Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Đánh giá vai trò của các tổ chức môi giới CGCN về KHCN trong lĩnh vực thẩm định công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.78 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1 Tình hình hoạt động thẩm định công nghệ ở Việt Nam.

Trang
2

1.1 Về công tác thẩm định dự án đầu tư

2

1.2 Về công tác thẩm định hợp đồng CGCN

4

2 Đánh giá vai trò của các tổ chức môi giới CGCN về KHCN
trong lĩnh vực thẩm định công nghệ

5

2.1 Vai trò của các tổ chức môi giới CGCN về KHCN về xuất xứ
của công nghệ:

8

2.2 Vai trò của tổ chức CGCN về giá thành (định giá công nghệ)

10

2.3 Vai trò của các tổ chức môi giới CGCN về KHCN (Về tính
đồng bộ của dây chuyền công nghệ)



20

3

Một số định hướng trong thời gian tới

24

3.1 Phát huy vai trò cầu nối

24

3.2 Đẩy mạnh hợp tác quốc tế

24

Tài liệu tham khảo

26


1. Tình hình hoạt động thẩm định công nghệ ở Việt Nam.
Thẩm định công nghệ là một hoạt động liên quan đến nhiều ngành, trong
đó, ngành khoa học và công nghệ (KH&CN) được giao trách nhiệm là cơ quan
đầu mối. Trong hoạt động này, hệ thống văn bản pháp quy đã được ban hành
tương đối đầy đủ và khoa học tạo thuận lợi cho việc thực hiện cấp phép các dự
án đầu tư vào Việt Nam và các doanh nghiệp trong nước tiến hành đầu tư đổi
mới, cải tiến công nghệ thông qua chuyển giao các công nghệ tiên tiến từ nước
ngoài.

Từ những năm về trước, thực hiện chính sách mở cửa nhằm huy động
các nguồn lực cho phát triển đất nước, Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều
chính sách quan trọng, trong đó có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam. Bộ KH&CN (ủy ban Khoa học Nhà nước - vào thời điểm này và Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường - KH,CN&MT - sau đó) được phân công
là một trong những cơ quan tham gia vào quá trình xem xét, thẩm định cấp giấy
phép đầu tư cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Nhận thức
rõ tầm quan trọng của công tác này, ủy ban đã đề nghị Chính phủ cho thành lập
Vụ Giám định Công nghệ thuộc Uỷ ban (sau đổi tên thành Văn phòng Thẩm
định về Công nghệ và Môi trường các Dự án Đầu tư và nay là Vụ Đánh giá,
Thẩm định và Giám định Công nghệ - Vụ ĐTG) để tham mưu cho Lãnh đạo ủy
ban trong việc thẩm định công nghệ.
Hệ thống văn bản pháp quy và việc triển khai cụ thể hoạt động này tập
trung vào 2 mảng chính: Thẩm định dự án đầu tư và thẩm định hợp đồng
chuyển giao công nghệ (CGCN).
1.1. Về công tác thẩm định dự án đầu tư
Thông tư số 1940/1997/TT-BKHCNMT ngày 15.11.1997 của Bộ
KH,CN&MT là văn bản pháp quy đầu tiên được ban hành nhằm hướng dẫn
thống nhất công tác này ở cả trung ương, các tổ chức quản lý về KH,CN&MT
của các bộ/ngành và các địa phương. Văn bản này đã phát huy hiệu lực, tạo cơ
sở pháp lý cho cán bộ thẩm định trong góp ý kiến cho cơ quan cấp phép đầu tư.

2


Năm 2000, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được bổ sung, sửa đổi
nhằm tạo sự thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Để phù hợp với Luật
mới này, ngày 23.7.2002, Bộ KH,CN&MT đã ban hành Thông tư số
55/2002/TT-BKHCNMT thay thế cho Thông tư số 1940/1997/TT-BKHCNMT
nêu trên.

Năm 2005, nhằm thực hiện chủ trương của Chính phủ trong tạo môi
trường thuận lợi cho các nhà đầu tư, không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư
trong và ngoài nước, Luật Đầu tư mới đã được ban hành (trên cơ sở thống nhất:
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước). Ngày 24.4.2009, Bộ KH&CN đã ban hành Thông tư số 10/2009/TTBKHCN hướng dẫn công tác thẩm định công nghệ theo Luật Đầu tư năm 2005.
Việc ra đời của Thông tư này đã góp phần hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp quy về đầu tư, thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn
thời gian xem xét, cấp giấy chứng nhận đầu tư và thực hiện phân cấp mạnh mẽ
cho các địa phương.
Từ năm 1990 đến nay, việc thẩm định công nghệ được tiến hành với mục
tiêu xem xét, đánh giá sự phù hợp của công nghệ nêu trong dự án đầu tư với
mục tiêu của dự án; trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Nhà nước tại thời
điểm thẩm định dự án để đưa ra kiến nghị với cấp có thẩm quyền về việc cấp
phép đầu tư cho dự án. Mặc dù chỉ là một trong những cơ quan tham gia vào
quá trình thẩm định, cấp phép đầu tư nhưng với trách nhiệm là cơ quan quản lý
nhà nước về công nghệ, Bộ KH&CN (trước đó là Bộ KH,CN&MT) đã có nhiều
cố gắng trong việc đóng góp ý kiến cho các dự án đầu tư để đảm bảo nhập các
công nghệ tiên tiến, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và đảm bảo tiến độ thực
hiện các dự án đầu tư. Trong quá trình thẩm định, thông qua tham vấn của Vụ
ĐTG, Bộ có ý kiến đề nghị không (hoặc chưa) cấp giấy phép đầu tư đối với các
dự án như: Dự án xúc rửa tàu dầu ở thành phố Hồ Chí Minh do chủ đầu tư
Singapore thiết lập; Dự án thành lập Công ty LinkD - Tech - International
Group (Hoa Kỳ) để nhập phế thải (vỏ nhựa, vỏ máy tính, kim loại phế liệu...) từ
Mỹ và châu âu về sản xuất các sản phẩm cho tiêu dùng và xuất khẩu; các dự án
3


nhập rác thải, phế liệu nhựa, vỏ ốc, vỏ trai vào Việt Nam để chế biến; Dự án
sản xuất tấm lợp Fibrôximăng của Tập đoàn Siam Cement Group (Thái Lan)...
Bộ cũng đã có ý kiến buộc một số dự án phải thay đổi phương án công nghệ,

