Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Bài thu hoạch thực tế miền trung năm 2014 nghĩa trang liệt sĩ quốc gia trường sơn đh sư phạm TP hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 16 trang )

Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ
---------BÀI THU HOẠCH THỰC TẾ MIỀN TRUNG NĂM 2014

NGHĨA TRANG LIỆT SĨ QUỐC GIA
TRƯỜNG SƠN

SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang
MSSV: K37.602.104
Lớp: SP Lịch sử K37B
TP Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2014
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

1


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

Đầu tiên tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo nhà trường, các
thầy cô giáo trong khoa Lịch sử đã tổ chức một chuyến đi thực tế vô cùng ý nghĩa đối với
những sinh viên như chúng tôi. Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn đến thầy Ngô Sĩ Tráng,
thầy Nguyễn Chung Thủy, cô Đào Thị Mộng Ngọc đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình cho chúng tôi trong suốt chuyến hành trình.
Trên chặng đường hàng nghìn km của chuyến đi thực tế miền Trung xuất phát từ
thành phố Hồ Chí Minh ra tới Nghệ An-quê hương Bác, tôi là một trong gần 120 sinh
viên khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh có mặt trong đoàn.
Chuyến đi này thực sự là một chuyến đi thú vị và bổ ích, mười ngày là một chuyến đi
không quá dài và cũng không phải là khoảng thời gian quá ngắn, cùng với sự hướng dẫn


tận tình của thầy cô, được nghe các anh/chị hướng dẫn viên thuyết minh về các khu di
tích văn hóa lịch sử đã mang lại cho tôi nhiều trải nghiệm sâu sắc, tôi cảm thấy mình dần
trưởng thành hơn trong suy nghĩ và thêm yêu đất nước mình.
Đây là lần đầu tiên tôi được đi tham quan nhiều di tích văn hóa lịch sử như thế nên
không tránh khỏi cảm giác bồi hồi và xúc động xen lẫn tự hào. Bên cạnh đó, chuyến đi
cũng là một cơ hội để thắt chặt tình cảm thầy trò, bạn bè trở nên thân thiết và hiểu nhau
hơn.
Thông qua việc tiếp xúc với các di tích văn hóa lịch sử, sinh viên có cái nhìn trực
tiếp để đánh giá, tiếp thu kho văn hóa nhân loại. Từ chuyến đi thực tế, chúng tôi còn được
mở rộng tầm mắt, hiểu rõ hơn về những kiến thức mình đã được học về lịch sử dân tộc đã
trải qua bao thăng trầm, biến cố trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, về triều
Nguyễn hay về lịch sử Đông Nam Á…, được tự do học hỏi để có thêm kiến thức phục vụ
cho công việc giảng dạy sau này.
Ngày 07/08 và cũng là ngày đầu tiên của chuyến đi, 5h sáng chúng tôi bắt đầu lên
xe đi đến trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tại đây xe đã đón các thầy
cô sẽ đi cùng chúng tôi trong suốt chuyến hành trình. 5h30 phút chúng tôi bắt đầu rời
khỏi thành phố Sài Gòn náo nhiệt, trải qua một chặng đường khá dài để đến điểm dừng
chân đầu tiên là thành phố biển Nha Trang vừa xinh đẹp, hiền hòa lại vừa thơ mộng nằm

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

2


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

tựa lưng vào vách núi. Đến đây đoàn chúng tôi đã đi thăm Tháp bà Ponagar (17h) ở
phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Tháp Bà nằm trong cửa ngõ vào Nha Trang trên đường quốc lộ 1A vào thành phố
từ hướng Bắc, chỉ cách trung tâm chưa đầy hai cây số, nằm nép mình bên dòng sông Cái

xinh đẹp, sát bên cầu Xóm Bóng. Được xây dựng từ thế kỷ VIII, khu di tích Tháp Bà
Ponagar là một trong những quần thể kiến trúc tiêu biểu của nền văn hóa Chăm Pa, ở nơi
đây có sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật tượng tròn và chạm nổi và gần như còn nguyên
vẹn theo thời gian.
Ngày thứ hai (08/08), 5h sáng chúng tôi bắt đầu rời khỏi thành phố Nha Trang để
đến điểm dừng chân thứ hai là thành phố Đà Nẵng. Khoảng gần 8h30 phút, xe chúng tôi
đến đèo Cả, đây là một trong những đèo lớn và hiểm trở tại miền Trung Việt Nam. Đèo
cao 333 m, dài 8 km, cắt ngang qua dãy núi Đại Lãnh ở chỗ giáp ranh của hai tỉnh Phú
Yên (huyện Đông Hòa) và Khánh Hòa (huyện Vạn Ninh), trên Quốc lộ 1A. Sau khi đi hết
địa phận tỉnh Phú Yên, chúng tôi bắt đầu đi tới đèo Cù Mông. Đèo Cù Mông nằm trên
Quốc lộ 1A, cũng là một trong những đèo núi hiểm trở nhất Việt Nam, đèo là ranh giới
của hai tỉnh Bình Định và Phú Yên. Đèo dài 7km, độ cao của đỉnh đèo là 245 m, độ dốc
9%. Cuối cùng sau khi đi qua những con đèo hiểm trở, quanh co, những cánh đồng lúa
bát ngát của dải đồng bằng Bình-Phú, đồng bằng Nam-Ngãi, đến 17h30 phút, đoàn xe
chúng tôi cũng đã có mặt tại thành phố Đà Nẵng.
Trông qua tấm kính cửa xe, từ xa chúng tôi đã nhìn thấy chiếc cầu Rồng với lối
kiến trúc độc đáo có hình dáng con rồng vươn mình bay ra biển. Cầu Rồng là công trình
dựa theo hình tượng rồng thời nhà Lý, triều đại trị vì Việt Nam hơn 1.000 năm trước, qua
đó gửi gắm ước vọng vươn lên mạnh mẽ của thành phố trẻ, với tâm thế vươn ra Biển
Đông.
Về tới khách sạn, ai cũng đã thấm mệt vì chuyến đi dài hơn 500km, nhưng dường
như ai cũng muốn chuẩn bị, ăn tối thật nhanh để có nhiều thời gian hơn đi thăm cây cầu
sông Hàn quay 90o, cầu Rồng… Với cầu quay sông Hàn, cầu Rồng, Trần Thị Lý... Đà
Nẵng là thành phố có nhiều cây cầu độc đáo nhất Việt Nam cả về kiến trúc lẫn chức
năng, được mệnh danh là “thành phố của những cây cầu”. Không những thế, Đà Nẵng

