Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Đánh giá vai trò của các tổ chức môi giới CGCN về KHCN để phát triển thị trường công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.22 KB, 62 trang )

Chuyên đề: Đánh giá vai trò của các tổ chức môi giới CGCN về
KHCN để phát triển thị trường công nghệ
Mục lục:
1 Vai trò của các tổ chức môi giới CGCN về KHCN trong công tác tư vấn, môi giới dịch vụ khoa
học công nghệ........................................................................................................................................1
1.1 Hỗ trợ tìm kiếm thông tin công nghệ và kết nối cung cầu công nghệ...........................................1
1.2 Hỗ trợ đánh giá, định giá, giám định công nghệ.........................................................................10
1.3 Xúc tiến chuyển giao công nghệ và hỗ trợ thương mại hóa công nghệ.......................................21
2 Vai trò của các tổ chức môi giới CGCN về KHCN trong các dịch vụ hậu mãi sau chuyển giao.
34
2.1 Phân tích, đánh giá về hình thức tiếp cận và sở hữu nguồn cung cấp các công nghệ trong và
ngoài nước (các viện nghiên cứu, trường ĐH và nguồn công nghệ nhập khẩu) cho các tổ chức môi
giới CGCN về KHCN).....................................................................................................................34
2.1.1 Thực trạng phát triển các nguồn công nghệ nghệ tại Việt Nam...........................................34
2.1.2 Giải pháp phát triển nguồn công nghệ từ Khối Viện, Trường:.............................................37
2.2 Tổ chức cách thức tiếp cận thị trường và khả năng làm marketing của các tổ chức môi giới
CGCN về KHCN trong việc tìm kiếm thị trường chuyển giao CN trong các lĩnh vực ....................44
2.2.1 Cách thức tìm kiếm thông tin các doanh nghiệp có nhu cầu mua công nghệ mới...............44
2.2.2 Hình thức quảng bá và làm marketing thị trường và các dịch vụ hậu mãi...........................52
3 Kết luận:...........................................................................................................................................59
Tài liệu tham khảo:...........................................................................................................................61

1

Vai trò của các tổ chức môi giới CGCN về KHCN trong công tác tư vấn,
môi giới dịch vụ khoa học công nghệ.

1.1 Hỗ trợ tìm kiếm thông tin công nghệ và kết nối cung cầu công nghệ
Một trong các khâu đóng vai trò tiên phong trong hoạt đông chuyên giao
công nghệ cũng như ứng dụng các thành tự khoa học công nghệ mới vào trong
sản xuất là việc quản lý thông tin công nghệ, thông tin nguồn công nghệ. Trên



1


cơ sở các thông tin về công nghệ tổ chức môi giới công nghệ mới có thể ghép
nối giữa nhu cầu bên mua công nghệ và các nguồn cung công nghệ khác nhau,
Thế giới đang diễn ra quá trình tiến vào “xã hội thông tin toàn cầu”. GS
Nick Moore, nghiên cứu viên cao cấp Viện Nghiên cứu Chính sách London,
trong báo cáo nổi tiếng có nhan đề "Xã hội thông tin" trình Tổ chức về Giáo
dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hiệp quốc (Unesco), khẳng định xã hội
thông tin sẽ đến với mọi nước ở mọi trình độ phát triển. Trong bối cảnh đó, việc
hướng tới sự định hình một xã hội thông tin ở từng nước đã đặt ra yêu cầu đối
với việc quản lý, khai thác và sử dụng thông tin như một nguồn lực cơ bản và
quan trọng để phát triển quốc gia. 35 năm trước, trong công trình tiên phong "Xã
hội hậu công nghiệp đang tới" nhà nghiên cứu chiến lược
Hoa kỳ D. Bell (1973) đã tiên liệu về vị trí và vai trò của nguồn lực thông
tin và tri thức sẽ thay chỗ của nguồn lực lao động và tiền vốn đã ngự trị hơn hai
thế kỷ trong xã hội công nghiệp. Là loại tài sản vô hình, thông tin và tri thức
khác với các nguồn lực vật chất truyền thồng ở những đặc điểm nổi trội, như:
không bị giới hạn về trữ lượng, trong quá trình sử dụng giá trị của thông tin
không bị “hao mòn” hoặc bị mất đi thậm chí có thể được làm giàu hơn, tức là
thông tin có khả năng tái sinh, tự sinh sản và không bao giờ cạn kiệt. Kể từ khi
nền khoa học thế giới trưởng thành với thẩm quyền là “khoa học lớn” (Theo
Derek J. de Solla Price), lượng thông tin của nhân loại phát triển theo tốc độ
hàm mũ. Với sự phát triển của mạng Internet, không gian thông tin của nhân loại
được mở rộng và lớn hơn rất nhiều. Ngày càng có nhiều trang Web được xây
dựng trên mọi lĩnh vực để đăng tải và truyền thông tin. Các bản tin, các loại ấn
phẩm, các loại cơ sở dữ liệu, các tài nguyên thông tin số, các cuộc thảo luận và
tham vấn được xuất hiện với tốc độ chóng mặt trên mạng Internet. Mọi hoạt
động trong xã hội hiện đại điều phải dựa trên thông tin. Ngày nay, chúng ta càng

thấy thấm thía hơn lời tiên tri của N. Winear - cha đẻ của ngành Cybernetics
cách đây hơn nửa thế kỷ, “Cuộc sống có chất lượng là cuộc sống với thông tin”.
2


Trong thời đại thông tin, lợi thế so sánh sẽ thuộc về quốc gia nào có năng lực tổ
chức khai thác với hiệu quả cao nhất các nguồn thông tin và tri thức hiện có của
nhân loại. Ở Nhật Bản, nhiều doanh nghiệp đều thấm thía phương châm “Doanh
nghiệp là con người và chiến lược của doanh nghiệp là chính sách thông tin”.
Tại Hoa Kỳ, 70% lao động xã hội đang làm việc trong khu vực thông tin,
và chính khu vực thông tin đã tạo ra 74% giá trị GDP tại nước này. Nguyên Thủ
tướng đảo quốc Singapore, ngài Goh Chok Tong, trong bức thông điệp gửi tới
toàn dân nhân ngày Quốc khánh năm 1993 đã khẳng định: “Tương lai sẽ thuộc
về các quốc gia mà ở đó người dân biết sử dụng có hiệu quả thông tin, tri thức
và công nghệ. Để phát triển kinh tế thắng lợi, đây chính là các nhân tố chủ yếu,
chứ không phải là tài nguyên thiên nhiên”. Mùa hè năm 2007, tại các diễn đàn
với doanh nghiệp trong thời hội nhập, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã
khẳng định, thông tin là yếu tố đầu tiên trong chùm 5 yếu tố có chữ T đảm bảo
cho doanh nghiệp thành công trong hội nhập. Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện
Nhân, mới đây trong đối thoại với Đoàn thanh niên cũng đã khẳng định, trong
quá trình phát triển nước ta đứng trước 3 cơ hội: toàn cầu hoá, kinh tế tri thức và
xã hội thông tin. Trong thời đại thông tin, nguồn tài nguyên quý giá và trọng tâm
cạnh tranh để giành ưu thế trên thế giới của một quốc gia đã được chuyển từ các
nhân tố hữu hình có tính vật chất sang phương thức kiểm soát, thu thập, xử lý và
khai thác các nguồn thông tin quốc gia và quốc tế. Để có sức cạnh tranh trong
môi trường của nền kinh tế tri thức, điều cốt yếu cho mỗi quốc gia là phải có
năng lực tiếp thu thông tin, dựa trên thông tin tạo ra nhiều tri thức và tích cực
đổi mới.
Hiện trạng hệ thông thông tin khoa học quốc gia tại Việt Nam
Trên thế giới, hệ thống thông tin KH&CN đã được hình thành từ giữa thế

