Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Đánh giá việc thực hiện tự chủ tài chính tại bệnh viện đa khoa huyện tuy an trong 3 năm 2009 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.14 KB, 29 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 1957, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã định nghĩa: “Bệnh viện là một
bộ phận không thể tách rời của một tổ chức xã hội và y tế. Chức năng của nó là
chăm sóc sức khỏe toàn diện cho nhân dân, cả phòng bệnh và chữa bệnh, dịch vụ
ngoại trú của bệnh viện phải vươn tới cả gia đình và môi trường cư trú. Bệnh viện
còn là trung tâm đào tạo cán bộ y tế và nghiên cứu sinh xã hội học” [4].
Hiện nay các bệnh viện đang đứng trước nhiều thách thức, đó là:
- Kinh phí cho khám chữa bệnh (KCB) còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu.
- Thách thức giữa công bằng và hiệu quả.
- Tính nhân đạo y tế có xu hướng giảm.
- Bảo hiểm Y tế (BHYT) đã bao phủ khoảng 63,7% dân số, mệnh giá thấp so
với chi phí.
- Mất cân đối phân bố cán bộ y tế giữa các tuyến.
- Năng lực quản lý của cán bộ còn hạn chế nhất là về quản lý kinh tế chưa
đáp ứng nhu cầu trong cơ chế thị trường [24].
Bệnh viện là bộ mặt của Ngành Y tế, bệnh viện đóng vai trò nòng cốt trong
công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Bệnh viện thực hiện 7 nhiệm vụ
của Ngành Y tế, trong đó nhiệm vụ Quản lý kinh tế y tế trong bệnh viện không kém
phần quan trọng vì nó góp phần duy trì và phát triển bệnh viện [5].
Quản lý tài chính trong các bệnh viện ở Việt Nam là một nội dung của chính
sách kinh tế - tài chính y tế do Bộ Y tế chủ trương với trọng tâm là sử dụng các
nguổn lực đầu tư cho Ngành Y tế để cung cấp các dịch vụ y tế (DVYT) cho nhân
dân một cách hiệu quả và công bằng [4].
Hiện nay, ba nguồn cung ứng tài chính chủ yếu cho các bệnh viện công lập là
Ngân sách nhà nước (NSNN), viện phí và BHYT. NSNN vẫn là nguồn tài chính
quan trọng, mang tính ổn định đối với bệnh viện nhưng tỷ trọng đang có xu hướng
giảm dần. Cũng như nhiều nước khác trên thế giới, Việt Nam đang chứng kiến sự
gia tăng mạnh mẽ của chi phí dịch vụ bệnh viện. Nhu cầu KCB trong nhân dân tăng
cao cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đem


lại những thành tựu to lớn về công nghệ y học mới, chế phẩm thuốc mới. Bên cạnh
đó vấn đề lạm dụng dịch vụ từ các bên cũng là nguyên nhân quan trọng đẩy chi phí
DVYT nói chung và chi phí bệnh viện nói riêng tăng cao [16].
Không thể phủ nhận thực tế là các bệnh viện đã và đang phải đối mặt với
không ít khó khăn về tài chính, không chỉ vấn đề thiếu nguồn kinh phí mà còn là
vấn đề quản lý, điều hành. Trong bối cảnh hiện nay, rất cần có những nghiên cứu
đánh giá về thực trạng tài chính và khả năng tự chủ tài chính của hệ thống các bệnh
viện công lập tạo cơ sở cho việc xây dựng các chính sách, giải pháp đổi mới và phát
triển hệ thống bệnh viện. Nghị quyết 46 của Bộ Chính trị về “Công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới” đã chỉ rõ những hạn
chế cần khắc phục của hệ thống y tế là chậm đổi mới, chưa thích ứng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và sự thay đổi
của cơ cấu bệnh tật; Chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng đa
dạng của nhân dân.
Định hướng xã hội hóa với mục tiêu giảm bớt phụ thuộc của các cơ sở cung
cấp dịch vụ vào NSNN và chính sách đổi mới chung theo hướng tăng cường tự chủ


2

và chịu trách nhiệm của các đơn vị HCSN, trong đó có các cơ sở khám chữa bệnh,
các bệnh viện đang tác động rõ rệt đến hoạt động của các bệnh viện công lập. Định
hướng này đã được cụ thể hóa bằng Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002
quy định chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Tiến độ triển khai
Nghị định 10 trong Ngành Y tế chậm hơn rõ rệt so với các lĩnh vực khác và cũng
nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập. Tuy nhiên, chủ trương phân cấp và tăng cường
tính tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập đã được khẳng định bằng việc Chính
phủ ban hành Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 thay thế Nghị định 10
trong đó mở rộng thêm quyền và trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập, khắc
phục những tồn tại của Nghị định 10 [9], [10], [17].

Cho đến nay đã có một số tổng kết, đánh giá sơ bộ về việc thực hiện Nghị
định 43 trong Ngành Y tế. Tuy nhiên chưa có đánh giá nào về vấn đề này tại Bệnh
viện Đa khoa huyện Tuy An.
Để tìm hiểu thực trạng này, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài cấp cơ sở: “Đánh
giá việc thực hiện tự chủ tài chính tại Bệnh viện Đa khoa huyện Tuy An trong 3 năm
2009 - 2011”.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả thực trạng hoạt động thu, chi tài chính tại Bệnh viện Đa khoa huyện
Tuy An từ năm 2009 đến năm 2011.
2. Đề xuất một số giải pháp tài chính phù hợp nhằm sử dụng hiệu quả các
nguồn lực, đảm bảo chất lượng khám chữa bệnh của Bệnh viện Đa khoa huyện Tuy
An.
Việc đảm bảo nguồn lực tài chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của các
bệnh viện là những vấn đề đang được quan tâm hàng đầu. Nghiên cứu dựa trên các
giả thuyết:
- Thực hiện tự chủ tốt sẽ hỗ trợ kinh phí cho hoạt động bệnh viện trong khi
nguồn NSNN còn hạn chế.
- Tự chủ nguồn nhân lực để tăng cường hiệu quả hoạt động của bệnh viện
- Tăng thu nhập đời sống cán bộ viên chức (CBVC) trong bệnh viện.
- Tự chủ tài chính sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động, tiết kiệm chi phí, tăng
nguồn thu cho bệnh viện.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Quản lý tài chính trong bệnh viện ở Việt Nam được định nghĩa là việc quản
lý toàn bộ các nguồn vốn (vốn do ngân sách của chính phủ cấp, vốn viện trợ, vốn
vay và các nguồn vốn khác), tài sản, vật tư của bệnh viện để phục vụ nhiệm vụ

