Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Tìm hiểu việc giáo dục quyền con người cho học sinh trong các trường trung học phổ thông ở thành phố long xuyên theo tư tưởng hồ chí minh từ năm 2009 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 52 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỒ THỊ NGỌC HƯƠNG
TÌM HIỂU VIỆC GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI CHO
HỌC SINH TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG Ở THÀNH PHỐ LONG XUYÊN THEO TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2009 ĐẾN NAY
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

Khóa học: 2009 - 2013

An giang, 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỒ THỊ NGỌC HƯƠNG
TÌM HIỂU VIỆC GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI CHO
HỌC SINH TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG Ở THÀNH PHỐ LONG XUYÊN THEO TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2009 ĐẾN NAY
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

GVHD: ThS BÙI THU HẰNG

Khóa học: 2009 - 2013


An giang, 2013


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự
hỗ trợ và giúp đỡ tận tình của các cơ quan, đơn vị, các cá nhân. Nay tôi xin chân thành
cảm ơn:
Ban giám hiệu trường Đại học An Giang, Ban chủ nhiệm, quý thầy cô, cán bộ
nhân viên khoa Lý luận chính trị đã truyền đạt tri thức và tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các trường
trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Long Xuyên bao gồm: trường Trung học
phổ thông Ischool, trường Trung học phổ thông Chuyên Thoại Ngọc Hầu, trường
Trung học phổ thông Long Xuyên, trường Trung học phổ thông Bình Khánh, trường
Trung học phổ thông Mỹ Thới, trường Phổ thông Thực hành Sư phạm.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Bùi Thu Hằng đã tận tình
hướng dẫn, động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian thực hiện đề tài khóa luận tốt
nghiệp.

Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên

Hồ Thị Ngọc Hương


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài: .................................................................................................. …1
2. Mục đích nghiên cứu: ........................................................................................... …2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu: .......................................................................................... …3

4. Đối tượng nghiên cứu: .......................................................................................... …3
5. Phạm vi nghiên cứu: ............................................................................................. …3
6. Phương pháp nghiên cứu: ..................................................................................... …3
7. Kết cấu của khóa luận:.......................................................................................... …4
PHẦN NỘI DUNG:
Chương 1: Lí luận chung về quyền con người và giáo dục quyền con người ở Việt
Nam.
1.1 . Quan điểm về quyền con người ........................................................................ ….6
1.1.1. Quan điểm chung về quyền con người. .......................................................... ….6
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền con người ......................................... ….9
1.2. Quan điểm về giáo dục quyền con người ở Việt Nam ...................................... ....11
1.2.1. Quan điểm về giáo dục quyền con người ....................................................... ....11
1.2.2. Vai trò của giáo dục quyền con người ở Việt Nam ........................................ ....17
1.2.3. Sự cần thiết của việc giáo dục quyền con người cho học sinh trong các trường
Trung học phổ thông................................................................................................. …18
Chương 2: Tìm hiểu việc giáo dục quyền con người cho học sinh trong các
trường Trung học phổ thông ở thành phố Long Xuyên, theo tư tưởng Hồ Chí
Minh từ năm 2009 đến nay.
2.1. Sơ lược về các trường Trung học phổ thông ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An
Giang ........................................................................................................................ …24
2.2. Giáo dục quyền con người cho cho học sinh trong các trường Trung học phổ
thông. ........................................................................................................................ …29


2.2.1. Những mặt tích cực trong giáo dục quyền con người cho học sinh trong các
trường Trung học phổ thông và nguyên nhân của nó. .............................................. …29
2.2.2. Những mặt hạn chế trong giáo dục quyền con người cho học sinh trong các
trường Trung học phổ thông và nguyên nhân của nó ............................................... …33
2.3. Một số phương hướng nhằm nâng cao nhận thức về quyền con người và giáo dục
quyền con người cho học sinh trong các trường Trung học phồ thông ở thành phố

Long Xuyên từ 2009 đến nay ................................................................................... …37
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................... .39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của đại cách mạng Pháp
năm 1791 có viết: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải
luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 cũng viết: “Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đó là những điều mà Tuyên ngôn tư sản đã khẳng
định về quyền con người.
Vận dụng vào thực tế của cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh đã chuyển
hóa quyền con người được nêu trong các bản Tuyên ngôn tư sản thành quyền
của các dân tộc. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh thì quyền con người ở Việt
Nam phải gắn với độc lập, tự do của dân tộc. Vì: “Người lại bị coi rẻ hơn lợn.
Chỉ vì người không có quyền tự chủ”. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, đã đưa nhân dân từ thân phận nô lệ trở thành người chủ của đất nước,
người dân được hưởng quyền cơ bản của con người.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, một trong những
nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ lúc bấy giờ là phải chống giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm đề đảm bảo các quyền của con người, trong đó có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Theo Hồ Chí Minh độc lập
của nước phải gắn liền với hạnh phúc, tự do của dân, Người từng nói, “Tôi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn

toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành…”.
Vì vậy, lúc sinh thời Người luôn chú ý đến việc đảm bảo mọi quyền lợi
cho nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân, mà trước hết là nhân dân
lao động.

