Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

CÁC GIẢI PHÁP hỗ TRỢ PHÁT TRIỂN các tổ CHỨC môi GIỚI CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.11 KB, 28 trang )

CC GII PHP H TR PHT TRIN CC T CHC MễI GII
CHUYN GIAO CễNG NGH
7.1 Nhúm gii phỏp v c ch chớnh sỏch ca nh nc cho cỏc t
chc mụi gii chuyn giao cụng ngh
7.1.1 To lp h thng c ch ng b cỏc t chc mụi gii chuyn
giao cụng ngh hot ng mt cỏch thun li
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển hớng hoạt động sâu sắc theo cơ chế thị
trờng thì các hoạt động kinh tế cũng đòi hỏi tính pháp lý chặt chẽ hơn, nhất là
trong lĩnh vc mụi gii chuyn giao cụng ngh. Đặc biệt đối với điều kiện hiện
nay của Việt Nam lại càng đòi hỏi bức xúc cần phải hoàn thiện môi trờng pháp
lý. Nhà nớc cần tập trung giải quyết sớm một số vấn đề nh: Luật về môi giới
chuyển giao công nghệ tách riêng ra ngoài phạm vi luật khoa học công nghệ. Chỉ
có nh vậy, hoạt động của các doanh nghiệp mụi gii chuyn giao khoa học công
nghệ mới có hiệu quả, cả ngời chuyn giao v ngi nhn chuyển giao mi thực
sự yên tâm, thị trờng dịch vụ môi giới chuyển giao công nghệ mới đợc vận hành
một cách thông suốt.
Trớc mắt khi cha có luật về môi giới chuyển giao công nghệ thì Chính phủ
cần ban hành Nghị định quy định về hoạt động môi giới chuyển giao công nghệ
tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy, hỗ trợ sự hình thành các tổ chức môi giới chuyển giao
công nghệ.
Việc ban hành các văn bản điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong lĩnh vực
môi giới chuyển giao công nghệ cũng cần đợc hoàn thiện và điều chỉnh theo hớng rõ ràng minh bạch hơn. Hiện nay ở nớc ta bớc đầu đã có hệ thống các văn
bản về chuyển giao công nghệ, tuy nhiên, tính khả thi của hệ thống này trong
thực tiễn cha rõ nhất là các quy định về thực hiện cung ứng dịch vụ môi giới
chuyển giao công nghệ cha rõ mà mới lồng ghép một cách ngắn gọn trong khuôn
khổ dịch vụ về khoa học công nghệ. Cần có những quy định cụ thể về dịch vụ
1


môi giới chuyển giao công nghệ với t cách là một trong những loại hình về dịch
vụ khoa học công nghệ.


Luật về môi giới chuyển giao công nghệ cần quy định cụ thể các nội dung
nh:
Về đối tợng điều chỉnh là các quan hệ kinh tế liên quan tới hoạt động môi
giới chuyển giao công nghệ
Về các tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ. Các tổ chức này có chức
năng hoạt động môi giới chuyển giao công nghệ.
Về điều kiện để thành lập tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ
Về quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức hoạt động môi giới chuyển
giao công nghệ
Về nội dung hợp đồng môi giới chuyển giao công nghệ
Về xử phạt và khen thởng đối với các tổ chức môi giới chuyển giao công
nghệ.
Việc soạn luật môi giới chuyển giao công nghệ là nhằm tạo lập cơ sở pháp
lý chặt chẽ cho hoạt động này. Tuy nhiên, luật này cần tránh hiện tợng luật
khung mà nên xây dựng luật theo hớng áp dụng luật trực tiếp nhằm tránh những
giải thích và vận dụng tuỳ tiện.
7.1.2 Chính sách về thuế đối với hoạt động môi giới chuyển giao công
nghệ về khoa học công nghệ
Để tạo điều kiện phát triển của các tổ chức môi giới chuyển giao công
nghệ, chính sách thuế đối với các tổ chức hoạt động trên lĩnh vực này cần có
những quy định mang tính hỗ trợ. Cần hoàn thiện hệ thống thuế áp dụng cho hoạt
động tham gia môi giới chuyển giao công nghệ. Chính sách thuế luôn là vấn đề
đợc các nhà đầu t quan tâm hàng đầu khi quyết định bỏ vốn đầu t vào một nớc
hay một ngành, lĩnh vực nào đó nhất là đối với các dự án về thành lập tổ chức
2


hoạt động chuyển giao khoa học công nghệ. Bởi vì, việc áp dụng các chính sách,
hệ thống thuế sẽ có ảnh hởng trực tiếp đến hiệu quả đầu t mục tiêu chính của các
nhà đầu t. Trong đầu t cho nghiên cứu khoa học công nghệ, chuyển giao và môi

giới chuyển giao công nghệ một chính sách thuế đúng đắn, rõ ràng, cụ thể về đối
tợng u đãi sẽ tạo ra sức hấp dẫn thu hút vốn đầu t nớc ngoài mà còn góp phần hớng dẫn, khuyến khích các nhà đầu t bỏ vốn vào các ngành nghề, lĩnh vực theo
đúng định hớng của Nhà nớc, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế .
Hiện nay, hệ thống thuế đối với hoạt động chuyển giao công nghệ cha
phản ảnh tính chất u đãi của nhà nớc đối với hoạt động này. Do đó, cha khuyến
khích các tổ chức và cá nhân trong nớc tham gia mạnh mẽ vào thị trờng môi giới
chuyển giao công nghệ về khoa học công nghệ.
Việc sửa đổi hoàn thiện hệ thống thuế phải đảm bảo các nguyên tắc cơ
bản, phù hợp với thông lệ quốc tế, hệ thống thuế phải đơn giản, dễ thực hiện. Bởi
vậy, các nhà đầu t cảm thấy rất đơn giản và dễ hiểu và đợc u đãi, khuyến khích
khi thực hiện các nghĩa vụ của mình khi tham gia thị trờng dịch vụ môi giới
chuyển giao công nghệ.
Các tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ cần đợc u đãi đặc biệt về mức
thuế thu nhập doanh nghiệp. áp dụng thuế suất thấp đối với các tổ chức tham gia
hoạt động môi giới chuyển giao công nghệ cần đợc lu ý. Nên áp dụng mức thuế
suất 0% cho các tổ chức mới thành lập trong một khoảng thời gian ban đầu nhằm
tạo điều kiện để phát triển dịch vụ môi giới chuyển giao công nghệ ở Việt Nam,
nhất là đối với các công nghệ liên quan tới phát triển nông nghiệp, nông thôn cần
đợc u đãi đặc biệt trong hoạt động môi giới chuyển giao.
7.1.3 Chớnh sỏch v t ai cho cỏc doanh nghip hot ng mụi gii
chuyn giao khoa hc cụng ngh
Chính sách hỗ trợ của nhà nớc nhằm thúc đẩy các tổ chức tham gia hoạt
động môi giới chuyển giao công nghệ có thể đợc nhìn nhận là vai trò bà đỡ của
3


nhà nớc cho sự phát triển của hệ thống các tổ chức tham gia hoạt động môi giới
chuyển giao công nghệ. Trong đó đặc biệt cần kể tới chính sách u đãi về đất đai
đối với các doanh nghiệp, tổ chức tham gia cung ứng dịch vụ môi giới chuyển
giao công nghệ ở Việt Nam.