khám bệnh, chữa bệnh, đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Mục tiêu của công tác quản ký tài chính trong bệnh viện ở Việt Nam bao
gồm: sử dụng, quản lý các nguồn kinh phí NSNN cấp và các nguồn được coi là
không do NSNN cấp như viện phí, BHYT, viện trợ… theo đúng chế độ, định mức
quy định của nhà nước. Tăng nguồn thu hợp pháp, cân đối thu chi, sử dụng các
khoản chi có hiệu quả, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm. Thực hiện chính sách
ưu đãi và đảm bảo công bằng về KCB cho các đối tượng ưu đãi xã hội và người
nghèo. Từng bước tiến tới hạch toán chi phí và giá thành KCB.
Quản lý tài chính trong bệnh viện phải đảm bảo các yêu cầu: nâng cao chất
lượng kế hoạch hóa hoạt động của bệnh viện, kế hoạch hoạt động chuyên môn phải
gắn với kế hoạch đảm bảo vật chất, hậu cần, với dự toán tài chính của bệnh viện,
xác lập chính xác các ưu tiên trong điều kiện các nguồn lực đầu tư luôn bị hạn chế.
Đảm bảo duy trì hoạt động tường xuyên về chuyên môn của bệnh viện, đồng thời
tập trung kinh phí để từng bước giải quyết được những hoạt động ưu tiên đã được
xác lập trong kế hoạch ngắn hạn và dài hạn của bệnh viện. Quản lý chặt chẽ thu chi
tài chính; thực hành tốt công tác kế toán, phân tích hoạt động kinh tế; xác lập vai trò
của công tác tài chính - kế toán là công cụ đắc lực để quản lý kinh tế bệnh viện [4].
Hoạt động tài chính là xương sống của bệnh viện, chi phối mọi hoạt động
của bệnh viện. Hoạt động tài chính bệnh viện tuân thủ theo các qui định về tài chính
- kế toán nói chung đồng thời phản ánh các chính sách về tài chính bệnh viện nói
riêng. Trong phần này sẽ cung cấp tổng hợp tóm tắt một số chính sách tài chính y tế
có tác động trực tiếp tới hoạt động tài chính bệnh viện.
1.1. Vài nét tổng quan về hệ thống y tế các nước
1.1.1. Đại cương về hệ thống y tế các nước
Có nhiều cách mô tả và phân loại hệ thống y tế nhưng cách thường được
dùng đó là dựa trên tiếp cận kinh tế học. Ở góc độ này thì một hệ thống y tế thường
được xem xét dựa trên việc trả lời 2 câu hỏi cơ bản: “Ai cung cấp dịch vụ?” và “Ai
chi?”. Người cung cấp dịch vụ có thể là nhà nước hoặc tư nhân hoặc cả hai. Nếu
nhà nước và tư nhân cùng cung cấp thì hệ thống này gọi là hệ thống chăm sóc sức
khỏe (CSSK) hai thành phần (two-tier health care) và tùy mỗi nước thì mức độ cung

cấp dịch vụ của mỗi thành phần có khác nhau. Nếu chỉ có thành phần nhà nước
cung cấp hoặc chiếm phần chủ yếu (như Canada) thì gọi là hệ thống CSSK một
thành phần (one-tier health care). Về cơ cấu hệ thống cung cấp dịch vụ CSSK đặc
biệt là dịch vụ khám chữa bệnh thì mỗi nước có một cơ cấu khác nhau. Ở nhiều
nước ngoài các bệnh viện, dưỡng đường, trung tâm chuyên khoa thì có mạng lưới
các bác sĩ đa khoa chịu trách nhiệm khám chữa bệnh bước đầu cho những người
dân đăng ký. Các cơ sở y tế này có thể là công hoàn toàn, tư nhân hoàn toàn hoặc
bán công.
Việc mô tả hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe là không đơn giản
tuy nhiên việc trả lời cho câu hỏi “Ai chi?” còn phức tạp hơn gấp nhiều lần. Thông


4

thường người ta đề cập đến 3 nguồn chi: Nhà nước, tập thể và người dân. Dựa vào
đây người ta chia làm 3 nhóm:
- Nhóm nhà nước bao cấp toàn bộ: nhà nước chịu toàn bộ chi phí. Đây là mô
hình hệ thống y tế của các nước XHCN trước đây và một số nước Châu Âu ví dụ
như Anh hoặc Bắc Mỹ như Canada.
- Nhóm nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý và điều hòa thị trường chăm sóc
sức khỏe. Đây là mô hình của nước Mỹ thời xa xưa.
- Nhóm trung gian với nhiều mức độ chi trả khác nhau của nhà nước và đây
là mô hình phổ biến của các nước hiện nay. Ở Mỹ, Nhà nước chỉ chi trả khi cần
thiết, ví dụ chi cho người già (Medicare), người tàn tật, người nghèo không có khả
năng chi trả (Medicaid)…
Về nguồn chi từ người dân có thể ở 2 hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc
phối hợp cả hai. Với hình thức trực tiếp: người dân chi trả cho người cung cấp dịch
vụ sức khỏe bằng hiện kim theo vụ việc (fee for service), đây là dạng phổ biến ở
nước ta. Trong hình thức gián tiếp người dân chi trả thông qua việc đóng phí thường
niên cho công ty bảo hiểm và công ty bảo hiểm sẽ thay mặt người bệnh để chi trả,

