Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Vai trò của đội ngũ giảng viên trong đào tạo nguồn nhân lực các trường cao đẳng thành phố việt trì hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ THÚY NGÂN

VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CÁC TRƯỜNG
CAO ĐẲNG THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ THÚY NGÂN

VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG
THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:

60 22 85



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Oánh

Hà Nội - 2013


MỞ ĐẦU

MỤC LỤC
................................................................................................................................ 1

Chương 1: ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ
TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC .................................................. 9

1.1. Nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực ....................................................... 9
1.1.1. Nguồn nhân lực........................................................................................... 9
1.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực ........................................................................... 14
1.2. Vai trò của đội ngũ giảng viên trong việc đào tạo nguồn nhân lực ............... 19
1.2.1. Khái niệm đội ngũ giảng viên ................................................................. 19
1.2.2. Vai trò của đội ngũ giảng viên ................................................................ 21
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CÁC
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ ..................................... 31

2.1. Khái quát hệ thống các trường Cao đẳng ở Thành Phố Việt Trì .................. 31
2.1.1. Trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm ....................................... 31
2.1.2. Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Phú Thọ ................................... 35
2.1.3. Trường Cao đẳng Dược Phú Thọ ....................................................... 39
2.2. Thực trạng vai trò đội ngũ giảng viên trong đào tạo nguồn nhân lực các


trường Cao đẳng Thành phố Việt Trì.................................................... 43
2.2.1. Những thành tựu của đội ngũ giảng viên trong việc đào tạo

nguồn nhân lực ........................................................................................ 43
2.2.2. Những hạn chế của đội ngũ giảng viên trong đào tạo nguồn nhân lực ...... 54
2.2.3. Nguyên nhân của những thực trạng trên ................................................ 59
2.3. Giải pháp nâng cao vai trò đội ngũ giảng viên trong đào tạo nguồn

nhân lực các trường Cao đẳng Thành phố Việt Trì ............................. 63
2.3.1. Nhóm giải pháp từ lãnh đạo quản lý phát huy dân chủ của các trường ....... 6
2.3.2. Nhóm giải pháp từ đội ngũ giảng viên................................................... 71
2.3.3. Nhóm giải pháp từ học sinh, sinh viên .................................................. 79
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 87
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 92


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CNH

:

Công nghiệp hóa

CNXH

:


Chủ nghĩa xã hội

HĐH

:

Hiện đại hóa

NNL

:

Nguồn nhân lực

NLCN

:

Nguồn lực con người

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Cơ sở vật chất trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm ................. 34

Bảng 2.2: Đội ngũ giảng viên Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm ..................... 35
Bảng 2.3: Cơ sở vật chất trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Phú Thọ ............. 38
Bảng 2.4: Đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Phú Thọ ..... 39
Bảng 2.5: Cơ sở vật chất trường Cao đẳng Dược Phú Thọ ................................. 41
Bảng 2.6: Đội ngũ giáo viên trường Cao đẳng Dược Phú Thọ ........................... 42
Bảng 2.7. Cơ cấu ĐNGV theo tuổi của các trường cao đẳng ở Thành phố
Việt Trì ............................................................................................. 45
Bảng 2.8: Cơ cấu trình độ (Cử nhân, Thạc sỹ, Tiến sỹ) ...................................... 47
Bảng 2.9: Chi trả tiền vượt giờ tiêu chuẩn của giảng viên .................................. 68


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong những vấn đề quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Hiện nay, đầu tư
cho nguồn lực con người thông qua hoạt động giáo dục - đào tạo được xem là
một trong những hướng đầu tư có hiệu quả và quyết định tới khả năng tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững của mỗi quốc gia. Đây là cội nguồn cho những
bước đột phá, tạo nên những bước tiến trong tương lai.
Để có thể tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là khi
nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH gắn
với phát triển kinh tế tri thức, với nhiều thuận lợi, khó khăn và thách thức phải
vượt qua. Để đạt tới sự phát triển nhanh và bền vững của toàn xã hội chúng ta cũng
cần có những chiến lược đầu tư phát triển NNL và giáo dục - đào tạo là một hướng
đi cần thiết. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã khẳng định: phải phát
triển mạnh giáo dục - đào tạo, coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, lấy
việc phát triển nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững. Tiếp đó Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “phát huy nhân tố con người và
tăng cường nguồn lực con người để từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đến Đại
hội X Đảng lại nhấn mạnh: “phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để tiếp tục

hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với
kinh tế tri thức”. Có thể nói, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát
triển, đầu tư cho con người là tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển, là đảm bảo
cho sự phồn thịnh, sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Thực tiễn cho thấy giáo dục - đào tạo có vai trò đặc biệt quan trong trong
việc phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục - đào tạo trong hệ thống trường học là
con đường ngắn nhất, hệ thống và khoa học nhất để truyền thụ tri thức cho người
học một cách cơ bản, có hệ thống và hiệu quả nhất. Hệ thống giáo dục ở nước ta
hiện nay có nhiều cấp học, ngành học được xây dựng một cách có hệ thống, chặt
chẽ và mang tính phát triển.