hoặc chuyển đổi sử dụng nguyên, nhiên liệu khác: Dự án chế biến dầu ăn thực
vật (liên doanh giữa Trung Quốc và thành phố Đà Nẵng) dự kiến sử dụng công
nghệ và thiết bị của Trung Quốc với công đoạn tinh chế bằng phương pháp hóa
học, đã được đề nghị thay bằng phương pháp vật lý trong công đoạn tinh chế
nhằm đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời giảm thiểu
được các chất thải độc hại và phương án xử lý chất thải đơn giản, tiết kiệm hơn
so với phương pháp được đề xuất ban đầu; Dự án Nhà máy điện Phú Mỹ 1 dự
kiến sử dụng công nghệ đốt nhiên liệu theo phương pháp cổ truyền, đã được đề
nghị chuyển sang áp dụng công nghệ tuốc bin khí hỗn hợp - giúp giảm đáng kể
suất đầu tư và tăng hiệu suất của Nhà máy; với Dự án đầu tư xây dựng Nhà
máy sản xuất quặng hoàn nguyên trực tiếp tại Bà Rịa - Vũng Tàu dùng công
nghệ Midrex - là công nghệ sử dụng loại quặng sắt chứa đến 0,1% tạp chất
kẽm, việc xử lý rất tốn kém và phức tạp… nên Bộ đã đề nghị không khuyến
khích, buộc nhà đầu tư phải tìm phương án khác.
Để khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng
công nghệ cao vào sản xuất công nghiệp, Bộ đã xem xét và cấp chứng nhận
Doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao cho 12 doanh nghiệp theo quy định tại
Thông tư số 02/2001/TT-BKHCNMT, trong đó có 11 doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài của Nhật Bản và 1 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của
Hàn Quốc. Các lĩnh vực tập trung chủ yếu vào sản xuất các linh kiện quang
điện, cơ quang điện tử, bảng mạch in…
Cùng với việc trực tiếp thẩm định công nghệ, hàng năm, Bộ cũng đã chú
trọng việc phổ biến, triển khai công tác này ở các Sở KH&CN nhằm giúp cho
đội ngũ cán bộ quản lý ở các địa phương nắm vững các quy định cũng như kỹ
năng thẩm định công nghệ, dần từng bước đáp ứng yêu cầu phân cấp quản lý
của Chính phủ.

4



1.2. Về công tác thẩm định hợp đồng CGCN
Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, hoạt động CGCN chủ yếu
là từ nước ngoài vào Việt Nam thông qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam và một số dự án đầu tư trong nước có nhập khẩu công nghệ. Pháp
lệnh về CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam được ban hành năm 1988 có thể
coi là văn bản đầu tiên điều chỉnh hoạt động CGCN trong thời kỳ thực hiện
chính sách mở cửa, tiếp theo là Bộ luật Dân sự (năm 1995) với nội dung quy
định về CGCN đã đánh dấu bước phát triển mới của hoạt động này tại Việt
Nam.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam vừa trải qua thời gian dài của cơ
chế kế hoạch hóa tập trung, các doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp nhà
nước) chưa được tiếp cận và cọ sát trong môi trường cạnh tranh của kinh tế thị
trường, việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động CGCN như quy định tại các văn bản
nêu trên là thực sự cần thiết. Các quy định như khống chế giá trần CGCN, ràng
buộc một số điều kiện khi chuyển giao và tiếp nhận chuyển giao đối với các
liên doanh (trong đó phía Việt Nam có sử dụng vốn nhà nước để CGCN) đã
thực sự phát huy tác dụng, góp phần giúp các doanh nghiệp trong đàm phán,
thương thảo hợp đồng CGCN với các đối tác nước ngoài. Việc phê duyệt các
hợp đồng CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam quy định tại Thông tư số 28/TTQLKH ban hành ngày 22.1.1994 và Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ban hành
ngày 1.7.1998 đã giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam không phải thanh toán
phí CGCN cao hơn giá trị thực của công nghệ. Điển hình như: Hợp đồng
CGCN sản xuất đèn hình cho ti vi và màn hình máy tính giữa Orion Electric
Co., Ltd (Hàn Quốc) và Công ty TNHH đèn hình Orion Hanel; hợp đồng
CGCN sản xuất xe máy VMEP Việt Nam; hợp đồng CGCN sản xuất lốp cao su
Inoue Việt Nam...
Tiếp đó, thực hiện chủ trương cải cách hành chính, tăng cường tính tự
chủ của các doanh nghiệp, chính sách của Nhà nước về CGCN đã có những
thay đổi lớn, trong đó, Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ngày 2.2.2005 ra đời đã
5



bãi bỏ những quy định mang tính kiểm soát, khống chế của Nhà nước (như việc
phê duyệt của Nhà nước đối với giá CGCN); các thủ tục cũng ngày càng thông
thoáng và đơn giản nhằm góp phần thu hút công nghệ tiên tiến và giảm thiểu ô
nhiễm môi trường tại Việt Nam.
Trước sức ép của thị trường (cạnh tranh với các sản phẩm do các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sản xuất), nhiều doanh nghiệp
trong nước (đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực dệt may, điện tử, cơ
khí, thực phẩm và dược phẩm) đã phải đầu tư đổi mới công nghệ (thông qua
nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ tiên tiến) để nâng cao chất lượng, hạ
giá thành sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu...
Có thể nói, nhờ có được các công nghệ tiên tiến này, các doanh nghiệp đã tạo
ra được nhiều sản phẩm có chất lượng cao và mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu
cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu...
Thông qua hoạt động CGCN trong các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
đã hạn chế đến mức tối đa các sản phẩm trước đó phải nhập khẩu với khối
lượng lớn như: Vật liệu xây dựng, hàng gia dụng, phương tiện giao thông…;
trình độ công nghệ sản xuất trong nước đã được nâng cao rõ rệt so với trước,
đặc biệt trong một số ngành như: Viễn thông, dầu khí, xây dựng cầu đường…
đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến đạt trình độ hiện đại của thế giới. Mặt
khác, các trang thiết bị trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã
được đổi mới hoặc nâng cấp, trình độ cơ khí hóa, tự động hóa được nâng cao
(như: Lắp ráp các bản mạch điện tử; lắp ráp tổng đài điện thoại kỹ thuật số; lắp
ráp các sản phẩm điện tử gia dụng; lắp ráp ô tô, xe máy…).
Luật CGCN có hiệu lực thi hành từ ngày 1.7.2007 là văn bản pháp quy
có hiệu lực pháp lý cao nhất từ trước đến nay, quy định thống nhất về hoạt
động CGCN trên lãnh thổ Việt Nam, từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước
ngoài vào Việt Nam. Trong đó, Luật đã đề cập một số vấn đề mới như: Ban
hành 3 danh mục công nghệ (khuyến khích chuyển giao, hạn chế chuyển giao
và cấm chuyển giao); không khống chế mức phí thanh toán tối đa cho CGCN;

không quy định thời hạn tối đa của hợp đồng CGCN; về áp dụng pháp luật,
6


trường hợp hoạt động CGCN có yếu tố nước ngoài thì các bên có thể thỏa
thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán thương
mại quốc tế (nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không
trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam); Nhà nước chỉ cấp phép
CGCN đối với công nghệ thuộc danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao, còn
đối với công nghệ thuộc danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao thì các
bên tham gia ký kết hợp đồng CGCN có quyền tự nguyện đăng ký để được
hưởng ưu đãi theo quy định của pháp luật… Một điểm quan trọng nữa là Luật
đã dành hẳn một chương quy định về các biện pháp khuyến khích CGCN.
Ngày 31.12.2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 133/2008/NĐ-CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật CGCN. Với việc
ban hành Nghị định này, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động CGCN
đã được phân cấp mạnh hơn cho các Sở KH&CN của các tỉnh/thành phố trực
thuộc trung ương.
Với khung pháp lý đã tạo lập và những kết quả đã đạt được, trong thời
gian tới, hoạt động CGCN cần tiếp tục phát huy vai trò tích cực của mình để
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, để có thể thúc đẩy, khuyến
khích mạnh mẽ hơn nữa hoạt động CGCN, thu hút công nghệ tiên tiến từ nước
ngoài vào Việt Nam cũng như khuyến khích phát triển công nghệ trong nước
cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với hoạt động này. Hiện
nay, được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ KH&CN, Vụ ĐTG đang tích cực tiến
hành việc nghiên cứu, xây dựng để tiếp tục đề xuất với các cấp có thẩm quyền
ban hành kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật về: Nội dung hoạt động,
điều kiện thành lập và tổ chức hoạt động của các tổ chức dịch vụ CGCN (bao
gồm: Đánh giá, định giá công nghệ, tư vấn và môi giới công nghệ), tạo cơ sở

pháp lý để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hoạt động CGCN tại Việt Nam trong
thời gian tới.