có thể chi 100% kinh phí hoặc với những hình thức đồng chi trả khác nhau.
Ngoài Nhà nước và người dân còn có nguồn chi từ tập thể chẳng hạn như các
chủ xí nghiệp chi trả chi phí chăm sóc sức khỏe của công nhân, các quỹ từ thiện chi
trả cho người nghèo v.v... Thực tế cơ chế cung cấp tài chính cho các dịch vụ sức
khỏe ở các nước có thể rất khác nhau và chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hóa,
xã hội. Ví dụ Bảo hiểm Y tế tự nguyện không phải ở nước nào, nơi nào cũng được
hưởng ứng. Có nước thì người dân đã quen với hướng bao cấp toàn bộ như Anh,
các nước Bắc Âu, có nước thì người dân lại quen không bao cấp toàn bộ như ở
Mỹ…[20].
1.1.2. Các vấn đề nảy sinh hiện nay trong tổ chức hệ thống y tế ở các nước
và một số giải pháp
Một vấn đề nổi cộm hiện nay của hệ thống y tế các nước đó là chi phí cho
hoạt động khám chữa bệnh ngày càng tăng cao một cách đáng ngại. Nếu như ở Mỹ
vào năm 1986 chi phí y tế cho một đầu người chỉ có 1.872 USD thì đến năm 2000
chi phí này đã tăng đến 5.039 USD và ước tính đến năm 2010 có thể lên đến 8.228
USD. Vấn đề này có nhiều nguyên do trong đó có việc xuất hiện của ngày càng
nhiều các trang thiết bị chẩn đoán và điều trị đắt tiền nhất là các trang thiết bị mới.
Ở nhiều nước tình trạng tăng chi phí dành cho y tế còn có nguyên do từ việc xuất
hiện nhiều bệnh do lối sống trong đó có bệnh tim mạch, tiểu đường, các rối loạn
tâm thần kể cả nhiều bệnh lây như AIDS, bệnh lây qua đường tính dục v.v.
Một vấn đề cũng hết sức quan trọng nữa của các hệ thống y tế hiện nay trên
thế giới đó là sự bất bình đẳng trong khám chữa bệnh ngày càng lớn.
Có nhiều lý do chẳng hạn như việc tăng chi phí khám chữa bệnh khiến
những người thu nhập thấp hoặc trung bình không còn khả năng chi trả hoặc ngay
cả không đủ tiền để mua bảo hiểm với mức phí ngày càng cao. Việc thiếu thông tin
cũng khiến nhiều người không tiếp cận được với các dịch vụ y tế chi phí thấp hoặc
do ở những vùng sâu, vùng xa, hoặc do một hoàn cảnh nào đó về xã hội như thuộc
về những nhóm bên lề xã hội, những người cư trú bất hợp pháp, người không có hộ
khẩu thường trú v.v… Thực tế mỗi nước đều có những biện pháp để đảm bảo việc



5

chăm sóc sức khỏe được thực hiện ngay cả khi người bệnh không có tiền chi trực
tiếp. Các mô hình giải quyết kinh điển:
- Mô hình chăm sóc sức khỏe dựa trên bảo hiểm xã hội (Social security
health care model) trong đó người lao động và gia đình của họ được “bảo hiểm” bởi
nhà nước.
- Mô hình CSSK do nhà nước hỗ trợ (Publicly funded health care model)
trong đó tất cả người dân đều được “bảo hiểm” bởi nhà nước
- Mô hình bảo hiểm bệnh tật (Sickness insurance) trong đó toàn bộ dân số
(bảo hiểm y tế bắt buộc) hoặc đa số người dân có mua bảo hiểm của một công ty
bảo hiểm bệnh tật nào đó.
Tuy nhiên những mô hình kinh điển này hiện nay cũng không thể giải quyết
hoàn toàn vấn đề bất bình đẳng trong CSSK. Việc giảm chi phí điều trị hiện nay
được xem là một biện pháp tối quan trọng. Tăng cường các biện pháp dự phòng và
giáo dục sức khỏe thay đổi hành vi để giảm nguy cơ bệnh tật cũng góp phần làm
giảm gánh nặng chi phí cho người thu nhập thấp. Ngoài ra ở nhiều nước việc vận
động để lập ra những quỹ từ thiện để chi trả cho những trường hợp khó khăn cũng
là một giải pháp tình thế.
Đối với những trường hợp mà người dân không được bảo hiểm bệnh tật từ
bất cứ nguồn nào, khi bị bệnh đòi hỏi phải chi trả một số tiền lớn, họ sẽ gặp rất
nhiều khó khăn. Vì việc điều trị bệnh là một nhu cầu thiết yếu nên nhiều trường hợp
người dân phải tìm cách này cách khác để chi trả chẳng hạn như bán đi các phương
tiện sản xuất, tài sản hoặc vay mượn với mức lãi cao. Điều này thường kéo theo
những khó khăn của người dân vì có thể một là số tiền vay lớn vượt quá khả năng
chi trả, hai là với mức lãi cao, ba là việc bán đi công cụ lao động sẽ khiến người dân
giảm thiểu đáng kể nguồn thu nhập sau đó. Khi đó cuộc sống người bệnh bị ảnh
hưởng nghiêm trọng không phải chỉ từ chi phí điều trị mà còn từ việc phải chi thêm
những khoản tiền phụ trội không nhằm mục đích y tế (lãi vay, bán rẻ mua lại đắt...).