kỷ XX. Vào đầu những năm 70, Tổ chức về Giáo dục, Khoa học và Văn hoá
Liên hợp quốc (UNESCO) đã có những nghiên cứu và khuyến nghị để xây dựng
3


hệ thống thông tin toàn cầu (UNISIST) trên cơ sở tích hợp các hệ thống thông
tin quốc gia (NATIS). Bắt đầu từ những năm 80, một mặt, với sự chuyển đổi về
tổ chức với các cơ quan KH&CN, mặt khác, với sự xuất hiện của máy vi tính và
tiếp theo là công nghệ mạng, hoạt động thông tin ngày càng tác động mạnh vào
tính chất hoạt động đặc biệt là tổ chức các hoạt động KH&CN. Cơ quan thông
tin không chỉ còn dừng lại với vai trò thụ động là nhà cung cấp thông tin thông
qua việc tìm tin khi có yêu cầu. ở Việt Nam, hệ thống thông tin quốc gia được
khới sự khá sớm. Nếu tính từ thời điểm Hội nghị Thông tin KH&KT toàn quốc
lần thứ nhất được tổ chức (tháng 3 năm 1971) và khi Nghị Quyết 89-CP "Về
việc tăng cường công tác thông tin KH&KT" được ban hành (tháng 5 năm
1972), thì lịch sử của ngành thông tin KH&CN Việt Nam đã có được 36 năm
hoạt động có tổ chức ở quy mô quốc gia. Khác với các ngành công nghiệp
truyền thống như: cơ khí, luyện kim, đóng tàu... ngành thông tin nước ta vào
cuộc không chậm hơn thế giới là bao. Đến nay, chúng ta đã xây dựng trong toàn
quốc một mạng lưới các cơ quan thông tin, tư liệu, thư viện, lưu trữ với các qui
mô khác nhau. Với việc đầu tư của Nhà nước, chúng ta đã hình thành một kết
cấu hạ tầng thông tin cho hoạt động khoa học và kinh tế-xã hội. Kết cấu hạ tầng
thông tin xã hội đó bao gồm các cơ quan thông tin - tư liệu - lưu trữ- thư việnxuất bản, các mạng truyền thông - máy tính (ở nhiều nước gọi chung là tổ chức
thông tin). Hầu hết các cơ quan quản lý hành chính, các cơ sở khoa học và đào
tạo, các doanh nghiệp lớn được nối với mạng thông tin toàn cầu. Không ít các cơ
sở thông tin đã bắt đầu có khả năng thu thập được nhiều thông tin bên ngoài từ
các nguồn trên mạng Internet.... Phải chăng đây là tất cả những gì để chúng ta xác
lập con đường tiến tới một “xã hội thông tin” như đã được khẳng định trong Nghị
Quyết của Chính phủ số 49-CP năm 1993?
Điều cốt yếu nhất trong xã hội thông tin là thông tin phải được coi và

được đối xử như là một loại nguồn lực của sự phát triển, đại bộ phận người dùng
tin xã hội ý thức được tầm quan trọng của thông tin, có cơ hội thuận lợi, có thói
4


quen và biết sử dụng thông tin có hiêụ quả vào trong mọi hoạt động nghề nghiệp
của mình: từ quản lý, điều hành, nghiên cứu, giảng dạy tới sản xuất kinh doanh.
Nói như thuật ngữ của nhà khoa học quản lý, mức trang bị về thông tin trong xã
hội phải được coi là một tham số của trình độ phát triển. Đối chiếu với tình hình
nước ta, hiện nay rất nhiều người dùng tin, trong đó có cả nhà quản lý, nhà khoa
học, nhà giáo, nhà doanh nghiệp, vẫn thường xuyên không có được các thông tin
cần thiết cho công việc. Thậm chí, nhiều thông tin được sản sinh trong nước
(thông tin nội sinh), thông tin hiện có ở nước ta vẫn không được kiểm soát
và/hoặc không thể truy cập được. Lấy ví dụ trong lĩnh vực khoa học và đào tạo,
chúng ta không dễ biết được năng lực của các cơ sở khoa học và đào tạo thế
nào? Có những đề tài/dự án khoa học gì đang được triển khai và kết thúc ra sao?
Có những hội thảo khoa học nào đã được tổ chức và ở đâu các kỷ yếu được lưu
giữ? Hàng năm có bao nhiêu đoàn đi tham quan, thực tập, khảo sát ở nước ngoài
(đoàn ra) và có những đoàn nào vào ta (đoàn vào), thông tin về nội dung hoạt
động của các đoàn công tác này có thể truy cập ở đâu? Có tổ chức thông tin nào
giúp cho việc hỗ trợ và giám sát để hạn chế tình trạng đạo văn trong các luận
văn và luận án khoa học? Những vấn đề trên và tương tự nhiều vấn đề thông tin
khác đã được cảnh báo ngay tại Hội nghị thông tin KH&KT toàn quốc lần thứ
nhất từ năm 1971 khi mà ngành thông tin KH&CN còn trong “trứng nước”, thì
đến nay vẫn còn là thời sự, cho dù “cơ thể” của ngành đã trưởng thành sau 36
năm được nhà nước nuôi dưỡng. Cũng cần phải nói rằng, mức độ bao cấp tràn
lan cho ngành thông tin khoa học và công nghệ ở nước ta cho tới hiện nay là " cá
biệt" trong cộng đồng thông tin thế giới. Như vậy, điều chính yếu nhất là nội
dung thông tin, phần thông tin của ta, do ta tạo lập và xử lý để phục vụ thiết thực
cho các hoạt động phát triển nói chung và hoạt động khoa học - đào tạo nói

riêng thì gần như chưa có được bao nhiêu. Vì vậy, so với năm 1993, khi nước ta
còn “lạc hậu về thông tin” và còn thiếu nhiều thông tin ở cả trong và ngoài nước
như đã được khẳng định trong Nghị Quyết 49-CP thì đến nay, chúng ta vẫn chưa
thoát ra khỏi cảnh nghèo thông tin và tri thức. Hiển nhiên trong hoàn cảnh đó,
5


nền kinh tế của ta vẫn còn nhiều bất cập trong phát triển, năng lực đổi mới còn
thấp kém và còn kém sức cạnh tranh trên thế giới.
Hiện trạng viêc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động môi giới
chuyển giao công nghệ tại Viêt Nam hiện nay đã phát triên ở một số mô hình
nhất định. Các tỉnh thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh đã có
các trung tâm thông tin trực thuộc các sở KHCN không chỉ cung cấp các thông
tin về KHCN mà đã từng bước ghép nối cung cầu công nghệ từ khối doanh
nghiệp và các nguồn cung công nghệ khác nhau trên phạm vi toàn quốc. Các
trung tâm thông tin này đã đóng vai trò môi giới chuyển giao công nghệ trong
dịch vụ ghep nối thông tin. Việc phát triển của mạng Internet đã tạo ra một công
cụ hết sức tiện lợi cho việc tìm kiếm thông tin công nghệ. Qua biểu đồ phân tích
chúng ta thấy có 89,3% các đơn vị môi giới công nghệ đã sử dụng Internet như
một công cụ hiệu quả nhất để tìm kiếm thông tin công nghệ.