7


2. Đánh giá vai trò của các tổ chức môi giới CGCN về KHCN trong
lĩnh vực thẩm định công nghệ (xuất xứ, giá thành, sự đồng bộ của dây
chuyền công nghệ …)
Các tổ chức trung gian trong CGCN chủ yếu hoạt động dịch vụ về thông
tin, tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ. Trong khi đó, có rất ít đơn vị
chuyên về dịch vụ pháp lý sở hữu trí tuệ, dịch vụ tài chính đầu tư đổi mới công
nghệ; các quỹ đầu tư mạo hiểm, nhất là dịch vụ đánh giá - giám định công nghệ
còn thiếu. Có tình trạng này là vì đây là lĩnh vực đòi hỏi phải đầu tư một nguồn
lực nhất định trong khi lợi nhuận thu được chưa nhiều, khó hấp dẫn tư nhân
tham gia.
Ngoài ra, thể chế về thông tin thị trường chưa phát triển, hệ thống quản
lý lưu trữ thông tin về kết quả công nghệ còn yếu; việc phổ biến và thông tin
cho những đối tượng có liên quan đến công nghệ chưa được đẩy mạnh. Sự phát
triển yếu kém của hệ thống tổ chức môi giới công nghệ, dịch vụ chuyển giao,
đánh giá - thẩm định công nghệ và sở hữu trí tuệ là một trong những hạn chế,
ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường công nghệ hiện nay.
Hiện nay, Bộ KH&CN đang xúc tiến để hình thành các tổ chức trung
gian trong thị trường công nghệ vì công nghệ không thể có tổ chức trung gian,
thị trường công nghệ cũng như mọi thị trường khác phải có người tư vấn, người
môi giới, người định giá, thẩm định công nghệ cho nhà khoa học và doanh
nghiệp, rồi sau đó học có thể đến được với nhau. Thông qua các tổ chức môi
giới có chuyên môn, nghiệp vụ sẽ giúp cho doanh nghiệp, người dân hiểu, nhà
khoa học xác định được giá trị thực tiễn của kết quả nghiên cứu, và tài sản trí
tuệ (tài sản vô hình) của mình.

2.1. Vai trò của các tổ chức môi giới CGCN về KHCN về xuất xứ của
công nghệ:
Theo thống kê 200 DN, chúng tôi thấy số lượng công nghệ đã tiếp nhận
chuyển giao hiện nay phần lớn vẫn là trong nước.

8


Hình 1. Số lượng công nghệ đã tiếp nhận chuyển giao

Hình 2: Tỷ lệ công nghệ đã tiếp nhận
Và nguồn công nghệ đã tiếp nhận chủ yếu là của Trung Quốc (16,44%)
và Châu Âu (13,36%).
Công nghệ hiện đại vào nước ta qua các dự án ODA (đối với kết cấu hạ
tầng) và FDI (đối với sản xuất và dịch vụ). Với làn sóng đầu tư "hậu WTO",
nhiều công nghệ đa dạng và hiện đại sẽ được du nhập vào nước ta, thậm chí có
cả một số công nghệ cao hàng đầu thế giới.

9


Hiện nay, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay khá
lớn, song trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu. Để tăng sức cạnh tranh
cho sản phẩm, nhất là trong xu thế hội nhập, việc đổi mới công nghệ cần phải
đặt lên hàng đầu.
Công nghệ để chuyển giao phải thỏa mãn các điều kiện như: công nghệ
đã hoàn thiện; công nghệ phải bao hàm đủ các nội dung để chuyển giao như: tài
liệu, đào tạo, trợ giúp kĩ thuật... Bên cạnh đó, một tiêu chí quan trọng được cả
bên mua và bên bán công nghệ quan tâm là cần xác định rõ vấn đề liên quan
đến chuyển giao các đối tượng sở hữu công nghiệp như: nhãn hiệu hàng hóa,

sáng chế, kiểu dáng công nghiệp...
2.2. Vai trò của tổ chức CGCN về giá thành (định giá công nghệ)
Việc thẩm định công nghệ là cung cấp một cơ sở cho các đầu mối để xác
định công nghệ có tiềm năng lớn nhất để chuyển giao. Công nghệ này bao gồm
các sản phẩm, dây chuyền, kỹ thuật, và các thiết bị chủ lực. Luật sở hữu trí tuệ
Tuy vậy trong thời kỳ đầu đấy mới chỉ là những công nghệ hạng ba,
hạng tư. Lúc đó, vai trò của định giá công nghệ càng trở nên cấp thiết hơn bao
giờ hết. Thực chất của việc này chính là xác định giá cả của công nghệ được
chuyển giao đúng với giá trị thực của nó, mang lại lợi ích cho cả nhà cung cấp
và bên được cung cấp công nghệ. Việc định giá này có thể được thực hiện bằng
nhiều cách thức, như so sánh hay cạnh tranh... Thông thường, cả bên mua lẫn
bên bán đều có nhu cầu định giá công nghệ, nhưng yêu cầu mà công nghệ cần
thỏa mãn trước khi tiến hành định giá lại không giống nhau đối với các bên.
Thực tế, định giá công nghệ là một việc khá phức tạp và tốn kém. Do đó,
định giá công nghệ không thể tiến hành tràn lan mà phải có mục đích cụ thể và
địa chỉ áp dụng rõ ràng. Một điều mà các doanh nghiệp cần lưu ý là giá của
công nghệ trong các hợp đồng chuyển giao nói chung là do hai bên thỏa thuận.
Việc định giá công nghệ chỉ mang tính chất tham khảo cho các bên, tất
nhiên giá cuối cùng là do các bên quyết định.