Một cơ chế hỗ trợ thích hợp là một điều hết sức cần thiết và cần được nghiên
cứu để xây dựng. Đặc biệt cần lưu ý những phương cách để hỗ trợ cho những người
nghèo, những người bệnh mạn tính phải điều trị dài ngày hoặc những người bị bệnh
nặng phải điều trị tại bệnh viện. Có thể nghiên cứu tìm hiểu những cách chi cổ điển
như cách chi “tùy hỉ”, chi hiện vật, chi từ thiện người giàu giúp người nghèo thông
qua các loại quỹ hoặc các cơ sở từ thiện như nhà chùa, nhà thờ v.v... Ngoài ra cũng
cần tìm hiểu những phong tục tập quán địa phương và có những cách tác động phù
hợp để hạn chế những khoản chi không phù hợp làm tăng thêm gánh nặng cho
người dân và tạo ra sự không công bằng trong khám chữa bệnh như chi kiểu “bồi
dưỡng”, “lót tay” v.v…[20].
1.1.3. Lượng giá/đánh giá một hệ thống y tế
Nếu trước đây ngay cả Ngân hàng Thế giới khi duyệt cho vay đối với các dự
án đầu tư vào lĩnh vực sức khỏe thường dựa trên cách phân tích Phí tổn - Lợi ích
kinh tế (Cost-Benefit Analysis) thì nay đã chuyển sang cách phân tích Phí tổn Hiệu năng (Cost-Effectiveness Analysis) với ý nghĩa Sức khỏe và Sinh mạng của
con người là những điều vô giá không thể cân đong đo đếm bằng tiền. Hiện nay ở
nhiều nước một dự án đầu tư cho sức khỏe ngay cả khi không đem lại lợi ích kinh tế


6

(chi phí cao hơn lợi ích đạt được) thì vẫn có thể được duyệt khi nó góp phần tạo ra
một cuộc sống khỏe mạnh, hạnh phúc cho con người.
Ngoài ra sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe cũng là một thước đo chất
lượng hoạt động của một hệ thống y tế. Nói một cách khác dịch vụ y tế là một dịch
vụ không thể khoán trắng cho thị trường điều tiết mà cần phải có sự can thiệp hữu
hiệu của Nhà nước [20].
1.1.4. Tóm tắt hoạt động của bệnh viện tự chủ của một số nước
Theo Hildebran và Newbrander, 1993: Bệnh viện tự chủ là ít nhất được tự
một phần quản lý, điều hành và hạch toán tài chính. Điều đó có nghĩa là bệnh viện
công không thể và không bao giờ là tự chủ hoàn toàn [25].

Mức độ tự chủ phụ thuộc vào mức độ Chính phủ muốn kiểm soát các lĩnh
vực hoạt động của bệnh viện (Akello Evelyn, 2004). Chawla et al. (1996) chia làm
3 mức:
Không có tự chủ
Tự chủ có mức độ
Hoàn toàn tự chủ
Tại Việt Nam theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Bệnh viện tự chủ cũng chia
làm 3 mức: Đơn vị tự đảm bảo chi phí hoạt động, đơn vị tự đảm bảo một phần chi
phí hoạt động thường xuyên, đơn vị do NSNN đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động.
1.1.5. Các nghiên cứu về tự chủ bệnh viện trên thế giới
Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về bệnh viện tự chủ ở các nước, đặc biệt
là tại các nước đang phát triển như Malawi, Pakistan, Jordan, Indonesia… Các
nghiên cứu tập trung phân tích, đánh giá tác động của việc triển khai bệnh viện tự
chủ đối với tình hình tài chính, nhân sự và tổ chức hoạt động của bệnh viện. Tuy
nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá toàn diện tác động của thực hiện tự chủ
đối với việc cung ứng và sử dụng dịch vụ y tế cũng như đánh giá mặt tích cực và
hạn chế của thực hiện bệnh viện tự chủ dưới góc độ là một chính sách y tế công
cộng. Nghiên cứu về việc triển khai bệnh viện tự chủ ở các nước chủ yếu tập trung
vào các nội dung: lý do các nước tiến hành cải cách bệnh viện theo hướng tự chủ
hoá, mô tả cách tiếp cận và quá trình trao quyền tự chủ cho các bệnh viện công, mô
tả bản chất và mức độ tự chủ ở các bệnh viện, phân tích ảnh hưởng của thực hiện
bệnh viện tự chủ đối với việc huy động nguồn lực, hiệu quả, tính công bằng, sự
phân công chịu trách nhiệm và chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Các nghiên
cứu đã tiến hành cũng đề cập tới lý do vì sao cho đến nay tự chủ hoá bệnh viện công
chưa đem lại những kết quả như mong đợi và nêu lên các khuyến nghị về những
yếu tố cần thiết để triển khai bệnh viện tự chủ thành công ở các quốc gia.
Một trong những nghiên cứu có quy mô lớn về nội dung này là nghiên cứu Các
bài học kinh nghiệm từ việc thực hiện bệnh viện tự chủ tại các nước đang phát
triển" (Recent experiences with hospital autonomy in developing countries: what
can we learn?) do trường Đại học Harvard, Mỹ tiến hành tại 5 nước - Ghana,

Kenya, Zimbabwe, Indonesia và Ấn Độ trong khuôn khổ Chương trình Dữ liệu cho
lập chính sách (DDM). Theo kết quả của nghiên cứu này, cả 5 nước Ghana, Kenya,
Zimbabwe, Indonesia và Ấn Độ triển khai thí điểm cải cách bệnh viện theo hướng
tự chủ nhằm mục đích huy động nguồn lực, nâng cao chất lượng dịch vụ và tính
công bằng trong CSSK, riêng Zimbabwe triển khai bệnh viện tự chủ là để phục vụ