1


Trong hệ thống giáo dục đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng cốt thực hiện
mục tiêu giáo dục - đào tạo, là lực lượng giúp cho người học xây dựng thế giới
quan, nhân sinh quan, trang bị cho người học không chỉ là tri thức và phương
pháp tư duy khoa học mà còn trang bị cho người học khả năng làm việc độc lập,
sáng tạo. Chính vì vậy, vai trò của đội ngũ giáo viên rất quan trọng nó không chỉ
có vai trò ở hiện tại mà nó còn được phát huy trong tương lai. Nhận định về vai
trò của đội ngũ nhà giáo Đảng ta cũng khẳng định “giáo viên là nhân tố quyết
định chất lượng giáo dục đào tạo và được xã hội tôn vinh”.
Giáo dục đào tạo Cao đẳng nằm trong cấu trúc chung của hệ thống giáo
dục đào tạo quốc dân. Giáo dục đào tạo Cao đẳng, Đại học là khâu trực tiếp đào
tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao tham gia vào quá
trình CNH, HĐH đất nước. Ở cấp học này, đội ngũ giáo viên có vai trò rất quan
trọng trong việc đào tạo học sinh - sinh viên thành nguồn nhân lực có tri thức, có
năng lực và phẩm chất, có đủ điều kiện để tiếp cận với các ngành nghề cụ thể
hoặc có thể tiếp tục học tập nghiên cứu ở cấp học cao hơn. Tuy nhiên, hiện nay
trong hệ thống các trường Cao đẳng “đội ngũ giáo viên vừa thiếu lại vừa thừa,

một bộ phận nhỏ giáo viên chưa đạt chuẩn đào tạo, một số thiếu năng lực giảng
dạy và tinh thần trách nhiệm. Bên cạnh đó là sự tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường đã làm xói mòn phẩm chất của một số giáo viên gây ảnh hưởng xấu đến
uy tín người thầy trong xã hội”. Chính điều này đã làm hạn chế việc thực hiện vai
trò đào tạo nguồn nhân lực của đội ngũ giáo viên, và điều này cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn tới thực trạng trong giáo dục hiện nay đó là: nhiều học
sinh - sinh viên lệch lạc về kiến thức, thiếu sự hiểu biết về các vấn đề chính trị xã hội, và một bộ phận không nhỏ học sinh - sinh viên suy thoái về đạo đức, lối
sống. Phần lớn học sinh - sinh viên sau khi ra trường thiếu khẳ năng tự tìm kiếm
việc làm, chưa vững vàng trước những biến đổi phức tạp của cuộc sống. Có thể
nói chất lượng đào tạo của cấp học này chưa thực sự đáp ứng được mục tiêu của
cuộc sống đặt ra. Nghị quyết số 29 - NQ/TW “về đổi mới căn bẳn, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa throng điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tê” đã nhận định
những hạn chế.
2


Xuất phát từ nhu cầu về nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực có chất
lượng của cả nước nói chung và của Tỉnh Phú Thọ nói riêng. Yêu cầu đặt ra đối
với đội ngũ giảng viên các trường Cao đẳng Thành phố Việt Trì Tỉnh Phú Thọ
ngày càng cao. Đội ngũ giảng viên cần phải làm tốt hơn nữa vai trò của mình
trong việc đào tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng phụ vụ cho sự phát triển của
Tỉnh và cho cả nước. Để làm được như vậy đội ngũ giảng viên cần thực hiện tốt
các nhiệm vụ cụ thê: Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực
hiện đầy đủ và có chất lượng chương trình giáo dục; gương mẫu thực hiện nghĩa
vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều lệ nhà trường; giữ gìn phẩm
chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, tôn trọng nhân cách của người học, đối xử
công bằng với người học, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người học;
không ngừng học tập để nâng cao phẩm chất, đạo đức, trình độ chính trị, chuyên
môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy.

Từ thực tế đó tác giả chọn “Vai trò của đội ngũ giảng viên trong đào tạo
nguồn nhân lực các trường Cao đẳng Thành phố Việt Trì hiện nay”. Làm đề
tài cho luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành CNXHKH.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục
đào tạo và vai trò của đội ngũ giảng viên đối với việc phát triển nguồn nhân lực.
Vì thế vấn đề giáo dục - đào tạo và phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên được
rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập tới.
* Những công trình nghiên cứu đã xuất bản thành sách:
“Con người Việt Nam, mục tiêu và động lực phát triển kinh tế - xã hội” do
GS.TS Phạm Minh Hạc chủ biên với nhiều vấn đề được phân tích trong đó có các
vấn đề về phát triển giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực
trong đó vấn đề phát hiện, tuyển chọn, giáo dục và đãi ngộ nhân tài được đặc biệt
quan tâm.
“Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI, kinh nghiệm của các
quốc gia” của Viện nghiên cứu phát triển giáo dục, Nhà xuất bản Chính trị Quốc

3


gia (2002). Những nội dung ở Công trình này là kết quả nghiên cứu của các nhà
khoa học có liên quan đến lĩnh vực chiến lược phát triển giáo dục.
Công trình nghiên cứu trên đã đề cập, phân tích tính tất yếu phải tiến hành
đổi mới giáo dục trên cơ sở khảo sát thực trạng nền giáo dục nước ta trong những
năm qua. Qua đó phát hiện những vấn đề đặt ra nhìn từ góc độ mâu thuẫn, đồng
thời dự báo xu hướng phát triển, nêu ra những quan điểm chỉ đạo của Đảng,
phương hướng và giải pháp chung để nâng cao chất lượng giáo duc - đào tạo đáp
ứng yêu cầu của đất nước ở thế kỷ XXI.
Bàn về giáo dục Đại học, Cao đẳng trong những năm gần đây có những
nghiên cứu:

“Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt nam”, TS Đỗ Minh Cương
và GS.TS Nguyễn Thị Doan - chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2001). Ở
đây hai tác giả đã đi sâu phân tích đặc điểm thực trạng và yêu cầu của xã hội đối
với chất lượng nguồn nhân lực trong giáo dục Đại học, Cao đẳng ở nước ta. Từ đó
các tác giả đã khẳng định cần thực hiện đồng bộ những giải pháp nhằm tạo điều
kiện tốt nhất để phát triển nguồn nhân lực ở cả cơ cấu và chất lượng.
“Trí thức giáo dục Đại học Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH”
của tác giả Nguyễn Văn Sơn, Nxb Chính trị quốc gia, (2002). Cuốn sách tập
trung nghiên cứu nội dung xây dựng đội ngũ giáo viên ở các trường Đại học. Tác
giả đã luận giải về quá trình hình thành phát triển cũng như đặc điểm, vai trò, cơ
cấu của đội ngũ này đáp ứng yêu cầu của giáo dục Đại học trong thời kỳ CNH,
HĐH. Không dừng lại ở đó, tác giả còn bước đầu đưa ra giải pháp nhằm xây
dựng đội ngũ tri thức này.
* Những công trình dưới dạng luận án:
Luận án PTS triết học của tác giả Phan Thanh Khôi (1992): “Động lực của
trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay”, Hà nội. Luận án đã đi sâu
luận giải những chính sách xã hội với tư cách là động lực không chỉ về mặt vật
chất mà cả mặt tinh thần để đội ngũ trí thức lao động sáng tạo ở nước ta có thể
phát huy hơn nữa khả năng, tính tích cực và chủ động nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày
càng cao của thực tiễn đất nước.