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

3



Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

còn được mệnh danh là “thành phố ánh sáng” khi những cây cầu, tòa nhà, khu dân cư
đồng loạt lên đèn.
Ngày thứ ba (09/08), chúng tôi vẫn tiếp tục dừng chân ở Đà Nẵng. Nơi đến đầu
tiên trong buổi sáng của chúng tôi là Bảo tàng điêu khắc Chăm (8h10 phút). Bảo tàng này
được chính thức khánh thành vào đầu năm 1919. Thật ra, hơn 20 năm trước đó, người ta
đã tập trung về địa điểm này nhiều hiện vật điêu khắc Chăm được tìm thấy trong vùng Đà
Nẵng, Quảng Nam và các tỉnh lân cận. Đến nơi đây, được tận mắt nhìn thấy những tác
phẩm điêu khắc của người Chăm (Đài thờ Linga-Yoni, Phù điêu Vishnu, tượng Siva…),
tôi càng hiểu rõ và ngưỡng mộ nhiều hơn một nền văn hóa rất độc đáo, đã từng phát triển
rực rỡ trong lịch sử. Không những thế nó còn giúp tôi củng cố thêm những vốn kiến thức
mà tôi đã được học trong môn Lịch sử văn minh thế giới hay môn Lịch sử Đông Nam Á.
Nơi tiếp theo chúng tôi ghé đó là núi Ngũ Hành Sơn (10h30 phút), Ngũ Hành Sơn
hay còn gọi là núi Non Nước, nằm cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 8 km về
phía Đông Nam, nay thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng,
Việt Nam. Trong hệ thống năm ngọn núi ở đây, chúng tôi đã được đi thăm Thủy Sơn, đây
là ngọn núi lớn nhất, có nhiều hang động rất đẹp. Thực sự leo lên những bậc tam cấp đầu
tiên, chân tôi đã bắt đầu hơi mỏi nhưng mà được sự đốc thúc của thầy, cô cùng với sự
hướng dẫn nhiệt tình của anh hướng dẫn viên tôi đã cố gắng nhanh chóng để theo kịp
đoàn, đến nơi tôi được vào thăm những hang động huyền ảo như động Huyền Không,
hang thiên đường hay hang âm phủ. Lên đến đỉnh Thủy Sơn, tôi có thể phóng tầm mắt
nhìn thành phố Đà Nẵng bên dưới hay quang cảnh bãi biển Non Nước thơ mộng. Thật là
một khung cảnh non nước hữu tình!
Đến 14h40 phút, chúng tôi đến khu di tích Thánh địa Mỹ Sơn, trên đường đi vào
khu di tích bao quanh chúng tôi là những đồi núi trập trùng, rừng cây bát ngát. Thánh địa
Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng có đường kính khoảng 2km, xung quanh là đồi, núi.
Nhìn thấy những hiện vật còn sót lại cùng với khung cảnh nơi đây, tôi cảm nhận được sự
hùng vĩ của một nơi đã được các vua Chăm Pa chọn làm kinh đô tôn giáo xưa. Ở đây

chúng tôi còn được thưởng thức điệu múa quạt-một điệu múa dân gian của các bạn dân
tộc Chăm ở lớp bên.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

