Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Thực trạng huy động vốn trong Công ty cổ phần Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.8 KB, 56 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Với mỗi công ty thì để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì
công ty cần có vốn để hoạt động. Vốn là một nhân tố sản xuất quan trọng
sống còn, quyết định đến sự thành bại của công ty. Vốn càng lớn thì tiềm lực
của công ty càng lớn, nó tạo điều kiện cho công ty dễ dàng hơn trong các
quyết định đầu tư, trong các dự án đầu tư mới như tham gia vào lĩnh vực kinh
doanh mới…
Mặc dù các công ty cổ phần cũng có các kênh huy động vốn khác như đi
vay tín dụng thương mại từ các đối tác. Mặc dù đây là một kênh huy động
vốn hiệu quả nhưng nó lại bị hạn chế vì phụ thuộc vào quy mô vốn của công
ty cổ phần nên phần vốn mà công ty có thể huy động được từ đây vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu hoạt động.
Một kênh huy động vốn khác mà công ty cổ phần đã tiếp cận là vay tín
dụng ngân hàng. Đây là một kênh huy động vốn có tiềm năng khi mà lượng
vốn vay từ đây có thể có số lượng lớn nhưng nó lại chịu nhiều rằng buộc khi
mà muốn vay được tiền từ ngân hàng hay các tổ chức tài chính thì phải đáp
ứng được các điều kiện rằng buộc như có tài sản thế chấp hay hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty phải ổn định và có hiệu quả. Do vậy mà kênh
huy động vốn này công ty cổ phần tuy đã tiếp cận nhưng vẫn còn có nhiều
rào cản.
Đó là những kênh huy động vốn mà các công ty cổ phần hiện nay đang
tiếp cận. Mặc dù từ những kênh huy động vốn này mà công ty đã huy động
được một số lượng vốn nhất định nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho
các hoạt động trong công ty.


1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Qua tìm hiểu tại các công ty cổ phần tôi thấy rằng các công ty cổ phần


Việt Nam còn có thể tiếp cận được với nhiều kênh huy động vốn khác hay là
mở rộng kênh huy động vốn hiện tại. Do vậy mà đề tài đi vào nghiên cứu các
giải pháp đẩy mạnh huy động vốn cho công ty Cổ phần Việt Nam hiện nay
đáp ứng hiệu quả sản xuất trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
2. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu đề tài.
Vì đề tài này là nghiên cứu về các kênh khai thác huy động vốn mà Công
ty cổ phần Việt Nam hiện đang tiếp cận cũng như những kênh huy động mà
các Công ty cổ phần Việt Nam vẫn còn bỏ ngỏ chưa tiếp cận vì vậy mà mục
đích nghiên cứu chủ yếu của đề tài này là tìm hiểu làm rõ những kênh huy
động vốn mà các công ty hiện đang tiếp cận. Để từ đó đi sâu phân tích những
thuận lợi của các kênh huy động vốn này. Vai trò của từng kênh trong hoạt
động khai thác vốn của công ty nói chung, xem trong các kênh huy động vốn
đó thì kênh nào là quan trọng nhất. Từ đó sẽ tìm ra được những bài học kinh
nghiệm từ kênh huy động vốn đó. Thêm vào đó còn tìm hiểu những khó
khăn, nhược điểm của những kênh huy động hiện tại, xem các kênh huy động
vốn hiện nay có những khó khăn gì trong việc huy động để tìm ra những giải
pháp nhằm khắc phục những khó khăn.
Thêm vào đó ngoài việc tìm hiểu nghiên cứu những kênh huy động vốn
đang áp dụng thì đề tài còn đi vào tìm hiểu nghiên cứu những kênh huy động
vốn khác vẫn còn chưa áp dụng tìm hiểu những ưu điểm và nhược điểm của
từng kênh huy động vốn cũng như là tìm hiểu kinh nghiệm của các Công ty
cổ phần khác trong việc áp dụng những kênh huy động vốn mà công ty chưa
áp dụng từ đó phân tích xem với điều kiện hiện tại của công ty thì nên áp
dụng kênh huy động vốn nào là hợp lý nhất, phù hợp với công ty nhất qua đó
đưa ra các giải pháp thích hợp nâng cao hiệu quả huy động vốn cho doanh
nghiệp.


2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài này là nó có những ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất là đề tài mong tìm ra được những bài học kinh nghiệm từ việc
khai thác, huy động vốn của các Công ty cổ phần Việt Nam hiện nay để từ đó
mà có thể tìm cách áp dụng những bài học kinh nghiệm, xem kinh nghiệm
nào là phù hợp để ứng dụng cho các hoạt động vốn có khả năng thu lai hiệu
quả cao nhất, là khả thi với các Công ty cổ phần nhất, tránh thực trạng là cứ
thấy một hoặc một số công ty khác áp dụng thành công một kênh huy động
vốn mới, tạo ra được nhiều vốn cho công ty thì các công ty khác theo sau thấy
thế mà áp dụng khi không có sự tìm hiểu nghiên cứu. Điều này là rất nguy
hiểm vì điều kiện của các công ty là khác nhau, hoạt động trong những điều
kiện khác nhau, trình độ của mỗi công ty là khác nhau cả về trình độ con
người cũng như là trình độ công nghệ. Từ đó sẽ dẫn đến thất bại gây thiệt hại
cho công ty. Vì vậy mà cần phải có những nghiên cứu tìm hiểu phân tích
trước khi áp dụng.
Thứ hai là đề tài tìm ra được những điểm mạnh, điểm yếu của các kênh
huy động vốn hiện tại mà các Công ty cổ phần đang áp dụng đề từ đó có
những giải pháp để khắc phục hay phát huy những điểm yếu điểm mạnh đó.
Vì nhiều khi việc mở ra một kênh huy động vốn mới đối với công ty là chưa
cần thiết khi mà ta chưa khai thác hết tiềm năng các kênh huy động vốn hiện
tại điều đó sẽ gây lãng phí cho công ty vì vậy mà ta phải xem xét kỹ càng các
kênh huy động vốn hiện tại của công ty đang áp dụng xem xét tìm hiểu những
kênh huy động vốn này liệu đã thực sự khai thác hết tiềm năng hay chưa. Nếu
thấy tiềm năng của kênh huy động vốn vẫn còn thì tại sao không tiếp tục khai
thác, hoặc tìm hiểu xem tại sao ta chưa khai thác hết tiềm năng để từ đó đề ra
những giải pháp để khai thác hết tiềm năng của những kênh huy động vốn
này. Còn nếu sau khi xem xét thấy rằng các kênh huy động vốn hiện tại ta đã
khai thác hết tiềm năng rồi không còn có thể mở rộng hơn được nữa thì từ đó