10


Mặc dù vậy, cá nhân hoặc tổ chức tiến hành hoạt động đánh giá công
nghệ phải định giá một cách khách quan, trung thực dựa trên cơ sở khoa học
và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình.
Ở các nước phát triển, thị trường công nghệ đã có từ lâu nên hoạt động
định giá công nghệ rất phát triển. Theo thống kê, Hàn Quốc đã nhanh chóng trở
thành nước công nghiệp mới phát triển nhờ việc đổi mới công nghệ. Trong
vòng 17 năm (từ 1962 đến 1979), có trên 1.500 hợp đồng chuyển giao công

nghệ (CGCN) mới nhập vào với nhịp độ ngày càng gia tăng. Từ năm 1962 đến
1966 có 31 hợp đồng CGCN; từ năm 1967 đến 1972 có 325 hợp đồng CGCN;
từ năm 1973 đến 1977 có 538 hợp đồng CGCN và từ 1978 đến 1979 có 573
hợp đồng CGCN. Họ rút ra kết luận: muốn đẩy nhanh tốc độ CGCN và hiệu
quả tốt ngoài việc đơn giản hóa thủ tục hành chính thì định giá công nghệ là
hoạt động tất yếu và cấp bách phục vụ cho hoạt động CGCN.
Hiện nay trên thế giới có một số phương pháp định giá công nghệ có thể
áp dụng ở Việt Nam như: phương pháp so sánh với một công nghệ tương tự đã
chuyển giao trước; phương pháp cạnh tranh giữa các nhà cung cấp công nghệ;
phương pháp quy tắc ngón tay cái, phương pháp "giá trần" (một số Chính phủ
công bố giới hạn tối đa cho phí CGCN); phương pháp phân chia lợi nhuận,
phương pháp chi phí, phương pháp thị trường; phương pháp thu nhập... Trong
số này, theo kinh nghiệm của các nước, phương pháp thu nhập được áp dụng
phổ biến nhất. Mặc dù mỗi phương pháp đều có ưu, nhược điểm riêng và điều
kiện áp dụng khác nhau, điều quan trọng là khi vận dụng cụ thể cho từng
trường hợp định giá công nghệ cần xem xét điều kiện của từng phương pháp.
Để thúc đẩy hoạt động định giá công nghệ, theo các nhà khoa học, Việt
Nam nên sớm hình thành các tổ chức sự nghiệp chuyên sâu, đặc biệt là tổ chức
môi giới chuyển giao công nghệ. Những đơn vị này cần có sự quản lý thống
nhất về hoạt động định giá công nghệ. Điều này có lợi cho nhà sản xuất, người
tiêu dùng và sâu xa hơn là cả nền KH&CN nước nhà...

11


2.2.1. Định giá theo thị trường
Trong phương pháp định giá theo thị trường, người ta phân tích các giao
dịch có thể so sánh được để xác định giá trị một công nghệ. Để có được kết quả
chính xác từ phương pháp này cần có các điều kiện sau: Một thị trường năng
động với các công nghệ có thể so sánh được; Các công nghệ có thể so sánh

được được bán và các điều khoản hợp đồng mua bán là đã biết; Các bên giao
dịch độc lập và có thiện chí. Với công nghệ thuộc các lĩnh vực như: dược
phẩm, hoá mỹ phẩm, giải khát... DN có thể áp dụng phương pháp định giá này
để có được các kết quả chính xác nhất.
Nguyên tắc 3 - 5%: Khi chuyển giao quyền sử dụng các công nghệ quan
trọng, đối với nhiều ngành công nghiệp thông thường, mức giá kỳ vụ (royalty)
của công nghệ thường từ 3 đến 5% giá bán sản phẩm được sản xuất theo công
nghệ được chào. Do mức giá này là phổ biến, nên bên nhận chuyển giao quyền
sử dụng thường cảm thấy thoải mái với mức giá kỳ vụ này, và ngược lại, họ sẽ
thấy không thoải mái với mức giá kỳ vụ cao hơn.
Chuẩn công nghiệp: Việc định giá công nghệ dựa trên các chuẩn công nghiệp là
một trong những cách thường được sử dụng nhất trong chuyển giao quyền sử
dụng công nghệ. Giá công nghệ trong các ngành công nghiệp cụ thể như sau:
Ngành công nghiệp máy tính: Mức giá kỳ vụ ở ngành công nghiệp máy
tính phần cứng thường vào khoảng 1-5%, bị ảnh hưởng bởi việc IBM áp dụng
tỷ lệ này trong chính sách chuyển giao quyền sử dụng của họ năm 1988. Trong
khi đó, các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng công nghệ phần mềm máy
tính lại có thể có các mức giá kỳ vụ rất cao (đến 25%) do lãi ròng của các sản
phẩm phần mềm này lớn. Chương trình cơ sở, bán kèm cùng với phần cứng
máy tính, thường được chuyển giao quyền sử dụng với giá ít nhất là từ 0,5 đến
1 USD một bản sao.
Ngành công nghiệp công nghệ sinh học: Các bên thương lượng hợp đồng
chuyển giao quyền sử dụng ngày càng thích thể hiện mức phí kỳ vụ ở dạng tỷ
lệ chia lợi nhuận thuần trước thuế hơn là ở dạng phần trăm theo giá bán lẻ, và
12


tỷ lệ chia lợi nhuận đối với ngành công nghệ này thường ở mức 50/50, nếu tính
thành mức phí kỳ vụ thì tương đường từ 8 đến 12% giá bán lẻ.
Ngành công nghiệp ô tô: mức giá kỳ vụ đối với các công nghệ được mua

vào thường dưới 5%, chủ yếu là dưới 2%. Đối với các công nghệ được bán,
mức giá kỳ vụ thấp và thường là ở ngưỡng từ 5 đến 10%.
Ngành công nghiệp chăm sóc sức khoẻ: mức giá kỳ vụ trong các hợp
đồng chuyển giao quyền sử dụng công nghệ đối với các thiết bị chăm sóc y tế
thường là từ 2 đến 10%, và đối với các hợp đồng bán công nghệ thường là từ 5
đến 10%.
Ngành công nghiệp điện gia dụng: các mức giá kỳ vụ thường thấp do
khối lượng sản phẩm đồ gia dụng được sản xuất và bán ra rất lớn và lợi nhuận
thuần thấp và thường là dưới 1% (đối với các sản phẩm có giá bán cao) và đến
khoảng 3% (đối với các sản phẩm có giá bán thấp).
Mức giá kỳ vụ đối với các công nghệ có kết hợp phần mềm thường nằm
trong khoảng từ 0% (ví dụ cho việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu
Dolby trên các sản phẩm máy cassett compact) đến tận 50% (đối với các sản
phẩm là phần mềm trò chơi điện tử).
Đấu giá: Đấu giá có lẽ là phương pháp đơn thuần nhất để xác định giá trị
thị trường của một công nghệ. Theo lý thuyết, giá cao nhất được trả sẽ phản
ánh đúng nhất giá trị thị trường của công nghệ mà không cần sử dụng bất cứ
phương pháp định giá nào khác.
2.2.2. Định giá theo chia sẻ lợi nhuận
Tất cả các phương pháp định giá công nghệ đều đưa ra kết quả ước tính
giá trị công nghệ theo lý thuyết. Khi chuyển giao quyền sử dụng công nghệ, lợi
nhuận do công nghệ sinh ra phải được chia công bằng cho cả bên chuyển giao
và bên nhận chuyển giao công nghệ theo cách có thể chấp nhận được. Việc
phân chia lợi nhuận mà công nghệ mang lại trước tiên phụ thuộc vào giai đoạn
phát triển của công nghệ đó.
Với một công nghệ đã được phát triển đầy đủ, đã được chứng minh qua
quá trình thương mại, tức ở giai đoạn đưa sản phẩm ra thị trường và thu lợi
13



