Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Bài giảng tài chính doanh nghiệp bài 8 tổ hợp GD TOPICA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.44 MB, 46 trang )

Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

BÀI 8: NGUỒN TÀI TRỢ CỦA DOANH NGHIỆP

Mục tiêu

Hướng dẫn học



Cung cấp những kiến thức cơ bản tạo ra
tầm nhìn trong việc xem xét sử dụng các
nguồn tài trợ của doanh nghiệp.



Để học tốt bài này, học viên cần tập có tầm
nhìn tổng thể về nguồn vốn của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường.



Trang bị những kiến thức chủ yếu về nội
dung, đặc điểm, những điểm lợi và bất
lợi của các nguồn tài trợ đối với doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.



Nắm vững khái niệm, nội dung, đặc điểm, những
điểm lơi và bất lợi của từng công cụ tài chính


trong việc huy động vốn của doanh nghiệp.



Trong quá trình học cần đưa ra các trường hợp
giả định đồng thời liên hệ với thực tế, xem xét
tác động của của việc sử dụng các nguồn tài trợ
đến khả năng sinh lời và rủi ro của doanh nghiệp.



Kết hợp nghiên cứu lý thuyết và vận dụng vào
giải các bài tập, từ đó quay trở lại củng cố
nhận thức về lý thuyết.



Kết hợp đọc các tài liệu tham khảo:

Nội dung


Tổng quan về nguồn tài trợ của doanh
nghiệp.



Mô hình nguồn tài trợ của doanh nghiệp.




Nguồn tài trợ ngắn hạn của doanh nghiệp.



Những điểm lợi và bất lợi sử dụng
nguồn tài trợ ngắn hạn.



Nguồn tài trợ dài hạn của doanh nghiệp.

Thời lượng học


v1.0

8 tiết

o

o

Chương 7, chương 8 – Giáo trình Tài
chính doanh nghiệp – Học viện Tài chính.
Chủ biên PGS. TS Nguyễn Đình Kiêm &
TS Bạch Đức Hiển, NXB Tài chính, năm
2008.
Chượng 19, chương 20, chương 22, chương
25 – Tài chính doanh nghiệp hiện đại. Chủ

biên TS Trần Ngọc Thơ. NXB Thống kê,
năm 2007.

167


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

TÌNH HUỐNG DẪN NHẬP

Công cụ tài chính
Một trong những nội dung chủ yếu và chức năng
riêng có của tài chính doanh nghiệp là huy động vốn
để tài trợ cho các hoạt động kinh doanh hiện tại và
cho sự tăng trưởng trong tương lai. Sự phát triển của
thị trường tài chính đã tạo ra những công cụ tài chính
ngày càng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, mỗi một
công cụ tài chính bao giờ cũng ẩn chứa hai mặt: Mặt
lợi và mặt bất lợi. Vì thế; cái hay, cái tinh tế của nhà
quản trị tài chính giỏi chính là biết lựa chọn hay tạo ra
những công cụ tài chính mà luật pháp cho phép để
huy động vốn phù hợp với tình thế và có lợi cho doanh nghiệp, đồng thời việc huy động vốn
ngày hôm nay không làm cạn kiệt nguồn tài trợ trong tương lai của doanh nghiệp. Nội dung
chủ yếu của bài này sẽ giúp cho bạn trả lời các câu hỏi:
Câu hỏi
1. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có những công cụ hay những nguồn tài trợ chủ
yếu nào?
2. Mỗi công cụ hay mỗi nguồn tài trợ có những điểm lợi và bất lợi gì khi sử dụng nó?
Trên cơ sở xem xét những vấn đề đó có thể giúp cho bạn suy ngẫm cách sử dụng tốt hơn công
cụ tài chính cho việc huy động vốn của doanh nghiệp.


168

v1.0


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

8.1.

Tổng quan về nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một yếu tố và là
tiền đề cần thiết cho việc hình thành và phát triển hoạt
động kinh doanh của một doanh nghiệp. Để biến những
ý tưởng và kế hoạch kinh doanh thành hiện thực, đòi
hỏi phải có một lượng vốn nhất định nhằm hình thành
nên những tài sản cần thiết cho hoạt động của doanh
nghiệp nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Do vậy, đòi hỏi
doanh nghiệp phải tổ chức tốt nguồn vốn đáp ứng đầy
đủ, kịp thời nhu cầu vốn và với chi phí sử dụng vốn ở
mưc thấp. Dưới đây sẽ xem xét tổng quan nguồn vốn
của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Dựa vào tiêu thức nhất định có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành nhiều loại
khác nhau. Thông thường trong công tác quản lý thường xem xét nguồn vốn của
doanh nghiệp:
8.1.1.

Nợ và vốn chủ sở hữu


Dựa vào quan hệ sở hữu vốn có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành hai loại:
Vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Nợ

Tài sản

Vốn chủ sở hữu

• Vốn chủ sở hữu: là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, bao gồm
số vốn chủ sở hữu trực tiếp đầu tư và phần bổ sung từ kết quả kinh doanh. Vốn chủ
sở hữu tại một thời điểm có thể được xác định bằng công thức sau:
Vốn chủ sở hữu = Giá trị tổng tài sản – Nợ phải trả

• Nợ phải trả: là thể hiện bằng tiền những nghĩa vụ mà doanh nghiệp có nghĩa vụ
phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế khác như: Nợ vay, các khoản phải trả cho
nhà cung cấp, các khoản phải nộp thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, các khoản phải
trả cho người lao động trong doanh nghiệp...
Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao, thông thường một doanh
nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn: Vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Sự kết hợp giữa
hai nguồn này phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp hoạt động, tuỳ
thuộc vào quyết định của người quản lý trên cơ sở xem xét tình hình kinh doanh và tài
chính của doanh nghiệp.
8.1.2.

Nguồn vốn tạm thời và nguồn vốn thường xuyên

Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng nguồn vốn tiêu thức này có thể chia nguồn
vốn của doanh nghiệp ra làm hai loại: Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
Tài sản


Nợ ngắn hạn...

lưu động

v1.0

Nguồn vốn tạm thời

Tài sản

Nợ dài hạn

cố định

Vốn chủ sở hữu

Nguồn vốn thường xuyên

169


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

• Nguồn vốn thường xuyên: là tổng thể các nguồn vốn có tính chất ổn định mà
doanh nghiệp có thể sử dụng vào hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn này thường
được sử dụng để mua sắm, hình thành tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu
động thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguồn vốn thường xuyên của doanh nghiệp tại một thời điểm có thể được xác định
bằng công thức:
Nguồn vốn thường xuyên của doanh nghiệp = Vốn chủ sở hữu + Nợ dài hạn


Hoặc:
Nguồn vốn thường xuyên của doanh nghiệp = Giá trị tổng tài sản của doanh nghiệp – Nợ ngắn hạn.

Trên cơ sở xác định nguồn vốn thường xuyên của doanh nghiệp còn có thể xác
định nguồn vốn lưu động thường xuyên (hay còn được gọi là vốn lưu động ròng)
của doanh nghiệp.
Nguồn vốn lưu động thường xuyên là nguồn vốn ổn định có tính chất dài hạn để
hình thành hay tài trợ cho tài sản lưu động thường xuyên cần thiết trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp (có thể là một phần hay toàn bộ tài sản lưu động
thường xuyên tuỳ thuộc vào chiến lược tài chính của doanh nghiệp).
Nguồn vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp tại một thời điểm có thể xác
định theo công thức sau:
Nguồn vốn lưu động
thường xuyên

=

Tổng nguồn vốn thường xuyên
của doanh nghiệp



Giá trị tài sản dài
hạn

Hoặc có thể xác định bằng công thức sau:
Nguồn vốn lưu động thường xuyên = Tài sản lưu động – Nợ ngắn hạn

Có thể xem xét nguồn vốn thường xuyên qua sơ đồ sau:

Tài sản ngắn hạn

Nợ ngắn hạn
Nguồn vốn lưu động
thường xuyên

Nợ trung và dài hạn

Nguồn vốn
thường xuyên của
doanh nghiệp

Tài sản dài hạn
Vốn chủ sở hữu

Ví dụ: Theo bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp H có số liệu sau:
Đơn vị: triệu đồng
Tài sản

Số cuối kỳ

Nguồn vốn

Số cuối kỳ

A. Tài sản ngắn hạn

1.480

A. Nợ phải trả


2.000

I. Tiền
II. Các khoản phải thu
III. Hàng tồn kho
B. Tài sản dài hạn

384
100
996
2.520

I. Nợ ngắn hạn
- Vay ngắn hạn
- Nợ phải trả người bán
II. Nợ dài hạn

1.000
800
200
1.000

I. Tài sản cố định
• Nguyên giá

2.520
2.800

B. Vốn chủ sở hữu

I. Vốn chủ sở hữu

2.000
2.000

• Giá trị hao mòn luỹ kế
II. Đầu tư tài chính dài hạn
Tổng cộng tài sản

(280)
4.000

II. Nguồn kinh phí và quỹ khác

4.000

Tổng cộng nguồn vốn

Trích bảng cân đối kế toán ngày 31/12 năm N của Doanh nghiệp H
170

v1.0


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Từ số liệu trên, có thể xác định:
Nguồn vốn lưu động thường xuyên
của doanh nghiệp ở cuối năm N


= 1.480 – 1.000 = 480 triệu đồng

Hoặc = (2.000 + 1.000) – 2.520 = 480 triệu
Nguồn vốn lưu động thường xuyên tạo ra một mức độ an toàn cho doanh nghiệp
trong kinh doanh, làm cho tình trạng tài chính của doanh nghiệp được đảm bảo
vững chắc hơn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp sử dụng nguồn vốn lưu động
thường xuyên để đảm bảo cho việc hình thành tài sản lưu động thì doanh nghiệp
phải trả chi phí cao hơn cho việc sử dụng vốn. Do vậy, đòi hỏi người quản lý
doanh nghiệp phải xem xét tình hình thực tế của doanh nghiệp để có quyết định
phù hợp trong việc tổ chức vốn.
• Nguồn vốn tạm thời: là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một năm) doanh
nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các yêu cầu về vốn có tính chất tạm thời phát sinh
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn thường bao gồm vay
ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác.
Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn phù
hợp với thời gian sử dụng của các yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh.
8.1.3.

Nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài

Căn cứ vào phạm vi huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp có thể chia thành
nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài. Việc phân loại này chủ yếu để xem xét
việc huy động nguồn vốn của một doanh nghiệp đang hoạt động.
8.1.3.1. Nguồn vốn bên trong

Nguồn vốn bên trong là nguồn vốn có thể huy động được vào đầu tư từ chính hoạt động
của bản thân doanh nghiệp tạo ra. Nguồn vốn bên trong thể hiện khả năng tự tài trợ của
doanh nghiệp.
• Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp bao gồm:
o Lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư.

o Khoản khấu hao tài sản cố định.
o Các khoản nợ phải trả có tính chu kỳ.
o Tiền nhượng bán tài sản, vật tư không cần
dùng hoặc thanh lý TSCĐ.
• Doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn bên trong
có những điểm lợi và bất lợi chủ yếu sau:
o Những điểm lợi:
ƒ Chủ động đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp, nắm bắt kịp thời các thời
cơ trong kinh doanh.
Sử dụng lợi nhuận sau thuế cùng với nguồn khấu hao được hình thành trên
cơ sở trích khấu hao tài sản cố định, cho phép các doanh nghiệp chủ động
hơn trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư, các cơ hội đầu tư
tăng trưởng. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp còn là nguồn tài trợ chủ
yếu cho các dự án đầu tư mạo hiểm, các dự án có mức độ rủi ro cao như:
phát triển sản phẩm mới, tìm kiếm thị trường mới…
v1.0

171


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Tiết kiệm được chi phí sử dụng vốn
Việc sử dụng các nguồn vốn bên trong cho phép các doanh nghiệp vừa tiết
kiệm thời gian huy động vốn, vừa tiết kiệm nhiều chi phí huy động vốn do
không phát sinh các chi phí quảng cáo, phí bảo lãnh phát hành chưng khoán...
ƒ Gữi được quyền kiểm soát doanh nghiệp
Nếu doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu tăng vốn đầu tư dài hạn bằng cách tăng
thêm các thành viên góp vốn mới, như phát hành thêm cổ phiếu, gọi vốn
liên doanh, hoặc tiếp nhận vốn góp của các thành viên mới thì cũng đồng

nghĩa với việc các chủ sở hữu hiện hừu của doanh nghiệp chấp nhận việc
chia sẻ quyền quản lý và kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp cho các
thành viên mới. Điều này sẽ không xảy ra nếu như doanh nghiệp tự tài trợ
đáp ứng nhu cầu đầu tư dài hạn bằng các nguồn vốn nội bộ.
ƒ Tránh được áp lực phải thanh toán đúng kỳ hạn
Việc sử dụng các nguồn vốn nội bộ để tài trợ nhu cầu đầu tư của doanh
nghiệp còn giúp doanh nghiệp có thể tránh được áp lực từ phía các chủ sở
hữu các nguồn vốn do phải thanh toán đúng kỳ hạn (cả gốc và lãi). Điều
này có ý nghĩa giảm bớt căng thẳng về tài chính khi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp gặp khó khăn.
Những điểm hạn chế:
Bên cạnh những ưu thế kể trên, việc sử dụng các nguồn vốn bên trong cũng
bộc lộ những hạn chế nhất định:
ƒ Hiệu quả sử dụng vốn thường không cao
Việc sử dụng nguồn vốn bên trong không phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo kỳ
hạn cố định, vì thế không tạo áp lực cho ban lãnh đạo doanh nghiệp trong việc
cân nhắc, tính toán hiệu quả sử dụng vốn cho đầu tư. Đây là nguyên nhân đáng
kể dẫn đến hiệu quả sử dụng các dự án tài trợ bằng các nguồn vốn bên trong
thường đạt hiệu quả không cao so với các dự án tài trợ bằng các nguồn vốn
huy động bên ngoài.
ƒ Quy mô nguồn vốn huy động bị giới hạn.
Nguồn vốn bên trong thường bị giới hạn ở một quy mô nhất định. Nguồn
vốn bên trong cho tăng trưởng của doanh nghiệp chủ yếu là phần lợi nhuận
sau thuế để lại tái đầu tư. Trong khi đó, lợi nhuận sau thuế để lại tái đầu tư
chịu sự chi phối trực tiếp của kết quả kinh doanh hàng năm và chính sách
phân chia, sử dụng lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Đối các doanh
nghiệp vừa và nhỏ số lợi nhuận sau thuế thường không lớn, vì thế nguồn
vốn bên trong doanh nghiệp thường rất hạn chế, không đủ đáp ứng nhu cầu
đầu tư dài hạn trong quá trình hoạt động của mình.
Nguồn vốn huy động bên trong có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát

triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thông thường nguồn vốn bên trong
không đủ đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư, nhất là đối với các doanh nghiệp
đang trong quá trình tăng trưởng. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải
tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài doanh nghiệp.
ƒ

o

8.1.3.2. Nguồn vốn bên ngoài

Việc huy động nguồn vốn từ bên ngoài doanh nghiệp để tăng thêm nguồn tài chính
cho hoạt động kinh doanh là vấn đề hết sức quan trọng đối với một doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhiều công cụ tài
chính và hình thức, phương pháp mới cho phép doanh nghiệp có nhiều cơ hội lựa
chonn huy động vốn từ bên ngoài.
172

v1.0


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Nguồn vốn từ bên ngoài bao hàm một số nguồn vốn chủ yếu sau:
• Vay người thân (đối với doanh nghiệp tư nhân);
• Vay Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác;
• Tín dụng thương mại của nhà cung cấp;
• Thuê tài sản;
• Huy động vốn bằng phát hành chứng khoán (đối với một số loại hình doanh
nghiệp được pháp luật cho phép).
8.2.


Mô hình về nguồn tài trợ

Để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến
lược tài trợ hay nói cách khác doanh nghiệp phải có chiến lược trong việc tổ chức huy
động nguồn vốn. Hiện nay, doanh nghiệp ở các nước có ba mô hình tài trợ chủ yếu. Mỗi
mô hình tài trợ có những ưu điểm và hạn chế khác nhau. Doanh nghiệp cần lựa chọn mô
hình tài trợ thích hợp cho doanh nghiệp mình.
8.2.1.

Mô hình tài trợ thứ nhất

• Tài sản lưu động thường xuyên và tài sản lưu động tạm thời
Để đảm bảo quá trình sản xuất – kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục thì
tương ứng với một quy mô kinh doanh nhất định, thường xuyên phải có một lượng
TSLĐ nhất định nằm trong các giai đoạn luân chuyển như các tài sản dự trữ về
nguyên vật liệu, sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm, thành phẩm và nợ phải thu
từ khách hàng. Những tài sản lưu động này gọi là tài sản lưu động thường xuyên.
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không phải lúc nào cũng được tiến
hành một cách bình thường, mà có những lúc xuất hiện những sự biến động làm
nảy sinh thêm nhu cầu về tài sản lưu động có tính chất tạm thời.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hình thành bộ phận TSLĐ có tính chất tạm thời,
các nguyên nhân chủ yếu là:
o Dự kiến giá cả vật tư, nguyên liệu trong tương lai tăng lên, do vậy doanh
nghiệp đẩy mạnh việc mua vào vật tư, làm dự trữ tăng đột biến; từ đó, cần có
nguồn vốn lưu động tạm thời để trang trải.
o Nhận được đơn đặt hàng ngoài kế hoạch, đòi hỏi phải tăng thêm hàng tồn kho...
• Nội dung mô hình tài trợ thứ nhất
Với mô hình này: toàn bộ TSCĐ, TSLĐ thường xuyên, một phần của TSLĐ tạm
thời được đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên và một phần TSLĐ tạm thời còn

lại được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.
Tiền
TSLĐ tạm thời
Nguồn vốn
tạm thời

TSLĐ thường xuyên

Nguồn vốn
Thường xuyên

TSCĐ
0
Thời gian

v1.0

173


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Sử dụng mô hình này làm cho tài chính của doanh nghiệp vững chắc hơn và giảm
thiểu đựoc rủi ro tài chính. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải sử dụng nhiều hơn khoản
vay dài hạn và trung hạn, vì thế phải trả chi phí cao hơn cho việc sử dụng vốn.
8.2.2.

Mô hình tài trợ thứ hai

Theo mô hình này: toàn bộ TSCĐ và TSLĐ thường xuyên được đảm bảo bằng nguồn

vốn thường xuyên, toàn bộ TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.
Tiền
TSLĐ tạm thời
Nguồn vốn
tạm thời

TSLĐ thường xuyên
TSCĐ
0

Nguồn vốn
thường xuyên

Thời gian

Với mô hình này giúp cho doanh nghiệp hạn chế được rủi ro trong thanh toán và giảm
bớt được chi phí sử dụng vốn so với mô hình thứ nhất. Tuy nhiên, mô hình này chưa
tạo ra sự linh hoạt trong việc tổ chức sử dụng nguồn vốn. Trong thực tế, doanh thu
tiêu thụ sản phẩm thường xuyên biến động, khi gặp khó khăn trong kinh doanh, doanh
nghiệp phải tạm thời giảm bớt quy mô kinh doanh, nhưng vẫn phải duy trì một lượng
vốn thường xuyên khá lớn.
8.2.3.

Mô hình tài trợ thứ ba

Theo mô hình này: toàn bộ TSCĐ và một phần TSLĐ thường xuyên được bảo đảm
bằng nguồn vốn thường xuyên, còn một phần TSLĐ thường xuyên và toàn bộ TSLĐ
tạm thời được bảo đảm bằng nguồn vốn tạm thời.
Tiền
TSLĐ tạm thời

Nguồn vốn
tạm thời

TSLĐ thường xuyên

Nguồn vốn
Thường xuyên

TSCĐ
0

Thời gian

Sử dụng mô hình này giúp cho doanh nghiệp giảm bớt được chi phí sử dụng do sử
dụng nhiều hơn nguồn vốn ngắn hạn. Mặt khác, tạo ra sự linh hoạt hơn trong việc tổ
chức nguồn vốn. Tuy nhiên, với mô hình này đỏi hỏi doanh nghiệp phải có sự năng
động hơn trong việc tổ chức nguồn vốn. Điểm hạn chế chủ yếu của mô hình này là
doanh nghiệp có khả năng gặp rủi ro cao hơn so với việc sử dụng 2 mô hình trên.
174

v1.0


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

8.3.