Chính sách đất đai cho lĩnh vực này cần đợc u tiên theo hớng cụ thể là:
Tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp thực hiện dịch vụ môi giới
chuyển giao công nghệ đợc thuê đất với giá u đãi khi tiến hành thành lập mới các
tổ chức này. Mức u đãi cần đợc quy định cụ thể, không phân biệt đó là tổ chức
thuộc sở hữu nhà nớc hoặc tổ chức t nhân. Mức giá u đãi có thể áp dụng ngang
với mức u đãi với hệ thống giáo dục nh hiện nay.
Việc môi giới chuyển giao công nghệ không chỉ là cung cấp thông tin, hơn
thế, rất cần các địa điểm để thành lập các sàn giao dịch vể công nghệ, cung ứng
thông tin về công nghệ một cách cố định để hình thành ý tởng trong cộng đồng
doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu cung công nghệ có thể biết đợc những
địa điểm đó mà đăng ký giao dịch thông qua đó phát huy vai trò của các tổ chức
cung ứng công nghệ. Thậm chí các tổ chức môi giới cần thực hiện các sàn trng
bày về công nghệ, về mô hình công nghệ để cộng đồng doanh nghiệp có thể tận
mắt chứng kiến về đặc điểm tính năng của công nghệ. Điều này đòi hỏi những
điều kiện về mặt bằng, về địa điểm. Do đó, Nhà nớc cần có chính sách u đãi về
thuê đất, cho thuê lâu dài với giá u đãi.
Bên cạnh đó, trong những điều kiện cụ thể, nhà nớc cần tạo điều kiện hỗ
trợ giải phóng mặt bằng ở các địa phơng cần thúc đẩy phát triển hoạt động
chuyển giao công nghệ.
7.1.4 Chính sách tín dụng đối với các tổ chức môi giới chuyển giao
công nghệ
Để thúc đẩy hoạt động môi giới chuyển giao công nghệ, việc hỗ trợ ban
đầu để các tổ chức này hoạt động là cần thiết nhng những chính sách hỗ trợ trong
4


quá trình chúng hoạt động cũng cần thiết không kém. Một trong những chính
sách hỗ trợ trong hoạt động của các tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ là
chính sách tín dụng đối với khu vực hoạt động này.
Ngân hàng nhà nớc cần ban hành các quy định về cho vay đối với các tổ

chức môi giới chuyển giao công nghệ và mức u đãi thời hạn vay cũng nh lãi suất
cho hoạt động môi giới chuyển giao công nghệ về khoa học công nghệ. Cần có
chính sách về tín dụng sao cho thúc đẩy việc liên kết hoạt động giữa các tổ chức
môi giới chuyển giao công nghệ và các công ty cho thuê tài chính của các tổ
chức tín dụng ngân hàng và tín dụng phi ngân hàng. Thực hiện liên kết này sẽ tạo
ra sức sống mới đối với các tổ chức cho thuê tài chính trong việc tìm kiếm thông
tin về công nghệ khi thẩm định dự án đầu t của doanh nghiệp.
7.1.5 Chính sách về cơ chế huy động và sử dụng vốn cho nghiên cứu
khoa học công nghệ nhằm tạo nguồn cung công nghệ ra thị trờng từ đó phát
huy vai trò của các các tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ thuộc doanh
nghiệp.
Có thể thực hiện cho thành lập các tổ chức môi giới chuyển giao công
nghệ về khoa học công nghệ trong các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam hiện nay.
Để các tổ chức này hoạt động tốt cũng cần có chính sách của nhà nớc đảm bảo
cho chúng. Nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ
trong các doanh nghiệp hoạt động ăn khớp với hoạt động của các doanh nghiệp,
cơ chế về huy động sử dụng nguồn tài chính phục vụ nghiên cứu khoa học công
nghệ của doanh nghiệp cũng cần có những sự đổi mới. Từ đó, về lâu dài tạo
luồng công nghệ để chuyển giao ra thị trờng thông qua các tổ chức môi giới của
chúng. Cơ chế đó cần đợc đổi mới theo một số khía cạnh cụ thể sau:
Trớc hết, về cơ chế để huy động nguồn tài chính phục vụ cho nghiên cứu
khoa học và công nghệ của doanh nghiệp
Để có thể huy động đợc vốn phục vụ cho nghiên cứu khoa học công nghệ
trong khu vực doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, về phía chính phủ cần có những
5


quy định cụ thể về việc trích quỹ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp và
việc trích quỹ này có thể cho phép đợc tính là một khoản chi phí để xác định chi
phí sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để tránh việc các

doanh nghiệp lạm dụng quy định này nhằm tránh thuế thu nhập doanh nghiệp thì
có thể quy định mức trần mà doanh nghiệp có thể đợc phép trích lập quỹ theo
quy mô doanh thu. Việc này nhằm khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam chủ
động dành những nguồn kinh phí đáng kể để phục vụ cho hoạt động nghiên cứu
khoa học nhằm nâng cao sức cạnh tranh của họ. Những quy định nh vậy hòan
tòan không trái với những quy chuẩn quy định trong khuôn khổ WTO về trợ cấp
đối với doanh nghiệp. Nếu thực hiện đợc nh vậy, các doanh nghiệp dù lớn hay
quy mô nhỏ, thuộc mọi loại hình sản xuất kinh doanh đều có thể có những quỹ tự
thân cần thiết để đầu t cho hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ. Trớc mắt,
đối với những doanh nghiệp quy mô nhỏ thì quỹ này có thể không lớn, tuy nhiên,
về lâu dài thì đây là những nguồn vốn đáng kể đối với hoạt động khoa học công
nghệ của các doanh nghiệp.
Đối với bản thân các doanh nghiệp, để có thể huy động đợc những nguồn
vốn đầu t cho hoạt động nghiên cứu khoa học, cần đa dạng hóa các nguồn vốn
cũng nh cách thức để có đợc các nguồn vốn đó. Trong nền kinh tế thị trờng thì
các doanh nghiệp cần và nhất thiết phải quen với việc vận động tự thân là cơ bản.
Bằng sự nhạy bén và linh hoạt của mình mà tìm ra những nguồn vốn từ nội bộ
cũng nh từ bên ngoài nhằm phục vụ cho họat động nghiên cứu khoa học và công
nghệ nhằm nâng cao đợc năng lực cạnh tranh tổng hợp của chính mình.
Những nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động đợc từ bên ngòai
doanh nghiệp nhằm phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ có
thể bao gồm:
Từ nguồn vốn vay các tổ chức tín dụng. Mặc dù trên thực tế, đây là một
kênh có thể dễ dàng huy động phục vụ cho các dự án sản xuất kinh doanh cụ thể
song lại khó thực hiện đối với các dự án nghiên cứu khoa học công nghệ thuần
6


túy. Vì vậy, để có thể thực hiện huy động đợc nguồn vốn từ kên này, các doanh
nghiệp cần chủ động có những hạng mục về nghiên cứu khoa học công nghệ

