Để làm được điều đó, mỗi người
giáo viên GDCD phải có một tâm hồn nhạy cảm, biết cảm nhận, lắng nghe những đổi
thay của cuộc sống, biết nắm bắt, sàng lọc, cập nhật, phân tích và xử lý thông tin để
mang hơi thở của cuộc sống, của thời đại vào từng tiết học, bài dạy GDCD. Tuy nhiên,
nếu lạm dụng đặc thù này, giáo viên sẽ biến giờ học GDCD trở thành một giờ nói
chuyện thời sự.
Thứ tư, hệ thống tri thức môn GDCD ở trường THPT mang tính định hướng
chính trị sâu sắc.
Đối với môn GDCD ở trường THPT, mục tiêu dạy người - giáo dục để học sinh
trở thành một công dân có ích cho xã hội luôn được xác định là quan trọng nhất. Quá
trình giáo dục để học sinh trở thành những công dân có ích cho xã hội trước hết phải
bắt đầu từ việc giáo dục ý thức công dân, ý thức chính trị cho các em. Ở nhà trường
THPT nhiệm vụ này trước hết phải thuộc về môn GDCD. Do đó, hệ thống tri thức của
môn học luôn hướng vào việc giúp học sinh hình thành những thái độ, tình cảm công
dân lành mạnh, có lập trường, quan điểm chính trị rõ ràng. Nội dung của mỗi bài học,
tiết học GDCD luôn định hướng cho học sinh về trách nhiệm của các em đối với bản
thân, gia đình và xã hội, cũng như xác định thái độ, trách nhiệm của các em trước các
vấn đề lớn lao của dân tộc và thời đại. Giáo dục, bồi dưỡng, vun đắp để giúp các em
từng bước định hình được một nhân cách trong sáng, biết lựa chọn cho mình lí tưởng,
lẽ sống đúng đắn.
Trang 11
Đặc thù này đòi hỏi người giáo viên GDCD phải luôn bám sát mục tiêu của mỗi
bài học, tiết dạy, phải nắm vững nội dung từng bài, từng đơn vị kiến thức, nắm bắt
được đặc điểm trình độ, tâm sinh lí của học sinh để lựa chọn phương pháp dạy học sao
cho phù hợp. Người giáo viên GDCD phải không ngừng rèn luyện để có một nhân
cách trong sáng, một tâm hồn phong phú, một bản lĩnh chính trị vững vàng. Nói cách
khác, đối với môn GDCD, người thầy không chỉ có trí tuệ, mà trước hết phải là người
công dân có ý thức chính trị, có lối sống, tâm hồn và nhân cách trong sáng. Chỉ có như
vậy, người thầy mới có thể hóa thân vào bài dạy để chuyển hóa những tri thức của
môn học thành thái độ, tình cảm và lẽ sống của học sinh.
Thứ năm, hệ thống tri thức môn GDCD ở THPT gắn liền với việc hình thành kĩ
năng sống của học sinh.
Tất cả các môn học đều hướng vào việc rèn luyện những kĩ năng cho người
học. Do đặc thù về vị trí, nhiệm vụ của môn học nên môn học GDCD chủ yếu hướng
vào việc rèn luyện cho học sinh những kĩ năng sống hết sức cần thiết cho các em.
Những kĩ năng (trong các bài học GDCD) như: Giao tiếp và ứng xử, tổ chức quản lí,
hoạt động chính trị - xã hội, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, định hướng lao động
nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp, thích ứng với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể
trước những biến động không ngừng của đời sống xã hội. Gắn liền với nội dung mỗi
bài học GDCD luôn có một loạt những kĩ năng tương ứng, có thể đó là những kĩ năng
tiếp cận, phân tích, xử lý…thông tin, cũng có thể là kĩ năng tiếp cận, nhận diện, xử lý,
giải quyết những thách thức, những hiện tượng hoặc những vấn đề đang không ngừng
nảy sinh trong cuộc sống hằng ngày của chính bản thân các em, trong quan hệ với bạn
bè, trong tình yêu, hôn nhân và gia đình, trong quan hệ cộng đồng…
Trong quá trình dạy học GDCD người giáo viên bộ môn phải nắm vững mục
tiêu về kĩ năng của từng bài, lựa chọn giới thiệu, trang bị cho học sinh những kĩ năng
cần thiết nhất. Khuyến khích các em mang những kĩ năng đó và thực hành và không
ngừng tự hoàn thiện ngay trong cuộc sống hàng ngày của chính các em. Trong quá
trình dạy học, người giáo viên GDCD không ngừng trải nghiệm, quan sát, học hỏi và
hoàn thiện chính mình. Một bài học GDCD thật sự là bổ ích là bài học mà ở đó mà
học sinh không chỉ học được những tri thức, tình cảm cần thiết mà các em còn học ở
đó cả sự trải nghiệm và những kĩ năng sống của chính người thầy.