7

nhóm dân cư giàu có trong xã hội. Các bệnh viện triển khai thí điểm tự chủ chỉ được
trao quyền tự chủ một phần (partial autonomy) nhưng so với các bệnh viện công
chưa thực hiện tự chủ thì Giám đốc các bệnh viện này vẫn có quyền chủ động hơn
nhiều trong việc quyết định các hoạt động của mình. Nghiên cứu cũng cho thấy ở cả
5 nước Ghana, Kenya, Zimbabwe, Indonesia và Ấn Độ việc triển khai bệnh viện tự
chủ mới chỉ đem lại kết quả hạn chế về cả tính hiệu quả, chất lượng dịch vụ và trách
nhiệm giải trình. Một trong những nguyên nhân được đưa ra là bệnh viện tự chủ vẫn
là một khái niệm khá mới, khả năng quản lý bệnh viện kém hiệu quả, các bệnh viện
không có kế hoạch tài chính bền vững và thiếu hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu này đề xuất để triển khai bệnh viện tự chủ thành công
trước hết bệnh viện tự chủ phải được xem xét là một vấn đề chính trị, thực hiện tự
chủ phải có kết hợp giữa sáng kiến cá nhân và vai trò lãnh đạo. Các bệnh viện cần
xây dựng cơ chế quản lý hiệu quả, tập trung vào xây dựng sự đồng thuận để đạt mục
tiêu và sự phân công trách nhiệm giải trình và lập kế hoạch hoạt động kỹ lưỡng
(Ramesh G, Mukesh C, 1996). Nghiên cứu của Thomas Bossert và cộng sự năm
1997 khá toàn diện về thực hiện tự chủ tại 10 bệnh viện của Inđônêxia, trong đó có
5 bệnh viện đã thực hiện tự chủ 2-3 năm, 3 bệnh viện chưa tự chủ và 2 bệnh viện tư
nhân. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá những thay đổi về tài chính, công
bằng, chất lượng và hiệu quả trong hoạt động bệnh viện do quá trình tự chủ đem lại.
Về tài chính, kết quả nghiên cứu này cho thấy nguồn kinh phí cho bệnh viện đã tăng
lên về cả nguồn ngân sách nhà nước cấp và nguồn viện phí do bệnh viện thu được.

Nghiên cứu đã nêu lên một số ảnh hưởng tiêu cực về công bằng phát sinh khi triển
khai tự chủ bệnh viện, đặc biệt là việc tăng giá viện phí. Xu hướng tăng giá viện phí
khá phổ biến tại các bệnh viện nghiên cứu, mức tăng khá cao, gấp đôi, gấp ba thậm
chí gấp bốn lần. Mức tăng giá viện phí tại các bệnh viện tự chủ cao hơn so với các
bệnh viện chưa tự chủ. Giá viện phí tại các bệnh viện tự chủ gần bằng mức giá tại
các bệnh viện tư nhân. Khả năng tiếp cận dịch vụ bệnh viện của người nghèo giảm
đi rõ rệt. Số giường dành cho người nghèo đều giảm đi. Nhóm nghiên cứu này kết
luận rằng tự chủ hóa bệnh viện ở Inđônêxia sẽ hiệu quả hơn nếu được tiến hành kết
hợp với quỹ hỗ trợ người nghèo. Tác động của tự chủ bệnh viện đối với công tác
nhân sự và hiệu quả hoạt động của bệnh viện không rõ rệt. Tuy nhiên, nghiên cứu
đã cho thấy có sự cải thiện rõ rệt về công tác quản lý tại các bệnh viện thực hiện tự
chủ. Ngoài ra, Lieberman và cộng sự đã chỉ ra các văn bản luật và quy định về tự
chủ và phân quyền trong lĩnh vực y tế không cung cấp đủ các hướng dẫn về trách
nhiệm trong họat động cũng như chức năng đối với các cơ sở cung ứng dịch vụ.
Điều này dẫn tới việc lúng túng và quản lý không nhất quán trong cung ứng dịch vụ
y tế tại tuyến cơ sở. Tại Inđônêxia chính quyền trung ương vẫn giữ vai trò chính
trong phân bổ nguồn lực tài chính, phân bổ nhân sự, trang thiết bị và thuốc.
(Thomas B và cộng sự, 1997).
Trao quyền tự chủ cho bệnh viện là một phần của công cuộc đổi mới y tế với
mục đích là để tăng cường hiệu quả, chất lượng và công bằng trong Ngành Y tế
(Berman, 1995). Trên thế giới, các nước phát triển ví dụ như Đan mạch, Pháp,
Singapore… và các nước đang phát triển như Ghana, Kenya, Pakistan, Indonesia,
Thailand, Philippines…đã thực hiện bệnh viện tự chủ. Theo Akello Evelyn (2004),
quyền tự chủ chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực chính sau:


8

- Quản lý chung hoặc quản lý chiến lược: Xác định sứ mệnh, mục tiêu chiến
lược, quản lý tài sản chịu trách nhiệm về các chính sách hoạt động ví dụ như ở

Ghana, Ấn độ và Indonesia (Chawla et al, 1996).
- Quản lý tài chính: Bệnh viện của các nước nghiên cứu đều được quyền tự
chủ này.
- Quản lý nhân lực: Tuyển dụng, đề bạt, kỷ luật và sa thải. Kết quả nghiên
cứu Chawla và Govindaraj (1996) cho thấy trong tất cả các trường hợp nghiên cứu,
Chính phủ vẫn giữ quyền tuyển dụng và sa thải. Tại Indonesia, Ghana và
Zimbabwe, cán bộ bệnh viện vẫn là viên chức nhà nước và điều này làm hạn chế
khả năng bệnh viện có thể tuyển chọn và sa thải nhân lực theo nhu cầu thực tế.
- Mua sắm: Bệnh viện tự chủ tại Ấn độ và Indonesia được quyền xây dựng
và thực hiện chính sách mua sắm của bệnh viện. Trong khi đó tại Zimbabwe và
Ghana thì vẫn mua từ trung ương Chawla và Govindaraj (1996).
Bảng 1.1: Ảnh hưởng của tự chủ bệnh viện tại một số nước
Số
Ảnh hưởng của tự chủ
Năm
lượng
Tên nước
thực
Chất
Công
Doanh
BV&
Hiệu quả
hiện
lượng
bằng
thu
Tuyến
Không Không Tăng ở
2 BV