Trang 1


Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo nhân dân cả nước tiếp tục đấu tranh giành độc lập và đem lại cho nhân dân
cả nước những quyền cơ bản của con người như quyền được sống; quyền tự
do; quyền mưu cầu hạnh phúc; quyền làm chủ đất nước của mình; quyền được
pháp luật bảo vệ; quyền có việc làm nhằm đảm bảo nhu cầu tối thiểu như ăn,
mặc, ở, đi lại; quyền được tôn trọng nhân cách; quyền tự do bầu cử, ứng cử và
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền được học hành…
Tuy nhiên trong thực tế, quyền con người thường hay bị vi phạm như
đi bầu cử thay cho người khác, không dám đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác,
hành hạ người khác, cướp đi quyền sống, quyền tự do của con người, trẻ em
sinh ra không có giấy khai sinh, không được học tập, vui chơi, giải trí, tôn
trọng nhân cách, không được khám chữa bệnh miễn phí, đặc biệt sự bất bình
đẳng giữa nam và nữ…có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân là do
chúng ta chưa thực hiện tốt công tác giáo dục quyền con người cho nhân dân,
đặc biệt là thế hệ trẻ.
Để đảm bảo thực thi quyền con người trên thực tế và thúc đẩy sự tiến
bộ của xã hội thì cần phải xây dựng chiến lược về con người và đẩy mạnh hơn
nữa việc giáo dục quyền con người cho nhân dân, đặc biệt là giáo dục quyền
con người người cho học sinh trong các trường Trung học phổ thông ở thành
phố Long Xuyên, tỉnh An Giang nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức về quyền

con người và giáo dục quyền con người cho học sinh. Để thực hiện được ham
muốn của Hồ Chí Minh là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành.
Chính vì vậy, mà tôi đã chọn đề tài: “Tìm hiểu việc giáo dục quyền
con ngƣời cho học sinh trong các trƣờng Trung học phổ thông ở thành
phố Long Xuyên, theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh từ năm 2009 đến nay” làm
khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền con người và việc giáo
dục quyền con người ở Việt Nam.

Trang 2


Trên cơ sở đó, đề xuất những phương hướng nhằm nâng cao hơn nữa
nhận thức về quyền con người và góp phần giáo dục quyền con người cho học
sinh trong các trường Trung học phổ thông ở Thành phố Long Xuyên, tỉnh An
Giang.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quyền con người và giáo dục
quyền con người ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tìm hiểu những mặt tích cực và hạn chế của việc giáo dục quyền con
người cho học sinh trong các trường Trung học phổ thông theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Đề ra một số phương pháp góp phần cùng nhà trường nâng cao hơn nữa
nhận thức về quyền con người và giáo dục quyền con người cho học sinh
trong các trường Trung học phổ thông.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Quá trình giáo dục quyền con người cho học sinh trong các trường

Trung học phổ thông ở thành phố Long Xuyên.
5. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu việc giáo dục quyền con người cho học sinh trong các trường
Trung học phổ thông thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang từ năm 2009 đến
nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp điều tra, phương pháp logic kết hợp lịch sử,
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử.
Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khác.

Trang 3


7. Kết cấu của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận còn 2 chương.

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: Lí luận chung về quyền con người và giáo dục quyền con người ở
Việt Nam.
1.1. Quan điểm về quyền con người
1.1.1. Quan điểm chung về quyền con người
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền con người
1.2. Quan điểm về giáo dục quyền con người ở Việt Nam
1.2.1. Quan điểm về giáo dục quyền con người
1.2.2. Vai trò của giáo dục quyền con người ở Việt Nam.
1.2.3. Sự cần thiết của việc giáo dục quyền con người cho học sinh trong các
trường Trung học phổ thông.

Chƣơng 2: Tìm hiểu việc giáo dục quyền con ngƣời cho học sinh trong các
trƣờng Trung học phổ thông ở thành phố Long Xuyên, theo tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh từ năm 2009 đến nay.
2.1. Sơ lược về các trường Trung học phổ thông ở thành phố Long Xuyên, tỉnh
An Giang.
2.2. Giáo dục quyền con người cho học sinh trong các trường Trung học phổ
thông.
2.2.1. Những mặt tích cực trong giáo dục quyền con người cho học sinh trong
các trường Trung học phổ thông và nguyên nhân của nó
2.2.2. Những mặt hạn chế trong giáo dục quyền con người cho học sinh trong
các trường Trung học phổ thông và nguyên nhân của nó

Trang 4


2.3. Một số phương hướng nhằm nâng cao nhận thức về quyền con người và
giáo dục quyền con người cho học sinh trong các trường Trung học phổ thông
ở thành phố Long Xuyên từ 2009 đến nay.
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang 5


PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ GIÁO DỤC QUYỀN
CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM

1.1.

Quan điểm về quyền con ngƣời

1.1.1. Quan điểm chung về quyền con ngƣời
Quyền con người là một dạng quy phạm xã hội đặc biệt, nó bao quát
một cách rộng rãi các quan hệ xã hội, dựa trên sự thừa nhận nhân phẩm, tự do,
bình đẳng như là những giá trị vốn có của con người.
Quyền con người là tự nhiên, vốn sẵn có từ khi mỗi người chào đời,
quyền này do tạo hóa định sẵn như một tính chất bất di bất dịch mà không ai
có thể thay đổi được. Do vậy, quyền con người không chỉ ảnh hưởng bởi
những tính chất khác nhau như chủng tộc, màu da, quan điểm chính trị, trình
độ phát triển, xuất thân, địa vị xã hội hoặc ở những chế độ chính trị của các
quốc gia khác nhau. Bất chấp các chính quyền có thừa nhận và bảo vệ quyền
con người hay không thì các quyền này vẫn tồn tại một cách khách quan.
Khái niệm quyền con người có từ rất sớm trong pháp luật của nhiều
quốc gia, song với tư cách là cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con người, khái
niệm này gắn với sự ra đời của tổ chức Liên Hợp Quốc (1945), bao gồm nhiều
hệ thống xã hội: các nước tư bản chủ nghĩa và các nước đi theo con đường độc
lập dân tộc. Cùng với sự ra đời của Liên Hợp Quốc, cơ chế bảo vệ và thúc đẩy
quyền con người đã hình thành, đó là Hội đồng kinh tế - xã hội; các Ủy ban
Công ước; từ năm 1993, có Cao ủy Liên Hợp Quốc về nhân quyền và hệ thống
văn kiện, bao gồm Hiến chương Liên Hợp Quốc, Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người và các Công ước quốc tế về quyền con người.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, với những cơ hội và thách thức mới,
những giá trị nhân bản của quyền con người chẳng những cần phải được bảo
vệ mà còn phải không ngừng mở rộng và nâng cao. Chính giá trị nhân đạo này

