Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

HIỆN TRẠNG KINH TẾ- XÃ HỘI, SỬ DỤNG ĐẤT VÀ GTVT QUẬN ĐỐNG ĐA- HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.25 KB, 5 trang )

Chương 2:Hiện Trạng KT- XH, Sử dụng đất và GTVT quận Đống Đa- Hà Nội
CHƯƠNGII: HIỆN TRẠNG KINH TẾ- XÃ HỘI, SỬ DỤNG ĐẤT
VÀ GTVT QUẬN ĐỐNG ĐA- HÀ NỘI.
2.1 Giới thiệu chung về hệ thống giao thông vận tải thành phố Hà Nội.
2.1.1 Hệ thống đường bộ.
a. Các trục đường bộ đối ngoại
Hiện nay mạng lưới đường ở Hà Nội có hình dạng tương đối phức tạp: Ở trung tâm Thủ
đô ( khu phố cổ) có dạng hình bàn cờ, được hình thành và tồn tại từ lâu; vùng vành đai ngoài có
dạng vòng tròn xuyên tâm, với các đường vành đai ngoài và các đường xuyên tâm nối các vùng
vành đai, các khu đô thị vệ tinh trung tâm, các đường vành đai nối liền các vùng vành đai và
trung tâm đô thị. Nhìn chung, mạng lưới đường trong thủ đô Hà Nội đều là những tuyến đường
kém chất lượng, chưa đảm bảo yêu cầu và nhu cầu đi lại của nhân dân đô thị. Hạ tầng đường bộ
ở trung tâm Hà Nội gồm 326 tuyến phố và các đường phố hiện tại đều ngắn và hẹp chất lượng
mặt đường từ trung bình đến xấu. Đặc biệt là các đường phố cổ có chiều rộng từ 6 - 8m, vì thế
tốc độ của phương tiện giao thông rất thấp; hơn nữa tại các khu phố cổ này đều có lưu lượng xe
lớn nên thường xuyên xảy ra tình trạng ùn tắc giao thông, đặc biệt trong giờ cao điểm ( Theo
một tài liệu khảo sát, lưu lượng giao thông tại các trục đường như trục Hàng Bài, Đinh Thiên
Hoàng, Tôn Đức Thắng, Khâm Thiên, Giảng Võ, Phố Huế biình quân giờ cao điểm trên 10000
HK/h).
Mật độ mạng lưới đường ở Hà Nội nhìn chung là thấp và phân bố không đồng đều, mật
độ bình quân ở khu vực nội thành là 0.87 km/km
2
( theo phương pháp đánh giá của JICA), chỉ
bằng 35-40% so với mức trung bình của thế giới.
Mạng lưới đường quốc lộ: Các tuyến đường quốc lộ này chủ yếu là những con đường
tạo ra mối liên hệ giữa Hà Nội với các tỉnh lân cận nói riêng và cả nước nói chung.
- Quốc lộ 1A phía Bắc: Đây là tuyến giao thông nối Hà Nội với cửa khẩu Đồng Đăng
( Lạng Sơn), một trong những cửa khẩu đường bộ chính giao lưu giữa Việ Nam với Trung
Quốc. Hiện nay, tuyến đường này đã được nâng cấp đạt tiêu chuẩn đường cấp 3.
- Quốc lộ 1A phía Nam: Đây là tuyến đường quan trọng xuyên suốt chiều dài cả nước
từ Bắc vào Nam. Với mục đích giảm lưu lượng hiện tại cũng như trong tương lai trên tuyến