nhuận, lẽ công bằng là bên chuyển giao phải được chia lợi nhuận lên đến 50%
từ công nghệ này. Trong khi đó, đối với một công nghệ chưa trải quá quá trình
thử thách, ví dụ một công nghệ đã được chứng minh tốt về mặt kỹ thuật, tuy
nhiên chưa xác định được nhu cầu trên thị trường, tức đã qua giai đoạn thử
nghiệm công nghệ nhưng chưa hoặc mới bước vào giai đoạn áp dụng công
nghệ vào sản xuất hoặc đưa sản phẩm ra thị trường, thì phần lợi nhuận của bên
chuyển giao chỉ vào khoảng từ 25 đến 35%. Hợp đồng chuyển giao quyền sử
dụng đối với một công nghệ chưa được phát triển đầy đủ, tức đang trong giai
đoạn (1) đến (5), có thể xác định tỷ lệ chia lợi nhuận cho bên chuyển giao là
20% hoặc ít hơn để bù cho việc rủi ro sẽ được chuyển sang cho bên nhận
chuyển giao.
Để xác định tỷ lệ chia lợi nhuận thích hợp cũng cần tính đến các thị
trường mà ở đó các sản phẩm được sản xuất theo công nghệ được chuyển giao
sẽ được bán. Tại các thị trường có lợi nhuận cao đối với sản phẩm có công
nghệ chuyển giao thì bên bán sản phẩm không cần có nhiều cố gắng để tiếp cận
thị trường. Lúc đó, bên chuyển giao công nghệ cần được nhận tỷ lệ lợi nhuận
cao hơn so tỷ lệ lợi nhuận từ hợp đồng chuyển giao tại các thị trường có lợi
nhuận thấp với giá bán sản phẩm cao. Việc xác định mức lợi nhuận để tính mức
phí kỳ vụ có thể là rất khó. Để tính tổng lợi nhuận phải dựa vào quá nhiều các
thông số bao gồm giá các nguyên vật liệu thô, giá nhân công lao động... Rất có
thể sẽ có nhiều bất đồng nảy sinh giữa bên chuyển giao và bên nhận chuyển
giao liên quan đến việc điều chỉnh các thông số để xác định lợi nhuận thuần.
Giá bán cũng có thể có ảnh hưởng tới lợi nhuận.
Để giải quyết các khó khăn nảy sinh trong việc tính lợi nhuận, hợp đồng
chuyển giao quyền sử dụng có thể xác định các mức phí kỳ vụ theo phần trăm
giá bán thực hoặc theo một vài thông số dễ định lượng khác. Việc chuyển tỷ lệ
chia lợi nhuận thành phần trăm giá bán có thể áp dụng được bằng cách ước tính
lãi ròng của sản phẩm có công nghệ được chuyển giao.
Cuối cùng, trong các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng công nghệ
dài hạn, thường lợi nhuận sẽ thay đổi theo thời gian và do đó tỷ lệ phân chia lợi

14


nhuận cũng có thể được điều chỉnh lại. Nên nhớ rằng việc thoả thuận giảm tỷ lệ
chia lợi nhuận theo thời gian thường dễ dàng hơn rất nhiều so với việc thoả
thuận tăng các tỷ lệ này. Việc giảm tỷ lệ chia lợi nhuận theo thời gian thường
có ở các dạng như giảm chung các tỷ lệ chia lợi nhuận, giảm tổng tiền trả của
hợp đồng chuyển giao, ví dụ, cho từng năm, giảm giá với lượng lớn sản phẩm
có công nghệ chuyển giao, hoàn một phần phí kỳ vụ cho bên nhận chuyển giao,
hỗ trợ các công nghệ mới cho hợp đồng chuyển giao mà không tăng mức phí
kỳ vụ, hoặc là sự kết hợp của các hoặc tất cả các phương thức trên
2.2.3. Định giá theo chi phí
Phương pháp định giá công nghệ theo chi phí nghĩa là xem giá trị của
công nghệ (hoặc một tài sản bất kỳ nào khác) là chi phí để thay thế bằng một
công nghệ giống hoặc một công nghệ tương đương. Mọi người thường cho
rằng giá trị của một công nghệ bằng giá của nó cộng với giá trị thương mại,
nhưng thực tế lại cho thấy điều này thường không đúng.
Phương pháp định giá theo chi phí không tính đến giá trị thương mại của
công nghệ, cả giá trị thương mại thực tế mà công nghệ đã có cũng như giá trị
thương mại tiềm năng mà nó có thể có. Các phương pháp định giá theo chi phí
có thể hữu dụng trong việc xác định xem nên mua công nghệ hay nên tự nghiên
cứu phát triển công nghệ, có tính cả việc chi phí cho việc đăng ký bảo hộ độc
quyền công nghệ. Ngoài ra, phương pháp định giá theo chi phí có thể được bên
chuyển giao sử dụng để hỗ trợ việc xác định mức giá sàn có thể chấp nhận
được trong các điều khoản của hợp đồng chuyển giao.
Một phương pháp định giá theo chi phí thường được sử dụng là định giá
dựa trên tổng chi phí liên quan đến việc nghiên cứu và phát triển công nghệ.
Tổng đầu tư bao gồm chi phí để phát triển công nghệ, và các chi phí để đăng ký
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với công nghệ (như chi phí nộp đơn sáng
chế, chi phí đại diện sở hữu công nghiệp...). Một cách khác là ước tính chi phí

tái tạo lại công nghệ. Sự giảm giá trị và sự lỗi thời về chức năng kỹ thuật cũng
như lỗi thời về kinh tế cũng là những yếu tố cần được tính đến. Với cả hai cách
định giá theo chi phí như trên, giá chuyển giao công nghệ sẽ bằng tổng của kết
15


quả tính được theo các cách trên cộng với chi phí chuyển giao và các khoản chi
phí rủi ro khác trong đàm phán hợp đồng chuyển giao.
Chi phí cơ hội trong đầu tư công nghệ có thể là yếu tố cần tính đến khi
sử dụng phương pháp định giá theo chi phí, nếu muốn. Mặc dù có cái gì đó
không được chính xác, các yếu tố trong chi phí cơ hội là hữu dụng trong một số
trường hợp, đặc biệt là khi cần phải lựa chọn giữa việc sẽ chuyển giao công
nghệ cho người khác hay tiếp tục sản xuất sản phẩm có gắn công nghệ. Để ước
tính được chi phí cơ hội, cần xác định các yếu tố thể hiện giá trị lợi nhuận trung
bình sinh ra từ các nguồn của Cty và xác suất thành công trong thương mại của
công nghệ. Sau đó, áp các yếu tố này vào tổng các chi phí trực tiếp cho công
nghệ để xác định giá trị của các nguồn được dành cho công nghệ, cho dù thực
tế nó được dùng trong một lĩnh vực khác.
2.2.4. Định giá theo số liệu
Cách thường được ưa dùng để định giá công nghệ là ước tính doanh thu
tương lai mà việc sử dụng công nghệ mới có thể mang lại. Để ước tính được
con số này cần sử dụng phương pháp phân tích kinh tế, một kỹ thuật kinh
doanh tiêu chuẩn và cũng chính là phương pháp được sử dụng để định giá các
tài sản vô hình.
Cả bên mua và bên bán công nghệ cần phải có sự hiểu biết tốt về thị
trường để định giá công nghệ sử dụng phương pháp định giá theo số liệu phân
tích kinh tế. Quan trọng nhất trong việc sử dụng phương pháp này là đảm bảo
xác định được giá trị chính xác của công nghệ. Cả bên chuyển giao và bên nhận
chuyển giao công nghệ đều phải tự phân tích kinh tế từ góc độ của mình và lý
tưởng nhất là khi các kết quả của cả hai bên khớp nhau.