Trang 6



là cơ sở tư tưởng quan trọng nhất cho luật quốc tế về quyền con người, vì đó là
nguyện vọng và ý chí chung của tất cả các dân tộc.
Các học giả phương Tây tiếp cận vấn đề quyền con người từ thực trạng
nhân dân bị áp bức, bóc lột nặng nề bởi vương quyền (quyền lực nhà vua) và
thần quyền (quyền lực tôn giáo) đè nặng lên xã hội. Trong đêm trường trung
cổ ấy con người bị vùi dập, chà đạp làm mất “nhân tính”, do vậy họ vùng dậy
khẳng định quyền làm người, “tôi là người”. Với cách tiếp cận này thì tư
tưởng nhân quyền ban đầu có những đặc điểm sau:
- Nội dung tư tưởng nhân quyền được đề cập rõ nét là tự do, bình đẳng,
bác ái, nhất là bình đẳng về nhân phẩm.
- Đề cao cái tôi, quyền tự do cá nhân, đề cao cá nhân đến mức đối lập
hoặc tách khỏi lợi ích của cộng đồng.
- Quyền con người thường được diễn đạt dưới dạng quyền tự nhiên (chịu
ảnh hưởng của thuyết pháp quyền tự nhiên).
- Các Hiến pháp tư sản đầu tiên đều chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng
nhân quyền đó.
Xét về bản chất, Chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận về con đường giải
phóng: giải phóng loài người, và “giải phóng con người khỏi sự tha hóa, đưa
con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, con người
cuối cùng cũng là người tồn tại ở xã hội của chính mình, đồng thời cũng trở
thành người chủ của tự nhiên, người chủ bản thân mình”. Các nhà kinh điển
mácxít cũng chỉ ra rằng loài người phải biết sống hòa hợp với thiên nhiên. Nói
cách khác, là biết bảo vệ môi trường sống của hành tinh chúng ta. Chính vì
vậy có thể nói, từ khi Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời cho đến nay lịch sử tư
tưởng nhân loại nói chung và quyền con người nói riêng đã phát triển lên một
tầm cao mới.
Đối với những quốc gia, dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, bóc lột thì
độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là
điều kiện cơ bản để bảo vệ quyền cá nhân của mỗi người.

Căn cứ vào cơ sở pháp lý quốc tế và quốc gia, dựa vào hai đặc trưng cơ
bản của con người - đặc trưng tự nhiên và đặc trưng xã hội, có thể định nghĩa

Trang 7


khái niệm quyền con người như sau: Quyền con người là phẩm giá, nhu cầu,
lợi ích và năng lực vốn có và chỉ có ở con người - với tư cách là thành viên
của cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa trong pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia.
Quyền con người là thành quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động
trong lịch sử nhân loại, là giá trị chung của các quốc gia dân tộc. Bởi vậy,
quyền con người trước hết mang bản chất nhân loại. Quyền con người trong
mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều đánh dấu một bước phát triển về nhu cầu,
năng lực và khát vọng giải phóng của mình. Lịch sử hình thành và phát triển
của quyền con người không gián đoạn, ngày càng mở rộng và nâng cao, hướng
tới tôn trọng nhân phẩm của mỗi con người, không phân biệt về giới tính, dân
tộc, địa vị chính trị, kinh tế và xã hội… của mỗi người. Đồng thời, quyền con
người phát triển theo xu hướng nhân đạo, khoan dung trong việc áp dụng các
quy phạm xã hội, đặc biệt là đối với các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, dễ bị
thiệt thòi, đối với những người phạm tội. Có thể nói rằng, sự phát triển của
quyền con người là một quá trình loài người tự hoàn thiện phẩm chất đạo đức,
lối sống của mình.
Quyền con người, với tư cách là quyền tập thể, đó là độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia và sự bình đẳng giữa các dân tộc; đó là quyền của cộng đồng
dân cư có chung đặc điểm, đó là quyền được sống trong hòa bình, an ninh và
môi trường trong sạch.
Quyền con người chịu ảnh hưởng to lớn của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Với
sự xuất hiện chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, vấn
đề con người và quyền con người được nhận thức khoa học và cách mạng, gắn

liền với sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. Lý thuyết của chủ
nghĩa Mác về quyền con người là một hệ thống các quan niệm biện chứng về
những giá trị nhân văn, theo đó xã hội có trách nhiệm làm thỏa mãn nhu cầu
đa dạng của con người, thông qua những hành động tập thể có ý thức nhằm tổ
chức xã hội hướng vào mục tiêu: sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Với tư cách là một phạm trù đạo đức, quyền con người được xem như một
giá trị xã hội cơ bản vốn có của con người, làm cơ sở cho những quy phạm xã
hội. Hạt nhân của quan niệm nhân quyền là tinh thần nhân đạo và sự tôn trọng