Những đặc thù tri thức của môn GDCD nói trên biểu hiện khác nhau trong mỗi
bài học, mỗi đơn vị kiến thức khác nhau. Trước khi giảng dạy, người giáo viên bộ
môn cần nghiên cứu kĩ mục tiêu, nội dung, đặc thù của từng bài học, từng tiết dạy,
từng đơn vị kiến thức để lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, nội dung
thông tin, tài liệu, phương tiện dạy học,…sao cho phù hợp và hiệu quả.
Trang 12
1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo dục công dân ở
trường trung học phổ thông
1.2.1. Công nghệ thông tin
1.2.1.1. Khái niệm công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology hay
là IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin.
CNTT là một ngành kỹ thuật vận dụng tất cả các tiến bộ về khoa học, công
nghệ, điện tử, toán học, quản trị học… để thu thập, biến đổi, truyền tải, lưu trữ, phân
tích, suy luận, sắp xếp thông tin…phục vụ cho lợi ích của con người. Cụ thể như máy
tính, internet, phần mềm, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa…đều thuộc lĩnh vực của
CNTT.
Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết Chính
phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa
học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và
viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên
thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và
xã hội.
Công nghệ thông tin là một công nghệ tạo khả năng (enabling technology),
nghĩa là giúp con người có thêm khả năng trong hoạt động trí tuệ chứ không phải thay
thế con người trong hoạt động đó. Ứng dụng CNTT trong dạy học là sử dụng tốt các
phần mềm ứng dụng, khả năng khai thác thông tin trên Internet cùng với sự hỗ trợ của
nhiều phương tiện trong việc dạy học, giúp cho giáo viên có thêm thời gian và điều
kiện để chăm lo những công việc đòi hỏi chất lượng trí tuệ cao hơn hoạt động dạy học
theo phương pháp truyền thống. Việc sử dụng máy vi tính, phương tiện truyền thông
và internet… trong giáo dục hiện nay đã phát triển nhanh chóng góp phần tạo ra nhiều
hình thức dạy học hết sức đa dạng và phong phú.
Sau đây là một số phương tiện hiện đại cơ bản cần thiết trong việc ứng dụng
CNTT để dạy học:
Thứ nhất, máy tính và cấu tạo máy tính
Khái niệm cơ bản về máy tính: Máy tính là một công cụ cho phép lưu trữ và xử
lí thông tin một cách tự động. Để điều khiển hoạt động của máy tính con người phải
cung cấp lệnh cho máy tính. Một tập các lệnh được tổ chức theo một nguyên tắc nào
đó được gọi là chương trình. Chương trình là một tập hợp các chỉ thị nhằm hướng dẫn
máy tính thực hiện một công việc nào đó. Chương trình sẽ thay thế con người điều
khiển máy tính.
Trang 13
Cấu trúc cơ bản của máy tính: Phần cứng: bao gồm toàn bộ máy và các thiết bị
ngoại vi là các thiết bị điện tử được kết hợp với nhau. Nó thực hiện chức năng xử lí
thông tin ở mức thấp nhất tức là các tín hiệu nhị phân. Phần mềm: là các chương trình
(Programs) do người sử dụng tạo ra điều khiển các hoạt động phần cứng của máy tính
để thực hiện các nhiệm vụ phức tạp theo yêu cầu của người sử dụng. Phần mềm của
máy tính được phân làm 2 loại: Phần mềm hệ thống (System Software) và phần mềm
ứng dụng (Applications Soffware).
Các loại máy tính: Máy tính lớn (Mainframe), Siêu máy tính (Super
Computer), Máy tính cá nhân PC (Personal Computer), Máy tính xách tay ( Laptop)
và Máy tính bỏ túi (Pocket PC)
Cấu tạo cơ bản của máy tính cá nhân có thể chia làm ba phần: Khối xử lí trung
tâm (CPU: Central Processing Unit), Bộ nhớ (Memory), Thiết bị vào/ra (Input/Output
device).