này, hiện nay chúng ta đã và đang xây dựng các tuyến đường tránh cũng như nâng cấp tuyến.
- Quốc lộ 5: Là tuyến đường nối Hà Nội với Hải Phòng. Đây là tuyến đường có tầm
quan trọng cả về kinh tế quốc phòng, có nhiệm vụ nối liền 2 trung tâm kinh tế lớn của của vùng
kinh tế trọng điểm phía Bắc.
Đoàn Thị Thu Trang- K46
36
Chương 2:Hiện Trạng KT- XH, Sử dụng đất và GTVT quận Đống Đa- Hà Nội
- Quốc lộ 6: Tuyến đường này có nhiệm vụ nối Hà Nội với các tỉnh phía Tây và phía
Nam. Đặc biệt nối với trung tâm thuỷ điện Hoà Bình ( cách Hà Nội khoảng 70 km ).
- Quốc lộ 3 và 2: Trong những năm qua 2 tuyến đường này cũng được tập trung nâng
cấp nhằm tăng cường khả năng thông qua trên toàn tuyến. Hiện nay quốc lộ 2 nối với đường
Bắc Thăng Long - Nội Bài, tạo mối liên hệ giữa thủ đô Hà Nội với các tỉnh phía Bắc.
- Quốc lộ 32: Đây là tuyến quốc lộ bắt đầu từ thị xã Sơn Tây đi vào thủ đô ở phía Tây.
Tuyến đường này cách đây không lâu vẫn còn rất xấu, hẹp, hay xảy ra hiện tượng ùn tắc giao
thông nhưng hiện nay đã được sửa chữa nâng cấp.
- Đương cao tốc Láng – Hoà Lạc: Với chủ trương tạo cơ sở cho việc triển khai xây
dựng chuỗi đô thị đối trọng Miếu Môn – Xuân Mai – Hoà Lạc – Sơn Tây, Nhà nước đã quyết
định xây dựng tuyến đường cao tốc Láng – Hoà Lạc có độ dài hơn 30km với chất lượng cao,
đảm bảo mối liên hệ trực tiếp giữa trung tâm Hà Nội và chuỗi đô thị này.
b. Các đường vành đai
Vành đai1: Vành đai 1 có chiều dài là 23 Km, là 1 vành đai khép kín, bắt đầu từ phố
Trần Khắc Chân - Đại Cồ VIệt - đường La Thành - Đê La Thành - đường Bưởi - đường Lạc
Long Quân - đường đê Hữu sông Hồng – Trần Khắc Chân. HIện tại đoạn Trần Khắc Chân, Đại
Cồ Việt, Kim Liên - Ô Chợ Dừa, đê Hữu Hồng đã nâng cấp thành đường có 4-6 làn xe, các
đoạn còn lại của đường vành đai 1 có mặt cắt hẹp.
Vành đai II: Vành đai II có chiều dàI là 38,4Km, là 1 vành đai khép kín từ dốc Minh
Khai - đường Trường Chinh – Ngã Tư Vọng – Ngã Tư Sở - đường Láng – Cầu Giấy – Bưởi –
Lạc Long Quân - đê Nhật Tân và vượt sông Hồng từ vị trí xe Phú Thượng sang xã Vĩnh Ngọc,
qua Đông Hội, Đông Trù, Quốc lộ 5, theo quy hoạch vượt sông Hồng tại cầu Vĩnh Tuy nối vào
dốc Minh Khai. Hiện tại đoạn Ngã Tư Sở - Cầu Giấy đã được nâng cấp thành 4 làn xe, các