Trang 8


nhân phẩm của con người, đồng thời xem đó là giá trị vốn có và bình đẳng đối
với tất cả mọi người.
Sự tôn trọng phẩm giá của con người, được quan niệm rằng ở mỗi người
đều có quyền được bảo đảm những điều kiện vật chất tối thiểu để sống như
một con người, cùng với tự do như là những cái vốn có của mỗi người ngay từ
khi sinh ra cho đến khi qua đời. Quan niệm này là di sản chung của tất cả các
dân tộc, không phân biệt sự khác biệt về chế độ chính trị và văn hóa.
Ngày nay, những giá trị xã hội vốn có của quyền con người đang đứng
trước những thách thức mới, đó là sự tha hóa đối với con người trên nhiều
phương diện, trong đó có sự tha hóa về đạo đức, lối sống và nguy cơ làm xói
mòn, hủy hoại một cách không tự giác cơ sở tự nhiên của đạo đức, lối sống và
chính sự tồn tại của con người trong các nghiên cứu và ứng dụng khoa học,
cấy ghép các bộ phận cơ thể và nhân bản vô tính đối với con người.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền con ngƣời.
Hồ Chí Minh có cách tiếp cận quyền con người hoàn toàn khác, mới mẻ
và sâu sắc. Với cách tiếp cận đó thì quyền con người ở Việt Nam chỉ có thể
được giải quyết thông qua một cuộc cách mạng hiện thực, giải quyết hai mâu

thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam - mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ
phong kiến và mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân.
Trước hết, có thể nói rằng, Hồ Chí Minh là một trong số ít người Việt Nam
đầu tiên tiếp cận vấn đề quyền con người sớm nhất và rộng nhất. Đồng thời,
trong bối cảnh mới của thời đại, vấn đề quyền con người chỉ có thể được giải
quyết triệt để trong tiến trình gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Từ
đó, tạo nên một chất lượng mới, một nấc thang mới trong sự phát triển quyền
con người.
Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về nhân quyền có những đặc điểm như
sau:
- Truyền thống chính trị “lấy dân làm gốc” là nét độc đáo trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhân quyền. Người cũng kế thừa tư tưởng triết học phương
Đông “đề cao nhân dân”, rằng “ Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.
Nhưng ở đây khái niệm nhân dân trong quan niệm của Mạnh Tử là hạng “địa
chủ thứ dân”. Còn nhân dân trong quan niệm Hồ Chí Minh là “những người

Trang 9


lao khổ”, là nhân dân lao động - những người sáng tạo ra của cải vật chất cho
xã hội. Người viết “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân” [8, tr.276].
Ở đây, nhân dân có vị thế rất lớn, chỉ có thể sánh với trời, đất. Nhân dân được
coi là một trong ba ngôi lớn: Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhân hoàng.
Nhưng điều quan trọng hơn là, Người trực tiếp kế thừa và phát triển truyền
thống chính trị “lấy dân làm gốc” của dân tộc, truyền thống nhân ái, khoan
dung. Do điều kiện cụ thể của Việt Nam, truyền thống đó được hình thành và
phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, từ “Hội nghị Diên Hồng”
đến “chở thuyền lật thuyền cũng là dân”, dần dần trở thành một nền tảng
truyền thống vững chắc, “nước lấy dân làm gốc”. Đó là tư tưởng xuyên suốt
trong cuộc đời hoạt động của Người, mà về sau có khi được diễn đạt bằng

những câu ca đơn giản, dễ hiểu:
“Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
[9, tr.212]
- Cách tiếp cận tổng thể, toàn diện vấn đề quyền con người là đặc điểm
quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề nhân quyền ở đây không chỉ
đòi quyền tự do cho cá nhân như thường diễn ra ở nhiều nước phương Tây, mà
là đòi quyền cho cả dân tộc, Người đặt vấn đề đòi quyền cho cả dân tộc, quyền
tự quyết dân tộc, bình đẳng dân tộc. Điều đó thể hiện rõ trong Tuyên ngôn độc
lập năm 1945 khi Người trích Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 rằng: “Tất cả
mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và
mưu cầu hạnh phúc”. Rõ ràng, ở đây quyền con người không chỉ là quyền cá
nhân, cũng không chỉ là vấn đề diễn ra ở tòa án, trại giam. Trong tư tưởng của
Người, một mặt, nhân quyền là những nhu cầu thiết thực như ăn, mặc, ở, học
tập… mặt khác, là đòi quyền cho số đông dân cư, cho cả dân tộc, là quyền
bình đẳng và tự quyết cho mỗi dân tộc. Và chúng ta thấy yếu tố dân tộc, quyền
dân tộc rất đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người.
- Tiếp cận của Hồ Chí Minh về nhân quyền không chỉ kế thừa được
những giá trị nhân quyền phổ biến trong lịch sử nhân loại, mà còn mang tính
sáng tạo độc đáo [6, tr.333].

Trang 10


Hồ Chí Minh nhấn mạnh quyền làm người “chưa bao giờ, ở một thời đại
nào, ở một nước nào, người ta lại vi phạm quyền làm người một cách độc ác,
trơ tráo đến thế” [7, tr.489]. Với cách tiếp cận nói trên về vấn đề nhân quyền,
nội dung quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh được phát triển phong
phú cả về bề rộng lẫn chiều sâu, tạo ra hệ thống quyền con người theo quan