Nguồn tài trợ ngắn hạn của doanh nghiệp

8.3.1.


Nợ phải trả có tính chất chu kỳ

Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
thường xuyên phát sinh các khoản phải trả, phải nộp
nhưng đến kỳ hạn thanh toán như:
• Các khoản thuế, BHXH phải nộp nhưng chưa
đến kỳ nộp.
• Tiền lương hay tiền công phải trả cho người lao
động nhưng chưa đến kỳ trả...
Đây là những khoản nợ ngắn hạn phát sinh lặp đi
lặp lại có tính chất chu kỳ. Doanh nghiệp có thể sử
dụng tạm thời các khoản này để đáp ứng nhu cầu
vốn mà không phải trả tiền cho việc sử dụng vốn. Tuy nhiên, điều cần chú ý trong việc
sử dụng các khoản này là phải đảm bảo thanh toán đúng thời hạn, tránh tình trạng nợ
nần dây dưa.
8.3.2.

Tín dụng của nhà cung cấp

Trong nền kinh tế thị trường thường xuyên phát sinh việc mua chịu và bán chịu.
Doanh nghiệp có thể mua chịu nguyên vật liệu hoặc hàng hóa của nhà cung cấp vật tư,
hàng hoá. Khi đó, nhà cung cấp vật tư đã cấp một khoản tín dụng cho doanh nghiệp
hay nói cách khác là doanh nghiệp đã sử dụng một khoản tín dụng của nhà cung cấp
để đáp ứng một phần nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh.
Ví dụ: Một hợp đồng thương mại giữa nhà cung cấp vật tư với doanh nghiệp xác định
hình thức thanh toán “2/10 net 30”. Điều đó có nghĩa là nhà cung cấp sẽ chiết khấu
2% trên giá trị của hóa đơn mua hàng nếu người mua (doanh nghiệp) trả tiền trong
thời gian 10 ngày kể từ ngày giao hàng. Nếu quá thời hạn 10 ngày mà người mua chưa
thanh toán thì được chịu, thời gian được chịu tối đa là 30 ngày và phải thanh toán

100% giá trị trên hóa đơn mua hàng.
Nhìn hình thức bề ngoài, doanh nghiệp không phải trả tiền cho việc sử dụng khoản tín
dụng của nhà cung cấp. Tuy nhiên cần phải tính đến chi phi cơ hội của việc sử dụng
khoản tín dụng này.
Chi phí sử dụng tín dụng thương mại có thể được xác định theo công thức sau:
Chi phí sử dụng
tín dụng thương
mại

=

Tỷ lệ chiết khấu
thanh toán (%)
1 – tỷ lệ chiết khấu
thanh toán (%)

360
×

Số ngày mua chịu – Thời gian được
hưởng chiết khấu

⎛ 2% ⎞ ⎛ 360 ⎞
Với ví dụ trên, chi phí sử dụng tín dụng thương mại = ⎜
⎟×⎜
⎟ = 36, 7%
⎝ 1 − 2% ⎠ ⎝ 30 − 10 ⎠
Những điểm lợi của việc sử dụng tín dụng của nhà cung cấp:
• Là nguồn vốn ngắn hạn quan trọng giúp cho doanh nghiệp giải quyết được tình
trạng thiếu vốn mà chủ yếu là vốn lưu động.

• Việc thực hiện khoản tín dụng này tương đối thuận lợi, nhất là đối với những
doanh nghiệp đã có mối quan hệ thường xuyên, tín nhiệm với nhà cung cấp.
Bất lợi chủ yếu của hình thức này là trong nhiều trường hợp sử dụng tín dụng thương mại
của nhà cung cấp, doanh nghiệp phải trả chi phí cao hơn so với lãi suất vay vốn ngân hàng
v1.0

175


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

thương mại. Tuy vậy, nhiều doanh nghiệp vẫn ưa thích sử dụng tín dụng của nhà cung
cấp, bởi lẽ nó dễ dàng được thực hiện hơn so với vay vốn của ngân hàng thương mại.
8.3.3.

Tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác

Vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức
tài chính khác là một nguồn tài trợ rất quan trọng để
đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp
trong hoạt động kinh doanh. Các tổ chức tín dụng
có thể cho các doanh nghiệp vay ngắn hạn với thời
gian tối đa là 12 tháng (≤ 1 năm). Thời hạn cho vay
cụ thể của từng doanh nghiệp được xác định phù
hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả
nợ của doanh nghiệp. Lãi suất cho vay là lãi suất
thoả thuận theo cơ chế thị trường và phù hợp với
các quy định của ngân hàng Nhà nước, quy định của Luật về các tổ chức tín dụng về
lãi suất cho vay khi ký kết hợp đồng tín dụng. Để vay được nguồn vốn ngắn hạn từ
Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp cần thực hiện các thủ tục và

chấp hành đầy đủ các nguyên tắc quy định hiện hành về tín dụng ngắn hạn.
Sử dụng tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác có
những điểm lợi và hạn chế chủ yếu sau:
• Ưu điểm:
o Giúp doanh nghiệp giảm được những khó khăn do thiếu vốn đặc biệt là vốn lưu động.
o Chi phí sử dụng vốn vay ngân hàng thường thấp hơn chi phí sử dụng các công
cụ tài chính khác.
o Tiền lãi vay vốn doanh nghiêp phải trả được coi là một khoản chi phí hợp lý và
được tính trừ vào thu nhập chịu thuế.
• Hạn chế:
o Thủ tục vay vốn tương đối phức tạp.
o Thông thường việc vay vốn của NHTM phải có tài sản thế chấp.
o Tăng thêm nguy cơ rủi ro vỡ nợ của doanh nghiệp.
8.3.4.

Chiết khấu thương phiếu

Thương phiếu là chứng chỉ có giá trị nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết
thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định.
Các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, thông thường muốn vay ngắn hạn cần thế
chấp bằng khoản phải thu; nhưng thay vì việc dùng hình thức này để thế chấp, có thể
sử dụng thương phiếu để chiết khấu trên thị trường tiền tệ.
Doanh nghiệp có thể đem chiết khấu các hối phiếu xuất khẩu trả tiền trước và hối
phiếu xuất khẩu có thời hạn tại bộ phận tái chuyển khoản thuộc Ngân hàng để nhận
được những khoản tiền vay ngắn hạn. Nguồn vốn vay ngắn hạn này có mức chi phí
thấp hơn hình thức vay ngắn hạn khác, vì mức lãi suất chiếu khấu thường thấp hơn lãi
suất cho vay của các Ngân hàng thương mại.
Số tiền thu được khi đem các thương phiếu đi chiết khấu có thể được tính theo công thức sau:
V×i× n
M =V−

360
176

v1.0


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Trong đó:
M: Số tiền thu được khi đem thương phiếu đi chiết khấu.
V: Là giá trị ghi trên thương phiếu (mệnh giá).
i: Là lãi suất chiết khấu (tính theo năm).
n: Số ngày chiết khấu.
8.3.5.

Bán nợ

Trong nền kinh tế thị trường hình thành cơ chế mua bán nợ. Với cơ chế đó cho phép
doanh nghiệp có thể bán nợ phải thu từ khách hang bao hàm cả nợ phải thu quá hạn,
nợ khó đòi cho tổ chức mua bán nợ. Tùy theo quy định của luật pháp ở mỗi nước, tổ
chức mua bán nợ có thể là ngân hàng thươg mại hay công ty mua bán nợ. Tổ chức
mua bán nợ và doanh nghiệp cần bán khoản nợ phải thu sẽ gặp gỡ thương lượng, thoả
thuận giá mua, bán khoản nợ. Sau khi hai bên thống nhất giá mua, bán sẽ ký kết hợp
đồng mua bán nợ. Doanh nghiệp bán nợ thông báo cho khách nợ biết việc chuyển đổi
chủ nợ. Bên mua nợ thanh toán trả tiền cho doanh nghiệp và có quyền thu hồi các
khoản nợ tự khách nợ và chịu rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thu nợ.
8.3.6.

Các nguồn tài trợ ngắn hạn khác


Ngoài các nguồn vốn để tài trợ ngắn hạn trên, doanh nghiệp còn có thể sử dụng các
nguồn khác để tài trợ nhu cầu tăng vốn lưu động tạm thời, như: các khoản tiền đặt cọc,
tiền ứng trước của khách hàng.
8.4.

Những điểm lợi và bất lợi sử dụng nguồn tài trợ ngắn hạn

Trong các mô hình tổ chức nguồn tài trợ đã nêu ở phần
trên, cho thấy các doanh nghiệp thường sử dụng các
nguồn vốn tạm thời có tính chất ngắn hạn để đáp ứng
phần lớn nhu cầu về vốn lưu động. Trong đó, một
nguồn vốn ngắn hạn chủ yếu mà các doanh nghiêp sử
dụng để đáp ứng nhu cầu vế vốn lưu động là nguồn
vốn tín dụng ngắn hạn. Do vậy, một vấn đề rât quan
trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp là
phải đánh giá được những điểm lợi và bất lợi khi sử
dụng nguồn vốn tín dụng ngắn hạn để tài trợ cho hoạt
động của doanh nghiệp. Thông thường, việc sử dụng
nguồn vốn tín dụng ngắn hạn đối với doanh nghiệp có
những điểm lợi và bất lợi chủ yếu sau:
• Những điểm lợi:
o Việc sử dụng tín dụng ngắn hạn giúp cho doanh nghiệp có thể thực hiện dễ dàng,
thuân lợi hơn so với việc sử dụng tín dụng dại hạn. Vì thông thường, các điều kiện
cho vay ngắn hạn mà ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác đưa ra
đối với doanh nghiệp thường ít khắt khe hơn so với tín dụng dài hạn.
o Chi phí sử dụng tín dụng ngắn hạn thường thấp hơn so với sử dụng tín dụng dài hạn.
o Sử dụng tín dụng ngắn hạn giúp cho doanh nghiệp có thể dễ dàng, linh hoạt
hơn điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp.
• Những điểm bất lợi:
o Doanh nghiệp phải chịu rủi ro về lãi suất cao hơn; bởi lẽ, lãi suất tín dụng ngắn

hạn biến động nhiều hơn so với lãi suất dài hạn.

v1.0

177


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp
o

8.5.