4


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

Khoảng gần 18h30 phút, điểm dừng chân cuối cùng trong ngày là phố cổ Hội An.
Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven
biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam.
Nhờ những yếu tố địa lý và khí hậu thuận lợi, Hội An từng là một thương cảng quốc tế
sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền buôn Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây trong
suốt thế kỷ XVII và XVIII. Đến đây vào ngày lễ hội Vu Lan báo hiếu (ngày 15 tháng 7
âm lịch) nên dòng người đến thăm phố cổ cũng rất đông, chúng tôi phải đi theo từng
nhóm nhỏ để không bị lạc đường. Ở đây có rất nhiều trò chơi dân gian như đập niêu đất,
trò trả thơ, viết thư pháp… hay những món ẩm thực dân gian như cao lầu, bánh bèo, bánh
tráng… Ra khỏi khu phố cổ tôi cũng đã tranh thủ mua được một vài món quà lưu niệm
xinh xắn. Đến 20h30 phút chúng tôi tập trung ra xe để lên đường về khách sạn.
Ngày thứ tư (10/08), xe chúng tôi vượt hầm Hải Vân-hầm đường bộ dài nhất Đông
Nam Á đến địa phận của tỉnh Thừa Thiên Huế và rồi đến 10h chúng tôi đến điểm dừng
chân tiếp theo, đó chính là khu di tích giới tuyến đôi bờ Hiền Lương. Vừa bước xuống xe
tôi đã cảm nhận được cái nắng, cái gió Lào hầm hập, bỏng rát nhưng dường như ai cũng
đang vui mừng, háo hức khi đến nơi đây. Đi quanh các di tích cầu Hiền Lương, cột cờ
giới tuyến, thăm Nhà trưng bày vĩ tuyến 17, trong tôi chợt nhớ tới bộ phim nổi tiếng “Vĩ
tuyến 17, ngày và đêm” được xem từ lúc còn là học sinh cấp III. Theo Hiệp định Genève,
đây là giới tuyến tạm thời, không có ý nghĩa về lãnh thổ hay chính trị, chuẩn bị cho việc
tổng tuyển cử, thống nhất đất nước vào năm 1956. Từ đây dòng Bến Hải trong xanh, êm

đềm chạy dọc vĩ tuyến 17 trở thành nơi xẻ đôi đất nước, chia lìa anh em, vợ con... bởi
người Nam, kẻ Bắc.
“Cách một con sông mà đó thương đây nhớ
Chung một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa”
Mảnh đất vĩ tuyến 17 này chính là biểu tượng về khí phách kiên cường, bất khuất
của dân tộc ta, đầy bi tráng, hào hùng và trở thành một vĩ tuyến huyền thoại.
Tới 11h chúng tôi lại tập trung ra xe và tiếp tục chuyến hành trình đến điểm dừng
chân tiếp theo là thành phố Vinh (17h30 phút). Đến tối tôi đi thăm Quảng trường Hồ Chí
Minh, đi trên Quảng trường lộng gió, trong tôi trào dâng một cảm xúc bồi hồi, khó tả.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

5


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

Nơi đây cũng có một không gian thật giống với Quảng trường Ba Đình, nơi có Lăng Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Chính giữa Quảng trường là Tượng đài Bác Hồ uy nghi mà giản dị,
vẫn phong thái ung dung tự tại, đôi dép cao su quen thuộc như ngày nào Bác về thăm
quê.
Sáng ngày hôm sau, cũng là ngày thứ năm của chuyến đi (11/08), chúng tôi đến
làng Hoàng Trù-quê ngoại Bác và làng Sen-quê nội Bác. Giọng chị hướng dẫn viên tha
thiết như điệu hò xứ Nghệ, trìu mến và có cái gì như là rưng rưng... Tôi tự hỏi “phải
chăng, miền quê nghèo khổ nhưng nghĩa tình và giàu truyền thống yêu nước cùng với lối
giáo dục của gia đình Người đã hình thành nên nhân cách một con người vĩ đại?”.
Từng gốc tre đến bờ hoa dâm bụt thắm đỏ, từng hàng cau vươn mình trong nắng
đến những mái lá đơn sơ... tất cả đều thấm hồn dân tộc, đều gợi lên trong tôi niềm tự hào
thành kính về một cuộc đời, về một nhân cách giản dị mà vĩ đại.
Sau đó đến 10h30 phút, chúng tôi đến viếng mộ bà Hoàng Thị Loan, cũng chính là

người thân sinh ra Bác. Khi chúng tôi lên núi dâng hương tưởng nhớ thân mẫu Bác Hồ,
trời nắng gắt nhưng cũng có nhiều đoàn du khách từ khắp nơi về đây một cách thành
kính.
Sau khi về khách sạn nghỉ ngơi, đến 14h chúng tôi tiếp tục đi đến đền thờ An
Dương Vương, nghe thầy Ngô Sĩ Tráng nói về những kiến thức lịch sử về vua An Dương
Vương, Mỵ Châu-Trọng Thủy và cả câu chuyện bí ẩn về hạc trời xuất hiện ở lễ hội An
Dương Vương năm 1995. Đến chiều (15h50 phút), chúng tôi còn được thầy cô đưa đến
bãi biển Diễn Thành (huyện Diễn Châu), sau năm ngày của chuyến hành trình dài, chúng
tôi đã được thư giãn và vui chơi thỏa thích.
Ngày thứ sáu (12/08), chúng tôi rời quê Bác đi thăm Khu di tích ngã ba Đồng Lộc
(7h35 phút), đây là nơi gắn liền với tên tuổi của mười cô gái thanh niên xung phong anh
hùng, biểu tượng bất tử của thế hệ trẻ Việt Nam những năm chống Mỹ.
Đồng Lộc giờ đây bình yên, tĩnh lặng với màu xanh bạt ngàn của những đồi thông,
những đồng lúa ngát hương đang thì con gái, không ai có thể tưởng tượng ra được trước
kia mảnh đất này đã oằn lưng chịu những trận mưa bom bão táp của quân thù như thế
nào.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

6


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

Qua lời giới thiệu của anh hướng dẫn viên, tôi cảm nhận được đây thực sự là một
vùng đất linh thiêng, huyền thoại, nơi mang trong mình nỗi đau thương chiến tranh một
thuở, nhưng cũng vang lên bản anh hùng ca bất diệt của lòng yêu nước và ý chí kiên
cường chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Tôi nhớ như in trong tâm trí những lời tâm sự tràn đầy tinh thần lạc quan và lòng
dũng cảm cùng ý chí chiến đấu kiên cường trong bức thư gửi mẹ của Tiểu đội trưởng Võ