3

Website: Email : Tel : 0918.775.368
ta mới có phương án cân nhắc xem xét đến việc mở ra một kênh huy động
vốn mới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Trong đề tài này thì đối tượng nghiên cứu chủ yếu ở đây sẽ là các phương
pháp huy động vốn của các Công ty cổ phần Việt Nam để học hỏi và tham
khảo. Bao gồm các kênh huy động vốn mà họ áp dụng, giải pháp để họ có thể
thực hiện đối với từng kênh huy động vốn… Thêm vào đó cũng có thể tìm
hiểu phương pháp huy động vốn của một số Công ty cổ phần tiêu biểu. Vì khi
nghiên cứu phương pháp huy động vốn của các công ty có cùng điều kiện về
quy mô như của công ty mình thì từ đó sẽ dễ dàng hơn cho việc áp dụng các
kinh nghiệm của những công ty này vào cho công ty mình, nó sẽ phù hợp hơn
nhiều so với việc áp dụng kinh nghiệm từ các công ty lớn. Còn việc nghiên
cứu những kênh huy động vốn của các công ty lớn cũng như những giải pháp
mà họ áp dụng để thực hiện ở đây chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với công ty.
Phạm vi nghiên cứu ở đây là lĩnh vực huy động vốn của các Công ty cổ
phần Việt Nam. Vì hiện nay phần lớn các doanh nghiệp đều hoạt động
,chuyển hoá thành các công ty cổ phần nên dễ dàng đưa ra các kênh huy động
vốn mà các công ty áp dụng.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Ở đây do đề tài nghiên cứu là Giải pháp đẩy mạnh huy động vốn cho Công
ty cổ phần Việt Nam hiện nay
Phân tích những kênh huy động vốn mà các công ty hiện nay đang áp
dụng để từ đó tìm ra những thuận lợi khó khăn của những kênh huy động vốn
này. Và còn phân tích những kênh huy động vốn khác mà các công ty chưa
áp dụng tìm ra những khó khăn thuận lợi của những kênh huy động vốn này.
Từ những phân tích đó mà có những đánh giá về những kênh huy động
huy động vốn này xem các kênh huy động vốn này có ưu điểm và nhược



4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điểm gì để từ đó có thể áp dụng tìm ra các giải pháp thích hợp ứng dụng vào
các công ty cổ phần hay không.
Thêm vào đó đề tài còn sử dụng phương pháp điều tra thống kê những
kinh nghiệm của các Công ty cổ phần khác nhau.
5. Kết quả nghiên cứu dự kiến đạt được.
Với đề tài nghiên cứu này kết quả dự kiến đạt được sẽ là tìm ra được một,
một số kênh huy động vốn mới phù hợp với các công ty cổ phần Việt Nam
hiện nay .Và từ đó đề xuất những giải pháp hợp lý để có thể áp dụng thành
công các kênh huy động vốn mới này.
6. Bố cục đề tài.
Bài viết được chia thành ba phần.
Phần một: Lời nói đầu
Phần hai: Nội dung đề tài
Chương 1: Lý thuyết chung về nguồn vốn và công tác huy động vốn trong
Công ty Cổ phần
Chương 2: Thực trạng huy động vốn trong Công ty cổ phần Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp khai thác huy động vốn đầu tư trong
nước
Phần ba: Kết luận và kiến nghị.


5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGUỒN VỐN VÀ CÔNG TÁC HUY
ĐỘNG VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN.
1.1.Khái quát về nguồn vốn trong doanh nghiệp

1.1.1.Tổng quan về nguồn vốn doanh nghiệp
Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu
và nợ; mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tuỳ
thuộc tính chất của chúng. Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các
doanh nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào một loạt các
nhân tố như :
-Trạng thái của nền kinh tế.
-Ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
-Quy mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
-Trình độ khoa học - kỹ thuật và trình độ quản lý.
-Chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp
-Thái độ của chủ doanh nghiệp
-Chính sách thuế…
1.1.2.Các nguồn vốn của doanh nghiệp và phương thức huy động
Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể mỗi doanh
nghiệp có thể có các phương thức huy động vốn khác nhau.Trong điều kiện
kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp được đa
dạng hoá nhằm khai thác mọi nguồn vốn của nền kinh tế.Tuy nhiên,cần lưu ý
rằng, trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, do thị trường tài chính còn chưa
phát triển hoàn chỉnh nên việc khai thác vốn có những nét đặc trưng nhất
định. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và thị trường tài chính sẽ
sớm tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng khai thu hút vốn vào kinh
doanh.


6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sau đây là các nguồn vốn và các phương thức huy động vốn mà các doanh
nghiệp có thể sử dụng.
1.1.2.1.Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp

+Vốn góp ban đầu
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có
một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông-chủ sở hữu góp. Khi nói đến
nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức
sở hữu của doanh nghiệp đó,vì hình thức sỡ hữu sẽ quyết định tính chất và
hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của
Nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước. Hiện
nay, cơ chế quản lý tài chính nói chung và quản lý nguồn vốn của doanh
nghiệp Nhà nước nói chung và quản lý vốn vủa doanh nghiệp Nhà nước nói
riêng đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế.
Đối với các doanh nghiệp,theo Luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải
có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thanhg lập doanh nghiệp
Chẳng han, đối với công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu
tố quyết định để hình thành công ty.Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu công ty
và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy
nhiên, các công ty cổ phần cũng có một số dạng tương đối khác nhau. Trong
các loại hình doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI), các nguồn vốn cũng tương tự như trên;
tức là vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, do các bên tham gia, các đối tác đóng
góp…Tỷ lệ và quy mô góp vốn của các bên tham gia công ty phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau(như pháp luật, đặc điểm ngành kinh tế-kỹ thuật,cơ
cấu liên doanh).
+Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia


7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quy mô số vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng,
tuy nhiên thông thường số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của

doanh nghiệp.Trong quá trình sản xuất kinh doanh nếu doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả thì doanh nghiệp có những điều kiện thuận lợi để tăng
trưởng nguồn vốn.Nguồn vốn tích trữ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi
nhuận được sử dụng tái đầu tư sản xuất,mở rộng sản xuất-kinh doanh của
doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia-nguồn vốn nội bộ là phương thức tạo
nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, vì
doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí,giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất
nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, họ đặt
ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng
nhu cầu vốn ngày càng tăng.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện nếu như
doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu
tư. Đối với các doanh nghiệp Nhà nứơc thì việc tái đầu tư phụ thuộc không
chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh lợi từ bản thân doanh nghiệp mà còn phụ
thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước.
Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan
đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong
năm cho tái đầu tư, tức là không dùng lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần,các cổ
đông không được chia lãi cổ phần nhưng bù lại, họ có quyền sỡ hữu số vốn
tăng lên của công ty.
Như vậy,giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ
bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu
lâu dài,nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ
trước mắt do cổ đông chỉ nhân được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi


8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trả cổ tức thấp,hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị

giảm sút.
Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của
công ty cổ phần cần lưu ý đến môt số yếu tố có liên quan như:
-Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ
-Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước
-Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu
của công ty,tâm lý và đánh giá của công ty về cổ phiếu đó
-Hiệu quả của việc tái đầu tư
+Phát hành cổ phiếu
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ
sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới.
Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy
động vốn cho doanh nghiệp.Phát hành cổ phiêu được gọi là hoạt động tài trợ
dài hạn của doanh nghiệp.
-Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế
trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị
trường chứng khoán quan trong nhất là trao đổi, mua bán trên thị trường
chứng khoán, điều đó cũng đủ để minh chứng tầm quan trọng của nó so với
các công cụ tài chính khác.
-Cổ phiếu ưu tiên:Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ
trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp,
việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp.Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó
thường có cổ tức cố định. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh
toán lãi trước các cổ đông thường.Nếu số lãi chỉ đủ để chi trả cổ tức cho các
cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nêu rõ trong điều lệ
công ty.


9
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Phần lớn các công ty cổ phần qui định rõ: Công ty có nghĩa vụ trả hết số
lợi tức chưa thanh toán của các kỳ trước cho các cổ đông ưu tiên, sau đó mới
thanh toán cho các cổ đông thường.
Các cổ phiếu ưu đãi có thể được chính công ty phát hành thu hồi lại khi
công ty thấy cần thiết.Những trường hợp như vậy cần được quy định rõ
những điểm sau: Trường hợp nào thì công ty có thể mua lại cổ phiếu, Giá cả
khi công ty mua lại cổ phiếu, Thời hạn tối thiểu không được phép mua lại cổ
phiếu(ví dụ 5 năm)
Giá cổ phiếu tăng lên là một dấu hiệu có nhiều cơ hội đầu tư mở rộng vào
những dự án có triển vọng trong doanh nghiệp.
Tuy nhiên,người ta chưa lý giải được một cách tường tận tại sao trên thực
tế các công ty thường lựa chọn việc phát hành cổ phiếu sau khi có sự tăng giá
cổ phiếu.Một số nguyên nhân có thể là những yếu tố sau: Do đòi hỏi cân bằng
tỷ lệ nợ, Do tỷ lệ P/E ở mức cao tức là thị giá cổ phiếu tăng mạnh hơn tốc độ
tăng của tỷ suất lợi nhuận ròng, Do yếu tố tâm lý của công chúng và các nhà
đầu tư trên thị trường.
Ngoài ra,vốn chủ sở hửu của doanh nghiệp có thể được bổ sung từ phần
chênh lệch đánh giá lại tài sản cố định,chênh lệch tỷ giá.
1.1.2.2.Nợ và các phương thức huy động nợ của doanh nghiệp
+Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
Điều kiện tín dụng: Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương
mại cần đáp ứng được những yêu cầu đảm bảo tín dụng của các ngân hàng.
Doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay và những thông tin cần thiết mà ngân
hàng yêu cầu. Trước tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh
giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp vay vốn.


10
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Các điều kiện bảo đảm tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung
các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tiền
vay, phổ biến nhất là tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người đi vay có tài sản
thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được
các điều kiện vay, kể cả những thủ tục pháp lý về giấy tờ… do đó doanh
nghiệp cần tính đến yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn tính dụng ngân hàng.
Sự kiểm soát của ngân hàng: Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì
doanh nghiệp phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình
sử dụng vốn vay. Sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp,
tuy nhiên trong một số trường hợp, điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có
cảm giác bị “kiểm soát”
Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn, lãi suất
vốn vay ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong
từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi
phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp. Có những thời
kỳ ở nước ta, lãi suất vay vốn khá cao và thiếu tính cạnh tranh do đó không
tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
+Phát hành trái phiếu công ty
Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại
trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình
hình trên thị trường tài chính.
Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi
phí trả lãi,cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu.
Trước khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của
mỗi loại trái phiếu.Trên thị trường tài chính nhiều nước, hiện thường lưu
hành những loại trái phiếu doanh nghiệp như sau:


11
Website: Email : Tel : 0918.775.368

-Trái phiếu có lãi suất cố định: loại trái phiếu này thường được sử dụng
nhiều nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên
mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy cả doanh
nghiệp(người đi vay) và người giữ phiếu(người cho vay) đều biết rõ mức lãi
suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại (kỳ hạn) của trái phiếu. Việc
thanh toán lãi trái phiếu cũng thường được quy định rõ, ví dụ trả 2 lần trong
năm vào ngày 30/6 và 31/12.
-Trái phiếu có lãi suất thay đổi: Tuy gọi là lãi suất thay đổi nhưng thực ra
loại này có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác.
Chẳng hạn, lãi suất LIBOR hoặc lãi suất cơ bản.
-Trái phiếu có thể thu hồi: Một số doanh nghiệp lựa chọn phát hành những
trái phiếu có thể thu hồi, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian
nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành để người
mua trái phiếu được biết. Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời gian và giá
cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiếu. Thông thường, người ta quy định
thời gian tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi,ví dụ trong thời gian 36
tháng.
-Chứng khoán có thể thay đổi: Sự chuyển đổi và lựa chọn cho phép các
bên ( doanh nghiệp, người đầu tư) có thể lựa chọn cách thức đầu tư có lợi và
thích hợp.
Có một số hình thức chuyển đổi, ta đề cập đến 2 loại:
*Giấy bảo đảm: Người sở hửu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ
phiếu thường, được quy định trước với giá cả và thời gian xác định
*Trái phiếu chuyển đổi: là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi
thành một số lượng nhất định các loại cổ phiếu thường. Nếu thị giá của cổ
phiếu tăng lên thì người giử trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao.
1.2.Huy động vốn trong công ty cổ phần.


12

Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.1. Khái niệm và phân loại vốn.
a. Khái niệm.
Vốn trong hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện
nay không chỉ bao gồm giá trị của tiền nói chung mà vốn ở đây còn bao gồm
cả vật chất như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu… Nếu
hiểu theo nghĩa rộng hơn thì vốn ở đây còn có thể bao gồm cả vốn con người
theo đó thì vai trò của con người ngày càng trở lên quan trọng đặc biệt là khi
chúng ta sắp bước vào nền kinh tế tri thức một nền kinh tế phát triển thì theo
đó chất xám con người là một nguồn vốn vô cùng quan trọng và quý giá nhiều
khi vốn bằng tiền tệ cũng chưa sánh được so với nguồn vốn con người, vốn tri
thức.
Nhưng trong đề tài này thì chỉ đi vào tìm hiểu phân tích về vồn theo nghĩa
hẹp là vốn tiền tệ và vật chất. Vì vậy hiểu theo nghĩa hẹp một cách đơn giản
nhất thì vốn là toàn bộ giá trị của tiền và vật chất được ứng ra ban đầu và quá
trình tiếp theo để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
b. Phân loại.
Nhưng như trên đã nói thì ở đây vốn cũng có rất nhiều loại bao gồm vốn
vật chất và vốn tri thức. Hay như bên trong doanh nghiệp thì vốn cũng có bao
gồm hai loại vốn chính là vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. Hoặc cũng có thể
phân thành vốn cố định và vốn lưu động.
 Theo cách phân loại về nguồn hình thành thì bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu là lượng vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình
hình thành doanh nghiệp và được tích luỹ dần trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh mà thuộc quyền sở hữu và sử dụng của doanh nghiệp. Vốn
chủ sở hữu này được dùng để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của


13

Website: Email : Tel : 0918.775.368
doanh nghiệp. Bản thân bên trong vốn chủ sở hữu cũng bao gồm nhiều loại
như khấu hao, lợi nhuận để lại, quỹ dự phòng…
Theo đó thì lợi nhuận để lại là phần còn lại của kết quả quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh sau khi đã trừ
đi chi phí và các khoản khác như phần nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hay là
phần lợi nhuận dùng để chia cổ tức cho các cổ đông. Phần lợi nhuận để lại này
được doanh nghiệp giữ lại dùng để tiếp tục đầu tư vào quá trính sản xuất kinh
doanh trong chu kỳ tiếp theo của quá trình sản xuất, nhằm làm tăng lượng vốn
chủ sở hữu của doanh nghiệp. Đây cũng là một phần vốn rất quan trọng của
doanh nghiệp.
Khấu hao là phần giá trị của tài sản cố định mà doanh nghiệp đã đầu tư
trong quá trình sản xuất nó là nhà xưởng máy móc, thiết bị, công cụ dụng
cụ… phần khấu hao này chính là lượng vốn mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong
quá trình sản xuất.
Còn quỹ dự phòng đây cũng chính là một phần của khoản lợi nhuận để lại
của doanh nghiệp nhưng phần vốn này không được dùng để đầu tư trực tiếp
vào quá trình sản xuất mà thay vào đó nó được dùng trong những trường hợp
đặc biệt như khi có sự sụt giá hay việc kinh doanh bị thua lỗ thì phần quỹ dự
phòng này được dùng để bù đắp những thiệt hại do thua lỗ hay do trượt giá
gây ra.
- Vốn đi vay là lượng vốn mà doanh nghiệp đi vay từ bên ngoài để phục
vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Vì không một doanh nghiệp nào có thể
hoạt động với 100% lượng vốn tự có của mình được mà bao giờ họ cũng có
những khoản vốn đi vay để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn đi vay
này bao gồm rất nhiều nguồn khác nhau như vốn vay tín dụng ngân hàng là
lượng vốn mà doanh nghiệp đi vay từ các tổ chức tài chính tín dụng trong và
ngoài nước và phải chịu lãi suất đi vay. Hay vốn vay tín dụng thương mại là