Rủi ro vỡ nợ ở mức cao hơn: Sử dụng tín dụng ngắn hạn đòi hỏi doanh nghiệp
phải có nghĩa vụ thanh toán lãi vay và hoàn trả vốn gốc trong một thời gian
ngắn. Nếu tình hình kinh doanh gặp khó khăn, doanh nghiệp dễ rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Việc sử dụng quá nhiều
tín dụng ngắn hạn dễ dẫn đến tình trạng tài chính của doanh nghiệp luôn căng
thẳng, nhất là đối với một số doanh nghiệp trong tình trạng sử dụng cả nguồn
vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn.

Nguồn vốn tài trợ dài hạn của doanh nghiệp

Ngoài nguồn vốn đầu tư ban đầu khi thành lập, để đáp ứng nhu cầu đầu tư tăng
trưởng, mở rộng kinh doanh, các doanh nghiệp cũng cần phải bổ sung vốn đầu tư dài
hạn vào các TSCĐ và tài sản lưu động thường xuyên.
Theo phạm vi huy động, các nguồn tài trợ nhu cầu đầu tư dài hạn của doanh nghiệp
được chia thành: Nguồn tài trợ bên trong (nguồn nội sinh) và nguồn tài trợ bên ngoài
(ngoại sinh).
8.5.1.


Nguồn tài trợ bên trong

Nguồn vốn huy động bên trong là nguồn vốn có thể huy động được vào đầu tư từ
chính hoạt động của bản thân doanh nghiệp ngoài số vốn chủ sở hữu bỏ ra ban đầu.
Nguồn vốn bên trong thể hiện khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp, bao gồm:
• Lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư;
• Khoản khấu hao tài sản cố định.
Ngoài hai nguồn kể trên, các doanh nghiệp còn có thể huy động một số nguồn vốn bên
trong khác, như: tiền nhượng bán tài sản vật tư không cần dùng, hoặc khoản thu nhập
ròng về thanh lý tài sản cố định để đáp ứng nhu cầu nguồn vốn đầu tư dài hạn của mình.
8.5.2.

Nguồn tài trợ bên ngoài

8.5.2.1. Cổ phiếu thường (cổ phiếu phổ thông)

Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp góp
vốn, trong đó số vốn điều lệ của công ty được
chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Số vốn chủ sở hữu ban đầu của công ty cổ phần
được hình thành thông qua việc phát hành cổ
phiếu. Việc góp vốn cổ phần được thực hiện
dưới hình thức mua cổ phiếu. Người nắm giữ
cổ phiếu được gọi là cổ đông.
Cổ phiếu là chứng chỉ thể hiện quyền sở hữu của cổ đông trong công ty cổ phần và
cho phép cổ đông được hưởng những quyền lợi của công ty. Đối với Công ty cổ phần,
cổ phiếu là phương tiện để hình thành vốn chủ sở hữu ban đầu và cũng là phương tiện
để huy động tăng thêm vốn chủ sở hữu trong quá trình hoạt động của công ty. Dựa
vào quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho người nắm giữ có thể phân biệt cổ phiếu
thường (cổ phiếu phổ thông) và cổ phiếu ưu đãi.

• Đặc điểm cổ phiếu thường
Cổ phiếu thường là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong công ty và cho phép
người sở hữu nó được hưởng các quyền lợi thông thường trong công ty cổ phần.
Thông thường, cổ đông thường – người sở hữu cổ phiếu thường của công ty cổ
phần, được hưởng các quyền chủ yếu sau:
178

v1.0


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Quyền trong quản lý và kiểm soát công ty: Tham dự Đại hội cổ đông và thực hiện
quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện được uỷ quyền về các vấn đề
quan trọng của công ty; mỗi cổ phần phổ thông có một quyền biểu quyết.
o Quyền đối với tài sản của công ty: Được nhận cổ tức với mức theo quyết định của
Đại hội đồng cổ đông. Khi công ty bị giải thể hoặc bị phá sản, cổ đông thường
được quyền nhận một phần giá trị còn lại của công ty(nếu còn) sau khi đã thanh
toán các khoản nợ, các khoản chi phí và thanh toán cho các cổ đông ưu đãi.
o Quyền được ưu tiên mua cổ phần mới khi công ty phát hành bổ xung để huy động
vốn, tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông mà cổ đông sở hữu trong công ty.
o Quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần: Cổ đông thường không được
quyền rút vốn trực tiếp ra khỏi công ty, nhưng được quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của mình cho cổ đông khác và cho người không phải là cổ
đông, trừ trường hợp theo quy định của luật pháp.
Ngoài các quyền chủ yếu kể trên, cổ đông thường còn được hưởng các quyền khác, như
quyền được xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp điều lệ công ty, sổ biên bản họp Đại
hội đồng cổ đông, các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, kiểm tra sổ sách kế toán...
Các quyền của cổ đông phải được quy định cụ thể trong điều lệ của công ty.
Bên cạnh việc được hưởng các quyền lợi, các cổ đông thường cũng phải gánh chịu những

rủi ro mà công ty gặp phải trong hoạt động của mình tương ứng với phần vốn góp.
• Phương thức phát hành chứng khoán
Để đáp ứng nhu cầu tăng vốn mở rộng kinh doanh, Công ty cổ phần có thể lựa
chọn phương pháp huy động tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu thường
bán ra thu thêm tiền vốn. Việc phát hành thêm cổ phiếu thường mới để huy động
tăng tiền vốn: Thông thường ở những nước có thị trường chứng khoán phát triển,
việc phát hành chứng khoán để huy động vốn được thực hiện theo hai phương
thức: phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
o Phát hành riêng lẻ
Phát hành riêng lẻ là phương thức phát hành trong đó, chứng khoán được bán
trong phạm vi một số nhà đầu tư nhất định (thông thường là các nhà đầu tư có tổ
chức) với những điều kiện hạn chế và không chào bán rộng rãi ra công chúng.
Thủ tục phát hành riêng lẻ thường đơn giản hơn so với chào bán ra công chúng.
Việc lựa chọn phương thức phát hành riêng lẻ chủ yếu là do công ty không đủ
tiêu chuẩn để chào bán ra công chúng hay số lượng vốn cần huy động không
lớn; phát hành riêng lẻ còn nhằm tăng cường mối quan hệ với các đối tác.
o Chào bán ra công chúng
Chào bán chứng khoán ra công chúng là quá
trình trong đó chứng khoán được chào bán
rộng rãi cho tất cả các nhà đầu tư: gồm cả các
nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư chuyên
nghiệp – với những điều kiện và thời gian
như nhau.
Chào bán ra công chúng thường áp dụng cho
những đợt phát hành có lượng vốn huy động
lớn. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng
phải chịu sự phối của pháp luật về chứng khoán. Thủ tục chào bán chứng khoán ra
công chúng phức tạp hơn nhiều so với phương thức phát hành riêng lẻ.
o


v1.0

179


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Phát hành cổ phiếu mới và dành quyền ưu tiên mua cho các cổ đông hiện hữu:
Đây là cách phổ biến được các công ty cổ phần ở nhiều nước áp dụng khi quyết
định tăng thêm vốn chủ sở hữu để mở rộng hoạt động kinh doanh. Thông
thường trong điều lệ của công ty cổ phần ở nhiều nước đều ghi rõ quyền này
của cổ đông thường. Đối với công ty cổ phần đại chúng, việc dành quyền ưu
tiên mua cổ phần cho cổ đông hiện hữu (còn gọi là quyền mua cổ phần) khi
công ty phát hành cổ phiều mới để tăng thêm tiền vốn cũng được coi là phát
hành cổ phiếu ra công chúng.
Quyền ưu tiên mua cổ phần là quyền của các cổ đông hiện hữu được mua cổ
phần mới với giá bán ưu đãi. Quyền ưu tiên mua cổ phần được phân phối cho
cổ đông hiện hữu tương ứng với tỷ lệ số cổ phần mà hiện họ đang sở hữu. và
nó chỉ có hiệu lực trong một thời gian nhất định (thường là khá ngắn) của đợt
phát hành.
Việc áp dụng quyền ưu tiên mua cho cổ đông là nhằm bảo vệ lợi ích của các cổ
đông hiện hữu. Điều này được thể hiện cụ thể ở những điểm sau:
ƒ Một là, bảo vệ quyên kiểm soát của cổ đông hiện hữu đối với công ty. Việc
dành quyền ưu tiên mua nhằm giúp họ duy trì và giữ vững tỷ lệ quyền sở
hữu hiện hành trong công ty.
ƒ Hai là, giúp cho cổ đông tránh được sự thiệt hại do sự sụt giảm giá cổ phiếu
trên thị trường khi công ty phát hành cổ phiếu mới. Thông thường khi công
ty phát hành cổ phiếu mới để tăng vốn kinh doanh sẽ xảy ra hiện tượng
loãng giá cổ phiếu.
Khi quyết định dành quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới phát hành cho các cổ

đông hiện hành, công ty sẽ thông báo số quyền được mua một cổ phần mới, giá
bán và thời hạn đăng ký mua. Giá bán cổ phiếu mới theo quyền ưu tiên mua
cho cổ đông là giá bán được xác định thấp hơn giá cổ phiếu hiện hành của công
ty. Thời hạn đăng ký mua được xác định trong một khoảng thời gian nhất định
của đợt phát hành. Trong thời hạn đó, cổ đông có thể sử dụng quyền ưu tiên
mua để mua thêm cổ phiếu mới, hay nhượng bán quyền đó cho người khác
hoặc không sử dụng quyền. Hết thời hạn quy định thì quyền mua sẽ không còn
giá trị.
Trên cơ sở số lượng vốn cần huy động và giá bán ưu đãi cổ phiếu mới dành
quyền mua cho cổ đông (còn gọi là giá ghi bán), công ty xác định số cổ phiếu
mới cần phát hành và số quyền mua cần thiết để mua một cổ phiếu mới.
Số lượng cổ phiếu mới cần phát hành có thể xác định theo công thức sau:
Số lượng cổ phiếu
cần phát hành