đoạn đường hẹp chỉ có 1-2 làn xe chưa được cải tạo nâng cấp. Các đoạn còn lại chưa hình
thành sé triển khai xây dựng trong kế hoạch 2001 -2005.
Vành đai III: Vành đai III dài 69 Km, là 1 vành đai khép kín từ Bắc Thăng Long – Nội
Bài – Mai Dịch – Thanh Xuân – Pháp Vân – cầu Thanh Trì - Sài Đồng – Cầu Đuống mới –
Ninh Hiệp – nút Đồng Xuân ( giao với tuyến đường Nội Bài - Bắc Ninh) - đường Bắc Thăng
Long – Nội Bài. Hiện Mới có đoạn Nội Bài – Mai Dịch (21Km) đã được xây dựng quy mô 4
làn xe, đoạn Phạm Hùng – Khuất Duy Tiến được xây dựng quy mô 6 làn xe, các đoạn còn lại
đang triển khai xây dựng trong kế hoạch 2010 – 2020.
c. Mạng lưới nội đô
Các đường trục chính: Các đường trục chính có 7 đường là đường Giải Phóng – Lê
Duẩn, đường Nguyễn Trãi - đường Nguyễn Lương Bằng – Tôn Đức Thắng, đường Cầu Giấy –
Kim Mã - Nguyễn Thái Học – Tràng Thi, đường Đội Cấn – Lê Hồng Phong - ĐIện Biên Phủ,
đường Hoàng Hoa Thám –Phan Đình Phùng, đường Trường Chinh – Bạch Mai – Phố Huế,
Đoàn Thị Thu Trang- K46
37
Chương 2:Hiện Trạng KT- XH, Sử dụng đất và GTVT quận Đống Đa- Hà Nội
đường Nguyễn Văn Cừ – cầu Chương Dương. Hầu hết các đường trục chính này đã được mở
từ 2-3 làn xe.
Đường phố nội đô: Đường nội đô Hà Nội có chiều dài 598 km với diện tích mặt đường
khoảng hơn 7,3km
2
. Mật độ đường bộ bình quân ở nội thành là rất thấp chỉ đạt 4,38km
đường/km
2
và 0,22 đường/1.000dân, lại được phân bố không đều: Mật độ đường quận Hoàn
Kiếm đạt 11,6 km đường/ km
2
nhưng ở quận Tây Hồ chỉ đạt 1,8 km đường/km
2
.

Các nút giao thông: Toàn thành phố Hà Nội có 610 nút giao thông ( Từ ngã 3 trở lên).
Đa số các nút giao thông là giao cắt đồng mức (trừ nút Nam cầu Chương Dương, Ngã Tư
Vọng, Ngã Tư Sở), hầu hết chưa được cải tạo, mở rộng để thoát lưu lượng giao thông. Hiện đã
có khoảng 170 nút đã được lắp đèn tín hiệu.
2.1.2 Hệ thống đường sắt.
Mạng lưới đường sắt ở Hà Nội là các trục đường sắt hướng tâm cũng chính là các trục
đường sắt quốc gia kết hợp với các tuyến đường sắt vành đai.
a. Các trục đường sắt hướng tâm
- Đường sắt Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh: Đây là tuyến đường sắt nối từ thủ đô Hà
Nội với thành phố Hồ Chí Minh chạy suốt từ Bắc vào Nam đi qua 20 tỉnh thành phố. Chiều dài
toàn tuyến là 1730 km với khổ đường dài 1000mm. Khối lượng xe cho tuyến đường sắt Bắc -
Nam chiếm một tỷ trọng lớn so với hàng hoá toàn ngành đường sắt.
Về hàng hoá: chiếm khoảng 30%
Về hành khách: chiếm khoảng 50%
Trong những năm đổi, mới tuyến đường sắt này được nhà nước quan tâm đầu tư cơ sở
hạ tầng, cầu đường, kiến trúc tầng trên, đầu máy, toa xe, thông tin, tín hiệu… làm cho chất
lượng vận tải hàng hoá, hành khách tăng lên rõ rệt.
- Đường sắt Hà Nội – Lào Cai: Đây là tuyến đi qua các tỉnh: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú
Thọ, Yên Bái, Lào Cai và các khu công nghiệp Đông Anh, Quang Minh, Việt Trì, Lâm Thao –
Bãi Bằng – khu mỏ Apatit (Lào Cai). Toàn tuyến dài gần 300m khổ đường 1000mm. Khối
lượng vận chuyển hàng hoá, hành khách, chiếm tỷ trọng lớn xếp thứ 2 sau tuyến Bắc- Nam.
Tuyến đường sắt này có tiềm năng phát triển mạnh khi hình thành hành lang Côn Minh – Hải
Phòng.
- Đường sắt Hà Nội – Thái Nguyên: Tuyến đường sắt này nối từ khu công nghiệp Gò
Đầm, khu Gang thép Thái nguyên, khu mổ than núi Hồng làng Cẩm. Đoạn đường sắt từ Hà Nội
đến Quán Triều dài 75 km trong đó đoạn từ Gia Lâm đến Lưu Xá là đường lồng 3 ray (2 khổ
1000mm và 1435mm), từ Lưu Xá đến núi Hồng khổ đường là 1000mm
- Đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn: Tuyến đường sắt từ Hà Nội đến cửa khẩu Hữu Nghị
(biên giới Việt – Trung) đi qua các tỉnh Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn dài 160km là
Đoàn Thị Thu Trang- K46