4


Luận án Tiến sĩ triết học của Phạm Văn Thanh (2001): “Xây dựng đội ngũ
trí thức khoa học Mác-Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay”, luận
án chủ yếu bàn về đội ngũ giáo viên Mác-Lênin và vai trò của họ trong các
trường Đại học ở nước ta hiện nay.
Luận án Tiến sĩ triết học của Phan Văn Sơn (2000): “Cơ cấu và chất lượng
trí thức giáo dục đại học ở nước ta hiện nay”

Luận văn Thạc sĩ triết học của Nguyễn Thị Phương Linh (1999): “Vị trí,
vai trò của đội ngũ trí thức nữ trong các trường Đại học và Cao đẳng ở Thành
phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay”
Các đề tài này cũng đã đề cập đến những mặt, những khía cạnh khác nhau
của tri thức nước ta với nghĩa là lực lượng giữ vai trò quyết định tới chất lượng
của nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện
nay.
Ngoài các công trình, đề tài nghiên cứu, luận văn, luận án còn có khá nhiều
các bài viết của các nhà khoa học đã được công bố trên báo, tạp chí... trực tiếp
bàn về đội ngũ giảng viên ở các trường Đại học Cao đẳng như:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên đại học” của Nguyễn Đình Trí đăng
trên báo Nhân dân, (2000).
“Giảng viên với việc nâng cao chất lượng bài giảng” của Phạm Đình Đạt,
Tạp chí Khoa học chính trị, (2001), số 6.
“Phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên Đại học hướng tới nền kinh tế tri
thức” của Nguyễn Văn Duệ, Tạp chí Phát triển giáo dục, (2003), số 4.
“Đội ngũ giảng viên và yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau
đại học” của Võ Xuân Đàn, Tạp chí Hoạt động khoa học,(2004), số 2.
“Chuẩn hóa nghề nghiệp, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên”của Trần Văn Dũng, Tạp chí Khoa học giáo dục (2011), số 69.
“Một số ý kiến về quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
đại học” của Đào Trọng Thi, Tạp chí Khoa học giáo dục (2011), số 66.
Với những nội dung nghiên cứu của các công trình trên đã giải quyết được
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đội ngũ giảng viên Đại học Cao đẳng. Các
5


tác giả cũng đã khảo sát thực trạng cơ cấu chất lượng, đề xuất những phương
hướng, giải pháp để xây dựng đội ngũ giảng viên, phát triển cơ cấu, chất lượng,
nâng cao phẩm chất đạo đức, phát huy vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp

đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy vẫn chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu chuyên khảo, hệ thống, trực tiếp bàn về nâng cao vai trò của đội ngũ
giảng viên tại các trường Cao đẳng trên địa bàn cụ thể trong đó có Thành phố
Việt Trì thuộc Tỉnh Phú Thọ. Do đó, trên cơ sở kế thừa những thành quả của các
công trình nghiên cứu khoa học đi trước và đứng ở góc độ chuyên ngành
CNXHKH, tác giả chọn đề tài: “Vai trò của đội ngũ giảng viên trong đào tạo
nguôn nhân lực các trường Cao đẳng thành phố Việt Trì hiện nay” để làm luận
văn thạc sĩ không trùng lặp với các luận văn, luận án... đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Trên cơ sở làm rõ vai trò thực trạng của đội ngũ giảng viên
trong việc đào tạo nguồn nhân lực các trường Cao đẳng thuộc Thành phố Việt Trì
hiện nay, luận văn đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ
giảng viên trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực tại các trường Cao đẳng thuộc
Thành phố Việt Trì.
* Nhiệm vụ: Luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Luận văn tập trung làm rõ những khái niệm, phân tích vai trò của đội ngũ
giảng viên với tư cách là chủ thể quan trọng của quá trình đào tạo nguồn nhân lực
tại các trường Cao đẳng.
- Đánh giá thực trạng vai trò của đội ngũ giảng viên các trường Cao đẳng
thuộc Thành phố Việt Trì hiện nay.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ
giảng viên tại các trường Cao đẳng thuộc Thành phố Việt Trì hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Vai trò đội ngũ giảng viên các trường Cao đẳng thành phố
Việt Trì trong quá trình giáo duc đào tạo nguồn nhân lực.

6



* Phạm vi: Đội ngũ giảng viên trực tiếp giảng dạy tại các trường Cao đẳng
thuộc thành phố Việt Trì trong những năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của
đội ngũ giảng viên trong quá trình giáo dục đào tạo học sinh, sinh viên Cao đẳng
thành nguồn nhân lực có chất lượng.
* Cơ sở thực tiễn:
Luận văn nghiên cứu toàn bộ hoạt động của đội ngũ giảng viên tại các
trường Cao đẳng thuộc thành phố Việt Trì hiện nay (từ 2008 đến 2012).
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, phương
pháp duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp khác như phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, logic và lịch sử, thống kê điều tra xã hội học, gắn lý luận
và thực tiễn chính trị - xã hội của vấn đề.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn xác định rõ quan hệ giữa đội ngũ giảng viên với nguồn lực học
sinh, sinh viên Cao đẳng trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Luận văn đã làm rõ thực trạng của đội ngũ giảng viên tại các trường Cao
đẳng thuộc thành phố Việt Trì hiện nay.
Luận văn đã đề xuất các giải pháp để nâng cao vai trò của đội ngũ giảng
viên trong nhiệm vụ giáo dục đào tạo tại các trường Cao đẳng thuộc thành phố
Việt Trì trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Về lý luận:
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho những
người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy.