Thị Tần: “Mẹ ơi, ở đây vui lắm mẹ ạ, ban đêm chúng nó thắp đèn để chúng con làm
đường, còn ban ngày chúng mang bom giết cá để chúng con cải thiện. Bom đạn của
chúng có thể làm rung chuyển cả núi rừng, nhưng không thể làm rung chuyển những trái
tim của chúng con”.
Những lời tâm sự chân thành ấy khiến tôi không thể cầm được nước mắt vì xúc
động và cảm phục. Tôi biết không chỉ mình tôi, mà lúc đó nhiều người đã cảm động mà
không cầm được những giọt nước mắt lăn dài trên má. Trước trận chiến không cân sức,
tại tuyến lửa ác liệt, các chị vẫn ung dung sống, chiến đấu như những anh hùng với tinh
thần bất khuất không bom đạn tàn khốc nào có thể lay chuyển được.
Những giọt máu thắm hồng của các chị đã thấm sâu vào đất mẹ, góp phần dựng
lên biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
Các chị thực sự là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ hôm nay và mãi mãi về sau noi theo, để
sống xứng đáng với sự hy sinh cao cả ấy.
Sau khi nghe anh hướng dẫn viên thuyết minh xong, chúng tôi đã đi ra khu mộ tập
thể của các chị để dâng lên những đóa hoa và nén nhang chân thành nhất. Chúng tôi ai
nấy đều vô cùng xúc động như cảm nhận hình ảnh của các chị đang hiện hữu đâu đó và
đang mỉm cười chào đón chúng tôi.
Đến 13h10 phút, chúng tôi đến khu mộ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở tỉnh
Quảng Bình. Tất cả các thành viên trong đoàn viếng mộ Đại tướng ai cũng kính cẩn
nghiêng mình thể hiện sự biết ơn, tôn kính đối với vị anh hùng dân tộc.
Rời Quảng Bình theo đường Trường Sơn huyền thoại, đoàn chúng tôi trở về mảnh
đất Quảng Trị kiên cường và anh dũng. Xế chiều (16h40 phút), đoàn xe chúng tôi đã có
mặt tại Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn không chỉ là nơi

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

7


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014


an nghỉ của các anh hùng liệt sỹ mà còn là một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, của tinh thần, ý chí đấu tranh giành độc lập và khát vọng hòa bình của
nhân dân ta. Đến đó, sao tôi cảm thấy mình nhỏ bé quá, nhỏ bé trước sự hy sinh lớn lao
của các anh hùng liệt sĩ. Trên mộ của các anh, các chị có thể có tên, cũng có thể chưa biết
tên nhưng các anh đã thành danh, trở thành tên chung và niềm tự hào đất nước. Sự mất
mát lớn lao của các anh, các chị đã làm nên hạnh phúc của hàng triệu, triệu gia đình và
cao hơn cả là đã làm cho đất nước, cho dân tộc được tự do, hạnh phúc.
Ngày thứ bảy (13/08), đối với tôi đây cũng là ngày khó khăn nhất trong chuyến đi
bởi thời gian gấp gáp, nhiều điểm dừng chân. Thầy cô cũng nhắc nhở chúng tôi rằng
“Hôm nay chúng ta phải ghé rất nhiều nơi nên phải nhớ chú ý sức khỏe và ra xe đúng
giờ.” Buổi sáng chúng tôi được đi Thành cổ Quảng Trị, lăng Minh Mạng, lăng Khải
Định. Sau khi ăn trưa xong, đến chiều chúng tôi lại tiếp tục chuyến hành trình đi tới chùa
Thiên Mụ, Đại Nội Huế.
Nghĩa trang Trường Sơn và Thành cổ Quảng Trị là hai địa danh đã gắn liền với
tinh thần bất khuất, kiên cường, anh dũng hy sinh của lớp lớp những người con ưu tú đã
hy sinh vì độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc.
Đến Thành cổ hãy bước nhẹ thôi! Bên dưới lớp cỏ xanh tươi hay trong dòng nước
ngọt kia còn máu xương của đồng bào, chiến sĩ-những người đã trở thành một phần của
quê hương Quảng Trị. Nghe chị hướng dẫn viên đọc, tôi cảm nhận được những câu thơ
khóc thương đồng đội vô cùng cảm động của tác giả Phạm Đình Lân trong bài “Tấc đất
Thành Cổ”:
“…Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Cho đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ
Trời cũng tự trong xanh và lộng gió
Dẫu ồn ào đừng lay mạnh hàng cây
Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Thành Cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật
Mỗi tấc đất là một cuộc đời có thật
Cho hôm nay tôi đến nghẹn ngào…”


Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

8


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

Tôi tin rằng, sự hi sinh lớn lao của chiến sĩ Thành Cổ sẽ mãi mãi được khắc ghi và
hình ảnh những nụ cười bất tử sẽ mãi sống trong tim mọi người.
Rời mảnh đất Quảng Trị anh hùng, đoàn xe chúng tôi đến thành phố Huế, nơi đã
từng là kinh đô xưa của triều Nguyễn-triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt
Nam. Huế là thành phố tràn ngập cây xanh với không khí thanh bình, yên tĩnh nhưng
cũng không kém phần nhộn nhịp, đông đúc. Huế nổi tiếng không chỉ vì là nơi tập trung
những đền đài lăng tẩm của các Vua triều Nguyễn, nơi có những ngôi chùa, nhà thờ, đền
đài nổi danh, nơi có những con người hiền lành, mến khách, mà Huế còn nổi tiếng vì có
một thiên nhiên tươi đẹp.
Đến thăm lăng Minh Mạng (10h), tôi cảm nhận được sự uy nghiêm cùng với
khung cảnh gợi tình của thiên nhiên, hoa cỏ thể hiện tính cách nghiêm khắc, tri thức uyên
bác và tâm hồn lãng mạn của nhà vua.
Đến với lăng Khải Định (11h10 phút), ta có thể dễ dàng nhận thấy điểm khác biệt
giữa lăng Khải Định và lăng của các vị vua khác, không những cảm nhận được cái truyền
thống trong nét hiện đại, mà còn thấy được sự phá cách, hài hòa trong từng đồ án trang
trí. Lăng nằm giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, qua sự biến thiên của thời gian lăng
đã ngả màu nhưng nó càng làm cho lăng thêm cổ kính... Đây thực sự là một công trình có
lối kiến trúc độc đáo pha trộn giữa nét hiện đại của Châu Âu và nét cố điển của Việt
Nam.
Đầu giờ chiều (13h30 phút), chúng tôi bắt đầu đi tới chùa Thiên Mụ. Ngôi chùa
tọa lạc trên đồi Hà Khê, bên tả ngạn sông Hương, thuộc xã Hương Long, thành phố Huế,
tỉnh Thừa Thiên Huế. Đến với Thiên Mụ, đứng trước vẻ đẹp thiên nhiên, trước công trình

đời xưa để lại, nhìn ngọn tháp Phước Duyên-ngọn tháp hùng vĩ đứng soi mình trên dòng
sông Hương duyên dáng làm lòng tôi lắng lại như để cảm nhận những giá trị lịch sử, văn
hóa, nghệ thuật của ngôi chùa này.
15h chúng tôi di chuyển đến Đại Nội Huế. Nằm ở bờ Bắc dòng sông Hương thơ
mộng, Kinh thành Huế được xây dựng trên một mặt bằng diện tích hơn 500ha, bao gồm
Hoàng Thành và Tử Cấm Thành, được gọi chung là Đại Nội. Nghe chị hướng dẫn viên và
quan sát mô hình sa bàn Đại Nội Huế tôi được biết nơi đây chính là trung tâm hành

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

9


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

chính, chính trị của triều đình nhà Nguyễn và là nơi sinh hoạt của nhà vua và hoàng gia.
Công trình Đại Nội Huế là biểu hiện của sự kết tinh về thẩm mỹ nghệ thuật, ý thức, về sự
giao cảm giữa thiên nhiên, môi trường và con người.
Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân đến cố đô Huế, tôi thực sự rất yêu thích nơi này và
bị cuốn hút bởi những họa tiết hoa văn tại các khu lăng tẩm nơi đây, bởi những con người
mến khách và những món ăn rất Huế như cơm hến, cháo hến hay các món chè… Mong
sẽ có một ngày không xa tôi lại được đến thăm thành phố Huế mộng mơ một lần nữa.
Ngày thứ tám (14/08) của chuyến đi, chúng tôi đến thăm khu di tích Mỹ Lai tại
khu vực thôn Mỹ Lai thuộc làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Vào ngày
16 tháng 3 năm 1968 một thảm hoạ đã đổ xuống ngôi làng với những người dân thường,
không có vũ khí và phần lớn trong số họ là người già, phụ nữ và trẻ em…. Với tổng số
người chết lên đến 504 người trong số đó còn có người vừa bị cưỡng bức, quấy rối, tra
tấn, đánh đập… sau đó bị bắn chết. Quả thực là một tội ác không thể dung tha!
Ðến Sơn Mỹ hôm nay, cảnh vật đã khác xưa nhưng qua những câu chuyện kể của
chị hướng dẫn viên, qua những hình ảnh, hiện vật còn sót lại (chiếc áo, đôi dép của một

cháu bé bị bắn chết; các loại chén đĩa, xoong chảo bị bắn thủng vỡ…), ai trong chúng tôi
cũng đều cảm nhận được nỗi đau khôn cùng của người dân hiền lành, chất phát của Sơn
Mỹ ngày ấy và càng không thể tha thứ cho tội ác mà quân lính Mỹ đã gây ra. Nhìn những
bức ảnh, hiện vật dường như chỉ muốn làm cho người ta chực trào nước mắt. Chiến tranh
và sự tàn bạo của nó vô cùng khủng khiếp, là nghịch trái của sự sống, nghịch trái bản
chất con người của nhân loại. Chúng ta hãy cùng nhau ngăn chặn thảm họa chiến tranh,
dù ở đâu và bất cứ lúc nào!
Đến 14h40 phút, đoàn xe chúng tôi tiếp tục chuyển bánh đến điểm dừng chân tiếp
theo-thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định (16h30 phút).
Ngày thứ chín (15/08), 7h10 phút chúng tôi rời khách sạn để đến đầm Thị Nại. Địa
điểm này lúc đầu vốn không có trong kế hoạch nhưng do sắp xếp được thời gian nên
chúng tôi đã được thầy cô cho đến đây. Tới nơi chúng tôi được nghe thầy Ngô Sĩ Tráng
nói về một vài kiến thứ liên quan đến đầm Thị Nại này, ở đây có hai sự kiện gắn với tiến
trình lịch sử cổ-trung đại Việt Nam và một sự kiện gắn với sự kiện lịch sử hiện đại Việt