14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lượng vốn mà doanh nghiệp vay của các đối tác kinh doanh như là mua
nguyên vật liệu chịu mà chưa thanh toán ngay cho bên đối tác mà hẹn thanh
toán sau có thể là sau mỗi chu kỳ kinh doanh hay sau khi bán được hàng…
Hay là vốn vay từ phát hành cổ phiếu đây cũng là một hình thức đi vay khác
của doanh nghiệp nhưng đây là vay một cách gián tiếp bằng cách phát hành cổ
phiếu vì vậy ở đây doanh nghiệp không chỉ vay của các tổ chức tín dụng tài
chính mà còn vay của các đối tác, quần chúng nhân dân các nhà đầu tư chứng
khoán. Vì khi phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán thì cổ phiếu đó sẽ
không chỉ được nhân dân mua, những nhà đầu tư chứng khoán mua mà nó còn
có thể được các tổ chức tài chính hay là các đối tác mua. Vốn có được từ việc
phát hành trái phiếu theo đó thì lượng vốn mà doanh nghiệp có được là thông
qua việc phát hành trái phiếu vay nợ ra thị trường vốn để thu hút vốn từ các
tầng lớp dân cư. Hay là vốn có được từ liên doanh, liên kết theo đó thì doanh
nghiệp sẽ có vốn khi tiến hành liên doanh liên kết với bên ngoài. Với hình
thức liên doanh liên kết này thì vừa có vốn để hoạt động lại vừa có thể tham
gia được vào thị trường mới hay là giảm thiểu rủi ro của doanh nghiệp khi thất
bại sẽ không phải chịu tất cả thua lỗ mà có doanh nghiệp khác cùng chia sẻ.
 Phân loại theo tính chất hoạt động thì có vốn cố định và vốn lưu động:
- Vốn cố định là lượng vốn ứng ra ban đầu để đầu tư vào tài sản cố định
như nhà xưởng, máy móc… nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Vốn cố định có đặc điểm là tham gia vào nhiều chu kỳ sản
xuất, được khấu hao vào từng sản phẩm trong quá trình sản xuất.
- Vốn lưu động là số tiền ứng trước để đầu tư vào tài sản lưu động, tài sản
lưu thông nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp diễn ra bình
thường.


15

Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.2. Sự cần thiết phải huy động vốn cho các hoạt động trong công ty cổ
phần.
Có thể nói vốn đối với các công ty cổ phần là rất quan trọng nó quyết định
đến sự hoạt động suôn sẻ của công ty .Mặc dù để có thể để công ty hoạt động
một cách suôn sẻ thì cần phải có nhiều yếu tố cùng tham gia vào trong đó vốn
là quan trọng, nó được coi như là máu đối với mỗi công ty cổ phần, vì chỉ khi
có vốn công ty cổ phần mới có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
được. Có vốn doanh nghiệp mới có thể thực hiện các hợp đồng, ký kết các
hợp đồng liê doanh liên kết, có vốn thì doanh nghiệp mới có thể mua sắm
trang thiết bị, thay thế các trang thiết bị cũ, đổi mới công nghệ sản xuất, trả
lương cho công nhân… Theo đó thì vốn có vai trò quan trọng đối với các hoạt
động sau.
a. Đối với hoạt động đầu tư .
Hoạt động đầu tư là hoạt động rất quan trọng thông qua hoạt động đầu tư
mà doanh nghiệp có thể tăng trưởng và phát triển. Đầu tư ở đây có thể là đầu
tư vào một dự án kinh doanh mới hay là đầu tư vào mua sắm trang thiết bị
mới, xây dựng nhà xưởng… Nhưng để có thể tiến hành hoạt động đầu tư thì
doanh nghiệp cần phải có vốn. Vốn như là dòng máu mang dinh dưỡng đến
nuôi cơ thể vậy. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp như là hoạt động nhằm
làm tăng tiềm lực cho doanh nghiệp, làm tăng quy mô của doanh nghiệp nhờ
có hoạt động đầu tư mà doanh nghiệp có thể lớn mạnh, có thể tham gia được
vào nhiều các lĩnh vực kinh doanh khác nhau… Nhưng quyết định đầu tư còn
phụ thuộc vào vốn mà doanh nghiệp có. Theo đó thì vốn có những vai trò
sau:
Quy mô của vốn mà doanh nghiệp có và có thể huy động sẽ quyết định
đến khả năng đầu tư vào dự án kinh doanh của công ty, quyết định đến quy
mô của dự án kinh doanh hay phạm vi của dự án. Vì khi công ty muốn quyết



16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
định đầu tư vào một hoạt động mới hay một dự án kinh doanh mới thì yêu cầu
đầu tiên mà doanh nghiệp cần cân nhắc là lượng vốn cần phải có để đầu tư
vào dự án, quy mô của vốn sẽ quyết định đến quy mô của dự án vì ta không
thể đầu tư vào một dự án lớn khi mà ta không có đủ vốn cần thiết, nếu như ta
cố tình đầu tư thì trong quá trình hoạt động sẽ liên tục xảy ra tình trạng thiếu
vốn từ đó sẽ dẫn đến tình trạng dự án sẽ không thể hoạt động suôn sẻ, ảnh
hưởng đến tính khả thi của dự án thậm chí nó còn gây thiệt hại tới doanh
nghiệp. Vì vậy khi quyết định đầu tư thì công ty bao giờ cũng cân nhắc tới
yếu tố vốn.
Thêm vào đó quy mô vốn cũng ảnh hưởng tới phạm vi của dự án. Vốn
càng lớn thì dự án đầu tư sẽ có phạm vi càng rộng và ngược lại nếu mà quy
mô vốn nhỏ thì phạm vi hoạt động của dự án sẽ thu hẹp từ đó mà ảnh hưởng
tới sự thành công của dự án đầu tư. Vì khi mà dự án có quy mô lớn nó sẽ đem
đến nhiều cơ hội cho doanh nghiệp có thể thu được doanh thu và lợi nhuận
lớn từ đó sẽ làm cho doanh nghiệp tăng trưởng nhanh hơn, tiềm lực của doanh
nghiệp cũng có thể được tăng lên nhưng ngược lại khi quy mô vốn nhỏ dẫn
đến quy mô dự án nhỏ không đủ bao phủ thị trường nó sẽ hạn chế khả năng
của doanh nghiệp, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp khác tham gia vào thị
trường từ đó sẽ có sự cạnh tranh lớn đối với doanh nghiệp. Quy mô vốn cũng
sẽ quyết định đến độ dài của dự án đầu tư. Vì có nhiều dự án đầu tư không thể
chỉ có đầu tư trong một kỳ sản xuất mà nó còn có thể được đầu tư qua nhiều
kỳ kinh doanh. Vì vậy cần phải có lượng vốn lớn, dự án càng lâu thì lượng
vốn yêu cầu cần có để đầu tư càng lớn.
Nói tóm lại thì quy mô của vốn mà doanh nghiệp có và có thể huy động
có vai trò quyết định đến các dự án đầu tư. Doanh nghiệp nào có quy mô vốn
càng lớn thì dự án đầu tư càng có quy mô phạm vi lớn và ngược lại.