7



- Về thực tiễn:
Những kết quả đạt được của luận văn có thể là cơ sở thực tiễn để các
trường tham khảo nhằm phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên các trường Đại
học, Cao đẳng
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo luận văn được kết cấu
thành 2 chương, 5 tiết:
Chương 1: Đào tạo nguồn nhân lực và vai trò của đội ngũ giảng viên các
trường cao đẳng Thành phố Việt Trì trong đào tạo nguồn nhân lực.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao vai trò đội ngũ giảng viên
trong đào tạo nguồn nhân lực trong các trường cao đẳng Thành phố Việt Trì.

8


Chương 1
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ
CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG THÀNH PHỐ
VIỆT TRÌ TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. Nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực
1.1.1. Nguồn nhân lực
* Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực hay còn gọi là nguồn lực con người được coi là một nhân
tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Thuật ngữ NNL được hiểu khá rộng. Cùng với thuật ngữ này còn có một
số thuật ngữ khác cũng được sử dụng rất phổ biến như “nguồn lực con người”,
“nhân tố con người”, “tài nguyên con người”. Những thuật ngữ trên xuất phát từ
thuật ngữ tiếng Anh: Human Resources và đã được dịch ra với những từ ngữ

khác nhau. Song chúng đều giống nhau về bản chất.
Khái niệm NNL được sử dụng tương đối rộng rãi ở nước ta từ đầu những
năm 90 của thế kỷ XX. Nó được coi là nhân tố quan trọng nhất, năng động nhất
của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn có rất
nhiều quan niệm khác nhau với những góc độ và khía cạnh tiếp cận khác nhau.
Lý luận mác xít về lực lượng sản xuất thì con người được coi là lực lượng
sản xuất hàng đầu là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự vận động và phát triển
của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất. Do đó, nó quyết định cả
năng suất lao động và sự tiến bộ của xã hội.
Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế: con người được nhìn nhận như một
phương tiện chủ yếu nhằm đảm bảo cho sự tăng trưởng của sản xuất và dịch vụ.
Trong lý luận về vốn thì con người lại được đề cập đến như là một loại
vốn, nó được xem là một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất kinh
doanh, là phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội.
Liên Hiệp Quốc khi đề cập đến vấn đề NNL thì cho rằng: NNL là những
người có trình độ lao động lành nghề, là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng
9


lực con người hiện có, cả hiện thực và tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội
trong một cộng đồng. Trong quan niệm này của Liên Hiệp Quốc NNL chủ yếu
được xem xét ở phương diện chất lượng và vai trò cũng như là sức mạnh của nó
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Tìm hiểu những nghiên cứu gần đây ở nước ta cho thấy vấn đề về NNL
cũng có rất nhiều những quan niệm khác nhau.
Theo tác giả Lê Thành Nghị: “NNL là tổng thể các tiềm năng lao động của
một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực
xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội của con người, nhóm
người, tổ chức, địa phương, vùng, quốc gia. Tính thống nhất đó được thể hiện ở
quá trình biến NLCN thành vốn người đáp ứng yêu cầu phát triển” [52, tr. 15-16].

Các tác giả của chương trình Khoa học - công nghệ cấp Nhà nước, mã số
KX - 07 “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” do GS. TS KH Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm cho rằng: “NNL (NLCN)
được hiểu là số dân và chất lượng con người bao gồm cả thể chất và tinh thần,
sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [29, tr. 328].
GS. TS Hoàng Chí Bảo quan niệm: “NLCN là sự kết hợp thể lực và trí lực,
cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng - hiệu quả hoạt động và triển vọng mới
phát triển của con người” [3, tr. 14]. Từ quan niệm trên ta thấy, NLCN không chỉ
đơn thuần là sức mạnh thể chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân trong một cộng
đồng mà nó còn là sức mạnh của một quốc gia được đem ra sử dụng vào quá
trình phát triển xã hội.
Cũng về vấn đề này, PGS. TS Đoàn Văn Khái cho rằng khái niệm “NNL”
ngoài nghĩa rộng được hiểu như “NLCN” theo nghĩa hẹp là nguồn lao động, có
khi còn được hiểu là lực lượng lao động. Tác giả quan niệm: “NLCN là khái
niệm chỉ dân số, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc
điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội” [34, tr. 62].
PGS. TS Phạm Công Nhất cho rằng: “Nhân tố con người là tổng thể các
yếu tố có liên quan đến con người, là sự thống nhất biện chứng giữa các mặt chủ
quan và khách quan để tạo nên năng lực, phẩm chất và trí tuệ của con người được

10


hình thành và phát huy tác dụng vào trong thực tiễn sản xuất vật chất hay quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi cộng đồng, quốc gia trong những giai
đoạn lịch sử nhất định” [54, tr. 25].
Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội thì: “NNL là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc
gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành hay một
vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội” [8, tr. 13].
Như vậy, từ những quan niệm trên cho thấy có rất nhiều cách tiếp cận về