trong những dự án sản xuất kinh doanh cụ thể. Điều này đòi hỏi các doanh
nghiệp phải hết sức chủ động trong việc lập và họach định dự án cũng nh những
chiến lợc kinh doanh. Vấn đề không phải ở chỗ quy mô của dự án mà mấu chốt
là tính khả thi của các dự án sản xuất kinh doanh đó mà thôi. Điều này gần nh
rất mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp
lớn trên thế giới thì việc lồng những công đoạn nghiên cứu khoa học công nghệ
mới vào những dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả nhằm tìm kiếm sự đồng thuận
từ phía các tổ chức tín dụng là hết sức bình thờng.
Việc huy động nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng có thể đợc thực hiện
đối với các tổ chức tín dụng trong nớc hoặc những tổ chức tín dụng quốc tế.
Thông thờng hiện nay các tổ chức tài chính tín dụng khu vực và quốc tế thờng có
các chơng trình cho vay đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo lập
những cơ sở kinh tế bền vững cho các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp Việt
Nam có thể khai thác thông qua các quỹ này. Tu nhiên, để có thể thực hiện đợc
những khỏan vay nh vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những chiến lợc và
những dự án sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao và thuyết phục đợc những
chuyên gia thẩm định của các tổ chức tín dụng quốc tế. Mặt khác, về phía chính
phủ cũng cần có chính sách cho phép các doanh nghiệp đợc phép vay tín dụng
trực tiếp với quy mô theo nhu cầu và bảo lãnh trong những trờng hợp cụ thể nhằm
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận đợc với những dự án và những
nguồn vốn cần thiết cho hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ. Lẽ dĩ nhiên,
việc đầu t cho nghiên cứu khoa học công nghệ có tính rủi ro hết sức cao. Rất có
thể không có những kết qủa nh mong muốn. Điều này đỏi hỏi bản thân các doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có phơng án thanh toán nợ đối
với những khoản đầu t phục vụ cho hạot động nghiên cứu khoa học công nghệ.
Bên cạnh nguồn vốn tín dụng, các doanh nghiệp có thể huy động nguồn
vốn cho hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ từ các quỹ đầu t mạo hiểm.
7



Để thực hiện đợc nguồn vốn từ các quỹ này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có
những ý tởng có triển vọng và khả năng rủi ro thấp. Đó phải là những dự án
nghiên cứu nhằm tạo ra những sản phẩm có tính cạnh tranh và có triển vọng thị
trờng tốt. Thông thờng các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp và những
lĩnh vực kinh doanh mũi nhọn của nền kinh tế có thể thực hiện đợc nguồn vốn
này. Bởi lẽ những sản phẩm của ngành công nghiệp mũi nhọn thờng có những
triển vọng thị trờng tốt. Trong trờng hợp này rất có thể những dự án nghiên cứu
tạo sản phẩm và công nghệ mới của doanh nghiệp sẽ thu hút đợc sự quan tâm của
các quỹ đầu t mạo hiểm.
Về cơ chế sử dụng nguồn vốn đầu t cho hoạt động nghiên cứu khoa
học công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với cơ chế sử dụng vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nớc.
Việc sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nớc hỗ trợ cho nghiên cứu
khoa học thể hiện vai trò bà đỡ của Nhà nớc đối với hoạt động đầu t nghiên cứu
khoa học công nghệ cho các doanh nghiệp. Mặc dù tự ý thức đợc rằng doanh
nghiệp phải tự đầu t cho nghiên cứu khoa học công nghệ và đây là cách thức khả
quan nhất, song đa số các doanh nghiệp vẫn mong muốn đợc sự hỗ trợ của nhà nớc để đầu t cho nghiên cứu khoa học công nghệ.
Để nguồn vốn đầu t cho nghiên cứu khoa học công nghệ từ ngân sách hỗ
trợ các doanh nghiệp theo chúng tôi cần thực hiện theo mô hình nhà nớc tham gia
tài trợ cho nghiên cứu bằng cách cho doanh nghiệp vay để đầu t cho các nhà khoa
học nghiên cứu. Nguồn vốn vay đợc thực hiện tài trợ cho các nhà khoa học dới
hình thái các đề tài. Kết quả nghiên cứu đợc đa vào doanh nghiệp áp dụng. Căn
cứ trên kết quả đó doanh nghiệp trả lại tiền cho nhà nớc. Với quá trình đó, doanh
nghiệp sẽ thu đợc công nghệ để phụ cvụ cho sản xuất kinh doanh, nhà nghiên cứu
có thu nhập từ kết quả nghiên cứu, nhà nớc lại thu hồi đợc vốn đã đầu t. Lẽ dĩ
nhiên, điều kiện để thực hiện cơ chế này là doanh nghiệp phải có những dự án
thực sự hiệu quả xuất phát từ chính quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Đó
8



là những dự án nghiên cứu thực tiễn. Những dự án này sẽ đợc đặt hàng các nhà
nghiên cứu hoặc các cơ quan nghiên cứu. Việc đặt hàng đó dựa trên quan hệ hợp
đồng. Nếu sản phẩm đáp ứng đợc nhu cầu nh đã định thì doanh nghiệp sẽ nhận đợc công nghệ thiết bị còn nhà nghiên cứu nhận đợc kinh phí.
Để có thể sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động đợc nhằm phục vụ cho
hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam cần
có những cơ chế giám sát và sử dụng hiệu quả. Việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn
đầu t cho hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ nhằm tạo lập cơ sở lâu dài
và duy trì sức cạnh tranh của doanh nghiệp và đó cũng chính là biểu hiện của
việc sử dụng nguồn vốn có hiệu quả.
Bên cạnh đó, Nhà nớc có thể hỗ trợ đầu t cho nghiên cứu khoa học công
nghệ bằng các biện pháp hình thành các tổ chức tài chính thuộc Chính phủ ngoài
công ty tài chính nhà nớc. Thành lập công ty đầu t mạo hiểm, ngân hàng hợp tác
trung ơng về thơng mại và công nghiệp, công ty đầu t an toàn quốc gia.
Kinh nghiệm của các nớc trên thế giới về hỗ trợ từ ngân sách nhà nớc với
hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
thông qua cơ chế các thể chế tài chính nh vậy đã cho thấy những tác động tích
cực đối với nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp.
Các hỗ trợ đợc thực hiện dới dạng những khoản cho vay thông thờng lãi
suất thấp hoặc các khoản vay đặc biệt vớu những u đãi theo các mục tiêu phát
triển quốc gia.
+ Theo hệ thống hỗ trợ tăng cờng cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuỳ theo điều kiện của các khu vực doanh
nghiệp và tính u tiên đối với mục tiêu phát triển trong những giai đoạn khác nhau
mà thực hiện cho vay các khoản vay thông qua quỹ chung.
+ Kế hoạch cho vay nhằm cải tiến trình độ cán bộ làm khoa học công
nghệ của các doanh nghiệp. Cho vay để cử đi đào tạo của các doanh nghiệp nhằm
9


nâng cao năng lực công nghệ. Những khoản vay này không đòi hỏi các doanh

nghiệp phải thế chấp.
+ Công ty Trách nhiệm hữu hạn t vấn và đầu t cho nghiên cứu khoa học
công nghệ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ cần đợc thành lập để tăng khả năng huy
động vốn cho nghiên cứu khoa học công nghệ của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngoài ra, chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua cơ
chế các chơng trình sáng tạo quốc gia cụ thể để các doanh nghiệp có thể tham gia
vào và đợc hởng những u đãi về nguồn vốn trong các chơng trình đó.
Các chơng trình sáng tạo quốc gia có thể là kênh bảo lãnh cho các doanh
nghiệp vay vốn để đầu t cho nghiên cứu khoa học công nghệ. Các doanh nghiệp
vừa và nhỏ muốn tăng vốn cổ phần hoặc trái phiếu của công ty cần đợc hỗ trợ bởi
các chơng trình nh vậy để các doanh nghiệp thuộc các địa phơng xa trung tâm
cũng có thể có những nguồn vốn nhất định để đầu t cho nghiên cứu khoa học
công nghệ.
Các doanh nghiệp hoạt động mang tính đổi mới bằng nghiên cứu khoa
học công nghệ có thể thực hiện đợc nguồn vốn tài trợ từ ngân sách thông qua các
chơng trình sáng tạo quốc gia. Các quỹ rủi ro thuộc các chơng trình quốc gia
cũng sẽ là một kênh tài trợ cho hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Những khoản đầu t cho doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các chơng
trình quốc gia cũng cần đợc thực hiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong các
khâu nghiên cứu chế thử sản phẩm mới, thiết kế các sản phẩm mới, những quy
trình nghiên sáng tạo công nghệ mới.
Để hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong doanh nghiệp đợc hiệu quả thì việc huy động và sử dụng vốn cho hoạt động này thông qua đó
phát huy đợc vai trò của các tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ thuộc tổ
chức đó, cần quán triệt một số quan điểm cụ thể là:
10