Ghana
1987 Không thay đổi
thay
thay
mức độ
TW
đổi
đổi
vừa phải
Một số thay đổi:
Tăng sẵn có của
VTTH, thuốc, tăng
Một số Một số Tăng ở
1 BV
Kenya
1987 cường bảo dưỡng
thay
thay
mức độ
TW
TTB&CSHT, tăng
đổi
đổi
vừa phải
cường công suất làm
việc của cán bộ.
162
Một số Một số
1
Tăng

Ấn độ
BV
Một số thay đổi
thay
thay
1987
nhiều
Tỉnh
đổi
đổi
Giảm
22 BV
Một số công
1
Tăng
Indonesia
Tỉnh,
Không thay đổi
thay
bằng
1993
nhiều
huyện
đổi
do tăng
giá VP
Không Không Tăng ở
1 BV
9
Zimbabwe

Không thay đổi
thay
thay
mức độ
TW
1975
đổi
đổi
vừa
Nguồn: Ramesh Govindaraj, 1996 [26].
Kết quả của các nghiên cứu đánh giá về tác động của thực hiện bệnh viện tự
chủ đến hiệu quả, chất lượng và công bằng được trình bày trong bảng 1.1.
1.2. Vài nét về hệ thống y tế Việt Nam
Hệ thống y tế Việt Nam có nguồn thu phần lớn từ chi tiêu bằng tiền túi của
hộ gia đình và chiếm hơn 70% vào năm 2005, tăng so với mức 60% năm 1998.


9

Khoảng một nữa trong số này là chi trả cho các cơ sở y tế nhà nước, một phần tư
dành cho thuốc men và phần còn lại là trả cho cơ sở y tế tư nhân [22].
Định hướng chính sách lớn của Đảng và Nhà nước: Ngày 19/3/2001, Thủ
tướng Chính phủ đã ký quyết định số 35/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến
lược “Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001 - 2010” đưa ra một số
quan điểm và mục tiêu mới cho Ngành Y tế, trong đó đề cập tới các giải pháp tổng
thể về tài chính y tế bao gồm: đầu tư nhà nước cho y tế vẫn phải giữ vai trò chủ đạo
trong các nguồn thu cho y tế. Phấn đấu tăng mức chi thường xuyên cho y tế trong
tổng chi NSNN. Ưu tiên đầu tư cho vùng nghèo, vùng núi, vùng sâu, vùng xa về
hoạt động y tế dự phòng, y học học cổ truyền CSSK ban đầu tại các tuyến y tế cơ
sở, khám chữa bệnh cho người nghèo và các đối tượng chính sách, bảo vệ sức khỏe

bà mẹ, trẻ em. Điều chỉnh giá viện phí cho phù hợp với chi phí, mức độ đầu tư và
khả năng chi trả của nhân dân. Mở rộng BHYT tự nguyện, cũng cố BHYT bắt buộc
tiến tới thực hiện BHYT bắt buộc toàn dân [11].
Ngày 23/02/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 46/NQ/TW về
“Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”.
Theo đó, phát triển BHYT toàn dân là một trong những quan điểm chỉ đạo hàng đầu
được nêu trong Nghị quyết. Quan điểm đẩy mạnh xã hội hóa y tế được đi kèm theo
việc tăng cường đầu tư từ Nhà nước, trợ giúp các đối tượng chính sách và người
nghèo trong CSSK. Một loạt các biện pháp đổi mới chính sách tài chính y tế được
đưa ra nhằm đạt được mục tiêu của Nghị quyết bao gồm: tăng nhanh tỷ trọng các
nguồn tài chính công, giảm dần hình thức thanh toán viện phí trực tiếp từ người
bệnh, nâng cao các cấp y tế cơ sở, ưu tiên mạng lưới y tế cơ sở, Nhà nước bảo đảm
cung cấp kinh phí khám chữa bệnh cho người có công với cách mạng, người nghèo,
trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng chính sách xã hội. Xây dựng và thực hiện tốt lộ
trình tiến tới BHYT toàn dân vào năm 2010, xây dựng và thực hiện chính sách viện
phí phù hợp trên sơ sở tính đúng, tính đủ các chi phí trực tiếp phục vụ bệnh nhân,
công khai minh bạch việc thu, chi viện phí cho người dân biết [2].
1.2.1. Phương thức phân bổ NSNN cho bệnh viện
Trong quá trình đổi mới hệ thống y tế Việt Nam từ năm 1989 đến nay, đã có
nhiều chính sách nhằm huy động các nguồn tài chính khác nhau cho y tế, như chính
sách viện phí, BHYT, xã hội hóa y tế, tự chủ tài chính… Tuy nhiên, Đảng và nhà
nước vẫn giữ quan điểm nhất quán ưu tiên đầu tư NSNN cho y tế [6].
Cho đến nay cơ chế phân bổ ngân sách cho các bệnh viện hầu như vẫn dựa
trên định mức chi tiêu cho mỗi giường bệnh. Tùy theo ngân sách y tế của mỗi tỉnh
mà mức chi cho mỗi giường bệnh tại các tỉnh và các vùng có thể rất khác nhau. Tại
các tỉnh giàu và các tỉnh được ưu tiên phân bổ ngân sách y tế, định mức chi tiêu cho
mỗi giường bệnh có thể gấp 1,5 - 2 lần so với các tỉnh khác. Tuy mức chi giường
bệnh từ nguồn NSNN do Bộ Tài chính quy định rất thấp nhưng vẫn còn địa phương
chưa được cấp đủ theo mức của Bộ Tài chính, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng
sâu, vùng xa, tỉnh nghèo. Phương thức phân bổ theo giường bệnh cũng gây thiếu

công bằng trong phân bổ kinh phí cho tỉnh.
Hiện nay trong phân bổ kinh phí cho điều trị còn những bất cập sau:
- Hiện nay số phân bổ kinh phí cho các bệnh viện (do Bộ Tài chính quy định)
thường thấp hơn nhu cầu thực tế.