NNL nên đã xuất hiện những quan niệm khác nhau. Mặc dù vậy những quan
niệm đó cũng có những điểm chung. Các công trình nghiên cứu đều nói đến yếu
tố thể chất và tinh thần, phản ánh thể lực, trí lực và phẩm chất tinh thần của con
người. Qua đó tạo ra được sức mạnh với tư cách là động lực của sự phát triển xã
hội. Như vậy, sẽ không thể có một định nghĩa chung về NNL mà tùy vào cách
tiếp cận mới có thể đưa ra một quan niệm, một định nghĩa phù hợp.
Với ý nghĩa đó, và trên cơ sở kế thừa tiếp thu có chọn lọc các quan niệm,
cách tiếp cận NLCN, NNL nói trên, dưới dạng tổng quát ta có thể khái quát trong
khái niệm NNL sau: NNL là tổng thể những yếu tố về số lượng, chất lượng của
dân cư, dân số và nguồn lao động của mỗi cộng đồng hay quốc gia để từ đó tạo
nên những giá trị có thể phát huy và là động lực chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi cộng đồng hay quốc gia đó.
* Vai trò của nguồn nhân lực
Đối với mỗi quốc gia, dân tộc việc phát triển kinh tế - xã hội phải dựa trên
nhiều nguồn lực như: NNL, nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính, nguồn lực tài
nguyên thiên nhiên… trong các nguồn lực đó thì NNL là yếu tố quan trọng nhất
vì nó là loại nguồn lực đặc biệt, nguồn lực “sử dụng” các nguồn lực khác tạo ra
động lực cho sự phát triển. Các nguồn lực khác dù có đa dạng đến đâu thì cũng
chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chứ không phải là những nguồn lực có tính tự
thân để tạo ra các giá trị. Giá trị của các nguồn lực đó chỉ thực sự được bộc lộ khi
có sự tham gia, tác động của con người. Các nguồn lực khác dù có nhiều đến đâu

11


vẫn chỉ là có hạn và chỉ phát huy được sức mạnh, hiệu quả thông qua hoạt động
của con người.
Trong công cuộc CNH, HĐH hiện nay của nước ta càng đòi hỏi hơn nữa
tính đa dạng phong phú của các nguồn lực. Các nguồn lực trên có quan hệ chặt
chẽ với nhau, cùng tham gia, tác động lẫn nhau trong đó NNL giữ vai trò quyết

định nhất.
Ngày nay, phát triển bền vững được xác định là chiến lược ưu tiên hàng
đầu của các quốc gia trên thế giới và một trong những cơ sở quan trọng nhất để
thực hiện chiến lược phát triển đó là NNL. Bởi lịch sử phát triển của xã hội loài
người đã chứng minh, trong mọi giai đoạn con người luôn là yếu tố đóng vai trò
quyết định nhất. Nhận thức rõ tầm quan trọng của NNL trong công cuộc đổi mới
và phát triển đất nước đi lên CNXH, Đảng cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh
đến vai trò của NNL, coi NNL là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất cho sự phát
triển nhanh và bền vững.
Theo đó, vai trò của NNL được thể hiện vừa với tư cách là chủ thể vừa với
tư cách là khách thể của các quá trình kinh tế - xã hội.
Với tư cách là chủ thể. Trong quan hệ với các nguồn lực tự nhiên và các
nguồn lực khác thì NNL là chủ thể trực tiếp nhất. Các nguồn lực khác tự nó không
thể tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng như là quá trình CNH,
HĐH mà chúng chỉ có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế xã hội và thực sự trở
thành nguồn lực cho CNH, HĐH khi nó được kết hợp với sức lực và trí tuệ của con
người, thông qua sự tác động, khai thác hợp lý của con người. Hơn nữa, con người
không chỉ quyết định hiệu quả của việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và
các nguồn lực khác hiện có mà còn góp phần tạo ra các nguồn lực mới.
Trong tất cả các nguồn lực, chỉ duy nhất có NLCN biết tư duy, có trí tuệ và
có ý thức sử dụng các nguồn lực khác và gắn các nguồn lực lại với nhau tạo
thành nguồn sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia hay của mỗi cộng đồng. Con người tạo ra nguồn vốn và
nguồn vốn này chỉ trở thành động lực quan trọng, cần thiết khi con người sử dụng
đúng mục đích và có hiệu quả. Tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý cho dù thuận

12


lợi đến đâu thì cũng sẽ không có ý nghĩa khi con người không biết khai thác và
sử dụng nó một cách có hiệu quả.

Để có thể thấy rõ hơn nữa vai trò quyết định của NNL chúng ta không chỉ
đặt nó bên cạnh, so sánh nó với các nguồn lực khác mà còn phải đặt nó trong quá
trình CNH, HĐH đất nước, đặt nó trong bối cảnh hiện nay khi mà cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão, lao động trí tuệ đang trở
thành yêu cầu khách quan - xu thế phổ biến của loài người. Mặt khác, cũng phải
đặt trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng. Có như vậy,
chúng ta mới thấy hết được vai trò chủ thể của NNL.
Bên cạnh đó, từ kinh nghiệm của nhiều nước cũng như chính thực tiễn của
nước ta cho thấy kinh tế - xã hội có phát triển hay không, sự nghiệp CNH, HĐH
có thành công hay không phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối, chính
sách cũng như việc tổ chức thực hiện. Như vậy, có thể nói NNL là yếu tố tất yếu
không thể thay thế được trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia cũng như
trong quá trình CNH, HĐH của nước ta. Con người không chỉ quyết định hiệu
quả của việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác hiện có
mà nó còn góp phần quan trọng vào sự bảo tồn và tạo ra các điều kiện phát triển
bền vững nó trong tương lai.
Với tư cách là khách thể. Con người trở thành đối tượng của sự khai thác,
sử dụng, đầu tư và phục vụ cho sự phát triển của kinh tế - xã hội của CNH, HĐH.
Và nó cũng là mục tiêu duy nhất mà chính sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội,
quá trình CNH, HĐH phải hướng vào phục vụ.
Con người là khách thể của quá trình CNH, HĐH. Đó là toàn bộ những
năng lực, phẩm chất của con người được phản ánh qua các yếu tố như thể lực, trí
lực và tâm lực sẽ được khai thác triệt để, có hiệu quả phục vụ cho CNH, HĐH.
Ngày nay, lao động trí tuệ đang trở thành xu thế phổ biến thì cái cần được tập
trung khai thác ở đây chính là tiềm năng trí tuệ. Vì vậy, việc nuôi dưỡng, phát
triển, khai thác, sử dụng có hiệu quả sức lao động, nhất là trí lực trở thành yêu
cầu cấp bách và quan trọng hàng đầu trong toàn bộ quá trình CNH, HĐH.