Đa dạng hoá các kênh huy động nguồn tài chính cho đầu t nghiên cứu
khoa học công nghệ của doanh nghiệp

Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng và Nhà nớc ta chủ trơng tích tụ và tập trung mọi nguồn vốn trong và ngoài nớc để phát triển nền kinh
tế nói chung. Trong đó, nguồn tài chính trong nớc có ý nghĩa quyết định, nguồn
tài chính ngoài nớc có ý nghĩa quan trọng. Việc kết hợp có hiệu quả hài nguồn
này cũng chính là thực hiện một nội dung quan trọng, đó là cần kết hợp tiềm
năng sức mạnh của nội lực với khả năng có thể tranh thủ ở các nguồn lực bên
ngoài để thúc đẩy nền kinh tế tăng trởng nhanh chóng.
Chiến lợc lâu dài là phải tích tụ tập trung tối đa nguồn tài chính trong nớc
để chiếm tỷ trọng cao trong đầu t phát triển của các doanh nghiệp. Tuy nhiên,
cần phải nhìn nhận mối quan hệ này một cách biện chứng: ở giai đoạn đầu, phát
triển của các doanh nghiệp đòi hỏi nguồn tài chính lớn, trong khi nguồn trong nớc còn rất hạn hẹp thì cần phải huy động thêm vốn bên ngoài cho nhu cầu đầu t
nghiên cứu phát triển, nhng phải thực hiện theo nguyên tắc đảm bảo hiệu quả
kinh tế, trả đợc nợ và không bị chi phối về chính trị.
Phải kết hợp và sử dụng đồng bộ, có hiệu quả hệ thống định chế tài
chính, các phơng pháp và công cụ tài chính trong huy động vốn cho đầu t
nghiên cứu khoa học công nghệ của doanh nghiệp
Việc khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn tài chính cho
đầu t nghiên cứu khoa học công nghệ thì không thể sử dụng các biện pháp, hình
thức đơn giản, hạn chế mang tính cục bộ, riêng rẽ. Trong điều kiện nền kinh tế
thị trờng và sự ra đời và phát triển của hệ thống thị trờng tài chính, tiền tệ mà đặc
biệt là thị trờng chứng khoán, thì việc huy động nguồn tài chính đòi hỏi phải kết
hợp và phát huy tổng hợp sức mạnh của toàn bộ hệ thống quản lý kinh tế, hệ
thống tài chính tiền tệ, với các phơng pháp huy động phù hợp, linh hoạt và hiệu
quả. Trong đó, việc phối hợp và phát huy có hiệu quả các hệ thống định chế, các

11


công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng, và phải đợc xem nh là một trong những yếu tố
đóng vai trò quyết định.
Kết hợp khai thác tối đa các nguồn tài chính với việc sử dụng tiết

kiệm, có hiệu quả các nguồn tài chính cho đầu t nghiên cứu khoa học công
nghệ của doanh nghiệp
Các nguồn tài chính trong nền kinh tế rất đa dạng và phong phú, tồn tại ở
nhiều lĩnh vực, khu vực và đối tợng khác nhau. Các nguồn đó thờng không tập
trung và tồn tại rải rác khắp trong các lĩnh vực của nền kinh tế, các khu vực,
thành phần khác nhau. Mỗi nguồn tài chính đó có những đặc điểm, quy mô và
trạng thái tồn tại khác nhau, đồng thời để khai thác sử dụng các nguồn vốn đó
cũng cần phải sử dụng các hình thức huy động khác nhau. Với những nhu cầu tài
chính cho đầu t nghiên cứu khoa học công nghệ rất lớn nh các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay, thì chỉ với một vài nguồn vốn sẽ không đủ để đáp ứng cho toàn bộ
nhu cầu đầu t.
Vì vậy, để đảm bảo nhu cầu vốn đầu t nghiên cứu khoa học công nghệ,
cần phải kết hợp khai thác và sử dụng tổng hợp các nguồn tài chính sẵn có trong
nền kinh tế, trong dân c, cũng nh các nguồn vốn nớc ngoài... tạo nên sự đa dạng,
phong phú của các nguồn tài chính nhằm có thể huy động đợc để phục vụ cho
hoạt động nghiên cứu và triển khai.
Thực hiện đờng lối và quan điểm tiết kiệm trong đầu t nghiên cứu khoa
học công nghệ. Tiết kiệm phải đợc thực hiện ngay từ khâu đầu t, tiết kiệm trong
sử dụng nguồn tài chính phải phù hợp với yêu cầu, mục tiêu, chiến lợc kinh
doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động nghiên cứu khoa học công
nghệ và hoạt động chung của các doanh nghiệp.
Huy động nguồn tài chính cho đầu t nghiên cứu khoa học công nghệ
phải đảm bảo có nguồn trả nợ

12


Huy động vốn cho đầu t nghiên cứu khoa học công nghệ là một vấn đề hết
sức quan trọng và bức bách đối với các doanh nghiệp. Đồng thời, sử dụng vốn có
hiệu quả và đảm bảo nguồn trả nợ là vấn đề có tính quyết định đối với sự tồn tại

và phát triển của các doanh nghiệp. Để huy động đợc nguồn tài chính, các doanh
nghiệp cần chỉ ra đợc mục đích sử dụng nguồn tài chính và phải trình các luận
chứng khả thi với ngời cho vay, đồng thời phải chỉ ra nguồn để trả nợ cho các
khoản vay. Điều đó quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Vì vậy, khi tính
toán và thực hiện việc huy động nguồn tài chính cần phải xác định rõ ràng và
chắc chắn các nguồn vốn để trả nợ sau này (kể cả nợ gốc và lãi), phải tính toán
chính xác tính khả thi của các dự án đầu t nghiên cứu khoa học công nghệ cũng
nh hoạt động sản xuất kinh doanh có nhu cầu huy động vốn.
Hoàn thiện các giải pháp huy động nguồn tài chính cho nghiên cứu
khoa học công nghệ phải gắn với việc chuyển đổi, hoàn thiện mô hình tổ chức
và cơ chế quản trị kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo yêu cầu
của kinh tế thị trờng và hội nhập
Để làm tốt đợc vai trò quan trọng các doanh nghiệp là lực lợng hàng đầu
trong hội nhập kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trờng, các doanh nghiệp
phải có tiềm lực kinh tế và khả năng tích tụ vốn lớn. Điều đó đòi hỏi các doanh
nghiệp phải phát huy đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp huy động vốn phù
hợp với quy mô, tầm cỡ của mỗi doanh nghiệp, phù hợp với các hình thức tổ
chức, sở hữu và cơ chế tài chính của mình cũng nh sự phát triển của nền kinh tế
thị trờng mà nhất là hệ thống thị trờng tài chính tiền tệ.
Các giải pháp huy động nguồn tài chính cho nghiên cứu khoa học công
nghệ của các doanh nghiệp phải gắn với sự tự chủ về tài chính, áp dụng tổng hợp
các giải pháp huy động, trong đó chú trọng việc phát huy đồng bộ các định chế
tài chính và hệ thống công cụ tài chính tiền tệ, tham gia tích cực và có hiệu quả
vào thị trờng tài chính tiền tệ trong nớc và quốc tế.