Lợi ích kinh tế mà công nghệ mới đem lại có thể được ước tính bằng
cách sử dụng một số phương pháp khác nhau sau đây:
- Xác định phần thu nhập chênh lệch sinh ra khi sử dụng công nghệ mới.
So sánh thu nhập dự tính với thu nhập cần có từ tất cả các tài sản hữu hình và
vô hình khác, có tính đến rủi ro liên quan đến từng loại tài sản. Sự chênh lệch
giữa khoản thu dự tính và khoản thu cần có sẽ thể hiện giá trị của công nghệ.
16


- Ước tính khoản thu từ mức phí kỳ vụ mà công nghệ chuyển giao sẽ
đem lại. Tổng của khoản thu mức phí kỳ vụ này với lợi nhuận mà bên nhận
chuyển giao có được từ công nghệ chính là giá trị của công nghệ đó.
- Ước tính tất cả các tài sản kinh doanh và trừ đi giá trị của tất cả các tài
sản hữu hình và vô hình khác, phần còn lại là giá trị của công nghệ.
- Kết hợp các phương pháp trên hoặc sử dụng các phương pháp khác
được sử dụng cho các trường hợp riêng biệt. Tỷ lệ khấu trừ thích hợp được áp
dụng để định giá công nghệ có tính đến sự rủi ro.
Tất cả các phương pháp này đều đòi hỏi một sự phân tích chi tiết công
nghệ cần định giá. Bước đầu tiên là xác định càng chính xác càng tốt lợi ích mà
công nghệ mang lại.
Tiếp theo, cần xem xét các thành phần của công nghệ chuyển giao.
- Hồ sơ sáng chế: Các bằng sáng chế này là những sáng chế cơ bản hay
chỉ là những cải tiến? Các bằng sáng chế này có hiệu lực ở tất cả những thị
trường quan trọng hay không? Có khả năng nghiên cứu và tạo ra những cải tiến
mới từ các bằng sáng chế này không?...
- Nhãn hiệu hàng hoá: Các nhãn hiệu gắn trên sản phẩm được sản xuất
theo công nghệ chuyển giao có nổi tiếng tại thị trường được chuyển giao
không, nếu có nổi tiếng đến mức nào? Các nhãn này có được bảo hộ bằng một
chính sách bảo hộ thích hợp không? Bên chuyển giao đã làm những gì để
quảng bá nhãn hiệu trước đó? Và bên chuyển giao đưa ra những điều kiện gì

trong hợp đồng chuyển giao liên quan đến nhãn hiệu này?
- Bí quyết công nghệ: Bí quyết công nghệ có đóng vai trò quan trọng
trong sản xuất và bán sản phẩm chuyển giao không? Ai sẽ trả tiền cho việc
chuyển giao bí quyết? Phần nào của bí quyết công nghệ là bí mật thương mại,
phần nào là phần dễ bắt chước?
- Sản phẩm bản quyền: Có dễ tạo lại các sản phẩm bản quyền hay
không? Nếu đó là các sản phẩm phần mềm hoặc các chương trình cơ sở, việc
cung cấp mã nguồn có hiệu quả như thế nào, và liệu có cần chỉnh sửa gì khi
ứng dụng không?
17


Cán bộ thuộc các bộ phận sản xuất, tài chính, nghiên cứu và phát triển,
phát triển thị trường cần làm việc, thảo luận với nhau để trả lời các câu hỏi trên.
Cán bộ sản xuất có thể xác định xem nguyên liệu nào, thiết bị nào là mới, và
chi phí nhân công liên quan đến việc sản xuất sản phẩm kết hợp công nghệ
mới, và liệu có thể sử dụng công nghệ mới trên nền cơ sở hạ tầng sẵn có hay
phải thay đổi, bổ sung cho cơ sở hạ tầng, và chi phí cho sự thay đổi, bổ sung
này là bao nhiêu. Các cán bộ phòng tài chính cần xác định chi phí cần thiết để
chạy thiết bị có công nghệ mới trong sản xuất, và định mức sản xuất phải là bao
nhiêu để có thể có lợi nhuận. Các cán bộ phòng nghiên cứu và phát triển cần
đánh giá công nghệ và các phương án thay thế khác và xác định xem cần phải
có những phát triển bổ sang nào để đưa công nghệ vào sản xuất. Phòng phát
triển thị trường cần xác định các sản phẩm cạnh tranh và đánh giá triển vọng thị
trường và giá bán tiềm năng của sản phẩm mới. Ước tính lượng bán của sản
phẩm thường được dựa trên mô hình vòng đời sản phẩm, trong đó lượng sản
phẩm bán tăng chậm trong giai đoạn giới thiệu sản phẩm, tăng nhanh trong giai
đoạn giữa, và đạt đến cực đại khi vòng đời sản phẩm đã đạt đến giai đoạn
trưởng thành, sau đó sẽ giảm. Thời gian và độ phát triển của vòng đời sản phẩm
phụ thuộc vào sản phẩm và thị trường trong đó có sản phẩm.

Có thể ước tính dòng tiền dự tính cho suốt vòng đời của công nghệ, và có
thể sử dụng một hoặc nhiều phương pháp phân tích. Dòng tiền thu của bên
chuyển giao sẽ bao gồm tiền trả ban đầu, các phí kỳ vụ, và các khoản thanh
toán khác đã quy định trong hợp đồng chuyển giao. Dòng tiền chi của bên
chuyển giao sẽ bao gồm các chi phí cho việc chuyển giao công nghệ cho bên
nhận chuyển giao, chi phí việc phát triển tiếp công nghệ, chi phí quản lý và
theo dõi các hợp đồng chuyển giao, chi phí duy trì hiệu lực các bằng độc
quyền, và các chi phí khác. Dòng tiền thu của bên nhận chuyển giao bao gồm
thu nhập có được từ việc bán các sản phẩm có ứng dụng công nghệ chuyển
giao, trong khi đó dòng chi của anh ta bao gồm các khoản thanh toán phí kỳ vụ,
chi phí có việc phát triển sản phẩm và phát triển thị trường, các khoản đầu tư tư
bản và các khoản khác.
18


Trong tất cả các phân tích, các thông tin và các khoản chi phí cụ thể đều
không biết. Nhiều kỹ thuật phân tích đã được phát triển cho phép kết hợp
những thông tin và chi phí chưa biết này vào trong các phân tích. Một trong
những phương pháp đó là phương pháp phân tích quyết định, trong đó người ta
hình dung ra chuỗi các sự kiện và các khả năng để các sự kiện đó xảy ra, từ đó
hình dung và ước tính được chi phí có thể có. Các vấn đề khác cũng cần xem
xét là sẽ chuyển giao hay không, các điều khoản chuyển giao, xác định các thị
trường cụ thể hay không, đầu tư tư bản... Dựa vào các khả năng của từng
phương án và chi phí kinh tế cần ước tính được rủi ro và tiềm năng thị trường
của công nghệ.
2.2.5. Theo dòng tiền khấu hao
Khi thương lượng các điều khoản trong hợp đồng chuyển giao, sẽ rất có
lợi nếu các bên ước tính được dòng thu nhập tương lai của công nghệ và
chuyển đổi được thành giá trị hiện tại. Từ đó, có thể định giá được hợp đồng
chuyển giao và xác định được chiến lược chuyển giao ưu việt nhất.