13



Con người với trí tuệ của mình có khả năng cải tạo tự nhiên, xã hội và cải
tạo chính bản thân mình. Nói đến trí tuệ con người là nói đến tính vô tận, tính
không bị cạn kiệt, tính khai thác không bao giờ hết và khả năng phục hồi, tự tái
sinh ra chính nó, phát huy và tạo ra nguồn lực khác. Tính vô hạn của NNL biểu
hiện ở chỗ nó không chỉ có khả năng tự tái sinh về mặt sinh học mà còn tự đổi
mới không ngừng, phát triển về chất. Nều biết chăm sóc, bồi dưỡng và khai thác
NNL này một cách hợp lý, có hiệu quả nó sẽ thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế
- xã hội và đảm bảo sự thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH. Bởi trí thức của con
người lấy không bao giờ hết. Có thể nói, con người là nguồn lực quý nhất, quyết
định nhất là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Có thế nói, nguồn lực con người không chỉ là mục tiêu của sự phát triển
kinh tế - xã hội, của CNH, HĐH mà nó còn là đối tượng duy nhất mà quá trình
CNH, HĐH phải hướng tới. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội, con người phải
được hưởng ngay những thành quả mà quá trình này đem lại để nâng cao chất
lượng con người, phát triển NNL chứ không phải đợi đến khi thực hiện xong
CNH, HĐH mới đầu tư trở lại cho con người.
Như vậy, có thể thấy NNL là nguồn lực nội tại, cơ bản, tất yếu giữ vị trí
trung tâm trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển kinh tế - xã hôi. Nó vừa
là chủ thể trực tiếp thực hiện, quyết định toàn bộ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đồng thời bản thân nó cũng là đối tượng được hưởng thụ những thành quả của
chính quá trình đó. Do đó, có thể khẳng định NNL là yếu tố cơ bản đảm bảo cho
sự phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia. Do tầm quan trọng của trí tuệ, trí
thức như vậy, ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tìm cách nâng cao
hàm lượng trí tuệ của NNL. Để làm tốt được điều đó thì các biện pháp về giáo
dục và đào tạo đóng vai trò hết sức quan trọng.
1.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực
* Khái niệm đào tạo nguồn nhân lực
Từ thực tế của Việt Nam cũng như từ kinh nghiệm của các quốc gia khác
trong khu vực và trên thế giới cho thấy tầm quan trọng của NNL. Vì vậy, việc


14


nâng cao chất lượng NNL là một yêu cầu cấp bách đối với mỗi quốc gia. Mặt
khác, chúng ta đang bước vào thế kỷ XXI thời kỳ mà khoa học kỹ thuật đang
phát triển như vũ bão và đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển. Bên cạnh đó,
chúng ta cũng đang tiến mạnh CNH, HĐH. Để đạt được những mục tiêu đó, một
trong những ưu tiên là phát triển NNL, đào tạo, trang bị và không ngừng nâng
cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, xem đó là điểm tựa của hệ thống
đòn bẩy để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
Để hiểu được khái niệm đào tạo NNL trước hết chúng ta phải xem xét khái
niệm đào tạo.
“Khái niệm đào tạo” đến nay còn có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng cơ
bản đều cho rằng: đào tạo là quá trình tác động, cung cấp tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo cho con người và trang bị cho họ những hành trang để họ thích nghi tốt với
cuộc sống và làm cho xã hội ngày càng phát triển.
Đề cập đến khái niệm đào tạo. Các nhà biên soạn từ điển Bách khoa Việt
Nam cho rằng: “đào tạo là quá trình tác động đến con người một cách có mục
đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động
xã hội, nó được thể hiện bằng cách tổ chức truyền thụ và lĩnh hội những kiến
thức lịch sử - xã hội của loài người” [68, tr. 120].
Từ những quan điểm trên chúng ta có thể hiểu khái niệm “Đào tạo là quá
trình tác động, giảng dạy những tri thức các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay
kiến thức liên quan đến một lĩnh vực lao động cụ thể để người học lĩnh hội và
nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… nghề nghiệp một cách có hệ thống để
chuẩn bị cho người học thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được
một công việc nhất định trong xã hội”.
Còn đào tạo NNL là sự trang bị, phát triển có hệ thống những kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo mà mỗi cá nhân cần có để thực hiện đúng một nghề hoặc một nhiệm

vụ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu của đời sống kinh tế - xã hội. Đào tạo ở đây
có thể do nhu cầu cá nhân của người được đào tạo hoặc có thể do nhu cầu phát
triển nhân lực của tổ chức, của xã hội. Theo mục đích của người được đào tạo, có
các tiêu chí phân loại như: đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng. Tương ứng với mỗi

15


hình thức đào tạo thì có nội dung, thời gian đào tạo và mức độ đánh giá kết quả
đào tạo là khác nhau có thể là chứng chỉ hay bằng cấp.
Đào tạo NNL là quá trình trang bị những kiến thức nhất định về chuyên
môn, nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ hiệu quả hơn trong công tác của họ. Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình hoạt
động có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ thống tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, thái độ, hành vi… của mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể thực
hiện một cách có năng suất và hiệu quả trong lĩnh vực công tác của họ, hoặc để
làm các công việc khác trong tương lai. Về cơ bản, đào tạo NNL là việc giảng
dạy và học tập ở các trường gắn với việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho đối
tượng được đào tạo, để hình thành những phẩm chất, năng lực cần thiết đáp ứng
những nhu cầu phát triển của xã hội trong mỗi giai đoạn cụ thể, thúc đẩy xã hội
phát triển. Tùy mỗi một lĩnh vực khác nhau, trong những giai đoạn khác nhau,
chương trình đào tạo NNL lại có những mục tiêu và nội dung khác nhau.
Như vậy, có thể thấy đào tạo NNL là quá trình thúc đẩy phát triển yếu tố
con người, trí thức, phát triển các kỹ năng và các phẩm chất lao động mới, thúc
đẩy sáng tạo khoa học - công nghệ, đảm bảo cho sự vận động tích cực của các
lĩnh vực và toàn xã hội. Quá trình đào tạo làm biến đổi NNL, khơi dậy những
tiềm năng của con người, phát triển toàn bộ và từng bộ phận trong cấu trúc nhân
cách, phát triển cả về năng lực vật chất và tinh thần, tạo dựng và ngày càng nâng
cao, hoàn thiện cả về đạo đức và tay nghề, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
nhân lực cho CNH, HĐH đất nước.