13


Qua nghiên cứu hoàn thiện các giải pháp cơ chế nhằm tạo thuận lợi
cho đầu t tham gia thành lập các tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ Việt

Nam theo hớng kinh tế thị trờng, rút ra một số kết luận nh sau:
Một là: Để có thể huy động và sử dụng hiệu quả nguồn tài chính cho đầu t
thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ môi giới chuyển giao công nghệ phục vụ
hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển trong tơng lai đòi hỏi các doanh
nghiệp phải đợc sự hỗ trợ tạo điều kiện từ phía nhà nớc, đây là một việc không dễ
trong điều kiện nền kinh tế thị trờng hiện nay.
Hai là: Mô hình tổ chức và quản lý của các doanh nghiệp thực hiện môi
giới chuểyn giao công nghệ về khoa học công nghệ cần sớm đợc chuyển sang mô
hình làm ăn lớn, bài bản, có chiến lợc phát triển lâu dài, xây dựng cơ chế tài chính
thực sự tự chủ và chủ động, tự chịu trách nhiệm phù hợp với cơ chế thị trờng. Nhà
nớc không can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, mà chỉ quản lý thông qua hệ thống luật pháp.
Ba là: Trong chiến lợc tạo lập, huy động vốn cần quán triệt quan điểm
nguồn vốn nội lực của các doanh nghiệp mang tính quyết định, nguồn vốn bên
ngoài là quan trọng. Tuy nhiên, với đặc thù của hoạt động liên quan đến môi giới
chuyển giao công nghệ, trong điều kiện khả năng tài chính còn hạn hẹp hiện nay,
thì các nguồn vốn huy động bên ngoài là hết sức quan trọng.
Bốn là: Xây dựng chiến lợc đầu t nghiên cứu khoa học công nghệ hợp lý,
trong đó chú trọng việc phân kỳ, chia giai đoạn đầu t cho dự án nghiên cứu khoa
học công nghệ của doanh nghiệp. Các dự án đầu t nghiên cứu khoa học công nghệ
cần sắp xếp có thứ tự u tiên, dự án đầu t trớc làm cơ sở, tiền đề thu xếp vốn cho dự
án sau. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nội bộ của doanh nghiệp, xây dựng và
hoàn thiện các quy chế quản lý nội bộ, phát triển và vận hành có hiệu quả các
định chế tài chính phục vụ cho việc điều hành hoạt động tài chính và thu xếp vốn
cho đầu t phát triển của doanh nghiệp trong nghiên cứu và triển khai.

14


Năm là: Nhà nớc tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, cải thiện môi trờng pháp lý và đầu t đặc biệt là thị trờng tài chính tiền tệ, thị trờng chứng khoán.

Nhà nớc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có một cơ chế hoạt động và hành
lang pháp lý để khai thác và huy động vốn cho đầu t nghiên cứu khoa học công
nghệ phục vụ hội nhập và tăng trởng bền vững.
Giải pháp tổ chức hoạt động nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn tài chính cho nghiên cứu khoa học công nghệ
Quản trị quy trình tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ của
doanh nghiệp mang tính cá biệt sâu sắc của các doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó,
cho đến hiện nay, những lý thuyết về quản trị quy trình tổ chức hoạt động nghiên
cứu khoa học công nghệ trong doanh nghiệp vẫn là một khoảng trống cả trên thế
giới cũng nh ở Việt Nam. Trong nội dung nghiên cứu của đề tài này, giải pháp về
tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học đối với doanh nghiệp manh tính chất gợi
ý.
Để tổ chức hoạt động nghiên cứu tốt, với mục tiêu xác định xuất phát từ
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và chiến lợc của doanh nghiệp, các
doanh nghiệp cần thực hiện chặt chẽ những phân tích cụ thể nh sau:
Thứ nhất: Nội dung nghiên cứu có nằm trong chiến lợc sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp hay không?
Nếu nội dung nghiên cứu nằm trong chiến lợc sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp thì bộ phận nào thực hiện chiến lợc này và đội ngũ nhân sự cho hoạt
động này gồm những ai. Một khi doanh nghiệp cha xác định đợc vấn đề cụ thể
này thì sẽ gặp phải trở ngại là kinh phí sẽ phân bổ cho bộ phận nào thực hiện, do
đó sẽ có thể tiết kiệm hoặc lãng phí nguồn tài chính.
Nếu nội dung nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu phát sinh không nằm
trong chiến lợc hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà là một nhiệm
vụ phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì nhiệm vụ
15


cơ bản mà doanh nghiệp phải thực hiện là phải giải quyết vấn đề về nhân sự. Liệu
cán bộ khoa học công nghệ của doanh nghiệp có thể đảm đơng đợc nhiệm vụ hay

không? Sở dĩ phải xác định nh vậy vì nếu xác định đợc rằng đội ngũ nhân sự của
doanh nghiệp khó có khả năng thực hiện đợc nhiệm vụ nghiên cứu khoa học công
nghệ mà vẫn đầu t kinh phí thì chắc chắn sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực tài chính
không đáng có.
Thứ hai, giám sát hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ
Việc nghiên cứu khoa học công nghệ của doanh nghiệp là quá trình thực
hiện việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì vậy, mọi hoạt động
nghiên cứu khoa học công nghệ của doanh nghiệp cần đợc xem nh các hoạt động
có tính chất bí mật kinh doanh. Nếu quá trình tổ chức nghiên cứu thực hiện không
chu đáo sẽ bị lộ những vấn đề đang nghiên cứu. Do đó, từ việc lựa chọn lực lợng
tham gia nghiên cứu cùng những quy định kèm theo để đảm bảo quá trình tổ chức
nghiên cứu khoa học công nghệ không bị thất thoát những kết quả nghiên cứu
mới nhất cần phải đợc giám sát một cách chặt chẽ.
Quy trình giám sát bộ phận nghiên cứu khoa học công nghệ cần đợc cụ
thể hoá. Phơng pháp tốt nhất là những bộ phận và cá nhân không liên quan trực
tiếp tới hoạt động nghiên cứu thì không đợc biết quá trình đang diễn ra và diễn ra
nh thế nào, ở đâu. Cần đa nội dung quy chế của doanh nghiệp và những chế tài
kèm theo để điều chỉnh toàn bộ đội ngũ nhân sự tham gia hoạt động nghiên cứu.
Việc công bố kết quả nghiên cứu cần phải đợc bộ phận chịu trách nhiệm cao nhất
của doanh nghiệp tiến hành và quyết định xem ứng dụng kết quả đó vào lĩnh vực
nào của doanh nghiệp hiện tại và những kết quả đó phải tiên liệu đợc nó sẽ tác
động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ra sao. Việc đảm bảo
hoạt động tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ diễn ra một cách bí mật sẽ
giúp cho doanh nghiệp tránh đợc những thất thoát chi phí về nguồn tài chính
trong quá trình nghiên cứu do có thể bị đánh cắp kết quả nghiên cứu.