38
Chương 2:Hiện Trạng KT- XH, Sử dụng đất và GTVT quận Đống Đa- Hà Nội
tuyến đường lồng 2 khổ đường 1000mm và 1435mm, tuyến đường nay ngoài nhiệm vụ vận
chuyển hàng hoá, hành khách nội địa còn là một tuyến liên vận quốc tế.
- Đường sắt Hà Nội – Hải Phòng: Tuyến nối từ Hà Nội với thành phố Hải Phòng qua
các tỉnh Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng. Tuyến dài 102km khổ đường 1000mm
trước đây tuyến này có khối lượng vận tải lớn nhưng từ khi quốclộ 5A được nâng cấp và đưa
vào khai thác thì khối lượng vận tải có phần giảm xuống do không cạnh tranh được với vận
chuyển bằng đường bộ.
b.Tuyến đường sắt vành đai
Đường sắt vành đai Hà Nội được xây dựng theo quyết định 389/TT G của thủ tướng
chính phủ bao gồm 2 nhánh đường:
- Nhánh phía Đông: Thiết kế khổ đường 1435mm nhưng chưa xây dựng xong
- Nhánh phía Tây: Được nối từ lộ trình Km0 +000 (tương ứng tại Km 8+800) qua cầu
Thăng Long, Kim Nô Phú Diễn.
c. Mạng lưới ga đường sắt và ga phân phối chính
Đường sắt vành đai Hà Nội trở thành một vòng tròn khép kín với 11 ga trong đó có 2 ga
lập tầu khách, 2 ga lập tầu hàng là ga Hà Nội, ga Long Biên, ga Yên Viên và ga Giáp Bát.
Ngoài ra còn co các ga làm nhiệm vụ xếp dỡ và chuyển tải như các ga : Văn Điển, Gia Lâm,
Đông Anh.
2.1.3 Hệ thống giao thông đường thuỷ.
Các sông chính trên địa bàn thành phố
Sông Hồng: Đoạn từ sông Hồng chảy qua Hà Nội từ Thượng Cát – Vạn Phúc dài 47km
bề rộng 500-700m độ sâu mùa nước cạn từ 3,5 -5m mùa lũ từ 7m – 9m, diễn biến trung bình rất
phức tạp.
Sông Đuống: Phần chảy qua địa bàn Hà Nội có chiều dài 37 km. Từ ngã ba cửa Dậu đến
xã Trung Mầu Sông có nhiều đoạn cong, bãi cạn.
Sông Cầu: Nằm trên địa bàn Hà Nội dài 15 km, rộng trung bình 150m. Độ sâu mùa
nứơc cạn từ 1,2 – 1,5m.
Sông Công: Nằm trên địa bàn Hà Nội dài 12km nhưng chỉ khai thác vận tải đường thuỷ