Ngày nay, máy vi tính có thể giải quyết được các nhiệm vụ cơ bản của quá
trình dạy học như: truyền thụ kiến thức, phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng thực hành,
ôn tập củng cố, kiểm tra đánh giá…là nhờ các chức năng lưu trữ, xử lí, cung cấp thông
tin, liên kết thông tin, minh họa, mô phỏng, điều khiển v.v..
Thứ hai, máy chiếu đa chức năng (máy chiếu Projector)
Máy chiếu đa chức năng là phương tiện dạy học mới được đưa vào sử dụng
trong những năm gần đây. Phương tiện này đã hỗ trợ đắc lực cho hoạt động dạy và
học của giáo viên và học sinh khi sử dụng công nghệ thông tin. Là một thiết bị xuất
hình ảnh hiện đại đi kèm với máy vi tính, máy chiếu Projector được thiết kế nhỏ gọn,
có thể treo cố định hoặc di động.
Thứ ba, một số phần mềm ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn
GDCD
MS. Powerpoint là phần mềm tiện ích có thể tạo ra các công cụ trình diễn có
minh họa như các bản trình diễn (slide show) trên màn hình vi tính thể hiện dưới nhiều
dạng: Văn bản (text), đồ họa (graphics), ảnh chụp (image), hoạt ảnh (animation), dạng
video audio với màu sắc, hình ảnh đẹp, gây ấn tượng và hấp dẫn đối với học sinh.
PowerPoint được dùng để tạo các tờ rơi, áp phích, quảng cáo, các biểu mẫu đồ họa
trang trí đẹp mắt. Đặc biệt, với chức năng tạo các “Slide Show” hay còn gọi là các
“màn trình diễn”, Powerpoint được sử dụng rất nhiều trong việc tạo các báo các khoa
học, các bài trình bày đa phương tiện hấp dẫn. PowerPoint có thể ứng dụng trong dạy
học GDCD vì nó có một số ưu thế chủ yếu sau:
Giao diện hẹp, hiệu ứng hình ảnh, âm thanh, màu sắc phong phú, có tác dụng
làm giờ học sinh động, hấp dẫn với học sinh.
Trang 14
Cho phép chèn hình ảnh hay video clip và tạo lập sơ đồ, biểu đồ, mô hình trên
một phông nền có màu sắc hài hòa giúp giáo viên trong việc giải thích, mở rộng, liên
kết kiến thức. Việc kết hợp các hình ảnh, các đoạn video clip và các sơ đồ, mô hình, số
liệu… một cách thích hợp sẽ đảm bảo cho việc thực hiện các ý tưởng sư phạm của
người giáo viên.
Cho phép kết nối từng nội dung bài học để tạo thành một chương trình logic
giúp cho bài học đảm bảo được tính hệ thống, khoa học. Đồng thời, cho phép tạo một
trình diễn các hình ảnh, kí tự tiếp nối liên tục theo những hiệu ứng khác nhau để tạo
thành trang viết động.
Ứng dụng PowerPoint sẽ giúp người giáo viên lựa chọn được các phương pháp
kiểm tra, đánh giá phù hợp, hiệu quả.
Powerpoint có khả năng tích hợp tốt cùng một lúc nhiều chức năng khác nhau:
chức năng mô hình hóa, chức năng thông tin, chức năng điều khiển và định hướng
thông tin, chức năng luyện tập và thực hành, chức năng thiết kế, kiểm tra đánh giá…
Việc ứng dụng Powerpoint trong dạy học môn GDCD sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả giảng dạy và học tập môn học này ở trường THPT. Mặt khác, việc ứng dụng
phần mềm này sẽ tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên, PowerPoint
chỉ là một trong những phần mềm được giáo viên sử dụng để thiết kế bài giảng điện
tử, gắn liền với các phương pháp dạy học cụ thể. PowerPoint không phải là một PPDH
GDCD. Đây thực chất chỉ là một phần mềm dạy học chứa đựng nhiều tiện ích, nó mở
ra cho người giáo viên những khả năng vô tận trong việc khai thác thông tin từ nhiều
nguồn tri thức khác nhau vào việc nâng cao hiệu quả bài giảng. Đặc biệt cần nhấn
mạnh rằng, các bài dạy được tạo ra trên PowerPoint không thể thay thế vai trò như
một công cụ giúp cho giáo viên dù khi dạy trực tiếp hay qua mạng. Cần xác định việc
sử dụng và thiết kế Powerpoint như một công cụ hỗ trợ dạy học. Trường hợp nào sử
dụng phần mềm không hơn gì bảng đen và sách giáo khoa thì không nên dùng phần
mềm. Khi sử dụng phần mềm này, không nên quá lạm dụng các chức năng của nó để
trình diễn như dùng quá nhiều màu nền sặc sỡ, quá nhiều chữ, hình động, âm thanh
không thích hợp, làm cho bài dạy bị chi phối, học sinh ít tập trung nghe giảng mà chỉ
để ý đến màn hình.