10

- Số kinh phí phân bổ (theo chỉ tiêu tài chính) là quá thấp so với nhu cầu của
các tỉnh vùng núi và vùng sâu vùng xa, nơi nguồn thu từ BHYT hoặc viện phí còn
thấp với số lượng khá lớn bệnh nhân miễn giảm phí.
- Luật Ngân sách mới với sự phân cấp mạnh mẽ hơn trong hệ thống y tế có
thể dẫn đến tình trạng kinh phí cho các cơ sở y tế sẽ bị giảm sút tại những địa
phương mà chính quyền không tuân thủ chặt chẽ các định mức phân bổ và không
ưu tiên cho các hoạt động y tế, trong khi công tác quản lý giám sát còn hạn chế [15].
Mặc dù NSNN cấp cho y tế tăng về số tuyệt đối, nhưng các chỉ số so sánh
tương đối lại chưa cho thấy rõ sự ưu tiên dành cho lĩnh vực này trong phân bổ
NSNN cũng như chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu thực tế.
Các chỉ số liên quan đến NSNN cho y tế của Việt Nam so với một số nước
trong khu vực châu Á theo số liệu của WHO năm 2008. NSNN cho y tế ở đây bao
gồm toàn bộ phần đóng góp từ BHXH cho y tế. Kết quả này cho thấy Việt Nam có
tổng mức chi cho y tế của toàn xã hội ở mức khá cao so với mức độ phát triển của
nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, phần đóng góp từ NSNN cho y tế so với tổng chi y
tế và so với tổng chi NSNN nói chung ở mức thấp so với các nước khác.
Bảng 1.2: So sánh chỉ số liên quan đến NSNN cho y tế tại một số nước [6]
Tổng chi
Chi công cho
Chi công cho
Tên nước
y tế/GDP (%) Y tế/tổng chi y tế (%) y tế/tổng chi công (%)

Trung Quốc
4,7
38,8
10,0
Ma-lai-xi-a
4,2
44,8
7,0
In-dô-nê-xi-a
2,1
46,6
5,1
Phi-lip-pin
3,2
36,6
5,5
Xinh-ga-po
3,5
31,9
5,6
Hàn Quốc
5,9
53,0
10,9
Việt Nam
6,0
27,0
5,2
Theo WHO, trong số 191 nước thành viên của WHO thì 6 nước có mức chi
NSNN cho tế trong tổng chi tiêu NSNN lớn hơn 20%, 93 nước có mức chi cao hơn

10% và thấp hơn 20%. Như vậy, nếu Việt Nam đạt mức NSNN cho y tế tương
đương 10% tổng chi cho NSNN thì mới được xếp hạng giữa trong tổng số 191 nước
trên thế giới [27].
1.2.2. Chính sách viện phí
Thuật ngữ “Phí khám chữa bệnh”, “viện phí” hay “phí dịch vụ” là những
thuật ngữ rất phổ biến của một phương pháp thanh toán, đồng thời cũng rất “thị
trường”, đây cũng là một trong những công cụ cơ bản của tài chính y tế. Nhà cung
cấp dịch vụ y tế nhận được tiền chi trả cho mỗi hoạt động KCB và các sản
phẩm/dịch vụ y tế mà họ cung cấp cho người bệnh (khách hàng). Phí này chi cho
khám bệnh, thuốc, bông băng, và các xét nghiệm chẩn đoán, hoặc chi trả cho tất cả
các hạng mục. Viện phí thường áp dụng đối với các dịch vụ KCB bởi tâm lý con
người thường sẵn sàng chi trả cho các dịch vụ “chữa”, “cứu” bằng thuốc, tiêm hay
phẫu thuật hơn là chi cho các dịch vụ phòng bệnh, hay cải thiện môi trường… [7].
Chính sách thu một phần viện phí được thực hiện từ năm 1989 theo quyết
định số 45/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Sau đó, chính sách
này đã qua một số lần điều chỉnh, sửa đổi. Tuy nhiên, cho đến nay, việc thu viện phí
vẫn thực hiện theo Nghị định số 95/CP ngày 27/8/1994 và Nghị định số 33/CP ngày


11

23/5/1995 của Chính phủ sửa đổi điểm 1, điều 6 của Nghị định số 95 về thu một
phần viện phí và thông tư số 14/TTLB-BYT-BTC-BLĐTB&XH liên Bộ Tài chính,
Bộ Y tế và Bộ LĐ&TBXH, ngày 30 tháng 9 năm 1995 về việc hướng dẫn thu một
phần viện phí. Ngày 26/01/2006, Thông tư liên tịch Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ
LĐ&TBXH số 03/2006/TTLT-BYT-BTC-BLĐTB&XH quy định một số khung giá
một phần viện phí của một số dịch vụ y tế phát sinh từ năm 1995 đến nay nhưng
chưa được quy định trong khung giá một phần viện phí ban hành kèm theo Thông
tư liên bộ số 14. Theo các quy định hiện hành về thu viện phí, giá thu viện phí tại
các cơ sở y tế công lập phải theo khung giá viện phí hiện hành, phần lớn vẫn theo