=

Số vốn cần huy động
Giá bán một cổ phiếu

Mỗi cổ phiếu đang lưu hành sẽ có một quyền mua. Như vậy, số quyền mua cần
thiết để được mua một cổ phần mới được xác định theo công thức sau:
Số quyền mua cần thiết để
được mua một cổ phiếu mới

=

Số cổ phiếu đang lưu hành
Số cổ phiếu mới dự kiến phát hành


Như trên đã nêu, cổ đông hiện hữu được quyền mua cổ phiếu mới với giá ưu
đãi thấp hơn so với giá thị trường cổ phiếu hiện hành, cổ đông có thể nhượng
bán quyền này cho người khác. Có thể xác định được giá trị một quyền mua
(về mặt lý thuyết) bằng các công thưc ở phần dưới đây:
180

v1.0


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Ví dụ: công ty cổ phần Hồng Hà hiện có 1.000.000 cổ phiếu đang lưu hành,
giá một cổ phiếu của công ty trên thị trường hiện tại là 50.000 đồng. Công ty
dự kiến huy động thêm số vốn đầu tư là 4.000 triệu đồng bằng cách phát hành
thêm cổ phiếu mới và dành quyền ưu tiên mua cho cổ đông hiện hữu với giá
ghi bán 20.000 đồng/cổ phần. Như vậy:
Số cổ phiếu cần phát hành: 4.000 triệu/20.000 = 200.000 cổ phần.
Số quyền mua để được mua 1 cổ phần mới: 1.000.000/ 200.000 = 5 quyền mua.
Xét về mặt lý thuyết, giá trị thị trường một cổ phiếu sau khi Công ty phát hành
cổ phiếu mới sẽ là:
Giá cổ phiếu sau khi
Phát hành (theo lý =
thuyết)

Tổng giá trị thị trường của toàn bộ cổ phiếu sau khi
phát hành bổ sung
Tổng số cổ phiếu lưu hành sau
phát hành bổ sung

Đối với công ty Hồng Hà: Giá cổ phiếu sau khi Phát hành (theo lý thuyết) là:

(1.000.000 × 50.000) + (200.000 × 20.000)
1.000.000 + 200.000

= 45.000 đồng/cổ phiếu

Có thể nhận thấy, sau khi công ty thực hiện phát hành cổ phiếu mới, nếu muốn
đầu tư vào công ty, nhà đầu tư phải bỏ ra 45.000 đồng để mua một cổ phiếu.
Trong khi đó, cổ đông hiện hữu cứ có 3 quyền mua sẽ được mua một cổ phiếu
mới với giá là 20.000 đồng. So với giá thị trường sau khi phát hành thì có số
chênh lệch là: 45.000 – 20.000 = 25.000 đồng/cổ phiếu. Như vậy, giá trị chênh
lệch giữa giá thị trường theo lý thuyết sau khi phát hành và giá mua cổ phiếu
với quyền ưu tiên mua chính là giá trị của số chứng quyền cần thiết để được
mua một cổ phiếu mới. Do đó, giá trị lý thuyết của một quyền mua ở đây là:
25.000
= 5.000 đồng
5
Từ ví dụ trên, có thể xác lập công thức tổng quát tính giá trị lý thuyết một
quyền mua:
Giá trị lý
thuyết một
quyền mua

=

Giá cổ phiếu sau
khi phát hành cổ phiếu mới



Giá bán ưu đãi

một cổ phiếu

Số quyền mua cần thiết

Hoặc có thể viết dưới dạng:
R =

Pe – Pu
N

(1)

Trong đó:
R: Giá trị lý thuyết của một quyền mua.
Pe: Giá thị trường của 1cổ phiếu (xét về lý thuyết) sau khi hoàn thành đợt phát
hành cổ phiếu mới.
Pu: Giá bán ưu đãi một cổ phiếu mới. cho cổ đông hiện hữu.
Po: Giá thị trường 1 cổ phiếu trước khi phát hành bổ sung cổ phiếu mới dành
quyền ưu tiên mua cho cổ đông.
N: Số quyền mua cần thiết (hoặc số cổ phiếu cũ cần thiết để được mua một cổ
phiếu mới).
v1.0

181


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Từ ví dụ trên cũng cho thấy: Sau khi phát hành cổ phiếu mới, về mặt lý thuyết giá
cổ phiếu của công ty đã giảm là: 50.000 – 45.000 = 5.000 đồng; tuy nhiên, cổ

đông hiện hữu của công ty không bị thiệt hại về quyền lợi vì cổ đông đã được
hưởng quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới. Giá trị một quyền mua bằng 5.000 đồng,
đúng bằng số chênh lệch giữa giá cổ phiếu trước và sau khi phát hành cổ phiếu
mới. Do vậy, có thể rút ra:
R = P0 – Pe (2.1) ⇒ Pe = P0 - R
(2.2)
Thay (2.2) vào (1) ta có:
R

=

(Po – R) – Pu
N

P0 − Pu
N +1
Đối với Công ty cổ phần, việc tăng vốn đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh
bằng việc phát hành cổ phiếu mới và dành quyền ưu tiên mua cho cổ đông hiện
hành có những điểm lợi chủ yếu sau:
ƒ Một là: Công ty có thể mở rộng được hoạt động kinh doanh, nhưng các cổ
đông hiện hữu vẫn giữ được quyền kiểm soát đối với công ty và bảo vệ
được các quyền lợi kinh tế của cổ đông. Đây là vấn đề hết sức quan trọng
đối với các công ty nhỏ và công ty mới thành lập.
ƒ Hai là: Việc huy động tăng vốn kinh doanh được thực hiện tương đối dễ
dàng. Nếu hoạt động kinh doanh của công ty có triển vọng tốt, các cổ đông
hiện hữu dễ dàng chấp nhận bỏ tiền mua thêm cổ phần mới, tăng vốn đầu tư
vào công ty.
ƒ Ba là: Tiết kiệm chi phí phát hành cổ phiếu thường, do công ty không cần bỏ
ra chi phí quảng cáo. Mặt khác, theo phương pháp này, công ty có thể tự phát
hành, hoặc phát hành thông qua đại lý với chi phí hoa hồng ở mức thấp.

ƒ Bốn là: Giúp công ty tránh được áp lực của cổ đông do sự loãng giá cổ
phiếu khi phát hành thêm cổ phiếu mới.
Bên cạnh những điểm lợi kể trên, phương pháp huy động tăng vốn này cũng bộc
lộ những mặt hạn chế nhất định. Do cổ phiếu mới phát hành chủ yếu được phân
phối trong phạm vi các cổ đông hiện hữu của công ty; vì vậy, việc phát hành
thêm cổ phiếu mới để tăng vốn này ít làm tăng tính hoán tệ của cổ phiếu công ty.
Mặt khác, với việc bán cổ phần mới cho cổ đông hiện hữu với giá ưu đãi làm cho
lượng vốn có thể huy động được là thấp hơn so với hình thức chào bán rộng rãi
ra công chúng.
Chào bán rộng rãi cổ phiếu mới ra công chúng
Để huy động tăng thêm vốn đầu tư, công ty cổ phần có thể lựa chọn phát hành
rộng rãi cổ phiếu mới ra công chúng. Việc huy động vốn theo phương pháp này
có những điểm lợi chủ yếu sau:
ƒ Tăng được vốn đầu tư dài hạn, nhưng công ty không có nghĩa vụ bắt buộc phải
trả lợi tức cố định như sử dụng vốn vay: Khi công ty huy động vốn theo cách
này để mở rộng kinh doanh nếu như thu được ít lợi nhuận hoặc bị lỗ, thì công
ty có thể tuyên bố tạm thời không trả cổ tức cho các cổ đông thường cho đến
khi công ty thu được lợi nhuận và có khả năng trả lợi tức cổ phần. Điều này
giúp công ty giảm được nguy cơ phải tổ chức lại hoặc bị phá sản.
⇒ R×N = (P0 – R) – Pu ⇒ R × (N + 1) = P0 – Pu ⇒ R =

o

182

v1.0


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp


Không phải lo hoàn trả vốn gốc: Cổ phiếu là loại chứng khoán không có
thời hạn hoàn trả. Do vậy, huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu
thường ra công chúng công ty không phải hoàn trả vốn gốc theo kỳ hạn cố
định. Điều này giúp công ty chủ động sử dụng vốn linh hoạt trong kinh
doanh mà không phải lo gánh nặng “nợ nần” như sử dụng vốn vay.
ƒ Làm tăng thêm vốn chủ sở hữu và tăng thêm khả năng vay vốn của công ty
trong tương lai: Huy động vốn bằng phát hành thêm cổ phiếu bán ra công
chúng sẽ làm tăng thêm vốn chủ sở hữu, từ đó làm giảm hệ số nợ và tăng
thêm mức độ vững chắc về tài chính của công ty, trên cơ sở đó làm tăng thêm
khả năng vay vốn của công ty trong tương lai, thêm vào đó cũng làm tăng hệ
số tín nhiệm cho công ty. Nếu công ty có triển vọng tốt thì cổ phiếu thường
được bán ra dễ dàng hơn so với cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu: Cổ phiếu
thường có thể hấp dẫn một số nhóm các nhà đầu tư bởi hứa hẹn có mức lợi
tức (không bị giới hạn) cao hơn so với cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu. Mặt
khác, đối với nhà đầu tư thì cổ phiếu thường còn tạo ra rào chắn chống đỡ
lạm phát tốt hơn so với cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu. Bởi vì, cổ phiếu thường
đại biểu cho quyền sở hữu trong công ty, đầu tư vào cổ phiếu thường là đầu
tư vào một lượng tài sản thực trong công ty. Do vậy, thông thường trong thời
kỳ lạm phát thì cổ phiếu thường không bị mất giá như trái phiếu.
Bên cạnh những lợi thế kể trên, việc phát hành rộng rãi cổ phiếu thường ra
công chúng để huy động tăng vốn kinh doanh cũng có thể đưa lại cho công ty
những điểm bất lợi sau:
ƒ Một là, việc phát hành thêm cổ phiếu thường ra công chúng làm tăng thêm
cổ đông mới, từ đó phải phân chia quyền biểu quyết, quyền kiểm soát công
ty, cũng như phải san sẻ số thu nhập cao cho các cổ đông mới.
Điều này có thể gây bất lợi cho các cổ đông hiện hữu. Vì vậy, các công ty
mới thành lập, hoặc các công ty nhỏ thường né tránh việc phát hành thêm
cổ phiếu ra bên ngoài để không phải chia sẻ quyền kiểm soát công ty cho
người khác.
ƒ Hai là, việc phát hành thêm cổ phiếu rộng rãi ra công chúng sẽ làm tăng số