16


Bên cạnh việc phải giữ bí mật kết quả nghiên cứu để phục vụ cho hoạt

động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, việc tìm hiểu thông tin về lĩnh vực
mà doanh nghiệp nghiên cứu cũng hết sức cần thiết để tránh việc nghiên cứu
trùng lắp. Kinh nghiệm của các tập đoàn kinh doanh trên thế giới cho biết, hàng
năm có tới hàng tỷ đô la chi cho các nghiên cứu mang tính trùng lắp. Điều này
gây lãng phí cho doanh nghiệp trong tổ chức hoạt động nghiên cứu. Để tham khảo
thông tin thì biện pháp tốt nhất là tìm kiếm thông tin cụ thể tại những cơ quan sở
hữu trí tuệ trong nớc và quốc tế. Từ đó có thể tránh đợc những tổn thất trong tổ
chức hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ của doanh nghiệp.
7.1.6 Chính sách về hỗ trợ công tác tìm kiếm thông tin quảng bá đối với
các tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ
Chính sách về hỗ trợ của Nhà nớc đối với các tổ chức môi giới chuyển giao
công nghệ trong việc tìm kiếm thông tin công nghệ có thể đợc thực hiện thông
qua các hình thức nh: tạo điều kiện về xúc tiến các hoạt động thuê mặt bằng
trong các cuộc triển lãm về công nghệ mới trên thế giới; hệ thống hạ tầng viễn
thông và u đãi trong việc thuê các thiết bị hạ tầng viễn thông để tìm kiếm thông
tin công nghệ nhằm cung ứng cho thị trờng công nghệ trong nớc. Có cơ chế về sử
dụng thông tin tình báo công nghệ để cung cấp cho các tổ chức cung ứng dịch vụ
môi giới chuyển giao công nghệ, thông tin về bảo hộ sở hữu trí tuệ về công nghệ
xem công nghệ đó đã hết hạn bảo hộ hay đang trong quá trình bảo hộ, về đời
công nghệ đảm bảo thông tin về công nghệ mà các tổ chức môi giới chuyển
giao công nghệ cung cấp cho cộng đồng khách hàng trong nớc là những thông tin
chính xác và cập nhật nhất.
7.2 Nhúm gii phỏp v kinh t i vi cỏc t chc mụi gii chuyn giao
cụng ngh v khoa hc cụng ngh thuc khi vin, trng,
7.2.1 Cơ chế hỗ trợ đặc biệt về nguồn lực cho thành lập các trung tâm
môi giới chuyển giao công nghệ trong các viện, trờng

17



Các nhà khoa học trong các trờng, viện, cơ quan nghiên cứu vốn không
phải là các nhà kinh doanh thành thạo. Do đó, để sản phẩm trí tuệ của họ đợc
tham gia trên thị trờng, phục vụ đời sống thì cần phải thông qua thơng mại hoá.
Hoạt động thơng mại hoá là hoàn toàn khác với chức năng nghiên cứu. Do đó,
việc thành lập các tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ trong các viện trờng
là cần thiết.
Để các tổ chức đó có thể ra đời thì vai trò hỗ trợ của Nhà nớc là hết sức
quan trọng. Vai trò đó thể hiện trên các mặt:
Tạo lập cơ sở vật chất ban đầu cho việc hình thành tổ chức. Để các tổ chức
môi giới chuyển giao công nghệ của các viện, trờng, đi vào hoạt động thì việc
đầu t kinh phí là hết sức cần thiết. Do đó, chính phủ cần có quy chế để các tổ
chức môi giới chuyển giao công nghệ tại các tổ chức nghiên cứu có thể đợc sử
dụng nguồn kinh phí từ các chơng trình dự án quốc gia về khoa học công nghệ.
7.2.2 Chính sách thúc đẩy quan hệ giữa công nghiệp, thị trờng và khoa
học
Để thiết lập cơ sở pháp lý cho hoạt động chuyển giao công nghệ thông qua
các tổ chức môi giới chuyển giao khoa học công nghệ trong các cơ quan nghiên
cứu khoa học, nhà nớc cần ban hành các văn bản pháp quy về lĩnh vực này.
Việc chuyển giao công nghệ trong các cơ quan nghiên cứu bằng ngân sách
nhà nớc sang khu vực doanh nghiệp cần đợc khuyến khích tối đa. Cho phép có sự
di chuyển về nhân lực giữa các cơ quan nghiên cứu với các doanh nghiệp. Tuy
nhiên, không cho phép các cá nhân nhà khoa học thành lập các công ty của riêng
mình để sử dụng ngân sách nhà nớc hoặc góp cổ phần trí tuệ của mình vào các
doanh nghiệp t nhân mà sản phẩm trí tuệ đó đợc hình thành bằng nguồn ngân
sách. Khuyến khích thực hiện chuểyn giao qua các tổ chức môi giới chuyển giao
công nghệ của cơ quan nghiên cứu nơi họ đang công tác.

18



7.3 Nhúm gii phỏp v ngun nhõn lc cho cỏc t chc mụi gii
chuyn giao cụng ngh
- Thiết lập sự liên kết giữa cơ sở đào tạo và khu vực công nghiệp trong
hoạt động đào tạo đội ngũ nhân sự cho lĩnh vực môi giới chuyển giao công
nghệ
Môi giới chuyển giao công nghệ là lĩnh vực đặc thù đòi hỏi ngời tác
nghiệp không những hiểu thị trờng mà còn phải hiểu biết về công nghệ. Sự hiểu
biết về công nghệ không chỉ là nắm bắt về giá cả của công nghệ đó mà hơn thế,
ngời môi giới chuyển giao công nghệ cần phải nắm bắt đợc đặc trng và tính năng
của công nghệ đó. Để đáp ứng đợc yêu cầu nh vậy đòi hỏi một quá trình đào tạo
mang tính công phu và chuyên nghiệp. Các loại hình đào tạo chính quy khó có
thể đáp ứng đợc yêu cầu nh vậy. Vì thế, cần có sự liên kết chặt chẽ giữa cơ sở đào
tạo và hệ thống doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực môi giới
chuyển giao công nghệ.
Nhằm tạo điều kiện cho sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo với khu vực
công nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trờng cần có những điều kiện cơ bản sau:
Thứ nhất: hệ thống môi trờng pháp lý tạo điều kiện cho sự liên kết giữa
doanh nghiệp và cơ sở đào tạo phải đợc tạo lập. Việc xây dựng hệ thống pháp lý
này, một mặt tạo ra những lợi ích kèm theo các quyền lợi cho các tổ chức đào tạo
và khu vực doanh nghiệp tham gia quá trình đào tạo nguồn nhân lực môi giới
chuyển giao công nghệ. Mặt khác, đây cũng là nghĩa vụ đối với khu vực doanh
nghiệp cần thể hiện trách nhiệm trong đào tạo nguồn nhân lực cho thị trờng nói
chung và cho lĩnh vực môi giới chuyển giao công nghệ nói riêng nh một đóng
góp chiến lợc vào chính quá trình hoạt động của doanh nghiệp trong dài hạn. Khi
tham gia quá trình đào tạo nguồn nhân lực môi giới chuyển giao công nghệ
doanh nghiệp thực sự có lợi ích trớc mắt cũng nh lâu dài. Đó là những u thế trong
sử dụng đội ngũ nguồn nhân lực môi giới công nghệ trong chiến lợc kinh doanh
của doanh nghiệp. Về lâu dài, sự gắn kết giữa những ngời làm môi giới công
19