Microsoft Frontpage là một phần mềm thiết kế web chuyên nghiệp của hãng
phần mềm Micrisoft. Phần mềm này được đi kèm với bộ Ofice XP, bao gồm những
tính năng vượt trội nhưng lại rất dễ sử dụng. Vì Frontpage biến việc thiết kế web đơn
giản như khi ta soạn thảo một văn bản trong Microsoft Word vậy.
Ngày nay, Internet và đặc biệt là Word Wide Web đã trở thành một dịch vụ
thông tin gắn chặt với đời sống kinh tế - xã hội. Trong giáo dục, việc truy cập thong
Trang 15
tin và tạo ra thông tin trở thành một công việc thường xuyên của thầy giáo và
học sinh. Chương trình Frontpage cho phép mọi người dễ dàng tạo ra các trang web
sinh động đầy màu sắc, đồng thời chuyển tải các trang đó lên mạng Internet một cách
thuận tiện nhanh chóng.
Nhờ những tiện ích của mình mà MS.Frontpage đã được ứng dụng trong quá
trình giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Sử dụng MS. FrontPage trong
giảng dạy môn GDCD, giáo viên sẽ cấu trúc bài giảng của mình như một website,
trong website có chứa những trang web mang nội dung bài giảng; các trang có thể
chứa nội dung của từng đề mục hay từng hoạt động dạy học. Các thư mục riêng dùng
để lưu giữ hình ảnh, phim, bài tập trắc nghiệm…tất cả các bài giảng được lưu cùng
một thư mục trên ổ đĩa cứng của máy tính.
Ngoài ra một trong những hiện tượng phổ biến hiện nay là sử dụng Internet
trong dạy học môn GDCD. Mạng internet là một kênh thông tin khổng lồ có khả năng
cung cấp thông tin vô cùng phong phú, đa dạng và nhiều nội dung. Khai thác internet
phục vụ cho dạy học sẽ mang lại nhiều hiệu quả thiết thực, cần thiết cho việc dạy học
môn GDCD ở trường THPT, vì có thể tải thông tin về để làm tư liệu dạy học hoặc đưa
vào thư viện dự trữ, khi cần có thể dùng đến.
Hoặc sử dụng E-Learning trong dạy học môn GDCD. E-Learning là một thuật
ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông.
E-learning có thể coi là “biến thể” mới khi so sánh với loại hình học tập trực tiếp
truyền thống. Sự khác biệt thể hiện ở bốn điểm chính: Tính tương tác, đối thoại và
cộng tác; học tập với cộng đồng trực tuyến – online; sự tùy biến hóa và cá nhân hóa
cho người học và tính linh hoạt. Nhờ các công cụ mà trong E-learning có nhiều kênh
thông tin và nhiều kiểu trao đổi thông tin: Công cụ soạn bài giảng điện tử với các tính
năng (tạo cây nội dung, tạo các tương tác, nhập các đối tượng đã tồn tại, liên kết các
đối tượng học tập với nhau, cung cấp các mẫu tạo course học nhanh chóng, thuận tiện,
sử dụng lại các đối tượng học tập, tạo các bài kiểm tra, xuất ra các đinh dạng khác
nhau, cung cấp khả năng phát triển các tính năng cao cấp thông qua lập trình và với
bài giảng điện tử học sinh có thể đọc tài liệu tốt hơn, nhanh hơn so với đọc tài liệu trên
giấy); Công cụ mô phỏng có các tính năng (ghi lại các chuyển động trên màn hình,
chỉnh sửa lại các chuyển động nếu cần, đưa thêm các thành phần đồ họa, đưa thêm
tương tác cho học viên, đưa thêm audio/video,…); Công cụ tạo bài kiểm tra có các
tính năng (môi trường kiểm tra bảo mật, tạo các bài kiểm tra dễ dàng dựa trên các mẫu
cung cấp sẵn, trộn các câu hỏi theo thứ tự ngẫu nhiên,…); Các công cụ tạo bài trình
bày multimedia và các công cụ deminar điện tử (chat, chat room, các công cụ này giúp
cho sự tương tác, trao đổi, làm việc nhóm giữa học sinh với học sinh, học sinh và giáo
viên tốt hơn, nhiều hơn).