Biểu đồ 1: Phương thức tiếp cận thông tin công nghệ của các tổ chức môi giới
chuyển giao công nghệ

Tuy nhiên, để xây dựng xã hội thông tin, biến thông tin trở thành nguồn
lực phát triển, tất nhiên còn phải tiếp tục đầu tư để trang bị thêm nhiều máy,
nâng cấp mạng với hạ tầng công nghệ tiên tiến. Trong đó, phần huyết mạch, cốt
6



lõi của vấn đề lại nằm ở phần nội dung thông tin mà để có được, đòi hỏi đầu tư
nhiều công sức, trí tuệ và tâm huyết. Tổ chức nội dung thông tin là phần lõi,
“phần hồn”, còn việc ứng dụng công nghệ thông tin chỉ là sử dụng một công cụ
để có thể giúp cho việc kiểm soát, tổ chức, truy cập, tìm kiếm và khai thác các
nguồn thông tin hữu ích một cách nhanh chóng, thuận tiện, kinh tế và có hiệu
quả hơn. Thời gian qua, trong xã hội, việc xây dựng các website đã trở thành
phong trào rộng khắp tại nhiều cơ quan, tổ chức. Song, sau khi đã giải quyết
xong phần kỹ thuật thì phần nội dung lại ít được quan tâm, nên kết cục, nhiều
website đã được xây dựng rất ít tác dụng do quá sơ sài và nghèo nàn về thông
tin, thậm chí đa phần thông tin chỉ là các tin tức sao chép, lặp lại của nhau. Bài
toán thông tin, do vậy, là bài toán lớn, phức tạp và để có lời giải phải có cách
nhìn trên quan điểm có tính hệ thống chứ không đơn thuần là bài toán của công
nghệ như ta vẫn tưởng trong thời gian dài vừa qua dẫn tới việc chỉ tập trung vào
mua sắm trang bị, thay phần mềm, tạo lập các giao diện và đề mục trên các
Websites.
Việc kết nối thông tin cung như việc kết nối mở rông dữ liệu thông tin công
nghệ cung cần được chú trọng Một số giải pháp thúc đẩy việc phát triển thông
tin công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả kết nối cung cầu công nghệ được đưa ra:
Giải pháp kiểm soát và quy trình xử lý thông tin cần được hoàn thiện:
Xét về phương diện nguồn tin, tài nguyên thông tin có thể chia thành hai phần:
phần nằm trong tài liệu và phần phi tư liệu (Non-document).Trong phần tài liệu
có dạng công bố và dạng không công bố. Đối với các nguồn tư liệu công bố,
công cụ kiểm soát truyền thống là các thông tin thư mục dưới dạng cơ sở dữ
liệu. Hiện nay, không phải tất cả vốn tư liệu hiện có trong các cơ quan thông tin
- thư viện đã được kiểm soát thư mục. Tuy vậy, khó khăn hơn là kiểm soát thông
tin đối với phần tài liệu không công bố như các tài liệu về các đề tài nghiên cứu,
kết quả của công tác nghiên cứu điều tra cơ bản, tài liệu hội thảo, các luận văn
sau đại học, báo cáo đoàn vào-đoàn ra..., đặc biệt là các nguồn phi tư liệu như:
7



thông tin về các thực thể "sống" như nhân sự, tổ chức, các loại sản phẩm, quy
trình công nghệ… Trên bình diện quốc gia phải có sự phân công cụ thể giữa các
cơ quan quản lý và cơ quan thông tin. Nguyên tắc chung là không trùng lặp và
không bỏ sót. Hiện nay, bỏ sót còn nhiều, trùng dẫm vẫn còn không ít làm cho
nhiều nguồn tin còn chưa được quản lý gây tổn thất nhiều cho xã hội. Nhà nước
cần có chương trình mục tiêu để xây dựng hệ thống các cơ sở dữ liệu quốc gia
và phải coi đây là phần tài nguyên thông tin tích cực của quốc gia trong quá
trình đảm bảo sự phát triển có tính bền vững.
Nguyên tắc hoạt động thông tin là xử lý một lần, sử dụng nhiều lần. Trên toàn
cục, trong từng cơ quan, hiện tượng trùng lặp trong xử lý tài liệu/thông tin còn
khá phổ biến. Nếu kiểm tra các cơ sở dữ liệu, còn không ít trường hợp, cùng một
tài liệu có nhiều biểu ghi, cụ thể là: lặp trong một cơ sở dữ liệu, lặp giữa các cơ
sở dữ liệu trong cùng một cơ quan và trong các dữ liệu của các cơ quan thông tin
khác nhau. Bên cạnh đó, việc lựa chọn và đánh giá tài liệu chưa thật khoa học
làm ảnh hưởng không tốt tới chất lượng và giá trị các cơ sở dữ liệu được xây
dựng. Để khắc phục các tồn tại trên trong xử lý thông tin cần, một mặt, xây
dựng và thực hiện một quy trình nghiêm ngặt, mặt khác, cần có sự phân công rõ
ràng và hiệp tác chặt chẽ giữa các cơ quan thông tin.
Giải pháp cho viêc tăng hiệu quả cho việc tìm kiếm chia sẻ thông tin công
nghệ:
Đặc trưng quan trọng của xã hội thông tin là mở rộng khả năng để mọi
người dân có cơ hội truy cập tới thông tin và sử dụng được thông tin. Thêm nữa,
phần lớn các nguồn lực thông tin của ta hiện nay là thuộc sở hữu nhà nước, do
vậy, về lý thuyết người dùng tin sẽ phải dễ dàng truy cập được. Nhưng trên thực
tế, việc người dân thậm chí cả cán bộ chuyên môn truy cập tới thông tin còn gặp
nhiều khó khăn. Nguyên nhân có nhiều, có cái về chính sách, có cái về hành
chính, có cái về kinh tế và cả về công nghệ; rất nhiều thông tin với lý do “bảo
mật”; các thủ tục hành chính ngự trị ở từng cơ quan làm không gian thông tin bị
8



cắt xẻ; giá cả dịch vụ thông tin quá đắt và sự không tiện ích về mặt công nghệ...
Những điều này làm nhiều người dùng tin chán nản, dần dần trở nên mặc cảm và
thậm chí xa lánh cơ quan thông tin.
Áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thông tin đã tạo khả năng
tìm tin nhanh hơn, nhiều chiều hơn (tìm theo nhiều chủ đề và tiêu thức khác
nhau), linh hoạt và thân thiện hơn. Đáng lẽ, với sự hỗ trợ của công nghệ thông
tin mới thì thời gian và khoảng cách sẽ không còn là trở ngại. Thế nhưng, trên
thực tế, bài toán cung cấp thông tin cho những người dùng tin ở ngoài cơ quan,
ngoài địa phương... còn rất chậm chạp. Nhiều hợp đồng thực hiện các dịch vụ
cung cấp thông tin cho các đề tài khoa học, cho các nhiệm vụ kinh tế kéo dài
trong sự chờ đợi đã làm mất đi các cơ hội. Thông tin có tính thời sự, giá trị của
thông tin phụ thuộc vào thời điểm tiếp nhận chúng, do vậy, việc cung cấp thông
tin kịp thời là trách nhiệm và là sứ mệnh của cơ quan thông tin.
Cơ chế tài chính cho các tổ chức môi giới thông tin khoa học và công nghệ :
Ở nhiều nước trên thế giới hoạt động của các cơ quan thông tin được tiến
hành trên cơ sở tự trang trải hoặc theo cơ chế thị trường. Tại CHLB Đức, hoạt
động thông tin trong các tổ chức khoa học & công nghệ thuộc khối nghiên cứu
cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách phục vụ quản lý nhà nước được Nhà
nước trợ cấp hoàn toàn kinh phí hoạt động. Hoạt động thông tin phục vụ cho
công nghệ công nghiệp, thị trường tại các loại hình doanh nghiệp được Nhà
nước cho phép “tự chủ”, “ tự trang trải” thông qua các hợp đồng dịch vụ khoa
học và công nghệ. Khu vực giao dịch thông tin tích cực này xem thông tin như
một loại hàng hoá, và sẽ thúc đẩy để hình thành trong xã hội thị trường thông
tin. Cơ chế này đảm bảo cho việc tập trung đầu tư của nhà nước và đồng thời
phát huy tính năng động và sáng tạo của cơ quan thông tin, gắn thông tin với
thị trường. ở nước ta, ngay từ những ngày đầu thành lập, tổ chức thông tin
khoa học và công nghệ đã được coi là hoạt động sự nghiệp có thu. Bước vào
9