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

10


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

Nam. Đến đây chúng tôi không những được mở mang tầm mắt mà còn bổ sung thêm
lượng kiến thức mà chúng tôi đã được học trong những môn học thông sử.
Đến với Bình Định, chúng tôi còn được tìm về một mảnh đất lịch sử, đó là vùng
Tây Sơn thượng võ, quê hương người anh hùng áo vải Quang Trung. Đến nơi đây chúng
tôi đi thăm Bảo tàng Quang Trung (8h45 phút), qua hình ảnh, hiện vật cùng với sự thuyết
minh của các nhân viên trong bảo tàng, tôi đã biết thêm những tư liệu sống động hơn về
vùng đất nơi sản sinh ra vị anh hùng kiệt xuất trong lịch sử nước ta. Hấp dẫn nhất phải kể
đến chương trình trình diễn trống, nhạc, các điệu võ Tây Sơn dài khoảng 30 phút, qua

phần trình bày của các nghệ nhân, võ sư trong vùng, trong đó phần đông là những chàng
trai, cô gái trẻ ở Tây Sơn. Tôi thấy thật ngưỡng mộ những con người nơi đây!
Ngày thứ mười (16/08) và cũng là ngày cuối cùng của tất cả chúng tôi trên chuyến
hành trình trở về thành phố Hồ Chí Minh.
Nhớ những mảnh đất đã đi qua, mỗi di tích văn hóa lịch sử đều để lại cho mỗi
thành viên trong đoàn những tình cảm chan chứa ân tình và cảm nghĩ sâu lắng, riêng tôi
tôi có ấn tượng sâu sắc nhất khi đến thăm Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn.
Ngày 12 tháng 8 là ngày thứ sáu trong chuyến hành trình thực tế miền Trung dài
mười ngày của khoa Lịch sử trường chúng tôi, sau khi ghé thăm di tích Ngã ba Đồng
Lộc, mộ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đoàn chúng tôi vào thăm Nghĩa trang liệt sĩ
Trường Sơn-nơi an nghỉ của hơn 10 nghìn liệt sĩ. Chưa tới nơi nhưng ai cũng bồi hồi đến
lạ, bồi hồi vì mình sắp được tự tay dâng cho các anh hùng liệt sĩ những đóa hoa tươi
thắm, những nén nhang chân tình cầu nguyện cho các anh mỉm cười nơi chín suối.
Theo như dự tính kế hoạch ban đầu, chúng tôi sẽ được nghe thuyết minh về Nghĩa
trang nhưng do có sự thay đổi nên chúng tôi đã đi thẳng vào khu Nghĩa trang liệt sĩ
Trường Sơn trên con đường quanh co, bao quanh là đồi núi và những cây thông cao vút.
Nhìn qua tấm kính của xe phần nào tôi thấy được những tấm bia lớn có khắc những dòng
chữ Khu mộ liệt sĩ tỉnh Hà Tĩnh, tỉnh Thanh Hóa; Khu mộ liệt sĩ Hà Bắc, Thanh Hóa…
và rồi đoàn xe của chúng tôi cũng đã dừng lại trước tượng đài chính trong Nghĩa trang
liệt sĩ Trường Sơn.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

11


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

Theo kiến thức tôi đã tìm hiểu trước chuyến đi thực tế, tôi được biết rằng đây là
nghĩa trang có quy mô lớn nhất Việt Nam, có kiến trúc, bố cục độc đáo, không giống

nhiều nghĩa trang liệt sĩ khác ở Việt Nam. Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn là nơi quy tập
phần mộ các liệt sĩ của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân đội Nhân dân
Việt Nam, trên tuyến đường Trường Sơn-còn được gọi là đường mòn Hồ Chí Minh.
Sau ngày đất nước thống nhất, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng đã phê chuẩn
dự án xây dựng nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tại địa bàn tỉnh Quảng Trị làm nơi tưởng
niệm, tôn vinh những người con thân yêu của Tổ Quốc đã anh dũng hy sinh xương máu
của mình trên các nẻo đường Trường Sơn vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nghĩa trang
được khởi công xây dựng vào ngày 24/10/1975 và hoàn thành vào ngày 10/4/1977. Chỉ
huy xây dựng là Bộ tư lệnh sư đoàn 559 với sự tham gia của hơn 40 đơn vị bộ đội chủ lực
và bộ đội địa phương. Ngoài ra còn có tổ công nhân chuyên khắc chữ vào bia đá xã Hoà
Hải, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.
Nghĩa trang được xây dựng trên khu vực Bến Tắt, cạnh đường quốc lộ 15, thuộc
địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị; cách thành phố Đông Hà, tỉnh
lỵ của tỉnh Quảng Trị khoảng 38 km về phía Tây Bắc, cách quốc lộ 1A (đoạn thị trấn
huyện lỵ Gio Linh) chừng hơn 20 km về phía Tây Bắc.
Nghĩa trang nằm trên ba quả đồi ở cạnh thượng nguồn sông Bến Hải, ranh giới
phân đôi đất nước thời chiến tranh Việt Nam. Đây là nơi quy tụ 10.333 phần mộ của các
liệt sỹ; phần lớn trong số họ là những chàng trai, cô gái đang ở độ tuổi mười tám đôi
mươi, cái tuổi đang xuân thì. Họ tuy sinh thành ở khắp ba miền đất nước nhưng giữa họ
có chung một hướng đi, một con đường ra trận–đó là đường mòn Hồ Chí Minh. Họ đã
chiến đấu, đã hi sinh vì sự nghiệp thống nhất đất nước.
Nghĩa trang với tổng diện tích 140.000m 2; trong đó, diện tích đất mộ là 23.000m 2,
khu tượng đài 7.000m2, khu trồng cây xanh 60.000m2, khu hồ cảnh 35.000m2 và mạng
đường ô tô rải nhựa trong khuôn viên nghĩa trang 15.000m 2. Khu trung tâm nằm trên một
ngọn đồi cao 32,4m có đài tưởng niệm bằng đá trắng cao vút uy nghiêm, rỗng ruột và
khuyết ba mặt, thể hiện nỗi mất mát vô cùng. Ở đây có 6 bức phù điêu được chạm khắc