Trong phương pháp tính toán này, dòng tiền được xác định là dòng tiền
thực, nghĩa là khoản chênh lệch giữa dòng tiền thu được và dòng tiền chi phí.
Các số liệu cần để tính giá trị hiện tại bao gồm: tổng thu nhập thực; thời gian
trả phí và mức độ rủi ro.
- Tổng thu nhập thực: bao gồm bất kỳ khoản phí nào đã được trả trước
cộng với dòng phí kỳ vụ được ước tính trong tương lai, trừ đi các chi phí ký kết
hợp đồng, tiến hành chuyển giao công nghệ, hỗ trợ bên mua công nghệ... Thu
nhập dự tính có thể được tính dựa theo phương pháp phân tích kinh tế và các
chi phí cần phải ước tính trên cơ sở các điều khoản thoả thuận trong hợp đồng
chuyển giao. Độ chính xác và lợi ích sử dụng của phương pháp định giá theo
giá trị hiện tại sẽ phụ thuộc rất nhiều vào độ chính xác của các ước tính này.
Việc tiến hành nghiên cứu thị trường cũng như con số dự tính bán ra
trong tương lai phải tương đối chính xác.

19


- Thời gian trả phí: các khoản phí trả ban đầu rõ ràng có giá trị hiện tại
cao hơn so với các khoản phí kỳ vụ trong tương lai, được dự tính sẽ trả trong
tương lai xa và xa hơn, là các khoản phí có giá trị hiện tại nhỏ hơn.
- Mức độ rủi ro: cần ước tính phí sẽ thanh toán trong tương lai. Tỷ lệ
khấu trừ được chọn trên cơ sở ước tính chi phí sẽ thanh toán trong tương lai và
mức độ rủi ro. Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro bao gồm độ chính xác trong
ước tính dòng tiền trả, khả năng của bên nhận chuyển giao... Các đầu tư rất ít
rủi ro, như trái phiếu Chính phủ Mỹ, có thể có tỷ lệ khấu trừ thấp là 6%, rủi ro
càng cao thì tỷ lệ khấu trừ càng lớn.
Khi đã biết ba thông tin trên, việc tính giá trị hiện tại không khó. Theo
đó, giá trị hiện tại của dòng tiền tương lai có thể được tính theo các bước và các
công thức sau:
- Trước tiên, ước tính các dòng tiền, ví dụ cho 5 năm đầu tiền sử dụng

một trong số các phương pháp định giá như định giá theo thị trường, phương
pháp chia sẻ lợi nhuận, định giá theo chi phí, phương pháp phân tích kinh tế đã
được đăng trong các số báo trước.
- Sau đó, chọn tỷ lệ khấu trừ trên cơ sở mức độ rủi ro liên quan đến sự
đầu tư mạo hiểm. Tất cả các rủi ro, bao gồm chi phí cơ hội, trượt giá (lạm
phát), và rủi ro mạo hiểm đều phải được tính đến. Đối với các công nghệ mới ở
các giai đoạn phát triển đầu tiên, thường áp dụng tỷ lệ khấu trừ 35%, trong khi
đối với những đầu tư an toàn hơn thì tỷ lệ khấu trừ sẽ thấp hơn.
- Tính giá trị hiện tại của dòng tiền trong 5 năm đầu tiên
- Ước tính dòng tiền sau năm thứ 5
- Giá trị hiện tại là tổng của hai giá trị trên
2.3. Vai trò của các tổ chức môi giới CGCN về KHCN trong lĩnh vực
thẩm định công nghệ (Về tính đồng bộ của dây chuyền công nghệ)
Về tính đồng bộ của dây chuyền công nghệ
Theo thống kê 200 DN, kết quả ở bảng 1.cho thấy 97% doanh nghiệp
được điều tra đang sử dụng máy móc thiết bị ở mức đồng bộ và tương đối đồng
bộ, chỉ có 3% doanh nghiệp đang sử dụng máy móc thiết bị với mức đồng bộ
20


thấp. Xét theo lĩnh vực hoạt động thì các doanh nghiệp công nghiệp, xây dựng
có mức đồng bộ trong máy móc thiết bị cao hơn, chỉ có 2,2% tỷ lệ máy móc
thiết bị ở mức đồng bộ thấp trong khi tỷ lệ này ở các doanh nghiệp thương mại,
dịch vụ lên tới 10,5%. Xét theo loại hình sở hữu thì các doanh nghiệp nhà nước
chiếm ưu thế trong việc sử dụng máy móc thiết bị đồng bộ hơn là các doanh
nghiệp cổ phần và doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH.
Có 34,5% số doanh nghiệp được điều tra là có dây chuyền sản xuất
đồng bộ, cho thấy nhu cầu để đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất chất
lượng là rất lớn tới 65,5%
Bảng 1. Tính đồng bộ của máy móc thiết bị (Đơn vị: %)

Theo lĩnh vực
Tính đồng bộ của
MMTB trong dây
chuyền SX chính

Theo loại hình sở hữu

hoạt động
Công
Doanh Doanh
Thương
DNTT,
nghiệp,
nghiệp nghiệp
mại,
Cty
Xây
nhà
cổ
dịch vụ
TNHH
dựng
nước
phần

Tổng
số

Đồng bộ


34,5

32,6

52,6

40,0

39,3

29,7

Tương đối đồng bộ

62,5

65,2

36,8

60,0

57,1

67,3

3

2,2


10,5

3,6

3,0

Không đồng bộ

Mức độ tự động hóa của dây chuyền sản xuất.
Mức độ tự động hóa của dây chuyền sản xuất thể hiện trình độ quản lý
sản xuất. Mức độ tự động hóa càng cao thì trình độ quản lý sản xuất càng cao
(hệ thống cung cấp vật liệu, nguồn nhân lực, kho bãi, quản lý chất lượng sản
phẩm…). Do đó, mức độ tự động hóa cũng thể hiện một yếu tố tích cực khi
doanh nghiệp tiếp nhận công nghệ mới. Trong kết quả khảo sát ta thấy ở khu
vực nhà nước và doanh nghiệp cổ phần, mức độ tự động hóa cao hơn hẳn
doanh nghiệp tư nhân. Điều này cũng thể hiện thực tế rằng khả năng đổi mới
công nghệ ở các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần tốt hơn khu
vực doanh nghiệp tư nhân. Tự động hóa hoàn toàn chỉ có 3%; còn lại 62% còn
là thủ công.
21


Hình 3 . Mức độ tự động hóa của dây chuyền sản xuất
Qua các số liệu trên, thấy rằng các tổ chức môi giới CGCN có vai trò cụ
thể như sau:
Đối với thiết bị trong dây chuyền công nghệ.
a. Đánh giá tính phù hợp của thiết bị:
- Các thiết bị trong dây chuyền công nghệ được xem xét trên cơ sở thiết
bị đó có tính năng, chất lượng phù hợp với yêu cầu của công nghệ nhằm tạo ra
các sản phẩm có chất lượng và số lượng như dự kiến;