17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tiềm lực vốn mà doanh nghiệp có sẽ quyết định đến khả năng đầu tư của
doanh nghiệp như để có thể tham gia vào một lĩnh vực kinh doanh mới hay là
mở rộng thị trường hoạt động hiện có thì cần có vốn để có thể tiến hành các
hoạt động xúc tiến thị trường. Để có thể tham gia vào lĩnh vực kinh doanh
mới thì doanh nghiệp cần phải tiến hành nhiều công việc như là mua sắm
trang thiết bị, tuyển dụng nhân công hay là tiến hành khảo sát thị trường
nhưng để có thể làm được những việc đó thì doanh nghiệp cần có vốn để mua
sắm máy móc thiết bị hay thuê nhân công… Đấy là trường hợp doanh nghiệp
muốn tự mình tham gia thị trường mới. Hoặc doanh nghiệp có thể tiến hành
liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác để cùng tham gia vào thị trường
mới, nhưng cho dù là doanh nghiệp liên doanh này hiện đang hoạt động ở thị
trường mà doanh nghiệp muốn xâm nhập hay là doanh nghiệp ở thị trường
khác thì khi tiến hành liên doanh liên kết thì doanh nghiệp cũng cần phải có
vốn đối ứng để tham gia vào liên doanh, vì nếu không có vốn đối ứng chúng
ta sẽ không thể tiến hành liên doanh được, quy mô vốn góp của mỗi bên sẽ
quyết định đến vai trò của doanh nghiệp trong liên doanh này, doanh nghiệp
có quy mô vốn càng lớn thì càng có vai trò quyết định, vai trò lớn. Vì vậy mà
tiềm lực vốn của doanh nghiệp sẽ quyết định đến khả năng tham gia vào lĩnh
vực kinh doanh mới của doanh nghiệp.
Thêm vào đó thì khi doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào thì
luôn muốn mở rộng thị trường hoạt động của mình vì khi thị trường càng
được mở rộng thì quy mô của doanh nghiệp càng lớn lên, sức mạnh của doanh
nghiệp càng được củng cố… nhưng để có thể mở rộng thị trường, tăng doanh
thu và lợi nhuận thì doanh nghiệp cần phải có đầu tư vào hoạt động xúc tiến
thị trường, đầu tư trang thiết bị máy móc, nghiên cứu để có thể nâng cao chất
lượng sản phẩm, giảm giá thành và chi phí sản xuất để có thể cạnh tranh. Vì
vậy nếu có tiềm lực vốn lớn doanh nghiệp sẽ có thể có ưu thế trong cạnh tranh



18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trên thị trường nhờ có vốn mà doanh nghiệp có thể đi trước đầu tư vào công
nghệ mới để chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị trường.
Nói chung thì với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp cho dù đó là đầu tư
vào dự án kinh doanh hay là đầu tư để tham gia lĩnh vực kinh doanh mới,
hoặc mở rộng thị trường thì yếu tố vốn là rất quan trọng nó quyết định đến sự
thành bại của hoạt động đầu tư.
b. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì vốn cũng có
vai trò quyết định đến, vì hoạt động sản xuất kinh doanh muốn được diễn ra
thì cần phải có máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, công nhân… Vì vậy cần có
vốn để đầu tư vào những nhân tố sản xuất đó. Đồng thời vốn cũng có vai trò
quyết định hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vòng quay của vốn sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của
công ty. Nếu vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì điều đó chứng tỏ hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả. Vì vòng quay của vốn ở đây
chính là nói lên vòng quay của sản phẩm, khi mà vốn được thu hồi càng
nhanh chứng tỏ rằng sản phẩm được sản xuất ra không bị tồn kho mà được
tiêu thụ trên thị trường nhờ đó mà vốn không bị ứ đọng mà luôn được luân
chuyển nhờ đó sẽ tạo ra được nhiều doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp,
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng
ngược lại khi mà vòng quay của vốn chậm thì nó sẽ phần nào nói lên thực
trạng hoạt động của doanh nghiệp, nó sẽ nói lên những khó khăn trong quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khi mà sản phẩm sản xuất ra bị
tồn kho không tiêu thụ được. Nhưng vòng quay của vốn dài hay ngắn cũng
tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như lĩnh vực sản xuất kinh doanh và đặc tính của
sản phẩm. Vì có nhiều lĩnh vực hoạt động mà cần có đầu tư lớn mà vốn thu
hồi có thể kéo dài qua nhiều chu kỳ kinh doanh như ngành xây dựng… thì cần



19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phải đầu tư nhiều mà quá trình xây dựng lại diễn ra dài ngày lên vòng quay
vốn của ngành sẽ dài hơn nhưng cũng có những ngành mà trong một chu kỳ
sản xuất thì vốn được chu chuyển nhiều lần đặc biệt trong những ngành công
nghiệp chế biến lương thực thực phẩm nên trong những ngành này vốn có
vòng quay càng ngắn thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty càng cao.
Nhưng nói chung dù trong ngành nào thì nếu có vòng chu chuyển vốn càng
ngắn thì càng có hiệu quả.
Quy mô của vốn cũng sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì
nếu có quy mô vốn lớn, tiềm lực vốn mạnh thì doanh nghiệp càng có nhiều
điều kiện để trang bị máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất nhờ đó mà có thể
nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm
nhờ đó sẽ tạo được ưu thế cạnh tranh trên thị trường cho doanh nghiệp trước
các doanh nghiệp khác. Nhờ có vốn mà doanh nghiệp cũng có thể tiến hành
các hoạt động xúc tiến thị trường, quảng bá sản phẩm rộng rãi hơn trên thị
trường… Vì khi mà có sản phẩm chất lượng tốt và giá cả hấp dẫn rồi thì vẫn
chưa đủ mà thêm vào đó thì khâu xúc tiến thị trường là rất quan trọng nó
quyết định đến sự thành công của sản phẩm nó sẽ góp phần làm cho mọi
người biết về sản phẩm để có thể mua sản phẩm. Nhưng để làm được những
việc như tăng chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, xúc tiến thị trường thì cần
phải có vốn.
Nhìn chung thì vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh là
rất quan trọng ngoài yếu tố con người ra thì vốn là rất quan trọng nó quyết
định đến hiệu quả hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh, nói lên sự hiệu
quả trong hoạt động của doanh nghiệp.
c. Đối với việc tăng tài sản.
Tài sản của doanh nghiệp cũng chính là lượng vốn mà doanh nghiệp có, ở