nghệ với doanh nghiệp sẽ tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp trong qúa trình tìm
kiếm công nghệ thay thế và chuyển giao những công nghệ mới. Việc này đòi hỏi
chi phí tìm hiểu và t vấn lớn nếu nh không có đội ngũ nhân sự làm môi giới công
nghệ chuyên nghiệp. Còn nếu doanh nghiệp đã từng tham gia vào quá trình đào
tạo nguồn nhân lực môi giới chuyển giao công nghệ trớc đó thì việc giảm thiểu đợc chi phí trong qúa trình chuyển giao công nghệ và thay thế công nghệ là chắc
chắn thực hiện đợc.
Thứ hai, thúc đẩy sự phát triển của thị trờng môi giới chuyển giao công
nghệ nhằm hấp thu nguồn nhân lực đợc đào tạo.
Thúc đẩy thị trờng môi giới chuyển giao công nghệ gắn bó chặt chẽ với sự
phát triển của thị trờng công nghệ. Bởi lẽ, có thị trờng công nghệ, ở đó phát sinh
quan hệ cung cầu về công nghệ thì mới tạo điều kiện cho hoạt động môi giới phát
triển.
Việc phát triển thị trờng công nghệ không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển
của nền sản xuất trong nớc mà còn phụ thuộc vào hệ thống sáng tạo quốc gia và
sự hiệu quả trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xét riêng đối với lĩnh vực công nghệ
thì tính hiệu quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện ở chỗ Việt Nam
không trở thành bãi thải công nghệ của các nớc phát triển, thậm chí là các nớc
đang phát triển. Muốn vậy, đòi hỏi sự phát triển của nguồn nhân lực tham gia
môi giới chuyển giao công nghệ. Chỉ có những thông tin chính xác về công nghệ
mới có thể có những thơng vụ chuyển giao hiệu quả. Quá trình này tiếp tục đòi
hỏi sự phát triển của thị trờng công nghệ trong nớc có gắn kết với thị trờng công
nghệ thế giới chặt chẽ hay không. Trong thế giới cạnh tranh khốc liệt nh hiện
nay, việc có tiền cha hẳn đã mua đợc những công nghệ hiện đại nh ý do thiếu
thông tin. Hệ thống thông tin này không phải doanh nghiệp nào cũng có thể nắm
sát tình hình thị trờng.
Để phát triển hệ thống sáng tạo quốc gia theo sự phát triển của thế giới
hiện nay trong điều kiện nền kinh tế có xuất phát điểm thấp nh Việt Nam thực sự
20



là một gánh nặng cho nhà nớc nếu chỉ tập trung vào nguồn ngân sách. Tuy nhiên,
việc xã hội hoá nguồn lực cho sự phát triển hệ thống sáng tạo quốc gia cũng
không phải luôn dễ thực hiện trong điều kiện hệ thống doanh nghiệp của Việt
Nam cha mạnh. Để phá vỡ sự bế tắc này cần có sự liên kết giữa nhà nớc và doanh
nghiệp. Nhà nớc tạo những tiền đề ban đầu cho doanh nghiệp còn doanh nghiệp
cần phát huy tính tự chủ trong quá trình phát triển của mình từ đó tạo nguồn lực
đóng góp trở lại cho nguồn tài chính dành cho đổi mới công nghệ của Nhà nớc.
Bên cạnh thúc đẩy cung công nghệ cho thị trờng công nghệ, tạo nguồn để
môi giới chuyển giao công nghệ hoạt động, cần thúc đẩy cầu công nghệ để phát
triển cầu thông tin về công nghệ.
Phát triển cầu về công nghệ thông qua những chính sách khuyến khích
doanh nghiệp tích cực thực hiện chuyển giao công nghệ. Các chính sách khuyến
khích có thể đợc áp dụng là nâng mức quy định về tỷ lệ khấu hao đợc trích trong
xác định chi phí sản xuất kinh doanh để tính giá vốn của sản phẩm. Khi đó doanh
nghiệp có thể đợc trích nộp quỹ khấu hao nhanh, tạo điều kiện cho thực hiện đổi
mới công nghệ.
Cần phải nhấn mạnh thêm rằng, việc trích lập khấu hao nhanh với tỷ lệ cao
sẽ làm cho chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên trong ngắn hạn từ đó có thể tác
động đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp Việt Nam trong tham
gia cạnh tranh quốc tế. Vì thế, nhà nớc cần có những chính sách phối hợp khác
nữa để đảm bảo năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam. Chẳng hạn
giảm thiểu những phiền hà về thủ tục hải quan, hạn chế những chi phí trung gian
trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nằm ngoài các chi phí sản
xuất sản phẩm thực tế. Thông qua những chính sách nh thế, thúc đẩy doanh
nghiệp tích cực đổi mới công nghệ từ đó tạo sức cầu cho thị trờng công nghệ và
cầu về hoạt động dịch vụ cung ứng chuyển giao công nghệ. Chỉ khi đó, hoạt động
môi giới chuyển giao công nghệ mới có thị trờng để phát triển.

21



Khi thị trờng môi giới chuyển giao công nghệ phát triển thì mới tạo điều
kiện để thúc đẩy hoạt động đào tạo và hấp thu nguồn nhân lực đợc đào tạo về môi
giới chuyển giao công nghệ. Tránh tình trạng các cá nhân hoạt động môi giới
chuyển giao công nghệ trong nớc hiện nay mang tính không chuyên nghiệp.
- Nhà nớc h tr v ngõn sỏch o to
Phát huy vai trò nhà nớc trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực môi giới
chuyển giao công nghệ ngoài việc tạo hành lang cơ sở pháp lý cho các quan hệ
thị trờng vận hành thông suốt, nhà nớc cần hộ trợ ngân sách cho hoạt động đào
tạo này.
Nguồn ngân sách cho hoạt động đào tạo môi giới chuyển giao công nghệ
có thể đợc xác định trong nguồn kinh phí dành cho chơng trình nghiên cứu và
phát triển quốc gia hàng năm. Kinh phí dành cho khoa học công nghệ hàng năm
cần tính tới cấu thành dành cho đào tạo môi giới chuyển giao công nghệ nhằm
phục vụ cho sự phát triển lâu dài của thị trờng khoa học công nghệ.
Đối tợng đợc sử dụng nguồn ngân sách dành cho hoạt động đào tạo môi
giới chuyển giao công nghệ là các trung tâm đào tạo về môi giới chuyển giao
công nghệ, các trờng có khoa chuyên ngành về đào tạo môi giới chuyển giao
công nghệ, các doanh nghiệp tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực môi
giới chuyển giao công nghệ.
Cách thức sử dụng nguồn kinh phí đào tạo về môi giới chuyển giao công
nghệ cần đợc căn cứ vào hiệu quả đầu ra của quá trình đào tạo đó. Căn cứ vào
chất lợng và quy mô đào tạo của các đơn vị tham gia tạo nguồn nhân lực về môi
giới chuyển giao công nghệ mà nguồn ngân sách có thể đợc phân bổ theo các
mức độ khác nhau. Trong thời gian đầu thực hiện, cần thực hiện thí điểm tại các
cơ sở có uy tín và căn cứ trên những đề án đào tạo có tính khả thi cao.
Cần tránh hiện tợng xin cho trong quá trình sử dụng nguồn ngân sách cho
đào tạo môi giới chuyển giao công nghệ. Bất kỳ hoạt động xin cho nào cũng dẫn
22