Trang 16
Tóm lại, với việc ứng dụng các phần mềm trên hỗ trợ cho quá trình giảng dạy
môn GDCD ở các trường THPT sẽ mang lại hiệu quả cao. Đây chỉ là các phương tiện
dạy học chứa đựng nhiều tiện ích, nó mở ra cho người giáo viên những khả năng vô
tận trong việc khai thác thông tin từ nhiều nguồn tri thức khác nhau vào việc nâng cao
hiệu quả bài giảng. Tuy nhiên, các phần mềm trên không thể thay thế hẳn vai trò của
một giáo viên mà đòi hỏi người giáo viên phải biết vận dụng, tìm tòi và sáng tạo để
mang lại bài giảng hữu hiệu nhất. MS. Powerpoint là phần mềm phổ biến và mang lại
hiệu quả cao nhất khi các giáo viên ứng dụng CNTT trong giảng dạy môn GDCD ở
các trường THPT.
1.2.1.2. Vai trò của công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường trung học phổ thông
Trong những năm gần đây, sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực công nghệ
thông tin đang thực sự tạo ra một cuộc cách mạng làm thay đổi bộ mặt đời sống xã
hội. Đặc biệt, trong lĩnh vực giáo dục, việc từng bước ứng dụng công nghệ thông tin
vào quá trình giảng dạy đang được xem như là một hướng quan trọng góp phần đổi
mới PPDH theo hướng tăng cường hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng
nâng lực tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, từ đó góp phần tích cực trong việc nâng
cao chất lượng đào tạo. Thực tế quan sát quá trình giảng dạy cho thấy, việc sử dụng
công nghệ thông tin mà chủ yếu làm một số phần mềm thông dụng như PowerPoint,
Fronpage để soạn các bài giảng điện tử sẽ hỗ trợ tốt cho việc giảng dạy và học tập.
Trong đó MS.PowerPoint được coi là một trong những phần mềm thông dụng và có
nhiều tiện ích, rất phù hợp cho việc thiết kế, trình diễn có hiệu quả các bài dạy GDCD
cho cả giáo viên và học sinh.
Đối với giáo viên
Do tính chất đặc thù của môn GDCD, là một môn học thuộc khoa học xã hội
nhân văn, chủ yếu cung cấp tri thức theo dạng lí thuyết với khối lượng lớn, do đó việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học bộ môn còn gặp nhiều khó khăn. Mặt
khác, hiện nay các phần mềm được thiết kế sẵn để phục vụ giảng dạy chuyên ngành
đang được triển khai rộng rãi, trong dạy học các môn khoa học tự nhiên xã hội, ngoại
ngữ, riêng đối với môn GDCD còn rất hạn chế. Tuy nhiên, khả năng ứng dụng công
nghệ thông tin và các thiết bị kĩ thuật phù hợp nhằm làm tăng chất lượng dạy học cũng
như tăng hứng thú của học sinh đối với môn học này ở nhà trường phổ thông là hết
sức khả thi. Thông qua việc ứng dụng CNTT, người giáo viên GDCD có thể khai thác
thông tin trên Internet và khai thác tốt các phần mềm công cụ một cách sáng tạo nhằm
nâng cao hiệu quả của bài dạy và môn học. Như giáo viên chuẩn bị bài dạy một lần thì
sử dụng được nhiều lần, tuy nhiên ngày càng hoàn thiện và hiệu quả hơn; hoặc các
hình ảnh, đoạn phim minh họa cho nội dung sinh động, thực tế… tăng tính động não
và hứng thú học tập cho học sinh, các phương tiện sẽ hỗ trợ, chuẩn hóa các bài giảng
Trang 17
mẫu, đặc biệt đối với những phần khó giảng, những khái niệm phức tạp, trừu
tượng. Lấy ví dụ để giảng nội dung Các hình thức vận động cơ bản của thế giới vật
chất, trong bài “SỰ VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THẾ GIỚI VẬT CHẤT”,
GDCD Lớp 10, giáo viên có thể cho học sinh xem những đoạn phim về sự vận động
cơ học (trái đất xoay quanh mặt trời), vận động vật lý (sự vận động các phân tử), vận
động hóa học (phản ứng một phương trình), vận động sinh học (sự biến đổi vòng đời
của loài bướm), vận động xã hội (sự tiến hóa của loài người); Những hình thức cơ bản
của dân chủ, trong bài “NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA”, GDCD lớp 11,
giáo viên có thể minh họa hai đoạn phim ngắn về hai hình thức dân chủ trực tiếp và
dân chủ gián tiếp để học sinh dễ hình dung…Đó là những nội dung mà giáo viên khó
có thể miêu tả bằng lời. Hay trong chương trình GDCD lớp 12, giáo viên cũng có thể
đưa ra những tình huống thật sự sinh động để giải thích cho các nội dung khó hình
tượng như Các hình thức thực hiện pháp luật, bài “THỰC HIỆN PHÁP LUẬT”,….