- Quá trình thiết bị hoạt động phải đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ
môi trường và an toàn lao động theo các quy định của pháp luật; - Danh mục
các thiết bị phải thể hiện khả năng thực hiện các nguyên công trong sơ đồ công
nghệ, đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng các bán thành phẩm, thành
phẩm.
Cần lưu ý xem xét không để xảy ra trường hợp thiếu các thiết bị cần thiết
cho dây chuyền sản xuất hoặc đưa vào danh mục các thiết bị không cần thiết,
không đảm bảo tính đồng bộ của công nghệ (điều này có thể xảy ra khi một bên
tham gia dự án góp vốn bằng thiết bị).
b. Đánh giá chất lượng của thiết bị:
- Xuất xứ của thiết bị (nước sản xuất thiết bị);
- Năm chế tạo của thiết bị, ký, mã hiệu thiết bị;
22


- Các đặc tính, tính năng kỹ thuật (công suất thiết bị, số vòng quay, sản
lượng sản phẩm tạo ra trong 1 đơn vị thời gian v.v.);
- Các yêu cầu của thiết bị đối với nguyên liệu, nhiên liệu;
- Tiêu hao nguyên, nhiên liệu, năng lượng của thiết bị đối với một đơn vị
sản phẩm;
- Các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm do thiết bị sản xuất ra;
- Đánh giá mức độ tự động hoá, cơ khí hoá, mức độ sử dụng nhân lực,
các điều kiện bảo đảm an toàn lao động và vệ sinh môi trường của thiết bị và hệ
thống dây chuyền sản xuất.
c. Đánh giá đối với thiết bị đã qua sử dụng:
Ngoài những đặc tính chung của thiết bị như nêu ở mục b bên trên, đối
với thiết bị đã qua sử dụng cần xem xét thêm:
- Các chỉ tiêu chất lượng, đặc tính kỹ thuật hiện tại của thiết bị đã qua sử
dụng so với thiết bị mới cùng loại, thời điểm kiểm tra các chỉ tiêu trên;
- Số giờ thiết bị đã hoạt động, điều kiện làm việc của thiết bị;

- Số lần thiết bị đã được sửa chữa, đại tu. Các bộ phận đã được thay thế
mới hoặc đảm bảo chất lượng như mới;
- Các điều kiện bảo đảm, bảo hành đối với thiết bị đã qua sử dụng;
- Giá thiết bị đã qua sử dụng so với thiết bị mới;
- Xem xét tỷ lệ tổng giá trị thiết bị đã qua sử dụng so với tổng giá thiết bị
của dự án.
d. Phương thức cung cấp thiết bị:
Thiết bị được mua sắm thông qua đấu thầu hay do Bên nước ngoài góp
vốn vào dự án. Trường hợp Bên nước ngoài góp vốn vào dự án bằng giá trị
thiết bị của họ: cần xem xét kỹ tình trạng chất lượng, giá cả và sự phù hợp với
yêu cầu của dự án.

23


3. Một số định hướng trong thời gian tới
Để các tổ chức môi giới CGCN về KHCN trong lĩnh vực thẩm định công
nghệ được phát triển, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến như sau:
3.1. Phát huy vai trò cầu nối
- Xây dựng và Phát triển các tổ chức trung gian (tư vấn, môi giới, đào tạo, đánh
giá, giám định...) về công nghệ nhằm đẩy mạnh phát triển thị trường công nghệ
- Nhận dạng thực tiễn hoạt động ứng dụng và đổi mới công nghệ, nhu cầu công
nghệ then chốt cho từng vùng/miền, phân loại các nhóm doanh nghiệp, tổ chức
KHCN; trao đổi kinh nghiệm tổ chức và hoạt động , đề xuất cơ chế phối hợp
giữa các tổ chức KH&CN ở Trung ương với địa phương
3.2. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế
- Quan hệ đối tác với các tổ chức KH&CN quốc tế và nhiều nước trong việc hỗ
trợ tìm nguồn, chuyên gia công nghệ, đặc biệt đã xúc tiến chuyển giao công
nghệ với Trung tâm Chuyển giao công nghệ châu Á - Thái Bình Dương, Trung
tâm Nghiên cứu chung EU, các nước: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức, Trung Quốc,

Thái Lan, Malaysia. Từng bước hình thành mạng lưới các tổ chức đầu mối
nước ngoài hỗ trợ việc tìm kiếm nguồn và chuyên gia công nghệ.
- Nghiên cứu xây dựng hình thành Trung tâm Ươm tạo doanh nghiệp công
nghệ tại Việt Nam, trước hết khai thác nguồn nhân lực và tri thức, kỹ năng
công nghệ từ phía bạn. Tập trung vào xúc tiến thương mại hóa các kết quả
nghiên cứu chung và chuyển giao các công nghệ đã thương mại hóa mà hai bên
cùng quan tâm.
- Hỗ trợ hình thành hệ thống ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN trong các viện, trường từ các kết quả nghiên cứu KH&CN nhằm thúc
đẩy thương mại hoá, chuyển giao kết quả nghiên cứu cho khu vực sản xuất kinh
doanh; nhận dạng được một số doanh nghiệp điển hình, lựa chọn một số doanh
nghiệp thành công nhờ phát triển KH&CN để ươm tạo, xem xét hỗ trợ đầu tư,
kết nối cung - cầu với các đối tác trong và ngoài nước.

24


- Triển khai các hoạt động kết nối cung - cầu công nghệ: Điều tra, thống kê về
đổi mới công nghệ và nhu cầu đổi mới công nghệ; hoàn thành khung cơ bản
các cơ sở dữ liệu về nguồn công nghệ, chuyên gia công nghệ, thực trạng và nhu
cầu đổi mới công nghệ tích hợp với cổng giao tiếp điện tử và dịch vụ công về
công nghệ. Tổ chức phân tích thực trạng ứng dụng công nghệ, đánh giá nhu cầu
đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp và các ngành kinh tế ở một số lĩnh
vực công nghệ. Xây dựng và triển khai bước đầu cơ sở dữ liệu và thử nghiệm
liên kết, kết nối nguồn và chuyên gia công nghệ. Triển khai các dự án thí điểm
xúc tiến chuyển giao công nghệ.
- Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện Đề án Phát triển các tổ
chức trung gian (tư vấn, môi giới, đào tạo, đánh giá, giám định...) về công nghệ
nhằm đẩy mạnh phát triển thị trường công nghệ và có giải pháp cụ thể hình
thành mạng lưới các tổ chức trung gian. Tích cực tìm kiếm, chủ động hỗ trợ

hoạt động ươm tạo công nghệ của các tổ chức KH&CN.
- Xác định đối tác, lĩnh vực ưu tiên trong chuyển giao công nghệ và tham gia
phối hợp xây dựng bản đồ công nghệ và kế hoạch tổng thể về thúc đẩy chuyển
giao và đổi mới công nghệ.
- Tổ chức xúc tiến chuyển giao và đổi mới công nghệ với các nước trên thế giới
và trong khu vực.

25


×