đây tài sản chính là biểu hiện về mặt vật chất của vốn. Số lượng tài sản mà


20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
doanh nghiệp có cũng nói lên được tiềm lực của doanh nghiệp, nói lên quy mô
của doanh nghiệp và trình độ năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì vậy mà việc tăng tài sản của doanh nghiệp luôn được doanh nghiệp tiến
hành qua các kỳ sản xuất kinh doanh, nó được tiến hành thường xuyên liên
tục trong mỗi doanh nghiệp. Nhưng việc tăng tài sản của mỗi doanh nghiệp
cũng cần phải có vốn vì tài sản ở đây là trang thiết bị máy móc nhà xưởng…
đều cần có vốn.
Nguồn vốn sẽ quyết định đến khả năng mua sắm tài sản mới của công ty.
Việc mua sắm tài sản mới sẽ góp phần làm tăng tài sản của công ty nhưng để
có thể mua được tài sản mới thì công ty cần có được một lượng vốn nhất định.
Doanh nghiệp một khi muốn mua sắm thêm tài sản mới để nâng cao năng lực
sản xuất kinh doanh của công ty, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thì
điều đầu tiên là phải cân nhắc tới số lượng vốn mà doanh nghiệp hiện có và có
thể huy động để mua sắm, việc mua sắm tài sản mới này cũng như là một dự
án đầu tư vậy do vậy mà yếu tố vốn có vai trò quyết định đến việc đầu tư mua
sắm tài sản mới.
Việc mua sắm tài sản để thay thế các tài sản cũ hỏng không thể dùng được
nữa cũng thường được diễn ra trong mỗi doanh nghiệp điều này cũng làm ảnh
hưởng tới nguồn vốn của doanh nghiệp vì việc mua sắm tài sản để thay thế
này cũng cần có vốn để tiến hành.
Nói tóm lại dù hoạt động nào trong doanh nghiệp thì cũng cần có vốn để
hoạt động, vốn như là dòng máu trong cơ thể để cho công ty có thể hoạt động
được suôn sẻ. Vốn có vai trò quan trọng quyết định đến mọi hoạt động trong
doanh nghiệp từ hoạt động đầu tư mua sắm tài sản mới hay là đầu tư vào một
lĩnh vực kinh doanh mới cũng như các hoạt động thường xuyên là hoạt động

sản xuất kinh doanh.


21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn trong công ty
cổ phần.
Việc huy động vốn trong doanh nghiệp cũng có những khó khăn, thuận lợi
nhất định. Tuỳ thuộc vào từng thời điểm mà việc huy động vốn trong doanh
nghiệp có thể được tiến hành thuận lợi hay không. Có rất nhiều nguyên nhân
ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn cho doanh nghiệp. Đó là những nhân tố
sau.
a. Quy mô.
Quy mô của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng huy động
vốn của doanh nghiệp. Thứ nhất nếu quy mô của doanh nghiệp lớn thì khả
năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn so với doanh nghiệp có
quy mô nhỏ. Khi doanh nghiệp có quy mô lớn điều đo đồng nghĩa với việc
doanh nghiệp làm ăn với quy mô lớn doanh thu hàng năm sẽ lớn từ đó dẫn
đến việc lợi nhuận để lại sẽ lớn làm cho lượng vốn tích luỹ qua các năm sẽ
lớn. Trái lại khi mà quy mô doanh nghiệp nhỏ thì ta không thể mong chờ có
được một mức doanh thu và lợi nhuận cao để có được tích luỹ vốn lớn đưa
vào đầu tư được. Từ đó mà khả năng huy động vốn từ nguồn lợi nhuận để lại
của những doanh nghiệp lớn luôn có ưu thế so với các doanh nghiệp nhỏ
khác.
Mặt khác là doanh nghiệp có quy mô lớn điều đó cũng đồng nghĩa với
việc giá trị tài sản mà doanh nghiệp có sẽ lớn hơn so với các công ty vừa và
nhỏ. Đây là một thuận lợi lớn cho các công ty lớn khi đi vay tín dụng ngân
hàng vì khi đi vay tín dụng ngân hàng thì bao giờ ngân hàng cũng căn cứ vào
giá trị tài sản mà công ty có để cho vay vốn, ta không thể vay vốn với số
lượng lớn khi mà phần giá trị tài sản của công ty nhỏ bé. Vì vậy mỗi khi đi

vay tín dụng ngân hàng các công ty lớn với giá trị tài sản lớn của mình có thể
đem ra thế chấp để vay được số lượng vốn lớn cần thiết để cung cấp vốn cho