Khi sử dụng bài giảng điện tử sẽ giúp giáo viên tiết kiệm được nhiều thời gian
trong việc ghi bảng, thay vào đó, giáo viên có điều kiện tốt hơn để tổ chức cho học
sinh trao đổi, thảo luận, phát huy tính năng động tích cực và sự say mê, hứng thú của
học sinh trong học tập. Đồng thời trong một thời gian ngắn của một tiết học, giáo viên
có thể hướng dẫn cho học sinh tiếp cận một lượng kiến thức lớn, phong phú đa dạng
và sinh động.
Từ những phương tiện này giáo viên có thể khai thác, sử dụng, cập nhật và trao
đổi thông tin. Ví dụ, giáo viên có thể khai thác mạng Internet với các công cụ tìm
kiếm như Google.com hoặc Vinaseek.com. Việc khai thác mạng giúp giáo viên tránh
được tình trạng “dạy chay” một cách thiết thực đồng thời giúp giáo viên có thể cập
nhật thông tin nhanh chóng và hiệu quả. Đây là một trong những yêu cầu đặc biệt cần
thiết đối với giáo viên giảng dạy bộ môn GDCD, bởi GDCD là một môn học rất nhạy
bén đối với những vấn đề xã hội, việc cung cấp thông tin, liên hệ thực tế là một trong
những yêu cầu quan trọng xuất phát từ đặc trưng của bộ môn.
Qua đây giáo viên có điều kiện để học hỏi, tìm tòi nguồn tri thức mới, bản thân
mỗi người rèn luyện thêm chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao khả năng tiếp xúc và sử
dụng có hiệu quả CNTT vào trong quá trình giảng dạy của mình nhằm nâng cao chất
lượng hiệu quả của việc dạy học môn GDCD ở trường THPT.
Đối với học sinh
Khi giảng dạy có ứng dụng CNTT, nội dung bài dạy đã được giáo viên cô đọng
một cách ngắn gọn, xúc tích nhưng vẫn đảm bảo nội dung, cùng với nhiều hình ảnh, tư
liệu minh họa…đã đem lại những lợi ích thiết thực.
Trang 18
Thứ nhất, là cung cấp cho học sinh nhiều dữ liệu. Đặc biệt là các học sinh lớp
11, lớp 12, các em có thể tự tìm hiểu và sưu tầm nguồn dữ liệu phong phú từ CNTT,
chuẩn bị cho bài học, tăng cường ý thức tự học.
Thứ hai, giảng dạy bằng GAĐT sẽ phát huy tối đa trí tuệ của học sinh. Và ở đó,
học sinh sẽ tiếp thu bài một cách chủ động, có nhiều thời gian nghe giảng để đào sâu
suy nghĩ. Bên cạch đó, học sinh được tham khảo nhiều tình huống thực tế gần gũi với
đời sống hiện thực sẽ giúp các em dễ liên hệ và nhanh chóng tiếp thu được vấn đề.