thời kỳ đổi mới, đã không ít ý kiến cho rằng, cơ quan thông tin chuyên nghiệp
phục vụ cho các nhu cầu của thiết kế, đổi mới công nghệ, phát triển kinh tế
thương mại phải tự trang trải kinh phí hoạt động và phải hạch toán kinh doanh
trong hoạt động thông tin. Với sự ra đời của Nghị định 115/2005/NĐ-CP tổ
chức thông tin khoa học và công nghệ tại các cơ sở không thuộc khối khối
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách phục vụ quản lý nhà
nước đương nhiên phải chuyển sang loại tự đảm bảo kinh phí hoạt động thường
xuyên. Để có cơ sở thực hiện việc chuyển đổi, cần nghiên cứu toàn diện về hệ
quan điểm, chiến lược và chương trình phát triển hệ thống thông tin quốc gia
để phục vụ hoạt động khoa học và công nghệ và đổi mới, trong đó cần xác lập
khả năng xã hội hoá hoạt động thông tin, phải tìm lời giải cho các vấn đề như:
phạm vi bao cấp của Nhà nước, quan hệ công - tư, chính sách để thu hút và đa
dạng hoá các nguồn lực, nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động thông tin,
đưa thông tin trở thành một loại hàng hoá, tạo tiền đề ra đời và phát triển thị
trường thông tin cũng như tạo lợi nhuân từ hoạt động cung cấp thông tin công
nghệ.
1.2 Hỗ trợ đánh giá, định giá, giám định công nghệ
Qua số liệu điều tra khảo sát chúng ta thấy một trong các dịch vụ cung
cấp còn yếu của các tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ là Đánh giá, Định
giá, Giám định công nghệ. Các lĩnh vực này là khá mới đối với các doanh
nghiêp Việt Nam khi thực hiệt hoạt động chuyển giao công nghệ cũng như
nghệp vụ định giá đánh giá, giám định công nghệ là lĩnh vưc khó, đói hỏi nhiều
kiến thức kỹ năng đối với các tổ chức môi giới công nghệ tại Việt Nam

10


Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra khảo sát

Biểu đồ 2: Tỉ lệ các dịch vụ chuyển giao công nghệ của các tổ chức môi giới
chuyển giao công nghệ tại Viêt Nam

Đánh giá công nghệ là quá trình tổng hợp xem xét tác động giữa công
nghệ với môi trường xung quanh nhằm đưa ra các kết luận về khả năng thực tế
và tiềm năng của một công nghệ hay một hệ thống công nghệ.
Đánh giá công nghệ là việc phân tích định lượng hay định tính các tác
động của một công nghệ hay một hệ thống công nghệ đối với các yếu tố của môi
trường xung quanh. Việc đánh giá này có thể tiến hành ở cấp quốc gia, ngành or
DN. Khi đánh giá công nghệ phải xem xét một loạt các yếu tố,chúng có thể
được phân thành bảy nhóm như sau:- Các yếu tố công nghệ : Các chỉ tiêu liên
quan đến khía cạnh kỹ thuật như năng lực, độ tin cậy và hiệu quả; các phương
án lựa chọn công nghệ như độ linh hoạt và qui mô; mức độ phát triển của hạ
tầng như sự hỗ trợ và dịch vụ.
-

Các yếu tố kinh tế.: chỉ phản ánh yếu tố này có thể là tính khả thi về
kinh tế (chi phí - lợi ích); cải thiện năng suất (vốn và các nguồn lực
khác); tiềm năng thị trường (qui mô, độ co giãn); tốc độ tăng trưởng và
độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

-

Các yếu tố đầu vào : Một công nghệ có thể tác động đến mức độ dồi
dào của nguyên vật liệu và năng lượng, tài chính và nguồn nhân lực có
tay nghề.
11


-


Các yếu tố môi trường : Các chỉ tiêu phản ánh yếu tố này bao gồm môi
trường vật chất (không khí, nước và đất đai); điều kiện sống (mức độ
thuận tiện và tiếng ồn); cuộc sống (độ an toàn và sức khỏe) và môi
sinh.

-

Các yếu tố dân số : Một công nghệ có thể tác động đến tốc độ tăng
trưởng dân số, tuổi thọ, cơ cấu dân số theo các chỉ tiêu khác nhau,
trình độ học vấn và các đặc điểm về lao động (mức thất nghiệp và cơ
cấu lao động).

-

Các yếu tố văn hóa - xã hội : Thuộc nhóm yếu tố này có chỉ tiêu như
sự tác động đến cá nhân (chất lượng cuộc sống), tác động đến xã hội
(các giá trị về mặt xã hội) và sự tương thích với nền văn hóa hiện
hành.

-

Các yếu tố chính trị - pháp lý : Một công nghệ có thể được chấp nhận
về mặt chính trị hoặc là không, có thể đáp ứng được đại đa số nhu cầu
của dân chúng hoặc là không, và có thể phù hợp hoặc không phù hợp
với thể chế chính sách.

Sự cần thiết của việc đánh giá công nghệ Ở các nước đang phát triển, đánh
giá công nghệ gồm các mục đích sau:
-


Đánh giá công nghệ để chuyển giao hay áp dụng một công nghệ. Để đạt
được mục đích này, đánh giá công nghệ phải xác định được tính thích hợp
của công nghệ đối với môi trường nơi áp dụng nó.

-

Đánh giá công nghệ để điều chỉnh và kiểm soát công nghệ. Thông qua
đánh giá công nghệ để nhận biết các lợi ích của một công nghệ, trên cơ sở
đó phát huy, tận dụng các lợi ích này, đồng thời tìm ra các bất lợi tiềm
tàng của công nghệ để có biện pháp ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục.

-

Đánh giá công nghệ cung cấp một trong những đầu vào cho quá trình ra
quyết định:


Xác định chiến lược công nghệ khi có thay đổi lớn trong chính sách
kinh tế - xã hội quốc gia.



Khi quyết định chấp nhận các dự án tài trợ công nghệ của nước
ngoài.



Quyết định triển khai một công nghệ mới hay mở rộng một công
nghệ đang hoạt động.

12




Xác định thứ tự ưu tiên phát triển công nghệ của quốc gia trong từng
giai đoạn.