22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những hoạt động đầu tư của mình nhưng trái lại với các công ty vừa và nhỏ thì
việc vay tín dụng ngân hàng một khối lượng vốn lớn là không dễ dàng khi mà
giá trị tài sản mà công ty có chưa nhiều nên chưa thể tạo được lòng tin đối với
ngân hàng để cho vay.
Một điểm mạnh nữa của những doanh nghiệp có quy mô lớn là doanh
nghiệp có quy mô vốn lớn thì thường hoạt động trong nhiều lĩnh vực, hoạt
động lâu trên thị trường nên có được lòng tin của khách hàng và các đối tác
nên họ có thể tiến hành vay tín dụng thương mại từ các đối tác cũng trở lên dễ
dàng. Họ có thể thoả thuận với bên đối tác kể cả bên cung cấp và bên phân
phối cho vay những khoản vay tín dụng thương mại một cách dễ dàng hơn
điều đó sẽ tạo lợi thế cho họ trong việc huy động vốn.
Một doanh nghiệp có quy mô vốn lớn cũng có thuận lợi hơn các công ty
vừa và nhỏ khác trong việc vay vốn từ kênh huy động vốn phát hành cổ phiếu
hay trái phiếu. Vì muốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ra thị trường thì
điều đầu tiên cần phải đáp ứng được là quy mô vốn của doanh nghiệp phải đủ
lớn để có thể phát hành trái phiếu nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh
nghiệp. Khi mà doanh nghiệp có quy mô lớn thì cũng đảm bảo lòng tin đối
với những nhà đầu tư khi mà các công ty lớn định phát hành trái phiếu, rõ
ràng khi phải lựa chọn giữa hai loại trái phiếu thứ nhất là của một công ty vừa
và nhỏ và một bên là của một công ty lớn thì chúng ta thường có xu hướng
chọn trái phiếu của doanh nghiệp có quy mô lớn tất nhiên sự lựa chọn này còn
phụ thuộc vào các yếu tố khác như là uy tín của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp… Với doanh
nghiệp có quy mô vốn lớn thì nguồn quỹ dự phòng mà công ty có chắc chắn

cũng sẽ lớn điều đó thuận lợi cho doanh nghiệp khi muốn huy động vốn từ
nguồn này khi mà doanh nghiệp thiếu vốn họ có thể tạm thời dùng nguồn vốn
của quỹ dự phòng này để bù đắp vào chỗ thiếu và đến cuối kỳ sẽ hoàn trả vào.


23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
b. Lĩnh vực hoạt động.
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực mà có tỷ suất lợi nhuận cao, thị
trường lớn và ổn định thì khả năng huy động vốn cũng sẽ cao hơn. Rõ ràng
khi mà hai doanh nghiệp có cùng quy mô thì yếu tố lĩnh vực hoạt động sẽ
quyết định đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Công ty nào đang
hoạt động trong những ngành mà có lợi nhuận cao, những ngành hấp dẫn thì
sẽ thu hút được rất nhiều nhà đầu tư quan tâm từ đó mà dẫn đến khả năng huy
động vốn cũng sẽ cao hơn còn trái lại doanh nghiệp doanh nghiệp nào hoạt
động trong lĩnh vực mà lợi nhuận thấp, chi phí cao thì việc thu hút vốn, thu
hút các nhà đầu tư thường là khó khăn hơn.
Thêm vào đó thì việc hoạt động trong những lĩnh vực kinh doanh mới là
một ưu thế lớn cho các doanh nghiệp khi thu hút đầu tư. Khi một ngành mới
xuất hiện chưa có nhiều nhà đầu tư tham gia vào nên thị trường còn rất lớn do
vậy mà doanh nghiệp sẽ dễ dàng chiếm lĩnh thị trường từ đó mà có được
doanh thu và lợi nhuận lớn, dễ dàng huy động vốn từ nội bộ. Đến khi các công
ty khác bắt đầu quan tâm vào lĩnh vực mới này thì doanh nghiệp đã nắm chắc
được thị trường từ đó tạo được ưu thế trước các doanh nghiệp khác trong cạnh
tranh, dễ dàng thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào doanh nghiệp hay tiến hành
liên doanh góp vốn với doanh nghiệp… lĩnh vực hoạt động ở đây cũng liên
quan đến thị trường hoạt động và những nhà cung ứng đối tác cho doanh
nghiệp.
Với một lĩnh vực hoạt động có thị trường rộng lớn, tiềm năng thì khả
năng thu hút vốn đầu tư vào đó là cao hơn rất nhiều khi mà ta hoạt động trong

một ngành mà thị trường nhỏ hẹp không thu hút được sự quan tâm của những
nhà đầu tư nên khả năng thu hút vốn đầu tư rất hạn chế. Còn việc các nhà
cung ứng đối tác cũng quan trọng vì nó quyết định đến các khoản vay tín dụng
thương mại của doanh nghiệp.


24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
c. Hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Khi mà doanh nghiệp đang hoạt động tốt, hiệu quả sản xuất kinh doanh
cao thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn rất nhiều
đối với những doanh nghiệp làm ăn đình đốn. Khi mà doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả điều đó đồng nghĩa với việc vòng quay của
vốn được rút ngắn, vốn không bị ứ đọng làm cho vốn liên tục được đầu tư tiếp
tục làm tăng giá trị đồng vốn. Hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng đồng nghĩa
với việc doanh thu và lợi nhuân của công ty sẽ lớn làm cho phần lợi nhuận để
lại của công ty lớn thì sẽ tạo được nhiều tích luỹ hơn cho doanh nghiệp, tạo
lên số lượng vốn chủ sở hữu được gia tăng.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao thì uy tín của doanh nghiệp càng
lớn càng thu hút được nhiều nhà đầu tư quan tâm, chú ý. Từ đó công ty sẽ dễ
dàng hơn khi mà kêu gọi các nhà đầu tư vào doanh nghiệp. Khi hiệu quả sản
xuất kinh doanh cao thì việc đi vay tín dụng ngân hàng và vay tín dụng
thương mại cũng trở lên dễ dàng hơn vì khi sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả
cao tạo được lòng tin đối với những nhà cho vay từ đó mà dễ dàng huy động
vốn vào để đầu tư vào những dự án kinh doanh của mình. Còn trái lại khi mà
sản xuất kinh doanh không đạt hiệu quả, vốn bị ứ đọng không lưu thông được
thì doanh nghiệp khó có khả năng huy động vốn lớn vì không thu hút được sự
quan tâm của những nhà đầu tư, không tạo được niềm tin về khả năng thanh
toán tới những nhà cho vay do vậy mà khó khăn hơn khi đi vay.
d. Uy tín.

Uy tín cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng huy động
vốn. Rõ ràng khi mà doanh nghiệp có được uy tín trên thị trường tạo được
niềm tin đối với khách hàng và đối tác, các nhà đầu tư thì doanh nghiệp sẽ dễ
dàng hơn khi thu hút đầu tư thu hút vốn. Uy tín của doanh nghiệp nhiều khi
còn quan trọng hơn cả hiệu quả sản xuất kinh doanh hay quy mô của doanh


25

×