điểm khoa học và cách mạng, đó là các quyền dân sự, chính trị, các quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa cũng như quyền của các nhóm đặc biệt như: quyền của
các dân tộc thiểu số, quyền phụ nữ, quyền trẻ em.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập đến nhân quyền với nội dung rộng lớn
theo quan điểm khoa học và cách mạng. Tư tưởng nhân quyền ấy được Người
quán triệt trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; nhất là trên lĩnh vực xây
dựng nhà nước và pháp luật kiểu mới. Điều đó hoàn toàn khẳng định Hồ Chí
Minh là người đã đặt nền móng cho sự phát triển dân chủ và nhân quyền ở
Việt Nam.
1.2. Quan điểm về giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam.
1.2.1. Quan điểm về giáo dục quyền con ngƣời.
1.2.1.1. Quan điểm chung về giáo dục quyền con ngƣời
Ở Việt Nam, quyền con người gắn với quyền dân tộc và chủ quyền quốc
gia. Muốn hiện thực hóa được các quyền con người phải có các tiền đề, điều
kiện nhất định. Điều kiện trước hết là đất nước phải được độc lập, chủ quyền
quốc gia phải được tôn trọng. Thực tiễn lịch sử Việt Nam và nhiều nước vừa
trải qua đấu tranh giành độc lập đã chứng minh, đất nước bị nô lệ thì người
dân không thể có tự do, các quyền con người bị chà đạp nghiêm trọng. Vì vậy,
các dân tộc bị áp bức đã không ngại hy sinh, mất mát để giành và giữ nền độc
lập. Và quyền dân tộc tự quyết đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của
nhân quyền. Nói cách khác, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện
tiên quyết để bảo đảm cho việc giáo dục quyền con người. Không có độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia thì không thể nói đến các quyền con người.
Trong xã hội ta, quyền con người của tất cả mọi người đều được tôn trọng
và bảo đảm, không phân biệt giai cấp, tầng lớp nào, quá khứ của họ ra sao.
Bảo đảm quyền con người ở Việt Nam nằm trong mục tiêu xây dựng xã hội
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Trang 11



Như chúng ta đã biết, Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa
học và cách mạng, được tổng kết, đúc rút từ sự phân tích toàn bộ lịch sử nhân
loại và thực tiễn xã hội thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản, kế thừa một cách
có hệ thống những giá trị tư tưởng và thành tựu khoa học quan trọng nhất của
loài người. Nó cung cấp cho chúng ta một thế giới quan khoa học và cách
mạng, những quy luật phổ biến về sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy con người. Đặc biệt, về mặt xã hội, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã
chỉ ra quy luật vận động của lịch sử nhân loại và con đường tất yếu tới chủ
nghĩa cộng sản - một hình thái phát triển cao của xã hội loài người, trong đó
con người được tự do, hạnh phúc, có đủ các điều kiện để phát triển và hoàn
thiện một cách toàn diện.
Cùng với sự vận động nhanh chóng của thực tiễn thế kỷ XX, Chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng có những trải nghiệm thực tế và sự phát triển phong phú,
sinh động. Đó là sự không ngừng đổi mới về nhận thức thế giới trên cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng và những thành tựu khoa học mới để
nâng cao năng lực tư duy, năng lực cải tạo thế giới của con người; là sự phát
triển nhận thức về thời đại và con đường, phương pháp, mục tiêu cánh mạng
thích ứng với những đặc điểm, điều kiện của thời đại; đó là quá trình không
ngừng tổng kết những bài học kinh nghiệm trong thực tiễn để đổi mới về mô
hình phát triển xã hội, về chiến lược phát triển và duy trì các quan hệ quốc tế
tích cực, có lợi cho mục tiêu phát triển của chủ nghĩa xã hội; là sự phát triển
và vận dụng những nguyên lý chung của Chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết
những nhiệm vụ cách mạng trong những điều kiện lịch sử, thực tiễn vô cùng
phong phú của các quốc gia, dân tộc trên khắp thế giới, v.v.. Đúng như C.Mác
và Ph.Ăngghen đã từng tuyên bố: Học thuyết của các ông không phải là học
thuyết nhất thành bất biến mà là học thuyết về sự phát triển, học thuyết của sự
phát triển. Do đó, Chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ lỗi thời mà là một học
thuyết khoa học có sức sống mãnh liệt.
Bảo đảm quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc về trách nhiệm của

mỗi quốc gia. Trách nhiệm pháp lý này đã được Liên Hợp Quốc quy định
trong các văn kiện nhân quyền quốc tế. Mặt khác, chính Hiến chương Liên
Hợp Quốc cũng nhấn mạnh "Không quốc gia nào, kể cả Liên Hợp Quốc, có
quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia".

Trang 12


Từ khi thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Liên
Hợp Quốc đã kêu gọi các quốc gia thành viên và tất cả các thành phần trong
xã hội phổ biến nội dung giáo dục của văn kiện này. Nhiều quốc gia đã nỗ lực
đưa giáo dục quyền con người vào hệ thống giáo dục nhà trường thông qua
các chương trình giáo dục công dân, giáo dục pháp luật. Ở cấp độ quốc tế,
Liên Hợp Quốc coi giáo dục quyền con người là một biện pháp cốt yếu và một
chiến lược hiệu quả để ngăn chặn các hành vi vi phạm quyền con người cũng
như để xây dựng các xã hội bình đẳng, tự do và hòa bình. Năm 1994, nhằm
hưởng ứng lời kêu gọi của Hội nghị quốc tế về quyền con người tại Áo, Đại
hội đồng Liên hợp Quốc đã thông qua nghị quyết số 49/184 ngày 23/12/1994,
quy định lấy giai đoạn 1995 đến 2004 là Thập kỷ giáo dục quyền con người
của Liên Hợp Quốc. Trong giai đoạn từ 1994 đến 2003, Đại hội đồng Liên
hợp Quốc thông qua một loạt nghị quyết khác đề cập đến những vấn đề cụ thể
trong việc triển khai thực hiện Thập kỷ Giáo dục quyền con người. Kết thúc
thập kỷ này, cuối năm 2004, Liên Hợp Quốc tiếp tục đưa ra sáng kiến Chương
trình toàn cầu về Giáo dục quyền con người, trong đó các kế hoạch hành động
thuộc chương trình sẽ được thông qua ba năm một lần. Kế hoạch hành động
giai đoạn đầu (2005-2007) của Chương trình thế giới về giáo dục quyền con
người tập trung vào các hệ thống trường tiểu học và trung học cơ sở. Cả Thập
kỷ Giáo dục quyền con người và Chương trình toàn cầu về Giáo dục quyền
con người đều nhấn mạnh vai trò của hệ thống giáo dục chính thức cũng như
các hoạt động giáo dục tại cộng đồng trong việc đào tạo, thông tin và tuyên