Đánh giá công nghệ thường diễn ra với 4 bước: Đánh giá sơ bộ, đánh giá
khả năng chuyển giao, đánh giá thị trường, đánh giá thương mại. Ở đây có nhiều
yếu tố phải xem xét đến. Chẳng hạn, trong đánh giá thị trường, tức là nghiên cứu
sản phẩm được tạo ra từ công nghệ đáp ứng thị trường tiềm năng như thế nào,
những yếu tố có liên quan là thị trường (nội địa, khu vực, toàn cầu; hiện nay,
mới, có tính chiến lược) mà công nghệ hoặc sản phẩm tạo ra có thể đáp ứng;
đánh giá thị phần (giá trị và khối lượng) của sản phẩm tạo ra do công nghệ trong
vòng đời công nghệ; chi phí lưu thông và tiếp thị; độ nhậy của công nghệ/sản
phẩm đối với biến động/thay đổi của thị trường/công nghệ; các chiến lược cạnh
tranh; các đối tác tiềm năng/ có tính chiến lược để đảm bảo thành công trên thị
trường...
Xét về quy mô doanh nghiệp:
Một trong các hoạt động quan trọng trong chuyển giao công nghệ là đánh
giá công nghệ ở mức doanh nghiệp, nhằm lựa chọn một trong số nhiều công
nghệ khác nhau để thoả mãn tối ưu những thông số do doanh nghiệp xác định
trước.
Cũng như trao đổi hàng hoá nói chung, chuyển giao công nghệ được diễn
ra trên cơ sở đồng thuận lợi ích giữa các bên tham gia. Đồng thời, lại có đặc thù
ở đây là tồn tại sự khác biệt nhất định, khiến việc thống nhất lợi ích trở nên khó
khăn: Trong chuyển giao công nghệ có nhiều yếu tố cần tính toán lợi ích và chỉ
có ít yếu tố liên quan đến chi phí thuần tuý về tri thức công nghệ, còn hầu hết
các yếu tố khác là về các dịch vụ có liên quan như cung cấp các chi tiết, phụ

kiện, thiết bị, đặc quyền kinh doanh, tên nhãn hàng, các dịch vụ chuyên môn...;
Trong chuyển giao công nghệ, các bên thường có động cơ và chiến lược riêng
của mình. Do công nghệ là vũ khí cạnh tranh tiềm tàng quan trọng, nên nhiều
khi nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm liên quan tới công nghệ
chuyển giao cũng là nội dung được chú ý trong đàm phán; Khoảng cách sẽ càng
rõ nét khi chuyển giao công nghệ diễn ra giữa giới khoa học và giới kinh doanh,
bởi các nhà khoa học thường đánh giá quá cao sản phẩm nghiên cứu và họ còn
có xu hướng muốn phổ biến kết quả khoa học do mình tạo ra.
Chuyển giao công nghệ không phải chỉ có nhiều thông tin phải xử lý và thể
hiện sự phức tạp, mà còn liên quan tới một số vấn đề khá xa lạ đối với doanh
13


nghiệp, loại hình tổ chức vốn quen với hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản
phẩm và dịch vụ thông thường. Đó là cảnh báo công nghệ Cảnh báo công nghệ
(Veille Technologique) là một nội dung của đánh giá công nghệ nhằm thấy
trước mặt lợi, mặt hại để từ đó ngăn ngừa, đối phó với những hậu quản tiêu cực
có thể có do một công nghệ cụ thể, hay một thế hệ công nghệ (dòng công nghệ)
hoặc một công nghệ mới gây ra cho sản xuất, đời sống và xã hội., đánh giá
công nghệ, môi trường pháp lý liên quan tới chuyển giao công nghệ, chính sách
phát triển công nghệ và chuyển giao công nghệ của nước xuất và nhập công
nghệ... Chuyển giao công nghệ đòi hỏi phải có hiểu biết sâu sắc, hệ thống về
công nghệ và môi trường pháp lý để có những quyết sách chính xác, kịp thời.
Lấy ví dụ, thông thường, cơ quan có thẩm quyền của mỗi quốc gia (hệ thống
hành chính hoặc hệ thống toà án) đều được phép tự do hành động với một phạm
vi rất rộng trong việc xem xét tính hợp pháp của các hợp đồng chuyển giao công
nghệ. Nếu hợp đồng có các điều khoản thương mại không lành mạnh thì sẽ bị
coi là vô hiệu. Hậu quả tất yếu là không thể tiến hành việc thanh toán ngoại hối,
không có sự bồi thường về mặt pháp lý, một rủi ro mà bất kỳ doanh nghiệp nào
cũng phải biết để phòng xa khi tham gia các hợp đồng chuyển giao công nghệ

với các đối tác nước ngoài.
Không thể phủ nhận rằng, hiện nay đã có những doanh nghiệp chú trọng
phát triển hoạt động NC&PT, tăng cường thu lượm thông tin công nghệ. Tuy
nhiên, thực tế cũng cho thấy những nỗ lực đồng thời hướng vào các lĩnh vực
khác nhau đang đặt các doanh nghiệp trước mâu thuẫn. Nổi bật là mâu thuẫn
giữa chú trọng kế hoạch hoá quá trình sản xuất ngắn hạn, bám sát vào thực tại và
đi vào giải quyết những sự cố kỹ thuật cụ thể, với phải tiếp cận được với kiến
thức khoa học của những tổ chức KH&CN hàng đầu, phải có khả năng tiến hành
những nghiên cứu giầu trí tưởng tượng (thoát ly khỏi thực tế hiện tại) và phải tạo
ra một môi trường thuận lợi cho sự đổi mới, sáng tạo...
Như vậy, thay vì phải tự mình đơn độc, sự hỗ trợ các dịch vụ đánh giá
công nghệ của các tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ sẽ giúp nâng
cao tính chuyên nghiệp hơn và vị thế của doanh nghiệp trong đàm phán mua bán
công nghệ. Những khó khăn về thống nhất lợi ích giữa các bên mua bán công
nghệ có thể khắc phục phần nào với sự hỗ trợ của tổ chức tư vấn, môi giới
chuyển giao công nghệ. Đóng vai trò trung gian, các tổ chức tư vấn, môi giới
14


công nghệ có những ưu thế để đưa ra các ý kiến công bằng, tỉnh táo của người
thứ ba.
Vai trò của định giá để phát triển thị trường công nghệ
Định giá công nghệ là hoạt động xác định giá của công nghệ
Có 5 phương pháp định giá công nghệ thường được sử dụng:


Định giá công nghệ : Theo dòng tiền khấu hao




Định giá công nghệ: Định giá theo số liệu



Định giá công nghệ: Định giá theo chi phí



Định giá công nghệ: Phương pháp chia sẻ lợi nhuận



Định giá công nghệ: Định giá theo thị trường

Để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt trong xu thế hội nhập
thì việc nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm là xu thế tất yếu. Muốn vậy
phải đổi mới công nghệ. Để đổi mới công nghệ, một trong những vấn đề doanh
nghiệp quan tâm là giá thành công nghệ cần được chuyển giao. Tuy nhiên, hoạt
động định giá công nghệ ở Việt Nam mới được đề cập trong thời gian gần đây
và đang chuẩn bị cho những bước đi đầu tiên
Ở các nước phát triển, đặc biệt là các nước thuộc nhóm G7, thị trường
công nghệ đã có từ lâu nên hoạt động định giá công nghệ rất phát triển. Một số
nước như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Trung Quốc... hoạt động này cũng
rất phát triển. Theo thống kê, Hàn Quốc đã nhanh chóng trở thành nước công
nghiệp mới phát triển nhờ việc đổi mới công nghệ. Trong vòng 17 năm (từ 1962
đến 1979), có trên 1.500 hợp đồng chuyển giao công nghệ (CGCN) mới nhập
vào với nhịp độ ngày càng gia tăng. Từ năm 1962 đến 1966 có 31 hợp đồng
CGCN; từ năm 1967 đến 1972 có 325 hợp đồng CGCN; từ năm 1973 đến 1977
15