cổ phiếu đang lưu hành, do vậy, sẽ dẫn đến hiện tượng “loãng giá” cổ phiếu
của công ty và nếu như việc sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, sẽ càng làm
cho giá cổ phiếu của công ty bị sụt giảm mạnh hơn.
ƒ Ba là, chi phí phát hành cổ phiếu thường nói chung cao hơn so với chi phí
phát hành cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu. Sở dĩ như vậy, là do đầu tư vào cổ
phiếu thường có mức độ rủi ro cao hơn so với đầu tư vào các loại chứng
khoán khác. Để thực hiện thành công đợt phát hành cổ phiếu phải thu hút
được người đầu tư trên diện rộng hơn; từ đó, các chi phí quảng cáo, chi phí
phân phối cổ phiếu thường phải cao hơn.
ƒ Bốn là, theo cách đánh thuế thu nhập doanh nghiệp ở nhiều nước, lợi tức cổ
phần hay cổ tức không được tính trừ vào thu nhập chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp, trong khi đó, lợi tức trái phiếu hay lãi tiền vay được tính trừ vào thu
nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Điều này làm cho chi phí sử dụng cổ
phiếu thường cao hơn nhiều so với chi phí sử dụng trái phiếu.
Chính vì vậy, để đi đến quyết định phát hành thêm cổ phiếu thường đáp ứng nhu cầu
tăng vốn dài hạn cho kinh doanh, công ty cần xem xét các điểm lợi và bất lợi đồng
thời cân nhắc thêm các yếu tố khác.
ƒ

v1.0

183


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

8.5.2.2. Cổ phiếu ưu đãi

• Những đặc trưng của cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong công ty cổ phần, đồng

thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu
đãi hơn so với cổ đông thường.
Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, ngày nay ở nhiều nước các
công ty cổ phần phát hành nhiều loại cổ phiếu ưu đãi khác nhau. Tuy nhiên, loại cổ
phiếu ưu đãi mà công ty cổ phần ở nhiều nước sử dụng là loại cổ phiếu ưu đãi cổ
tức, loại cổ phiếu này có các đặc trưng chủ yếu sau:
o Quyền ưu tiên về cổ tức và thanh toán khi thanh lý Công ty
Khác với cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi mang lại cho người nắm giữ nó
được hưởng một khoản cổ tức cố định và đã được xác định trước, không phụ
thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Mặt khác, cổ đông ưu đãi còn được
nhận cổ tức trước các cổ đông thường. Ngoài ra, khi công ty bị thanh lý hoặc
giải thể thì cổ đông ưu đãi được thanh toán trước các cổ đông thường.
o Sự tích luỹ cổ tức
Phần lớn cổ phiếu ưu đãi của công ty phát hành đều là cổ phiếu ưu đãi tích luỹ.
Điều đó có nghĩa là, nếu trong một năm nào đó công ty gặp khó khăn trong
kinh doanh, thì có thể tuyên bố hoãn trả cổ tức cổ phần ưu đãi. Số cổ tức đó
được tích luỹ lại, tức là được cộng dồn lại và chuyển sang kỳ kế tiếp. Số cổ tức
này phải được trả cho cổ đông ưu đãi trước khi công ty tuyên bố trả cổ tức cho
các cổ đông thường. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích cho các cổ đông ưu đãi.
o Không được hưởng quyền biểu quyết
Khác với cổ đông thường, các cổ đông ưu đãi thường không được hưởng quyền
bỏ phiếu để bầu ra Hội đồng quản trị, cũng như không có quyền biểu quyết
thông qua các vấn đề quan trọng trong quản lý Công ty.
Với các đặc trưng nêu trên, cổ phiếu ưu đãi cổ tức (cổ tức cố định và không có
quyền biểu quyết) được coi như là một loại chứng khoán lai ghép giữa cổ phiếu
thường và trái phiếu. Nói cách khác, cổ phiếu ưu đãi là một loại chứng khoán
lai ghép hay lưỡng tính, nó vừa mang một số đặc điểm của cổ phiếu thường,
vừa có một số đặc trưng của trái phiếu.
o Những đặc trưng của cổ phiếu ưu đãi giống cổ phiếu thường là:
ƒ Cùng thể hiện quyền sở hữu đối với Công ty.

ƒ Không có thời hạn thanh toán vốn gốc.
ƒ Lợi tức cổ phần ưu đãi không được giảm trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
ƒ Khi công ty gặp khó khăn trong kinh doanh, chỉ thu được ít lợi nhuận hoặc
không thu được lợi nhuận thì có thể hoãn trả lợi tức cổ phần ưu đãi mà
không bị đe doạ bởi nguy cơ phá sản.
o Những đặc trưng giống trái phiếu là:
ƒ Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được trả theo một mức cố định. Khi Công ty thu
được lợi nhuận cao thì cổ đông ưu đãi không được tham dự vào việc phân
chia phần lợi nhuận cao đó. Ngược lại, nếu công ty kinh doanh sút kém thì
Công ty vẫn phải có trách nhiệm thanh toán lợi tức cho cổ đông ưu đãi, tuy
nhiên Công ty có thể hoãn trả vào kỳ tiếp theo.
ƒ Về cơ bản, cổ đông ưu đãi không có quyền biểu quyết.
184

v1.0


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

• Những điểm lợi và bất lợi của việc huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi là một công cụ của công ty cổ
phần trong việc huy động vốn mở rộng sản xuất
kinh doanh.
o Việc sử dụng cổ phiếu ưu đãi để đáp ứng nhu
cầu tăng vốn của Công ty có những điểm lợi
chủ yếu sau:
ƒ Không bắt buộc phải trả cổ tức đúng hạn
Một lợi thế quan trọng của cổ phần ưu đãi
đối với Công ty phát hành là ở chỗ mặc dù phải trả lợi tức cố định, nhưng
khác với trái phiếu, Công ty phát hành không nhất thiết phải trả đúng hạn

hàng năm mà có thể hoãn trả sang kỳ sau. Điều này giúp Công ty tránh khỏi
nguy cơ phá sản khi hoạt động kinh doanh đang gặp khó khăn, công ty không
có khả năng trả cổ tức đúng hạn.
ƒ Có khả năng làm gia tăng thu nhập trên 1cổ phần (EPS)
Việc huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu ưu đãi có khả năng gia tăng thu
nhập trên một cổ phần, bởi lẽ khi công ty có triển vọng thu được lợi nhuận
cao trong hoạt động kinh doanh, do cổ đông thường không phải chia sẻ phần
lợi nhuận cao cho các cổ đông ưu đãi, công ty chỉ phải trả cho cổ đông ưu đãi
một khoản cổ tức cố định.
ƒ Giúp công ty tránh được việc chia sẻ quyền quản lý và kiểm soát cho
các cổ đông mới
Việc phát hành cổ phiếu ưu đãi mặc dù dẫn tới việc tăng thêm các cổ đông,
song do các cổ đông ưu đãi không có quyền biểu quyết, vì vậy các cổ đông
thường hiện hữu của công ty không bị chia sẻ quyền kiểm soát công ty cho
các cổ đông mới.
ƒ Không phải cầm cố, thế chấp tài sản, cũng như lập quỹ thanh toán vốn gốc
Việc phát hành cổ phiếu ưu đãi không bắt buộc công ty phải thế chấp, cầm
cố tài sản. Mặt khác, do cổ phiếu ưu đãi không có thời hạn hoàn trả, và
không bắt buộc phải lập quỹ thanh toán; do vậy việc sử dụng cổ phiếu ưu
đãi có tính chất mềm dẻo và linh hoạt hơn trái phiếu.
o Bên cạnh những điểm lợi kể trên, việc sử dụng cổ phiếu ưu đãi cũng có những
điểm bất lợi sau đây đối với công ty phát hành:
ƒ Cổ tức cổ phiếu ưu đãi cao hơn lợi tức trái phiếu
ƒ So với trái phiếu, cổ tức của cổ phiếu ưu đãi thường cao hơn, do mức độ rủi ro đối
với người đầu tư vào cổ phiếu ưu đãi cao hơn so với người đầu tư vào trái phiếu.
ƒ Cổ tức cổ phiếu ưu đãi không được trừ vào thu nhập chịu thuế khi xác định
thuế thu nhập doanh nghiêp.
Giống như đối với cổ phiếu thường, cổ tức cổ phiếu ưu đãi cũng không được
trừ vào thu nhập chịu thuế của công ty. Điều này làm cho chi phí sử dụng cổ
phiếu ưu đãi cao hơn so với chi phí sử dụng trái phiếu.