truyền giáo dục về quyền con người.
Theo Kế hoạch hành động của Thập kỷ Liên hợp Quốc về giáo dục quyền
con người (1995-2004), giáo dục quyền con người được hiểu là “các nỗ lực về
đào tạo, phổ biến, và thông tin nhằm tạo lập nền văn hóa toàn cầu về quyền
con người thông qua truyền đạt kiến thức, các kỹ năng, hình thành các thái độ
và hướng tới:
- Tăng cường tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản;
- Phát triển đầy đủ nhân cách con người và ý thức về nhân phẩm;
- Tăng cường hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giới và tình hữu nghị giữa
các dân tộc, người bản địa và các nhóm chủng tộc, quốc gia, đạo đức, tôn giáo
và ngôn ngữ;

Trang 13


- Khả năng hoạt động một cách có hiệu quả của tất cả mọi người trong
một xã hội tự do;
- Đẩy mạnh các hoạt động của Liên Hợp Quốc để giữ gìn hòa bình;
Có thể thấy giáo dục quyền con người là quá trình hướng tới mục đích phát
triển kĩ năng, tri thức về quyền con người, giúp người học hiểu biết và tôn
trọng phẩm giá của người khác, đồng thời để họ có thể sử dụng các phương
tiện, phương pháp để đảm bảo sự tôn trọng đó được thực hiện trong toàn xã
hội.
Tại các quốc gia khác nhau, vấn đề giáo dục quyền con người tồn tại trong
hệ thống giáo dục quốc dân theo quy mô, hình thức và cấp độ khác nhau.
Hưởng ứng Kế hoạch hành động Thập kỷ giáo dục quyền con người của Liên
Hợp Quốc và Chương trình thế giới về giáo dục quyền con người, nhiều quốc
gia trên thế giới đã có những nỗ lực nhất định nhằm đưa giáo dục quyền con
người vào hệ thống giáo dục chính thức, thể hiện qua các chính sách và kế
hoạch hành động quốc gia về giáo dục quyền con người. Đây là nền tảng pháp

lý giúp triển khai các hoạt động giáo dục quyền con người trong lĩnh vực giáo
dục.
Những trở ngại chính trong giáo dục quyền con người ở nhiều quốc gia
hiện nay liên quan đến chính sách giáo dục của nhà nước, ngân sách dành cho
giáo dục, đặc điểm của hệ thống giáo dục quốc dân. Tại một số quốc gia trong
đó có Việt Nam, đó còn là sự thiếu hụt và trình độ hạn chế của giáo viên,
phương pháp giảng dạy lạc hậu, thiếu các công cụ và tài liệu hỗ trợ,… Để
khắc phục được những hạn chế này, về chính sách, các quốc gia cần phải cụ
thể hóa những cơ chế đưa giáo dục quyền con người vào giảng dạy trong nhà
trường, hỗ trợ các trường học và giáo viên trong công tác giảng dạy quyền con
người thông qua các chương trình, dự án. Sự hợp tác chặt chẽ, thường xuyên
giữa các cơ quan chính phủ, các viện nghiên cứu quốc gia về quyền con người,
các tổ chức phi chính phủ và các đơn vị trường học sẽ tạo điều kiện để phát
triển hoạt động giáo dục quyền con người trong và ngoài nhà trường.

Trang 14


1.2.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về
giáo dục quyền con ngƣời
Sự phát triển quyền con người ở mỗi nước đều phụ thuộc vào điều kiện
phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là phụ thuộc vào quyền độc lập tự
chủ của dân tộc. Người cho rằng: “Đối với chúng ta, khi nói đến quyền con
người, trước hết phải nói đến quyền của dân tộc được sống trong độc lập tự
do, quyền của nhân dân lao động chống áp bức bóc lột; kế đến là quyền khác
của công dân về kinh tế, văn hóa, xã hội” [ 11, tr.42].
Ở Việt Nam, tư tưởng về một nền lập hiến vì con người đã được bắt đầu từ
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1926, Người đã khẳng định rằng, nếu
được độc lập, Việt Nam sẽ xếp đặt một Hiến pháp về phương diện chính trị và
lý tưởng dân quyền, chú trọng bảo hộ quyền lợi của dân chúng.

Ngay từ năm 1919 Hồ Chí Minh bắt đầu đấu tranh đòi tự do dân chủ cơ
bản cho con người. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì xây dựng Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người chỉ rõ: “Trước
chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần
chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng
quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có Hiến pháp dân chủ”.
Sinh thời, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đền quyền con người và việc
đảm bảo thực thi quyền con người trên thực tế. Vì vậy ngay trong phiên hợp
đầu tiên Người đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách cần phải giải quyết, trong
đó có nhiệm vụ là chống giặc đói, giặt dốt và giặc ngoại xâm…
Từ các quan điểm cơ bản nói trên, trong quá trình đổi mới Đảng đã đề ra
một số chủ trương, chính sách, công tác, nhiệm vụ để bảo đảm việc giáo dục
quyền con người trong điều kiện mới.
Trước hết là công tác tuyên truyền giáo dục trong nhân dân, tùy từng đối
tượng cụ thể mà có nội dung, phương thức phù hợp để mọi người hiểu rõ quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người, cũng
như quyền và nghĩa vụ công dân, để họ nhận rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta
là vì con người, vạch trần những luận điệu bịp bợm và thủ đoạn xấu xa của các
thế lực thù địch trên lĩnh vực này. Khắc phục tình trạng bị động trong hoạt
động tuyên truyền đối ngoại.