có 538 hợp đồng CGCN và từ 1978 đến 1979 có 573 hợp đồng CGCN. Họ rút ra
kết luận: muốn đẩy nhanh tốc độ CGCN và hiệu quả tốt ngoài việc đơn giản hóa
thủ tục hành chính thì định giá công nghệ là hoạt động tất yếu và cấp bách phục
vụ cho hoạt động CGCN.
Công nghệ để chuyển giao phải thỏa mãn các điều kiện như: công nghệ đã
hoàn thiện; công nghệ phải bao hàm đủ các nội dung để chuyển giao như: tài
liệu, đào tạo, trợ giúp kĩ thuật... Bên cạnh đó, một tiêu chí quan trọng được cả
bên mua và bên bán công nghệ quan tâm là cần xác định rõ vấn đề liên quan đến
chuyển giao các đối tượng sở hữu công nghiệp như: nhãn hiệu hàng hóa, sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp...
Hiện nay trên thế giới có một số phương pháp định giá công nghệ có thể
áp dụng ở Việt Nam như: phương pháp so sánh với một công nghệ tương tự đã
chuyển giao trước; phương pháp cạnh tranh giữa các nhà cung cấp công nghệ;
phương pháp quy tắc ngón tay cái, phương pháp "giá trần" (một số Chính phủ
công bố giới hạn tối đa cho phí CGCN); phương pháp phân chia lợi nhuận,
phương pháp chi phí, phương pháp thị trường; phương pháp thu nhập... Trong số
này, theo kinh nghiệm của các nước, phương pháp thu nhập được áp dụng phổ
biến nhất. Mặc dù mỗi phương pháp đều có ưu, nhược điểm riêng và điều kiện
áp dụng khác nhau, điều quan trọng là khi vận dụng cụ thể cho từng trường hợp
định giá công nghệ cần xem xét điều kiện của từng phương pháp.
Do việc định giá còn rất mới mẻ đối với nước ta nên việc nghiên cứu
phương pháp luận và tìm hiểu các phương pháp định giá là cấp thiết vì không
những nó giúp các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong quá trình đổi mới công
nghệ, phát triển thị trường công nghệ, mà còn tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình
cổ phần hóa doanh nghiệp.

16



Ở Việt Nam trước đây, khi phê duyệt hợp đồng CGCN đều thực hiện theo
Nghị định số 45/1998/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết về CGCN, trong
đó giá công nghệ luôn bị khống chế bởi "giá trần" là 5% giá bán tịnh; trường
hợp đặc biệt có thể lên đến 8% (giá bán tịnh là tổng giá bán sản phẩm hoặc dịch
vụ, tính theo hóa đơn bán hàng, trừ các khoản: thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế giá trị gia tăng, chiết khấu thương mại, chi phí cho việc mua các linh
kiện, chi tiết...). Tuy nhiên, đến nay Nghị định 45/1998/NĐ-CP được thay thế
bởi Nghị định số 11/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết về CGCN
(sửa đổi). Theo quy định tại Nghị định này, Chính phủ không quy định "giá
trần" nữa, mà giá của công nghệ khi chuyển giao do các bên thỏa thuận.
Định giá công nghệ là hoạt động phức tạp và tốn kém, bởi công nghệ là
tài sản vô hình. Hơn nữa, chi phí để tạo ra công nghệ chưa chắc đã phản ánh
hoàn toàn đúng với giá trị của công nghệ. Vì vậy, theo tính toán của các chuyên
gia nước ngoài, chi phí cho việc định giá công nghệ rất tốn kém, trung bình
khoảng 20 - 30.000USD. Như vậy, không nên và không thể định giá công nghệ
tràn lan, phải có mục đích và địa chỉ áp dụng cụ thể. Hơn nữa, giá cả công nghệ
trong các hợp đồng CGCN do bên mua và bên bán thỏa thuận. Việc định giá
công nghệ chỉ mang tính tham khảo cho các bên. Mặc dù vậy, cá nhân, tổ chức
tiến hành định giá công nghệ phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của
mình. Nhưng để thúc đẩy phát triển thị trường công nghệ thì việc hình thành các
tổ chức định giá công nghệ mang tính chuyên sâu, đặc biệt là tổ chức môi giới
CGCN là rất cần thiết và cần có sự quản lí thống nhất trong toàn quốc về hoạt
động định giá để hoạt động này thực sự thúc đẩy CGCN và phát triển thị trường
công nghệ của Việt nam trong tương lai.
Vai trò của giám định công nghệ trong thành công của hoạt động chuyển
giao công nghệ

17



Giám định công nghệ là hoạt động kiểm tra xác định các chỉ tiêu công
nghệ đã được chuyển giao so với các chỉ tiêu công nghệ quy định trong hợp
đồng chuyển giao công nghệ.
Giám định trang thiết bị công nghệ: Là cơ sở hỗ trợ cho cơ quan quản
lý hoặc chủ đầu tư về hiện trạng chất lượng, giá trị, tổn thất,…các trang thiết bị
công nghệ theo yêu cầu.
Điều dễ nhận thấy nhất là khó khăn của doanh nghiệp trước sự phức tạp
trong chuyển giao công nghệ. Xung quanh vấn đề công nghệ, các học giả đã
từng đưa ra nhiều tranh luận. Chẳng hạn, các bàn thảo dai dẳng về những điều
cơ bản như định nghĩa về công nghệ và chuyển giao công nghệ (hàm chứa đằng
sau là cách tiếp cận khác nhau), đánh giá đóng góp của công nghệ vào tăng
trưởng kinh tế, ... Các doanh nghiệp có thể không quan tâm tới những gì mang
tính học thuật, hoặc tác động ở tầm vĩ mô, nhưng còn có cả những phức tạp khác
liên quan trực tiếp đến hoạt động chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp.
Có nhiều phương thức chuyển giao công nghệ khác nhau mà doanh
nghiệp phải lựa chọn: Mua thiết bị, hợp đồng chìa khoá trao tay, liên doanh,
mua lixăng,... Các phương thức này có liên quan tới lợi ích của các bên và đặc
điểm công nghệ. Thông thường, người bán thích được tham gia cổ phần để có
thể giám sát được nhiều hơn đối với người mua công nghệ, nhất là đối với
những công nghệ quan trọng, hoặc đang ở giai đoạn đầu của vòng đời sản phẩm.
Trái lại, nếu công nghệ thuộc loại không quan trọng, hoặc ở vào giai đoạn cuối
của vòng thì người bán thích phương thức bán lixăng. Về phía người mua, quyết
định lựa chọn phương thức chuyển giao nào phụ thuộc chủ yếu bởi năng lực
công nghệ và các nguồn lực hiện có. Nếu công nghệ định mua đòi hỏi nguồn lực
quá cao, người mua thích phương thức liên doanh; nếu người mua có năng lực
công nghệ cao, họ không thích việc tham gia cổ phần, trừ khi có những lý do

18



như để tiếp cận thị trường. Lựa chọn đúng phương thức chuyển giao công nghệ
có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp.
Có những giai đoạn khác nhau của quá trình chuyển giao công nghệ mà
doanh nghiệp phải trải qua. Trong giai đoạn tìm kiếm cơ hội, doanh nghiệp cần
nhận biết được các nhu cầu và lập luận chứng cho việc giao dịch. Giai đoạn lựa
chọn đối tác bao gồm việc tìm đối tác, đánh giá và chọn đối tác. Giai đoạn tiếp
theo là hoàn thiện phương thức giao dịch với nội dung nhận dạng phương thức
chuyển giao công nghệ khả thi và chọn phương thức giao dịch. Tiếp đến là giai
đoạn đàm phán, doanh nghiệp tiến hành đàm phán các điều khoản của hợp đồng,
đồng thời hoàn tất các khía cạnh về pháp lý, nguồn lực và hậu cần. Song song
với các quá trình đó là việc giám định công nghệ cần chuyển giao
Khác với mua bán hàng hoá thông thường, chuyển giao công nghệ đòi hỏi
những quan hệ sâu sắc, lâu dài giữa các bên chuyển giao và tiếp nhận.
Độ tin cậy của hàng hoá công nghệ không cao do người ta không thể sờ
mó và không dễ nhận biết trực tiếp các thuộc tính KH&CN. Trong khi người
bán biết rõ hàng hoá của mình, thì người mua thường có rất ít thông tin về chất
lượng thực của hàng hoá được mang trao đổi. Giá trị sử dụng của công nghệ chỉ
thực sự bộc lộ trong quá trình sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ.
Trước một đối tượng khá bí ẩn, quan hệ tin tưởng lẫn nhau có ý nghĩa quan
trọng giúp chuyển giao diễn ra trôi chảy.
Chuyển giao công nghệ bao hàm cả việc chuyển giao, hấp thụ kiến thức
mới của phía tiếp nhận. Sau hành vi mua bán còn có cả những hoạt động thiếp
theo như đào tạo, sửa chữa,... thể hiện mối quan hệ gắn bó lâu dài của những
người tham gia. Trường hợp người tiếp nhận tiếp tục cải tiến, phát triển công
nghệ được chuyển giao và cần sự hợp tác từ phía chuyển giao, quan hệ giữa các
bên càng phải bền chặt.
19