Trên đây là những mặt lợi và bất lợi khi sử dụng cổ phiếu ưu đãi để đáp ứng
nhu cầu tăng vốn. Những điểm này đã đòi hỏi các công ty cần phải cân nhắc kỹ
khi đi đến quyết định sử dụng cổ phiếu ưu đãi. Do tính chất lưỡng tính của cổ
phiếu ưu đãi nên nhìn chung, việc sử dụng cổ phiếu ưu đãi để tăng vốn tỏ ra
thích hợp hơn trong tình thế của công ty cho thấy sử dụng cổ phiếu thường
hoặc sử dụng trái phiếu đều đưa lại những điểm bất lợi đối với công ty. Tình
v1.0

185


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

thế đó thường là khi công ty có khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh đạt
được tỷ suất lợi nhuận vốn ở mức cao, nhưng công ty đã có hệ số nợ khá cao,
đồng thời công ty vẫn rất coi trọng việc giữ nguyên quyền kiểm soát công ty.
8.5.2.3. Vay dài hạn

• Trái phiếu doanh nghiệp
o Những đặc trưng và các loại trái phiếu doanh
nghiệp chủ yếu.
Trái phiếu doanh nghiệp là chứng chỉ vay vốn
do doanh nghiệp phát hành thể hiện nghĩa vụ và
sự cam kết của doanh nghiệp thanh toán số lợi
tức và tiền vay vào những thời hạn xác định cho
người nắm giữ trái phiếu. Doanh nghiệp là
người phát hành và với tư cách là người đi vay.
Thông qua việc sử dụng trái phiếu, doanh
nghiệp có thể thực hiện vay vốn trung hạn và
dài hạn qua thị trường với một khối lượng lớn. Người mua trái phiếu là người

cho vay còn gọi là trái chủ.
Xét trên góc độ của doanh nghiệp có thể thấy rằng cổ phiếu và trái phiếu đều là
công cụ tài chính mà doanh nghiệp có thể sử dụng để huy động vốn qua thị
trường. Tuy vậy, chúng có những điểm khác nhau cơ bản như sau:
Tiêu thức so
sánh

Cổ phiếu

Trái phiếu

Về tính chất

Là chứng khoán vốn; phát hành Là chứng khoán nợ, phát hành trái
cổ phiếu làm tăng vốn chủ sở phiếu làm tăng nợ vay trung và dài
hữu.
hạn.

Về thời hạn

Không có kỳ hạn rút vốn gốc.

Về lợi tức

Phụ thuộc kết quả hoạt động của Thường cố định, không phụ thuộc
Công ty.
kết quả hoạt động của Công ty.

Quyền và trách
nhiệm của người

sở hữu chứng
khoán

Luôn có kỳ hạn thanh toán và được
xác định trước.

• Cổ đông là chủ sở hữu công ty.

• Trái chủ là chủ nợ của Công ty.

• Có quyền tham gia quản lý.

• Không có quyền tham gia quản lý.

• Phải gánh chịu mọi rủi ro của
công ty trong phạm vi vốn góp.

• Về cơ bản không phải gánh chịu
rủi ro của Công ty.

Ở Việt Nam theo quy định của luật pháp hiện hành, chỉ có các loại công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn mới có quyền phát hành trái phiếu doanh
nghiệp để huy động vốn vay. Các doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh
không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn qua
thị trường.
Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại, thông thường có thể phân biệt các loại
trái phiếu theo các tiêu thức chủ yếu sau đây:
ƒ Dựa vào hình thức trái phiếu có thể phân biệt trái phiếu ghi tên (hay trái
phiếu hữu danh) và trái phiếu không ghi tên (trái phiếu vô danh).
ƒ Dựa vào lợi tức trái phiếu có thể phân biệt trái phiếu có lãi suất cố định và

trái phiếu có lãi suất biến đổi.

186

v1.0


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Dựa vào mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành có thể phân biệt
trái phiếu bảo đảm và trái phiếu không bảo đảm.
ƒ Dựa vào tính chất của trái phiếu có thể phân biệt trái phiếu thông thường,
trái phiếu có thể chuyển đổi, và trái phiếu kèm chứng quyền..
ƒ Dựa vào mức độ rủi ro tín dụng của trái phiếu có thể chia trái phiếu của doanh
nghiệp thành các loại khác nhau thông qua việc đánh giá hệ số tín nhiệm.
Những điểm lợi và bất lợi của tài trợ bằng trái phiếu doanh nghiệp
Những điểm lợi: Trong nền kinh tế thị trường, trái phiếu là công cụ rất quan
trọng cho phép doanh nghiệp chủ động huy động vốn vay qua thị trường. Xét
trên góc độ của doanh nghiệp, sử dụng trái phiếu (loại có lãi suất cố định) để
đáp ứng nhu cầu tăng vốn đầu tư dài hạn có những điểm lợi cơ bản sau:
ƒ Lợi tức trái phiếu được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của
doanh nghiệp.
Khi công ty sử dụng trái phiếu hay sử dụng vốn vay nói chung, lãi tiền vay
phải trả được coi là một khoản chi phí hợp lý và được trừ vào phần thu
nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Như vậy, công ty phải nộp thuế thu nhập
ít hơn so với trường hợp sử dụng tài trợ bằng vốn chủ sở hữu như huy động
vốn bằng phát hành cổ phiếu. Đây là một lợi ích chủ yếu của việc sử dụng
vốn vay. Khoản thuế thu nhập công ty phải nộp ít hơn đó được các nhà kinh
tế gọi là khoản tiết kiệm thuế hay “lá chắn thuế của lãi vay”.
ƒ Lợi tức trái phiếu được giới hạn ở mức độ nhất định.

Lợi tức trái phiếu thường được xác định trước và thường thấp hơn lợi tức cổ
phiếu ưu đãi. Nếu doanh nghiệp có triển vọng tốt trong kinh doanh, có khả
năng thu lợi nhuận cao thì việc sử dụng trái phiếu để huy động vốn sẽ sẽ
làm gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu mà không phải chia sẻ quyền
phân chia thu nhập cao cho các trái chủ.
ƒ Chi phí phát hành trái phiếu thấp hơn so với cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Trái phiếu hấp dẫn công chúng ở mức rủi ro thấp hơn cổ phiếu thường và
cổ phiếu ưu đãi; vì vậy, chi phí phát hành trái phiếu thấp hơn cổ phiếu
thường và cổ phiếu ưu đãi.
ƒ Chủ sở hữu doanh nghiệp không bị chia sẻ quyền quản lý và kiểm soát
doanh nghiệp cho các trái chủ.
Là chủ nợ của doanh nghiệp, vì vậy trái chủ không có quyền biểu quyết. Do vậy,
việc phát hành trái phiếu để huy động tăng vốn không ảnh hưởng tới quyền quản
lý và kiểm soát doanh nghiệp của các chủ sở hữu doanh nghiệp hiện hành.
ƒ Giúp doanh nghiệp chủ động điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn một cách linh hoạt.
Khi hoạt động kinh doanh có triển vọng tốt, doanh nghiệp có thể tăng huy động
vốn vay nhằm mở rộng thị trường và gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Ngược lại, khi thị trường biến động theo chiều hướng bất lợi, để thu hẹp quy mô
kinh doanh, doanh nghiệp có thể chủ động giảm vốn bằng cách mua lại trái
phiếu trước thời hạn (nếu doanh nghiệp phát hành loai trái phiếu có thể mua lại).
Vì vậy, trái phiếu được doanh nghiệp sử dụng linh hoạt trong việc điều chỉnh cơ
cấu nguồn vốn kinh doanh, đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.
ƒ

o

v1.0

187



Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Những điểm bất lợi:
ƒ

Buộc phải trả lợi tức cố định đúng hạn
Sử dụng trái phiếu buộc doanh nghiệp phải có nghĩa vụ trả lợi tức cố định
và đúng kỳ hạn cho các trái chủ. Điều này có thể gây căng thẳng về mặt tài
chính và dễ dẫn tới nguy cơ rủi ro trong trường hợp doanh thu và lợi nhuận
của doanh nghiệp không ổn định, doanh nghiệp không có đủ nguồn tài
chính để trang trải lợi tức trái phiếu.

ƒ

Làm tăng hệ số nợ của doanh nghiệp
Phát hành trái phiếu chính là huy động thêm vốn vay qua thị trường. Do vậy,
việc tăng vốn bằng cách phát hành trái phiếu sẽ làm tăng hệ số nợ và mức độ
sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp. Điều này một mặt có thể nâng
cao thu nhập của chủ sở hữu khi doanh nghiệp làm ăn có lãi; mặt khác, cũng
làm tăng nguy cơ rủi ro, đe dọa sự tồn tại của doanh nghiệp trong trường hợp
doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.

ƒ

Phải hoàn trả nợ gốc đúng kỳ hạn
Phát hành trái phiếu là sử dụng nợ vay có kì hạn, do vậy doanh nghiệp buộc
phải lo việc hoàn trả nợ tiền vay đúng kỳ hạn. Nếu một doanh nghiệp có
doanh thu và lợi nhuận dao động thất thường, việc sử dụng trái phiếu để tài
trợ tăng vốn dài hạn dễ đưa doanh nghiệp tới nguy cơ mất khả năng thanh

toán, tăng nguy cơ bị phá sản.

ƒ

ƒ

188

Sử dụng trái phiếu dài hạn là việc sử dụng nợ trong thời gian dài
Tác động của việc sử dụng nợ dưới hình thức trái phiếu tới doanh nghiệp
mang tính 2 mặt. Một mặt, nếu sử dụng có hiệu quả, nó đóng vai trò đòn
bẩy thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp; mặt khác, nếu sử dụng không
hiệu quả nó lại trở thành nguy cơ đe doạ sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Việc sử dụng trái phiếu có thể giúp doanh nghiệp tăng vốn thực
hiện các dự án đầu tư mở rộng kinh doanh, nhưng nếu việc đầu tư của
doanh nghiệp không đúng hướng, hoặc trong bối cảnh thị trường có sự biến
động theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp thì việc phải hoàn trả lợi tức và
một số nợ lớn trở thành một gánh nặng đối với doanh nghiệp.
Việc sử dụng trái phiếu để tài trợ nhu cầu tăng vốn của doanh nghiệp cũng
có giới hạn nhất định
Các doanh nghiệp không thể để hệ số nợ vượt quá xa mức thông thường
của các doanh nghiệp trong cùng ngành kinh doanh (hệ số nợ trung bình
của ngành) – đó là giới hạn an toàn về mặt tài chính mà các doanh nghiệp
cần phải quan tâm trong tổ chức nguồn vốn của mình. Do đó, hệ số nợ
chính là yếu tố đặt giới hạn cho khả năng vay nợ nói chung, cũng như việc
sử dụng trái phiếu nói riêng của doanh nghiệp.
Để đi đến quyết định phát hành trái phiếu đáp ứng nhu cầu tăng vốn, ngoài
việc xem xét những điểm lợi và bất lợi còn cần cân nhắc thêm các nhân tố
khác như: mức độ ổn định của doanh thu và lợi nhuận trong tương lai, hệ số nợ
hiện tại của doanh nghiệp, sự biến động của lãi suất thị trường trong tương lai,