Trang 15


Bên cạnh đó hệ thống pháp luật đã từng bước thể chế hóa các nội dung về
quyền con người phù hợp với điều kiện của nước ta, với các tiêu chuẩn về
quyền con người đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Điều quan
trọng nhất là Đảng lãnh đạo toàn dân tiếp tục thúc đẩy công cuộc đổi mới kinh
tế - xã hội và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhiều quyết định, chính sách
lớn của Đảng, Chính phủ về kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã

hội đều nhằm mục tiêu vì con người.
Đảng và Nhà nước đặc biệt chăm lo kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp
luật trong sạch, vững mạnh, bảo vệ có hiệu quả các quyền công dân, quyền
con người. Nghiêm khắc kiểm điểm, uốn nắn, khắc phục những khuyết điểm
vi phạm quyền dân chủ của các cơ quan công quyền và của cán bộ, công chức.
Trong bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2011 đã bổ sung thêm
một số quyền quan trọng như: Quyền được sống và nghiêm cấm cưỡng bức
lao động, quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn
ngôn ngữ giao tiếp của công dân.
Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con
người tại Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Đảng
ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam
toàn diện với mục tiêu “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Đó cũng chính là động
lực, là mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta đang
từng bước tiến hành. Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển nền
kinh tế đất nước theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì chất
lượng người lao động là nhân tố quyết định. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng
lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Sau 25 năm đổi mới, trong bối cảnh lịch sử mới, về việc bảo đảm và bảo
vệ quyền con người, Đại hội đại biểu lần thứ XI (năm 2011) của Đảng đã
khẳng định: Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn
quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ
của nhân dân; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và

Trang 16



từng chính sách; xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp,
trên tất cả các lĩnh vực; dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được
thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm...
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, để bảo đảm cho việc giáo dục
quyền con người trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
chúng ta cần tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục sát hợp với
từng tầng lớp nhân dân, nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, lực
lượng vũ trang và nhân dân về công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong
tình hình mới. Phải nắm vững quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước tự hào về những thành tựu to lớn về nhân quyền của Việt Nam đã
đạt được trong nhiều năm qua; đồng thời phải nâng cao cảnh giác với những
âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân
quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Dành mối quan tâm
thường xuyên trong giáo dục đối với tầng lớp thanh niên, sinh viên, học sinh,
đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số về nhân quyền và tạo điều kiện
để đẩy mạnh việc giáo dục quyền con người ở Việt Nam.
1.2.2. Vai trò của giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam
Nhà nước Việt Nam luôn coi con người là mục tiêu và động lực của
mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm
bảo và thúc đẩy các quyền con người. Hiến pháp năm 1992, văn bản có hiệu
lực pháp lý cao nhất, đảm bảo mọi công dân có quyền bình đẳng về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, bình đẳng trước pháp luật; quyền tham gia quản lý
công việc của Nhà nước và xã hội; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự
do đi lại và cư trú trên đất nước Việt Nam; quyền khiếu nại và tố cáo; quyền
lao động, học tập, chăm sóc sức khỏe... không phân biệt giới tính, sắc tộc, tôn
giáo. Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa các
quyền này, phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về nhân quyền.
Thực tiễn cho thấy, quyền con người ở Việt Nam luôn gắn với độc lập,

hòa bình, dân chủ và phát triển. Việc đấu tranh và duy trì một môi trường hòa
bình, ổn định là một thành tựu to lớn và cũng là nền tảng vững chắc cho việc
bảo vệ và thực hiện việc giáo dục quyền con người ở Việt Nam, thể hiện trên
một số nội dung sau:

Trang 17


- Củng cố niềm tin của nhân dân vào con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa
chọn cho dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
đáp ứng mong muốn của Hồ Chí Minh là làm cho dân có ăn, có mặc, dân được
học hành, có cuộc sống tốt đẹp tự do ấm no, hạnh phúc.
- Tin tưởng vào chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và vào
chế độ, mọi người phải chấp hành quyết định chính sách, pháp luật của Đảng
vả Nhà nước đã nêu ra.
- Sẵn sàng đóng góp xây dựng Đảng, Nhà nước trong hệ thống pháp luật
và đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề
nhân quyền để xuyên tạc, bôi nhọ, nói xấu Đảng, Nhà nước và thực hiện "diễn
biến hòa bình" để chuyển hóa, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Bác bỏ nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin sai lệch về tình
hình thực thi quyền con người ở Việt Nam..
- Nhà nước ta luôn quan tâm và thực hiện các biện pháp bảo đảm quyền
của phụ nữ, xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; bảo đảm quyền
học tập, vui chơi và phát triển của trẻ em; quyền của người tàn tật và nạn nhân
chất độc màu da cam; quyền của người cao tuổi.v.v...
1.2.3. Sự cần thiết phải giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam.
Với mong muốn phấn đấu cùng cộng đồng quốc tế thúc đẩy việc bảo vệ
quyền con người, Việt Nam đã chính thức ứng cử vào Hội đồng nhân quyền
Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016.
Việc ứng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc không chỉ thể hiện

quyết tâm và trách nhiệm của Việt Nam cùng với các nước thực hiện quyền
con người, mà còn thể hiện mong muốn chia sẻ kinh nghiệm của Việt Nam
trong việc bảo đảm quyền con người.
Trên thực tế, những nỗ lực và thành tựu mà Việt Nam đạt được trong việc
bảo đảm và phát huy quyền con người trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội,… đã được cộng đồng quốc tế công nhận và đánh giá cao.
Ở Việt Nam, các quyền con người được quy định một cách rõ ràng, cụ thể
trong Hiến pháp và pháp luật; việc đảm bảo quyền con người là chính sách
nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 chỉ rõ mọi