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

12



Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

bằng đá ghi lại những hình ảnh các binh chủng của bộ đội Trường Sơn. Phía sau tượng
đài có một cây bồ đề thiêng tự mọc.
Phần đất mộ được phân thành 10 khu vực chính theo địa phương: Hà Nội, Bình
Trị Thiên, Hà Nam Ninh, Hà Sơn Bình, Hải Hưng, Thái Bình, Hà Bắc, Nghệ Tĩnh, Thanh
Hóa, Quảng Ninh, Vĩnh Phú, Hải Phòng, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Hà Tiên... là nơi
liệt sĩ sinh ra và một khu dành cho 68 liệt sĩ khuyết danh. Từ khu tưởng niệm nhìn ra phía
trước là hồ nước. Nghĩa trang nằm ở vào thế “địa linh” với đồi, núi, sông suối bao quanh.
Các phần mộ được xây kiên cố, có sơ đồ mộ chí, được các quản trang trông nom,
giữ gìn chu đáo. Lối đi được lát đá, gạch hoặc láng xi măng, hoa nở bốn mùa. Mỗi khu
đều có nhà tưởng niệm với kiến trúc phảng phất hình ảnh các vùng quê của mọi miền đất
nước. Xen kẽ các khu mộ là những cánh rừng.
Trong Nghĩa trang còn có Đại hồng chung đặt tại tháp chuông do các tổ chức và
cá nhân phát nguyện đúc và hiến cúng. Trên thân chuông có khắc lời đề từ của Giáo sư
Anh hùng Lao động Vũ Khiêu:
Bát ngát Trường Sơn hồn liệt sĩ
Dạt dào Đông Hải khí anh linh
Ba hồi chiêu mộ rung tâm trí
Muôn dặm non song nặng nghĩa tình.
Quả chuông khá to, mọi người khi đến viếng đều có thể thỉnh lên những tiếng
chuông và gởi gắm tâm nguyện của mình, cầu nguyện cho hương hồn các chiến sĩ đã hy
sinh... được siêu thoát và cầu nguyện đất nước hòa bình, nhân dân an lạc.
Trời Quảng Trị những ngày tháng 8 nắng nóng như đổ lửa. Thông thường, nếu
không có việc gì thật cần thiết thì thời tiết này, chẳng mấy ai muốn ra khỏi những chiếc
xe ô tô máy lạnh. Thế nhưng, chỉ khi ô tô dừng ở chân đồi lên nghĩa trang, ai trong chúng
tôi cũng đều muốn ra khỏi xe thật nhanh để leo những bậc thang lên các khu mộ, rồi đầu
trần đứng trang nghiêm trước Đài tưởng niệm. Ai cũng muốn nán lại lâu hơn để bày tỏ

tình cảm, sự tri ân với các tấm gương hy sinh của các anh hùng liệt sĩ.
Thực sự khi đặt chân đến đây, nhìn thấy những anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống,
dùng xương máu của mình để đổi lấy độc lập, tự do cho Tổ Quốc, được tận mắt chứng

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

13


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

kiến tất cả những đau thương, mất mát của một thời–thời của đạn bom, khói lửa; tôi biết
không chỉ có mình tôi, mà còn nhiều lắm những bạn sinh viên đã xúc động mà rơi nước
mắt. Mặc dù những sự hi sinh và mất mát đó tôi đã được học trên sách vở, trong nhà
trường nhưng nếu như không được trực tiếp đến đây, thực sự tôi cũng chưa khi nào hình
dung được những mất mát ấy lại lớn và đau thương đến thế.
Sau khi đã thắp nén hương lên trước tượng đài chính, chúng tôi tỏa ra theo từng
khu mộ để thắp hương cho các liệt sĩ. Có lẽ cũng giống như tôi, đầu tiên, ai cũng muốn
tìm đến khu mộ của địa phương mình để thắp nén nhang tỏ lòng thành kính, rồi bắt đầu
tỏa ra những khu mộ của các địa phương khác. Mặc dù từ nhỏ tôi đã sinh ra và lớn lên ở
Đăk Lăk nhưng tôi chưa bao giờ quên rằng tôi vẫn là một người con của quê hương Hà
Tĩnh, một nơi có truyền thống đấu tranh anh hùng bất khuất, kiên cường. Đứng trước
Khu mộ liệt sĩ tỉnh Hà Tĩnh, đọc tấm bia có khắc tên những anh hùng liệt sĩ, những đứa
con của mảnh đất Hà Tĩnh đã ngã xuống vì độc lập, vì tự do của Tổ quốc sao làm tôi xúc
động đến thế.
Tôi đứng lặng yên hồi lâu trước từng khu mộ, cảm nhận rõ sự bình yên, linh
thiêng, bao la của không gian nơi đây. Đông, Tây, Nam, Bắc, quay hướng nào cũng chỉ
toàn thấy mộ, cứ san sát cạnh nhau, thẳng hàng tăm tắp, thế mới thấy sự hi sinh của cha
anh to lớn đến chừng nào. Bản thân tôi khi tận tay cắm lên bát hương cho những người
chiến sĩ đã nằm xuống, nhìn những cái tên, quê quán, ngày tháng năm sinh, ngày tháng