Chuyển giao công nghệ chứa đựng nhiều rủi ro. Người bán khó biết được

người mua có giữ cam kết trong hợp đồng sau khi đã làm chủ được tri thức hay
không. Người có hàng hoá KH&CN dễ bị tổn thương về mặt sở hữu và lợi ích.
Tri thức KH&CN có những điểm khác với hàng hoá truyền thống. Việc một
người sử dụng một khối lượng tri thức nhất định không ngăn ngừa được người
khác sử dụng cũng những khối lượng tri thức đó. Đồng thời, khi tri thức đã bộc
lộ ra ngoài xã hội, thì người tạo ra nó rất khó ngăn không cho người khác dùng.
Tính chất "không loại trừ" và "không thể bị loại trừ" theo cách gọi của các nhà
kinh tế, thường làm tách rời giữa quyền sở hữu pháp lý và quyền sở hữu thực tế.
Trước những phức tạp trên, cùng với các nỗ lực xử lý của doanh nghiệp,
sự trợ giúp từ bên ngoài của tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ cho
việc giám định công nghệ là rất cần thiết và hữu ích. Trong chuyển giao công
nghệ, người ta nhấn mạnh thuật ngữ ''Đối tác" với ý nghĩa là mua bán công nghệ
cần quan hệ mật thiết hơn nhiều so với "mua đứt - bán đoạn", một sự hợp tác
trên cơ sở bền vững. Việc hình thành quan hệ hợp tác bền vững rất cần trợ giúp
từ tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ giống như những "bà mối".
Bà mối là người có điều kiện đi sâu tìm hiểu các bên, là người làm chứng và bảo
lãnh uy tín của các bên tham gia chuyển giao công nghệ. Điều nay chính là áp
lực khiến các tổ chức môi giới không ngừng nâng cao kiến thức kinh nghiệm
trong việc giám định công nghệ. Cung cấp cho khách hàng các dịch vụ hỗ trợ tốt
nhất.
Qua số liệu điều tra khảo sát chúng ta thấy được nhu cầu rất lớn 92% cho
việc đào tạo về các dịch vụ đánh giá định giá giám định công nghệ. Vì vậy cần
có các giải pháp hỗ trợ các nguồn lực, mở các khóa học về lĩnh vực này nhằm
đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường chuyển giao công nghệ cũng như mục
tiêu phát triển khoa học công nghệ tại Việt Nam.

20


Nguồn: báo cáo kết quả điều tra khảo sát

Biểu đồ 3: Nhu cầu các lĩnh vực cần được đào tạo thêm của tổ chức môi giới
chuyển giao công nghệ tai Việt Nam

1.3 Xúc tiến chuyển giao công nghệ và hỗ trợ thương mại hóa công nghệ
Qua khảo sát điều tra ta thấy tiềm năng phát triên của hoạt đông môi giới
công nghệ là rất lớn. Đánh giá về nhu cầu ứng dụng đổi mới công nghệ hiện nay
như thế nào, thì có đến 64% ý kiến được hỏi cho rằng là rất lớn và cũng đánh giá
cao vai trò hỗ trợ của tổ chức trung gian (64% ý kiến được hỏi). Trước một thị
trường tiềm năng và có xu hương phát triên mạnh trong tương các tổ chức môi
giới chuyển giao công nghệ cần năm vững thông tin thị trường, dự báo thị
trường, xu hương công nghệ, đa dạng hóa các cách thức môi giới chuyển giao
công nghệ cho phù hợp với các điều kiện thức tại. Môt số hình thưc môi giới
chuyển giao công nghệ hiện nay trong phần nghiên cứu thuộc báo cáo này sẽ
đánh giá các đặc điểm nhằm xác định phương hướng cho hoạt động môi giới
chuyển giao công nghệ.
Theo điều tra về Các hình thức môi giới chuyển giao công nghệ của tổ
chức (doanh nghiệp) cho thấy có đến 39,3% đơn vị điều tra đều triển khai song
song việc mua bán công nghệ và mua bán bí quyết công nghệ. Số lượng đơn vị
thực hiện mua bán công nghệ chiếm 57,1% ý kiến điều tra, trong khi số lượng
đơn vị thực hiện mua bán bí quyết, bản quyền chỉ chiếm có 42,9% ý kiến được
hỏi.
21


Biểu đồ 4. Các hình thức chuyển giao công nghệ

Hoạt động tư vấn môi giới công nghệ của tại Việt Nam hiện nay tập trung
chủ yếu dưới dạng công nghệ đi kèm với máy móc thiết bị. Đây cũng chính là
một đặc điểm trung của các nước đang phát triển, qua chuyên đề 2 chúng ta đã
thấy được bài học từ kinh nghiệm của Thái Lan, việc chuyển giao công nghệ đi

kèm theo đầu tư FDI dưới dạng máy móc thiết bị hoàn thiện không thúc đẩy
được việc phát triển nghiên cứu công nghệ trong nước. Mặc dù yêu cầu khá bức
thiết là việc đẩy mạnh thương mại hóa công nghệ trong nước đi kèm với nó là
phát triển ứng dụng công nghệ trong nước thúc đẩy phát triển nghiên cứu công
nghệ.
Chuyển giao công nghệ thông qua thương mại hàng hóa buôn bán thiết bị
công nghệ:
Công nghệ không chỉ bao gồm những yếu tố “phần cứng” như máy móc
và thiết bị trong khâu sản xuất, mà còn cả những yếu tố “phần mềm”, bao gồm
kiến thức khoa học và công nghệ, kỹ năng, bí quyết và các cách bố trí về mặt tổ
chức và thể chế tạo thành có liên quan, cũng như hàng hóa và dịch vụ được tạo
ra từ quá trình sản xuất. Khi những yếu tố này được mua và bán ra ngoài ranh
giới công ty, thì chúng tượng trưng cho dòng công nghệ thông qua hàng hóa và
dịch vụ.
22


Chuyển giao công nghệ thông qua hàng hóa và dịch vụ thường liên kết
với nhau theo nhiều cách. Ở một mức độ đơn giản, một bộ phận của phần cứng
thường không dễ thích ứng nếu không có sách hướng dẫn kèm theo hoặc đào tạo
nhân sự, và tương tự, việc đào tạo trong các quy trình công nghiệp thường kèm
theo một số phương thức tiếp cận đến phần cứng. Có bốn phương thức khác
nhau cho việc chuyển giao công nghệ thông qua thương mại được vạch ra thông
qua các ví dụ ở bảng dưới đây. Các ví dụ này cũng chứng tỏ tầm quan trọng của
những mối quan hệ giữa hàng hóa và dịch vụ.
Làm thế nào để tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ mang lại lợi
ích cho việc chuyển giao công nghệ thân thiện môi trường?
Những khó khăn trong việc xác định công nghệ thân thiện môi trường đã
chồng lên những khó khăn về việc xác định hàng hóa và dịch vụ môi trường. Ví
dụ, một trong những vấn đề đó là động lực kép vốn là bản chất của nhiều loại

công nghệ sạch hơn. Những ví dụ của ngành công nghiệp hóa chất bao gồm việc
sử dụng máy trộn nhằm giảm sự hình thành cặn bùn trong thùng chứa, phát hiện
rò rỉ, dọn rửa ống chuyển nhiệt và kiểm soát phản ứng tốt hơn nhằm loại bỏ
những điểm nóng và lạnh hoặc đẩy nhanh phản ứng. Lựa chọn này có thể kinh tế
hơn là biện pháp “đầu cuối”, và vì ở đây sự ô nhiễm được giải quyết như là một
cách sử dụng tài nguyên, nên việc giảm chi phí cho những tài nguyên (gây ô
nhiễm) sẽ được tính cùng với chi phí của những tài nguyên khác. Trong những
trường hợp như vậy, rất khó có thể phân biệt những thay đổi được thúc đẩy bởi
động cơ môi trường với những thay đổi bởi động cơ tiết kiệm kinh phí.