Trang 18


công dân có quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bình đẳng
trước pháp luật. Cam kết về bảo đảm quyền con người ở Việt Nam còn được
khẳng định trong Cương lĩnh Đại hội Đảng lần thứ XI: “Tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của
đất nước và quyền làm chủ của nhân dân."
Việt Nam đã và đang thực hiện cam kết thúc đẩy quyền con người thông
qua thực hiện các chính sách lấy con người làm trọng tâm, vì người nghèo và
đầu tư vào các lĩnh vực có lợi nhất cho người dân. Các chính sách này đã
mang lại tiến bộ đáng kể trong việc giảm tỷ lệ nghèo đói, phát triển giáo dục,
chăm sóc y tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống và phúc lợi cho nhân dân.
Trong hoàn cảnh khó khăn do tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế và tài
chính toàn cầu, Việt Nam đã nỗ lực duy trì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm
khoảng 6%, tạo cơ sở vững chắc để thực hiện các quyền cơ bản của người dân.
Chính phủ Việt Nam ưu tiên cao cho cải cách luật pháp, hành chính và tư
pháp nhằm đảm bảo tăng cường hơn nữa quyền của người dân cả trong luật
pháp và thực tiễn, bao gồm quyền giám sát việc thực hiện pháp luật, tiếp cận
thông tin. Vì thế, phát triển kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội và xây dựng

nhà nước pháp quyền là ba trụ cột trong chiến lược phát triển của Việt Nam.
Trong những năm qua, Quốc hội Việt Nam cùng với các cơ quan hữu quan
đã từng bước soạn thảo, xây dựng, chỉnh lý, hoàn thiện, ban hành các văn bản
pháp luật làm cơ sở để bảo đảm quyền con người như Luật Khiếu nại, tố cáo;
Luật Tố tụng dân sự sửa đổi; Luật Giáo dục đại học...
Hệ thống an sinh xã hội ngày càng được hoàn thiện và góp phần quan trọng
vào việc ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, trở thành chỗ dựa vững chắc cho
người nghèo và đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội. Những thành tựu về
xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã thực sự gây ấn tượng với nhiều nước
trên thế giới. Chỉ trong năm năm qua, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%, mức
hưởng thụ các dịch vụ y tế của nhân dân không ngừng tăng, đặc biệt với trẻ
em, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số; chỉ số phát triển con người
cũng liên tục tăng. Ngay từ năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa
nạn mù chữ và phổ cập tiểu học.

Trang 19


Ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục và đào tạo đã tăng đáng kể.
Tháng Chín vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục
tiêu quốc gia về giáo dục đào tạo giai đoạn 2012 - 2015, với tổng kinh phí
thực hiện là 15.200 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách công bằng trong tiếp
cận giáo dục, đặc biệt đối với trẻ dân tộc thiểu số, trẻ ở vùng khó khăn. Bên
cạnh đó, Việt Nam là một trong sáu quốc gia đầu tiên trên thế giới tham gia
Công ước về xóa bỏ mọi hình th ức phân biệt đối xử với phụ nữ và được công
nhận là quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua ở
khu vực Đông Nam Á.
Việt Nam ủng hộ tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con
người trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn

nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, vì mục tiêu chung là
thúc đẩy và bảo vệ ngày càng tốt hơn các quyền con người.
Từ những thành tựu đạt được trong những nỗ lực nhằm đảm bảo quyền con
người ở trong nước, cùng với mong muốn chung tay cùng cộng đồng quốc tế
thúc đẩy quyền con người, hoàn toàn có cơ sở để tin rằng Việt Nam có đủ khả
năng đóng góp tốt hơn vào công việc của Hội đồng nhân quyền Liên hợp
quốc, vì một thế giới hòa bình, thịnh vượng và công bằng.
Mặc dù quyền con người không phải là một phạm trù dễ hiểu, nhưng việc
giáo dục quyền con người với mức độ nhất định và bằng các phương pháp phù
hợp trong các nhà trường phổ thông là cần thiết và có thể thực hiện được.
Thực tế trên thế giới đã chứng minh tính hữu ích và hiệu quả của việc hình
thành nhận thức và thái độ tôn trọng quyền con người của các cá nhân ngay từ
khi còn trẻ thông qua việc triển khai giáo dục quyền con người cho học sinh
phổ thông.
Xuất phát từ thực tế kể trên, nhiều quốc gia trên thế giới đã có chương trình
giáo dục về quyền con người dành cho cho trẻ em từ lứa tuổi rất nhỏ. Về vấn
đề này, như đã đề cập, xét ở góc độ nhất định thì việc giáo dục quyền con
người cũng đã được thực hiện từ lâu trong các nhà trường phổ thông ở Việt
Nam. Trong đó đa phần là được lồng ghép vào các môn học khác như giáo dục
công dân... Giáo dục quyền con người chưa được coi là một bộ môn riêng.

Trang 20


×