nhập ngũ của các anh được khắc lên bia mộ khóe mắt tôi cay cay, cay không phải bởi
khói của những nén nhang mà bởi vì xúc động trước sự hi sinh của các anh. Sao tôi thấy
mình nhỏ bé quá, nhỏ bé trước những mất mát, những hi sinh, nhỏ bé trước cả một thế hệ
anh hùng đã ra đi để bảo vệ cho nền độc lập.
Nhưng dù sao, những liệt sĩ ấy có lẽ vẫn có thể ngậm cười nơi chín suối, bởi khi hi
sinh, họ còn lưu lại được tên tuổi, quê quán để những người thân, người quen mỗi lần đến
đây, còn biết đến tên tuổi của mình. Ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, trong hơn 10 nghìn
ngôi mộ, có 68 ngôi mộ liệt sĩ vô danh. Tôi không khỏi nao lòng khi nghĩ về những hàng
bia mộ chỉ đề dòng chữ lặng im “Liệt sĩ chưa biết tên” ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
cũng như ở bao nghĩa trang liệt sĩ khác.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

14


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

Gia đình tôi vốn có truyền thống cách mạng, ông nội và ông ngoại tôi đều đã từng
tham gia vào trận chiến chống Mỹ cứu nước, ba tôi cũng là một người bộ đội, qua những
câu chuyện kể của ông, của ba, của mẹ, hay những bài hát cách mạng mà từ nhỏ ba tôi đã
mở cho tôi nghe, tôi hiểu được phần nào sự khốc liệt của chiến tranh, những sự hi sinh
anh dũng của cha ông ta đi trước. Nhưng thực sự tôi cũng chưa khi nào hình dung được
những mất mát ấy lại lớn và đau thương đến thế!
Qua chuyến đi lần này, tôi đã thực sự hiểu được phần nào những mất mát mà thế
hệ trước đã phải gánh chịu để cho chúng ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc như bây giờ.
Tôi thầm cảm ơn đến những người đã hi sinh và những người thân của họ. Qua đó, tôi
thấy bản thân mình cần thay đổi, thay đổi để sống tốt hơn, để xứng đáng với những hi
sinh, mất mát của một thời. Tôi và các bạn sinh ra ở thời bình nhưng không phải vì thế
mà chúng ta được phép chủ quan, nghĩ rằng mình sống như vậy là đã tốt rồi, mà tôi nghĩ

mình phải luôn cầu tiến, phải biết tiếp thu, lắng nghe ý kiến của mọi người, sau đó chắt
lọc những ý kiến đó để hoàn thiện bản thân mình hơn.
Toàn Đảng, toàn dân đang chung tay xây dựng đất nước ngày càng to đẹp hơn như
lời Bác Hồ căn dặn. Bên cạnh những tấm gương điển hình, những anh hùng lao động
trong thời kỳ đổi mới, thì ở đâu đó vẫn còn có một số người lại đặt lợi ích cá nhân lên
trên lợi ích của tập thể. Vẫn còn không ít những bạn trẻ đầy đủ cuộc sống về vật chất
nhưng lại sai lạc về tinh thần, chỉ biết hưởng thụ mà sống thiếu trách nhiệm với bản thân,
với gia đình và xã hội. Tôi nghĩ rằng, mỗi chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ hãy tự nhìn nhận
lại mình, hãy sống có lý tưởng, có trách nhiệm để không hổ thẹn với những người con đã
dâng trọn cuộc đời mình vì độc lập tự do của Tổ Quốc.
Tôi chợt nhớ lời bài hát “Khát vọng tuổi trẻ” của nhạc sĩ Vũ Hoàng:
“… Đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho ta
Mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ Quốc hôm nay…”
Tôi nghĩ rằng chỉ cần là người dân Việt Nam, chúng ta hãy ghi nhớ những lời ấy
để rồi góp chút công lao nho nhỏ xây dựng nước nhà giàu đẹp, để sự hi sinh xương máu
của các anh, các chị không là vô ích.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

15


Bài thu hoạch thực tế miền Trung năm 2014

Và tôi cũng tin rằng đến với Nghĩa trang Trường Sơn hôm nay, không ai trong mỗi
chúng ta không cảm thấy bùi ngùi xúc động khi đọc những dòng tên của các anh, các chị
khắc trên vô vàn những ngôi mộ của biết bao người con của mọi miền Tổ Quốc đã ngã
xuống, hiến dâng cả tuổi thanh xuân vì tương lai của đất nước. Trên khắp các chiến
trường từ Nam ra Bắc, hàng vạn chiến sỹ, công an, dân công hỏa tuyến đã mãi mãi ở lại
với những cánh rừng đại ngàn.


Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

16



×