* Nội dung đào tạo nguồn nhân lực
Đào tạo NNL đang trở thành một bộ phận đặc biệt của cấu trúc hạ tầng xã
hội, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Đào tạo NNL là một bậc trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm bốn bậc đó là: giáo dục mầm non,
giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục đại học quy định của
Luật Giáo dục năm 2005. Như vậy, đào tạo NNL được cụ thể qua các bậc: giáo
dục chuyên nghiệp (trung học chuyên nghiệp và dạy nghề) và giáo dục đại học

16


(cao đẳng, đại học và sau đại học). Ở mỗi bậc học này lại có nội dung và phương
pháp khác nhau.
- Giáo dục chuyên nghiệp: nội dung của bậc học này là tập trung vào đào
tạo năng lực nghề nghiệp, coi trọng việc giáo dục đạo đức, rèn luyện sức khỏe và
nâng cao trình độ học vấn theo yêu cầu đào tạo. Kết hợp giữa việc học lý thuyết
và rèn luyện kỹ năng thực hành nghề.
Đào tạo trung học chuyên nghiệp là một cấp đào tạo trong hệ thống giáo
dục - đào tạo quốc dân có nhiệm vụ trang bị các kiến thức, kỹ năng theo ngành
nghề nhất định, sau khi ra trường người học làm các công việc thực hành, trợ việc
cho cán bộ nghiên cứu, quản lý có trình độ đại học trở lên. Đối tượng đào tạo là
học sinh đã tốt nghiệp trung học cơ sở, phổ thông trung học và có thể tuyển sinh
từ công nhân và nhân viên nghiệp vụ đã tốt nghiệp các trường dạy nghề cùng
ngành và cấp bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp. Mục tiêu đào tạo là đào
tạo những cán bộ thực hành có trình độ trung học về kỹ thuật nghiệp vụ về kinh
tế, giáo dục, văn hóa, y tế, nghệ thuật. Nội dung đào tạo được chia thành 4 nhóm:
nhóm những kiến thức chung; nhóm những kiến thức về kỹ thuật cơ sở cho nhóm
ngành; nhóm kiến thức về kỹ thuật chuyên môn của ngành và các kỹ năng , kỹ
xảo thực hành cho người nhân viên một vài nghề chính của ngành.

Đào tạo nghề: đây là một hình thức đào tạo cơ bản nhằm bổ sung NNL cho
phát triển đất nước. Theo quy định của Luật Giáo dục “dạy nghề dành cho người
có trình độ học vấn và có sức khỏe phù hợp với nghề cần học, được thực hiện
dưới một năm đối với các chương trình dạy nghề ngắn hạn, từ một đến ba năm
đối với chương trình dạy nghề dài hạn”. Theo phê duyệt quy hoạch mạng lưới
trường dạy nghề giai đoạn 2002-2010 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số
48/2002/QĐ-TTG ngày 11/4/2002. Quy định trình độ đào tạo gồm: bán lành
nghề, lành nghề, trình độ cao. Nội dung đào tạo là tập hợp hệ thống các kiến thức
về văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ, các kỹ năng và kỹ xảo lao động, các
chuấn mực về giá trị đạo đức, tư tưởng, nhận thức để đảm bảo sự phát triển toàn
diện nhân cách. Trong đó kỹ năng, kỹ xảo thực hành nghề là phần cơ bản của nội
dung đào tạo, về phương pháp đào tạo, đào tạo theo modul là một biện pháp để

17


mềm hóa quá trình đào tạo, làm cho việc đào tạo trở nên linh hoạt, đáp ứng tốt
hơn cho nhu cầu của người học và người sử dụng lao động.
- Giáo dục đại học
Đào tạo cao đẳng là một cấp đào tạo trong hệ thống giáo dục - đào tạo
quốc dân có nhiệm vụ trang bị các kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp gần tương
đương trình độ đại học xong nghiêng về khả năng thực hành (kỹ sư thực hành).
Sau khi ra trường người học có thể đảm nhận thực hiện công việc chuyên môn nghiệp vụ ở phạm vi nhất định, kể cả công việc trực tiếp quản lý, chỉ đạo trên các
công đoạn sản xuất kinh doanh [63, tr. 186].
Đào tạo đại học là một cấp đào tạo trong hệ thống giáo dục - đào tạo quốc
dân có nhiệm vụ đào tạo kiến thức, kỹ năng cao thuộc nghề nghiệp nhất định
trong các trường đại học. Sau khi ra trường người học có khả năng thực hiện các
công việc chuyên môn kỹ thuật phức tap, có khả năng nghiên cứu, quản lý một
lĩnh vực chuyên môn kỹ thuật nhất định [63, tr. 186-187].
Mục tiêu chung của đào tạo cao đẳng, đại học là đào tạo nguồn nhân lực có