được 2 km từ cầu Đa phúc đén ngã ba sông Cầu.
Sông Nhụê: Đoạn nằm trên địa bàn Hà Nội từ cống Liên Mai – cầu Hà Đông dài 15km.
Sông nhỏ không vận tải chủ yếu phục vụ nông nghiệp huyện Từ Liêm sông đang bị lấn chiếm
tại các đoạn nhà dân xây dựng.
Hệ thống cảng, bến tầu: Cảng Hà Nội, cảng Khuyến Lương, bến của xưởng sửa chữa
phương tiện thuỷ (công ty vận tải HN - sông Hồng), bến của xưởng sửa chữa phương tiện thuỷ
Đoàn Thị Thu Trang- K46
39
Chương 2:Hiện Trạng KT- XH, Sử dụng đất và GTVT quận Đống Đa- Hà Nội
(công ty vận tải HN - sông Hồng), bến của nhà máy đóng tầu sông Hà Nội (sông Hồng), cảng
cầu Đức Giang (sông Đuống ), cảng khách Hà Nội (sông Hồng), bến Đa Phúc (sông Công)…
2.1.4 Đường hàng không.
Hà Nội hiện có 2 sân bay:
a. Sân bay quốc tế Nội Bài
Là cảng hàng không quốc tế ở miền Bắc Việt Nam. Sân bay này là cửa ngõ giao thông
quan trọng không chỉ của thủ đô Hà Nội mà còn của cả miền Bắc. Đây là sân bay lớn thứ hai
của Việt Nam hiện nay, sau sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất ở thành phố Hồ Chí Minh. Sân bay
quốc tế Nội Bài thuộc huyện Sóc Sơn, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 45 km về phía Tây Bắc.
Sức chứa nhà ga là 4.000 hành khách, và công suất tối đa 6.000.000 hành khách/năm.
Sân bay có hai đường băng để cất cánh và hạ cánh: đường 1A dài 3.200 m, đường 1B
dài 3.800 m.
Có 3 sân đỗ máy bay A1, A2, A3 với tổng diện tích 165.224 m², 1 nhà ga hành khách
T1 với tổng diện tích 90.000 m².
Nhà ga T2 dự kiến xây dựng có 4 tầng, tổng diện tích sàn 90 ha. Công trình vào tháng 2
năm 2006 đang ở giai đoạn lập dự án nghiên cứu khả thi. Dự kiến tổng kinh phí đầu tư khoảng
31 tỉ yên Nhật.
b. Sân bay Gia Lâm
Cách thủ đô Hà Nội về phía Đông Bắc khoảng 10 km. Hiện nay sân bay chỉ làm nhiệm
vụ như sân bay nội địa.
Ngoài ra còn có sân bay Bạch Mai nằm ở phía Nam thủ đô Hà Nội ( cách trung tâm

khoảng 3km). Đây là sân bay được xây dựng từ thời pháp, hiện tại đã bị thu hẹp rất nhiều và
hầu như không hoạt động cho các loại máy bay cố định, chủ yếu sử dụng cho các loại máy bay
trực thăng và do bộ quốc phòng quản lý.
2.1.5 Hệ thống giao thông tĩnh.
a. Hệ thống bến xe liên tỉnh trong đô thị
Hiện tại Hà Nội có các bến xe liên tỉnh sau: bến xe phía Nam (Giáp bát), bến xe phía
Bắc (Gia Lâm, Long Biên), bến xe Mỹ Đình và bến xe Lương Yên. Các bến xe nay đều nằm ở
phạm vi ngoại thành nên ít ảnh hưởng đến giao thông trong khu vực nội thành. Mặt khác các
bến xe đều có xe buýt làm nhiệm vụ trung chuyển nên rất thuận tiện cho hành khách. Tuy nhiên
điều kiện bến bãi ở các bến xe liên tỉnh còn chật hẹp, không đủ diện tích phát triển lâu dài,
trang thiết bị thiếu đồng bộ, hạn chế, chưa đáp ứng đủ nhu cầu phục vụ hành khách. Bến xe
phía Nam hiện đang có dự án nâng cấp và di chuyển xuống khu vực Văn Điển.
b. Gara, bãi đỗ xe
Đoàn Thị Thu Trang- K46
40

×