yêu cầu giữ quyền kiểm soát doanh nghiệp của các chủ sở hữu hiện tại…
v1.0


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

• Vay dài hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính – tín dụng khác
Vay dài hạn là một thoả ước tín dụng dưới dạng hợp
đồng giữa người vay và người cho vay (thường là
các ngân hàng thương mại, công ty tài chính…) theo
đó người vay có nghĩa vụ hoàn trả khoản tiền vay
theo lịch trình đã định. Tùy theo quy định của mỗi
nước thì quy định về thời gian đáo hạn của các khoản
vay dài hạn cũng khác nhau. Thông thường người ta
quy định các khoản vay có kỳ hạn từ một năm trở lên
được tính là vay trung và dài hạn. Lợi thế của vay dài
hạn so với các hình thức tài trợ dài hạn khác là chi phí tài trợ thấp và tính linh hoạt cao
hơn. Khi vay tiền, người vay thường thương lượng trực tiếp với nhà tài trợ, do đó chỉ
phải chịu một khoản chi phí nhỏ cho các thủ tục tài trợ.
Việc sử dụng vốn vay dài hạn của ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính –
tín dụng khác cũng có những điểm lợi và bất lợi tương tự như vay vốn bằng phát
hành trái phiếu, tuy nhiên cũng có một số điểm khác biệt.
o Vay vốn của ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác là vay vốn
của trung gian tài chính. Phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn của ngân hàng
thương mại và các tổ chức tài chính khác trong việc sử dụng vốn vay.
o Việc huy động nguồn vốn vay dài hạn của doanh nghiệp từ các ngân hàng
thương mại chỉ có giới hạn nhất định.
8.5.2.4. Thuê tài chính

• Thuê hoạt động và thuê tài chính

Thuê tài sản là hợp đồng thỏa thuận giữa 2 bên:
Người thuê và người cho thuê; trong đó: Người
thuê được quyền sử dụng tài sản trong 1 thời
gian nhất định và phải trả cho người cho thuê 1
số tiền tương ứng với thời hạn thuê theo sự thoả
thuận của hai bên theo kì hạn định trước. Thuê tài sản có 2 phương thức chủ yếu là
thuê hoạt động (hay thuê vận hành) và thuê tài chính.
o Thuê hoạt động
Thuê vận hành hoạt động là hình thức thuê ngắn hạn tài sản. Những đặc trưng
chủ yếu của hình thức thuê hoạt động là:
ƒ Thời hạn thuê ngắn: Thời gian thuê vận hành là rất ngắn so với thời gian sử
dụng hữu ích (tuổi thọ kinh tế) của tài sản.
ƒ Người cho thuê phải chịu trách nhiệm bảo trì, bảo hiểm, thuế tài sản, cũng
như mọi rủi ro, thiệt hại về tài sản cho thuê. Tuy nhiên, người cho thuê được
hưởng tiền cho thuê và những quyền lợi do quyền sở hữu tài sản mang lại.
ƒ Trong hợp đồng thuê thường có điều khoản người thuê có quyền huỷ ngang
hợp đồng: người đi thuê có thể hủy ngang hợp đồng bằng một thông báo
ngắn gửi người cho thuê về việc chấm dứt hợp đồng thuê, trả lại tài sản
trước ngày hết thời hạn hợp đồng.
ƒ Số tiền thuê mỗi lần thấp hơn nhiều so với giá trị tài sản thuê.

v1.0

189


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

Thuê vận hành là phương thức được sử dụng rất phổ biến trong đời sống kinh
tế – xã hội và hoạt động kinh doanh..

o

Thuê tài chính: Thuê tài chính (còn gọi là thuê vốn) là phương thức tài trợ tín
dụng trung và dài hạn không thể hủy ngang. Theo phương thức này, người cho
thuê thường mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người thuê và nắm giữ quyền
sở hữu đối với tài sản cho thuê. Người thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán
tiền thuê trong suốt thời hạn đã thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng
trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu,
mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó tuỳ theo các điều kiện đã thoả thuận trong
hợp đồng thuê.

• Tiêu chuẩn làm cơ sở phân loại, phân biệt các hợp đồng thuê tài chính
Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đã đưa ra 4 tiêu chuẩn làm cơ sở chung
để phân loại và nhận biết các hợp đồng thuê tài chính:
o

Quyền sở hữu tài sản thuê có được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc
hợp đồng không? Nếu có thì đó là giao dịch thuê tài chính.

o

Hợp đồng có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng với
giá thấp hơn giá trị tài sản thuê tại thời điểm kết thúc hợp đồng không? Nếu có
là giao dịch thuê tài chính.

o

Thời gian của hợp đồng thuê có chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài
sản? nếu thoả mãn thì giao dịch thuộc thuê tài chính.


o

Giá trị hiện tại của toàn bộ tiền thuê tối thiểu do người thuê trả có bằng hoặc
lớn hơn giá trị thị trường của tài sản ở thời điểm ký kết hợp đồng? Nếu có là
giao dịch thuê tài chính.
Tất cả mọi giao dịch thuê tài sản nếu thoả mãn một trong bốn tiêu chuẩn đã nêu
thuê tài chính.
Trên cơ sở các tiêu chuẩn phân loại của IASC, mỗi quốc gia đều có quy định
cụ thể về tiêu chuẩn nhận biết thuê tài chính phù hợp với điều kiện cụ thể của
nước mình. Ở Việt Nam, ngày 9/10/1995 Chính phủ ban hành Nghị định
64/1995/NĐ-CP về Quy chế tạm thời về tổ chức hoạt động của công ty cho
thuê tài chính. Ngày 2/5/2001 Chính phủ ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP
về Tổ chức hoạt động của công ty cho thuê tài chính thay thế Nghị định 64.
Ngày 19/5/2005 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 65/2005/NĐ-CP về
sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 16. Theo các quy định hiện hành,
một giao dịch cho thuê tài chính phải thoả mãn một trong các điều kiện sau:

190

ƒ

Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền
sở hữu tài sản thuê, hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên.

ƒ

Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo
giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại.

ƒ


Thời hạn cho thuê của tài sản tối thiểu phải chiếm phần lớn thời gian sử
dụng kinh tế của tài sản cho dù không có sự chuyển giao quyền sở hữu.

ƒ

Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền
thuê tối thiểu chiếm phần lớn (tương đương) giá trị hợp lý của tài sản thuê.
v1.0


Bài 8: Nguồn tài trợ của doanh nghiệp

• Những khác biệt cơ bản của thuê tài chính so với thuê vận hành ở những
điểm chủ yếu sau:
o Thứ nhất, thời hạn thuê dài. Tuỳ theo quy định cụ thể của mỗi nước mà mức
thời gian thuê tài chính là khác nhau; nhưng nói chung, thời gian thuê thường
chiếm phần lớn thời gian sử dụng kinh tế của tài sản. Ví dụ: ở Mỹ quy định
thời hạn thuê tối thiểu là 75% vòng đời của tài sản. Nhật Bản quy định đối với
tài sản có thời gian sử dụng dưới 10 năm thì thời gian thuê tối thiểu là 70%, với
tài sản có thời gian sử dụng trên 10 năm thì thời gian thuê từ 60% thời gian hữu
dụng của tài sản trở lên. Ở Việt Nam, hiện nay theo Nghị định 65/2005/NĐ-CP
quy định thời gian thuê tài sản tối thiểu phải chiếm phần lớn thời gian sử dụng
kinh tế của tài sản.
o Thứ hai, người thuê chịu trách nhiệm bảo dưỡng, sửa chữa, bảo hành tài sản thuê
trong thời gian thuê. Trong suốt thời gian diễn ra hoạt động thuê tài sản, quyền
sở hữu tài sản vẫn thuộc về người cho thuê. Tuy nhiên, các chi phí bảo trì vận
hành, phí bảo hiểm, thuế tài sản và mọi rủi ro thường do người thuê chịu.
o Thứ ba, người thuê không được hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn (trừ trường
hợp bất khả kháng).

o Thứ tư, khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển giao quyền sở hữu,
mua lại, hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các thoả thuận trong hợp đồng thuê.
o Thứ năm, tổng số tiền thuê mà người đi thuê phải trả cho người cho thuê
thường đủ bù đắp giá gốc của tài sản. Luật của Mỹ, Anh, Nhật Bản quy định:
giá trị hiện tại của số tiền thuê tối thiểu bằng 90% giá trị ban đầu của tài sản
thuê. Việt Nam quy định tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, giá trị hiện tại của
khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu chiếm phần lớn (tương đương) giá trị hợp
lý của tài sản thuê. Giá trị hợp lý hoặc giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền
thuê tối thiểu là giá chưa có thuế giá trị gia tăng (kể cả trường hợp tài sản cố
định thuê tài chính dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp khấu trừ và
trường hợp tài sản cố định thuê tài chính dùng vào hoạt động sản xuất kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng hoặc
chịu thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp trực tiếp).
Thông thường, trong khoản tiền thuê mà người thuê trả cho người cho thuê theo
định kỳ bao gồm tiền vốn gốc, tiền lãi tín dụng, chi phí quản lý và phần lợi nhuận
hợp lý. Do vậy, nếu xét theo góc độ người thuê thì thuê tài chính là một hình thức
vay trung hạn hoặc dài hạn; còn theo góc độ người cho thuê, thì đây là hình thức
tài trợ tín dụng.
• Các hình thức chủ yếu giao dịch thuê tài chính: Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, các hình thức giao dịch thuê tài chính cũng phát triển ngày càng
phong phú, đa dạng.
o Thuê tài chính với sự tham gia của ba bên: Nội dung của hình thức giao dịch
này thể hiện như sau:
ƒ Người thuê chủ động lựa chọn máy móc, thiết bị cần sử dụng và thương
lượng về giá cả với nhà sản xuất hoặc nhà phân phối thiết bị, tiếp đó bên
thuê tiến hành thương lượng, ký hợp đồng thuê tài sản với người cho thuê
(công ty cho thuê tài chính).

v1.0


191


×