đến méo mó quan hệ sử dụng ngân sách. Để tăng tính hiệu quả trong sử dụng
ngân sách về đào tạo môi giới chuyển giao công nghệ có thể thực hiện dới các
hình thức đấu thầu đặt hàng của chính phủ với các cơ sở đào tạo thực hiện đào
tạo môi giới chuyển giao công nghệ. Thông qua đó sẽ tiết kiệm đợc ngân sách và
nâng cao đợc chất lợng đào tạo nguồn nhân lực về môi giới chuểyn giao công
nghệ.
Ngoài việc thực hiện hình thức tài trợ ngân sách cho các cơ sở đào tạo môi
giới chuyển giao công nghệ trong nớc, chính phủ cần có những chơng trình cụ
thể về đào tạo nguồn nhân lực thông qua hệ thống quốc tế bằng con đờng gửi
nguồn nhân lực đi đào tạo tại nớc ngoài.
Việc đào tạo bằng con đờng đào tạo ngoài nớc cần đợc thực hiện bằng các
hình thức cấp học bổng đi học nớc ngoài cho đội ngũ nguồn nhân lực tham gia
hoạt động môi giới chuyển giao công nghệ. Việc cấp học bổng cần gắn với chơng
trình mục tiêu sử dụng nguồn nhân lực sau khi đợc đào tạo theo quy hoạch.
Nghĩa là chơng trình đào tạo đó phải đảm bảo đợc sự nhất quán ngay từ đầu trong
quá trình xây dựng và thực hiện gửi lu học sinh đi đào tạo. Khi lu học sinh đợc
đào tạo trở về cần sử dụng và bố trí theo kế hoạch đã định nhằm đảm bảo phát
huy hiệu quả tối u những kết quả đào tạo bằng ngân sách nhà nớc, ít nhất ngời đợc đào tạo về cũng phải thực hiện đóng góp trong thực hiện chơng trình của chính
phủ trong khoảng thời gian xác định trớc khi tham gia thị trờng môi giới chuyển
giao công nghệ một cách tự do hoặc cho các khu vực phi chính phủ.

- Tăng cờng hợp tác quốc tế và thông qua con đờng hợp tác quốc tế để
thực hiện đào tạo nguồn nhân lực cho thị trờng môi giới chuyển giao công
nghệ
Bên cạnh việc đào tạo trong nớc, gửi đi đào tạo bằng con đờng học bổng
bằng ngân sách nhà nớc về đào tạo nguồn nhân lực môi giới chuyển giao công
23



nghệ, hình thức hợp tác quốc tế để tranh thủ sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật của các
tổ chức chuyển giao công nghệ quốc tế cũng cần đợc đẩy mạnh.
Cách thức mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo môi giới chuyển giao công
nghệ cần đợc lồng ghép dới nhiều hình thức khác nhau. Về nguyên tắc, các tổ
chức môi giới chuyển giao công nghệ quốc tế không thực hiện chức năng đào tạo
nguồn nhân lực bằng các hình thức chuẩn mực. Nhng thông qua hoạt động môi
giới chuyển giao công nghệ của họ và qua con đờng hội thảo hoặc trao đổi
chuyên gia mà Việt Nam có thể khai thác đợc các cách thức thực hiện môi giới
chuyển giao công nghệ của họ từ đó có thể thực hiện trong quá trình đào tạo cho
nguồn nhân lực trong nớc.
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo môi giới chuyển giao công
nghệ bằng con đợc mở rộng hợp tác quốc tế trớc hết cần xác định chức năng cho
các đơn vị cụ thể trong thực hiện chức năng đào tạo này. Hiện nay có thể thực
hiện qua Cục chuyển giao công nghệ hoặc trờng đào tạo cán bộ Bộ khoa học
công nghệ.
Xác định chức năng của các đầu mối trong thực hiện hợp tác quốc tế để
một mặt xác định trách nhiệm của các tổ chức đó mặt khác xác định tính chính
thức trong hợp tác quốc tế mang tính nhà nớc. Mặt khác là xác định nguồn cán
bộ tham gia quá trình đào tạo đó để nâng cao trình độ và học quy trình, kỹ nghệ
môi giới chuyển giao công nghệ trong điều kiện toàn cầu hoá.
Nguồn cán bộ đợc cử tham gia đào tạo bằng con đờng hợp tác quốc tế cần
đợc xác định là đào tạo chuyên gia cho lĩnh vực môi giới chuyển giao công nghệ
vì vậy cần xác định trúng và đúng đối tợng để phát huy hiệu quả cao nhất trong
quá trình sau đào tạo. Việc đào tạo bằng con đờng tăng cờng hợp tác quốc tế cần
đợc xem nh quá trình đào tạo mang tính rút ngắn do đó cần xác định cán bộ có
đủ năng lực và điều kiện hoạt động sau đào tạo để nắm bắt công nghệ hoạt động
môi giới chuyển giao công nghệ. Tránh tối đa việc xác định đối tợng tham gia

24



quá trình đào tạo không phù hợp và do đó không phát huy đợc hiệu quả trong và
sau quá trình đào tạo bằng con đờng hợp tác quốc tế.
Kênh hoạt động hợp tác quốc tế để thông qua đó thực hiện đào tạo nguồn
nhân lực môi giới chuyển giao công nghệ dễ thực hiện và hiệu quả hơn cả là bằng
cách thức tổ chức các chơng trình hội thảo khác nhau, tại Việt Nam hoặc tại nớc
ngoài mà đối tác tham gia hội thảo đợc xác định là các tổ chức hoạt động môi
giới chuyển giao công nghệ có uy tín trên thị trờng khu vực và quốc tế. Thông
qua khai thác thông tin của các tổ chức này mà phát hiện ra cách thức, quy trình,
công nghệ hoạt động môi giới chuyển giao công nghệ từ các tổ chức đó. Đây là
hoạt động mang tính lồng ghép do đó cần đợc thực hiện dới nhiều hình thức khác
nhau, nhiều cách thức tổ chức khác nhau.
- Xây dựng chơng trình chuẩn hoá về đào tạo môi giới chuyển giao công
nghệ
Môi giới chuyển giao công nghệ là hoạt động cung cấp dịch vụ thông tin
về công nghệ và các dịch vụ liên quan tới chuyển giao công nghệ, tạo cầu nối
hiệu quả giữa bên cầu và bên cung công nghệ thông qua đó thoả mãn mục đích
của các bên một cách cao nhất. Do đó, thông tin mà hoạt động môi giới cung cấp
cho các bên cần đảm bảo tính cân xứng và là thông tin chân thực. Để tránh hiện
tợng chụp giật trong hoạt động môi giới chuyển giao công nghệ ở Việt Nam thì
nguồn nhân lực về hoạt động môi giới chuểyn giao công nghệ cần đợc đào tạo
bài bản theo những chơng trình chuẩn hoá và cập nhật đồng thời đảm bảo khung
chơng trình đào tạo đó phải đảm bảo trang bị kỹ năng thực hành cao nhất cho ngời đợc đào tạo làm môi giới chuyển giao công nghệ.
Để đáp ứng yêu cầu đó, về mặt nguyên tắc, khung chơng trình đào tạo
nguồn nhân lực môi giới chuyển giao công nghệ phải bao gồm ba nhóm kiến
thức cơ bản gồm: 1) Nhóm kiến thức, kỹ năng về công nghệ; 2) Nhóm kiến thức,
kỹ năng về thị trờng và kỹ năng hành nghề môi giới; 3) Nhóm kiến thức, kỹ năng
về dịch vụ liên quan tới chuyển giao công nghệ. Trong đó:
25



×