Mặt khác khi môn GDCD ở trường THPT được truyền tải bằng ứng dụng
CNTT sẽ làm học sinh giảm đi suy nghĩ môn GDCD là một môn phụ, vì môn GDCD
cũng được đầu tư một cách kỹ càng và thiết thực hơn lại rất gần gũi với cuộc sống
hàng ngày. Đồng thời, cùng với việc tiếp thu bài học giáo án điện tử sẽ giúp cho học
sinh có điều kiện tiếp xúc hàng ngày với CNTT, làm quen với môi trường máy vi
tính…giúp học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành, có nghĩa là phần nào hình thành thói
quen làm việc khoa học, làm việc theo xu hướng thời đại - ứng dụng CNTT.
Tóm lại, với tác động của CNTT, môi trường dạy học cũng thay đổi, nó tác
động mạnh mẽ tới quá trình quản lý, giảng dạy, đào tạo và học tập dựa trên sự hỗ trợ
của các phần mềm ứng dụng, website và hạ tầng CNTT đi kèm. Việc ứng dụng CNTT
vào quá trình dạy học sẽ góp phần nâng cao chất lượng học tập, tạo ra môi trường giáo
dục mang tính tương tác cao chứ không chỉ đơn thuần là thầy giảng, trò nghe, thầy
đọc, trò chép như hiện nay, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động
tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học. Vậy với việc ứng dụng CNTT trong
dạy học môn GDCD cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng giáo dục nói chung, đồng thời mang lại hiệu quả thiết thực cho môn GDCD
nói riêng.
1.2.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
Ứng dụng CNTT vào dạy học đem lại rất nhiều hiệu quả. Đó là quá trình giáo
viên sử dụng các tiện ích của công nghệ thông tin để thiết kế các kế hoạch dạy học
cũng như nội dung bài giảng của mình, được gọi là giáo án điện tử và bài giảng điện
tử.
1.2.2.1. Giáo án điện tử
Giáo án điện tử là bản thiết kế cụ thể toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học của
giáo viên trên giờ lên lớp, toàn bộ hoạt động dạy học đó đã được multimedia hóa một
cách chi tiết, có cấu trúc chặt chẽ và logic được quy định bởi cấu trúc của bài học.
Giáo án điện tử là một sản phẩm của hoạt động thiết kế bài dạy được thể hiện bằng vật
chất trước khi bài dạy được tiến hành.
1.2.2.2. Bài giảng điện tử
Trang 19
Bài giảng điện tử là một hình thức tổ chức bài lên lớp mà ở đó toàn bộ kế hoạch
hoạt động dạy học đều được chương trình hoá do giáo viên điều khiển thông qua môi
trường multimedia do máy vi tính tạo ra. Như vậy bài giảng điện tử là công cụ tương
tác giữa người học và người dạy để thực hiện các mục tiêu của giáo án.
Cần lưu ý bài giảng điện tử không phải đơn thuần là các kiến thức mà học sinh
ghi vào tập mà đó là toàn bộ hoạt động dạy và học - tất cả các tình huống sẽ xảy ra
trong quá trình truyền đạt và tiếp thu kiến thức của học sinh. Bài giảng điện tử càng
không phải là một công cụ để thay thế “bảng đen phấn trắng” mà nó phải đóng vai trò
định hướng trong tất cả các hoạt động trên lớp.
Các đơn vị của bài học đều phải được Multimedia hóa. Multimedia được hiểu
là đa phương tiện, đa môi trường, đa truyền thông. Trong môi trường multimedia,
thông tin được truyền dưới các dạng: Văn bản (text), đồ họa (graphics), hoạt ảnh
(animation), ảnh chụp (image), âm thanh (audio) và phim video (video clip).
Với bài giảng điện tử, người thầy được giảm nhẹ việc thuyết giảng, tăng cường
đối thoại, thảo luận với người học, qua đó kiểm soát được người học. Người học được
thu hút, kích thích khám phá tri thức, có điều kiện quan sát vấn đề, chủ động nêu câu
hỏi và nhờ vậy quá trình học tập trở nên hứng thú, sâu sắc hơn.
* Cấu trúc cơ bản của một bài giảng điện tử môn GDCD
Cấu trúc cơ bản của một bài giảng điện tử GDCD được thể hiện qua sơ đồ sau:
BÀI GIẢNG
NỘI DUNG 1
LÝ THUYẾT
MINH HỌA
NỘI DUNG 2
LÝ THUYẾT
MINH HỌA
NỘI DUNG n
CỦNG CỐ VÀ DẶN DÒ
Sơ đồ 1. Cấu trúc cơ bản của một bài giảng điện tử GDCD
U
U