Phương
thức
Chuyển
giao kỹ

Nhập khẩu hàng hóa
Trong cuộc tập huấn dành cho
người vận hành tại Trung Quốc,
23

Nhập khẩu dịch vụ
Chương trình GEF đã cấp kinh
phí cho các quốc gia đang phát


thuật

họ đã được cung cấp kỹ năng và
kỹ thuật sử dụng lò hơi nóng một
cách hiệu quả, sử dụng trang

thiết bị cơ bản được nhập khẩu từ
Nhật Bản. Quá trình đó có thể
được thích ứng với những lò hơi
sẵn có nhờ việc tập huấn đầy đủ
và tiếp cận tới thiết bị cơ bản
(IPCC, 2000).

Chuyển
giao thiết
kế và mô
hình

Dưới những chính sách tài chính
ưu đãi, Công ty Totalgaz đã xuất
Bộ Lâm nghiệp và Môi trường
khẩu 6kg chai làm bằng butan và
Ấn Độ, với kinh phí một phần từ lò hơi cho Sê-nê-gan và nước này
viện trợ của Đức và Thụy Sỹ, đã nhờ đó đã giảm bớt việc phá rừng
mua trang thiết bị cơ bản nhằm
cũng như sử dụng than củi. Lò
chế tạo tủ lạnh không gây hại
hơi ở đây được thiết kế để đáp
cho tầng ôzôn trong dự án
ứng nhu cầu địa phương nhờ sự
“Ecofrid”. Các trang thiết bị này hợp tác chặt chẽ giữa kỹ sư nước
được miễn các loại thuế và hải
ngoài của công ty Total và nhà
quan (IPCC, 2000).
cung cấp trong nước, từ đó hỗ trợ
cho thị trường của Total (IPCC,

2000).

triển để đầu tư cho các buổi tập
huấn kỹ thuật được tổ chức bởi
công ty tư vấn năng lượng Hà Lan
và công ty này cũng đã tổ chức
các cuộc hội thảo về việc sử dụng
chiếu sáng có hiệu quả (IPCC,
2000).

Tại Ấn Độ, vốn cơ bản để sử
dụng năng lượng gió được giảm
thuế nhập khẩu và tua-bin chạy
bằng gió thì được miễn thuế nhập
khẩu. Hàng hóa nhập khẩu đã
Chuyển
thúc đẩy cho sự hình thành các
giao thông liên doanh giữa nhà sản xuất
tin kỹ
trong và ngoài nước, thông qua
thuật
nhiều mô hình kinh doanh khác
nhau, nhằm mang lại thông tin
kỹ thuật liên quan đến việc bảo
trì tua-bin nhập khẩu cũng như
sản xuất trong nước (IEA/OECD,
2001).

Chính phủ Thụy Điển đã hỗ trợ
tài chính cho những dịch vụ hỗ

trợ kỹ thuật của các công ty cung
cấp nhiệt tại vùng Baltic, đang
tìm nguồn thay thế năng lượng
nhiên liệu sinh học được sản xuất
trong nước. Việc hỗ trợ về mặt kỹ
thuật bao gồm đào tạo các công ty
về cách bỏ thầu, định giá thầu,
thương lượng các hợp đồng cung
cấp nhiên liệu sinh học và vận
hành nồi hơi đã sửa đổi (IPCC,
2000).

Chia sẻ
các kết
quả
nghiên
cứu

Công ty xi-măng Taiheyo của
Nhật Bản đã thực hiện nghiên cứu
về sợi tre nhằm gia cố cho ximăng để thay thế khoáng chất và
sợi tổng hợp bằng chất liệu tự

Ủy ban châu Âu cùng chương
trình ASEAN COGEN đã liên
kết những ngành công nghiệp
của các nước Đông Nam Á với
những nhà cung cấp thiết bị đồng
24



sản xuất của châu Âu lại với
nhau nhằm quảng bá cho lợi ích
của việc đồng sản xuất. COGEN
đã giúp đẩy mạnh dự án hợp tác
sản xuất Nhà máy gạo Chia
Meng tại Thái Lan. COGEN đã
liên kết người mua và người bán
công nghệ đồng sản xuất với
nhau thông qua một mạng lưới
các nhóm đa quốc gia. Trong
trường hợp nhà máy tại Thái
Lan, họ đã trình diễn sự đáng tin
cậy về mặt kỹ thuật của phần
cứng được nhập khẩu
(IEA/OECD, 2001).

nhiên. Nghiên cứu ban đầu đã
được thực hiện bởi các kỹ thuật
viên người Nhật Bản tại Java, nơi
được lựa chọn vì có sẵn nguồn
tre, nhưng bằng việc mua các dịch
vụ kỹ thuật, các công ty In-đô-nêxia đã “tinh chỉnh” công nghệ và
chuyển giao nó tới các rừng tre ở
Cô-lôm-bia. Từ đó, các công ty
In-đô-nê-xia và Cô-lôm-bia đã
xuất khẩu công nghệ này
(IPCC,2000).

Bảng 1 : Các phương thức chuyển giao công nghệ thông qua thương mại


Chương trình nghị sự số 21 nhấn mạnh rằng chuyển giao công nghệ
không chỉ liên quan đến trang thiết bị hay “phần cứng”, mà còn liên quan đến
toàn bộ hệ thống cũng như các thành phần của nó, bao gồm bí quyết, hàng hóa
và dịch vụ, trang thiết bị và các quy trình tổ chức và quản lý. Việc tự do hóa nền
kinh tế thế giới mang lại cả thời cơ cũng như thách thức cho những ai muốn
khuyến khích chuyển giao công nghệ thân thiện môi trường tới các nước đang
phát triển. Mức độ linh hoạt hơn cũng có thể có đối với việc thuê khoán nguồn
tri thức và hỗ trợ tài chính, cùng với những lộ trình khác nhau cho công nghệ
cũng sẵn có hơn khi mà rào cản kinh doanh hàng hóa và dịch vụ được hạ thấp
hơn. Tự do hóa thương mại có thể giúp dỡ bỏ những hàng rào cản trở việc
chuyển giao công nghệ thân thiện môi trường. Điển hình là thuế đánh vào hàng
hóa về môi trường hay những hạn chế về phương thức cung cấp dịch vụ của
nước ngoài. Nói một cách gián tiếp thì tự do hóa có thể mang lại một môi trường
cạnh tranh đặc trưng tại một nền kinh tế nhất định. Các rào cản cho việc cung
cấp dịch vụ có thể tạo ra những rào cản đáng kể trong chuyển giao công nghệ, vì
luồng hàng hóa, dịch vụ và công nghệ có liên quan lẫn nhau. UNCTAD chỉ ra
25


×