trình độ cao, các chuyên gia trên tất cả các lĩnh vực phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nội dung đào tạo phải thực hiện nguyên tắc hiện đại và
phát triển, kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc bên cạnh đó còn phải hội nhập
chung với trình độ thế giới và khu vực. Theo điều 36 của Luật Giáo dục xác định
nội dung cụ thể của mỗi lĩnh vực đào tạo, chú ý sát hợp với yêu cầu của đất nước,
vừa cập nhật trình độ quốc tế. Áp dụng phương pháp giáo dục phải thể hiện được
nguyên lý: lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất.
Khuyến khích sự chủ động học tập, nghiên cứu, thực nghiệm của người học kết
hợp với việc giảng dạy hướng dẫn của người thầy.
Đào tạo sau đại học gồm có: đào tạo thạc sỹ và đào tạo tiến sỹ dành cho
những người đã tốt nghiệp đại học và đáp ứng được các yêu cầu tuyển chọn. Đào
tạo sau đại học là một cấp đào tạo trong hệ thống giáo dục - đào tạo quốc dân có
nhiệm vụ trang bị các kiến thức và kỹ năng nâng cao sau đại học để trở thành
những chuyên gia. Sau khi ra trường người học có khả năng nghiên cứu, độc lập
sáng tạo khoa học và thực hành thực tiễn trong hoạt động chuyên môn. Theo điều

18


36 (Khoản 2) Luật Giáo dục quy định: nội dung giáo dục sau đại học phải giúp
cho người học phát triển và hoàn thiện kiến thức khoa học cơ bản, kiến thức
chuyên ngành, các bộ môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phát
huy năng lực sáng tạo, phát hiện và giải quyết vấn đề thuộc chuyên ngành đào
tạo, có khả năng đóng góp vào sự phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, xã hội
của đất nước. Đào tạo trình độ thạc sỹ phải đảm bảo cho người học được bổ sung
và nâng cao hơn nữa những kiến thức đã được học ở trình độ đại học; tăng cường
kiến thức liên ngành; có đủ năng lực thực hiện công tác chuyên môn và nghiên
cứu khoa học trong chuyên ngành của mình. Đào tạo trình độ tiến sỹ phải đảm
bảo cho nghiên cứu sinh nâng cao và hoàn thiện kiến thức cơ bản; có hiểu biết
sâu về kiến thức chuyên ngành; có đủ năng lực tiến hành độc lập công tác nghiên

cứu khoa học và sáng tạo trong công tác chuyên môn.
Có thể nói, mỗi một bậc học khác nhau lại có đối tượng, mục tiêu, nội
dung, phương pháp đào tạo khác nhau nhưng mục tiêu chung lại là nhằm đào tạo
NNL, bổ sung NNL có chất lượng phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
1.2. Vai trò của đội ngũ giảng viên trong việc đào tạo nguồn nhân lực
1.2.1. Khái niệm đội ngũ giảng viên
Khái niệm đội ngũ thường được dùng để chỉ các tổ chức xã hội một cách
rộng rã như: Đội ngũ trí thức, đội ngũ công nhân viên, đội ngũ giáo viên… đó là
những tổ chức gồm nhiều người, tập hợp thành một lực lượng có cùng nghề
nghiệp.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “đội ngũ là một tập hợp người gắn kết với
nhau cùng chung lý tưởng, mục đích, ràng buộc nhau về vật chất, tinh thần và
hoạt động theo một nguyên tắc” [5, tr. 6].
Đề cập đến vấn đề này tác giả Trần Thanh Giang cho rằng: “đội ngũ được
hiểu là tập hợp những người có đặc điểm hoạt động, chức năng riêng được tổ
chức thành một lực lượng xã hội” [28, tr. 16].
Từ những quan niệm trên cho thấy, mặc dù với những cách diễn đạt khác
nhau nhưng tất cả những quan niệm đó đều nhấn mạnh đến những đặc trưng cơ

19


bản của đội ngũ đó là: một nhóm người (xã hội) được tổ chức và tập hợp thành
một lực lượng để cùng thực hiện những chức năng của một nghề, có cùng chung
mục đích và cùng hướng tới mục đích đó.
Khái niệm giảng viên, theo Chương IV, mục 1, điều 70 Luật Giáo dục
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (14/ 6/ 2005) nêu rõ: “nhà giáo là
người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo
dục khác. Nhà giáo phải có những tính chất sau: phẩm chất, đạo đức, tư tưởng

tốt, đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo
yêu cầu nghề nghiệp; lý lịch bản thân rõ ràng. Nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở
giáo dục đại học và sau đại học gọi là giảng viên”.[38; tr 23]
Như vậy, có thể thấy giảng viên là những nhà giáo làm công tác giảng dạy
trong các trường Cao đẳng, Đại học và sau Đại học. Họ không những truyền thụ
kiến thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo, khả năng thực hành cho sinh viên và họ còn
dạy cho sinh viên cách học, cách đưa ra ý tưởng, sáng kiến; xây dựng và phát
triển nhân cách toàn diện cho học sinh, sinh viên, có đạo đức, có tri thức, có sức
khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp chuyên sâu.
Khái niệm đội ngũ giảng viên: “Đội ngũ giảng viên là tập hợp những
người làm công tác giảng dạy và đào tạo trong các trường Cao đẳng, Đại học
được tổ chức thành một lực lượng xã hội có cùng chung nhiệm vụ là thực hiện
việc truyền thụ tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, xây dựng lý tưởng, đạo đức,
lối sống, và phát triển nhân cách toàn diện cho người học”.
Ở đây khi đề cập đến đội ngũ giảng viên, ta phải đứng trên quan điểm hệ
thống. Cần phải hiểu đội ngũ giảng viên không phải là một phép cộng, một tập
hợp những cá nhân đơn lẻ mà giữa các cá nhân đó có mối quan hệ biện chứng,
ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên tính thống nhất của cả hệ thống. Mỗi
tác động đến từng cá nhân giảng viên đơn lẻ vừa có ý nghĩa cục bộ vừa có ý
nghĩa trên toàn thể hệ thống và ngược lại, tác động lên toàn bộ đội ngũ giáo viên
cũng có nghĩa là tác động đến từng cá nhân giảng viên.

20


×