quy định khung giá cũ từ năm 1995. Điều đó có nghĩa là cơ sở y tế không được xác
định giá thu viện phí trên cơ sở hạch toán thu chi và thực tế địa phương. Như vậy,
tính tự chủ của cơ sở y tế về giá đầu ra của sản phẩm dịch vụ y tế đã bị giới hạn [1],
[8], [12], [16], [21].
Các bệnh viện công ở nước ta từ năm 1989 đến nay đang áp dụng chế độ thu
viện phí theo nguyên tắc chỉ thu một phần chi phi thực tế, với các nội dung cơ bản
do Chính phủ quy định là:
- Đối với bệnh nhân ngoại trú: Thu theo biểu giá (một phần chi phí thực tế)
đối với dịch vụ khám, chẩn đoán, xét nghiệm, thủ thuật điều trị ngoại trú mà bệnh
nhân đã sử dụng, được tính các mức thu khác nhau riêng cho từng chuyên khoa và
từng tuyến điều trị, cộng với chi phí thực tế về thuốc, dịch truyền, vật tư y tế…mà
bệnh nhân đã được bệnh viện cung cấp.
- Đối với bệnh nhân nội trú: Thu theo biểu giá (một phần chi phí thực tế) tính
theo số ngày điều trị nội trú của bệnh nhân, được tính các mức thu khác nhau riêng
cho từng chuyên khoa và từng tuyến điều trị, cộng với chi phí thực tế về thuốc, dịch
truyền, vật tư y tế…mà bệnh nhân đã được bệnh viện cung cấp [19].
1.2.3. Chính sách BHYT
Những năm qua, BHYT đã đạt được những thành tựu to lớn, đã tạo lập được
hệ thống BHYT từ trung ương đến địa phương và được cả xã hội quan tâm. Chính
sách BHYT được tiến hành trong phạm vi toàn quốc đến năm 1998 được thực hiện
theo Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998 của chính phủ và hiện nay đang
được thực hiện theo Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của chính phủ.
Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ban hành điều lệ BHYT sửa đổi Nghị định số
58/1998/NĐ-CP đã qui định mở rộng đối tượng tham gia BHYT bắt buộc trong đó
có đối tượng hưởng lợi từ Quyết định 139. Việc thực hiện chính sách này đã tạo
bước tăng đột biến bao phủ BHYT năm 2006, tạo một cơ chế bảo vệ tài chính hữu
hiệu cho người nghèo trước nguy cơ chi phí y tế, tăng tiếp cận dịch vụ y tế cho
người nghèo. Ngoài việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT bắt buộc, Nghị định
63 còn tăng quyền lợi cho người tham gia BHYT bắt buộc như bỏ chế độ cùng chi
trả 20%, mở rộng thanh toán cho dịch vụ kỹ thuật cao, thanh toán cho trường hợp

điều trị theo yêu cầu, khám chữa bệnh tại cơ sở y tế tư nhân. Cơ quan BHYT thanh
toán cho cơ sở KCB thay cho người bệnh có thẻ BHYT theo giá viện phí hiện hành
được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Cùng với sự mở rộng bao phủ của BHYT,
đối với các bệnh viện, nguồn thu từ BHYT và cơ chế thanh toán chi trả của BHYT
có tác động ngày càng lớn trong hoạt động tài chính của bệnh viện [13], [16].
Theo BHXH Việt Nam năm 2003: BHYT có tổng chi là 1.238 tỷ (với tỷ lệ
sử dụng quỹ khoảng 68%), trong đó chi cho CSSK ban đầu gồm cả y tế cơ quan và


12

trường học là 50 tỷ đồng, KCB ngoại trú là 21.948.420 lượt với giá trị là 593,7 tỷ
đồng, điều trị nội trú là 377.000 lượt với giá trị là 594,2 tỷ đồng...
BHYT đã đóng một vai trò quan trọng trong việc bổ sung nguồn lực cho các
bệnh viện hoạt động, đối tượng tham gia BHYT ở nước ta ngày càng tăng. Các hình
thức BHYT cũng đa dạng hơn, BHYT tự nguyện đã bắt đầu được nhân dân chấp
nhận [18].
Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Bảo hiểm Y tế số 25/2008/QH12 ngày
14 tháng 11 năm 2008. Chính sách của Nhà nước về BHYT có một số thay đổi so
với Nghị định..
- Nhà nước đóng hoặc hỗ trợ đóng BHYT cho người có công với cách mạng
và một số nhóm đối tượng xã hội.
- Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với hoạt động đầu tư từ quỹ BHYT để
bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Nguồn thu của quỹ và số tiền sinh lời từ hoạt động đầu
tư từ quỹ BHYT được miễn thuế.
- Nhà nước tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia BHYT hoặc đóng
BHYT cho các nhóm đối tượng.
- Nhà nước khuyến khích đầu tư phát triển công nghệ và phương tiện kỹ
thuật tiên tiến trong quản lý y tế.
Người tham gia BHYT có quyền đăng ký khám bệnh, chữa bệnh BHYT ban

đầu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến xã, tuyến huyện hoặc tương đương, mức
hưởng BHYT cũng có sự thay đổi từ 100%, 95%, 80% tuỳ theo đối tượng [23].
1.2.4. Chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi
Chính sách KCB cho người nghèo luôn là vấn đề được Nhà nước quan tâm
đặc biệt. Ngay sau khi cơ sở công lập được phép thu phí, Nhà nước đã có những
biện pháp hỗ trợ tài chính cho người nghèo khi đi KCB. Tuy nhiên, chỉ đến khi
Quyết định 139/QĐ-TTg ra đời tháng 10/2002 đã đưa việc hỗ trợ người nghèo lên
một tầm mới với quy mô người hưởng lợi cũng như mức quyền lợi cao hơn hẳn cho
người nghèo. Theo quyết định 139 Quỹ KCB cho người nghèo ở cấp tỉnh đã được
thành lập với định mức phân bổ 70.000đ/người nghèo để cấp tài chính cho các dịch
vụ KCB miễn phí cho người nghèo và các nhóm đối tượng trước đây được miễn phí
theo dân tộc và nơi cư trú (như các dân tộc thiểu số sống tại 06 tỉnh miền núi phía
Bắc, năm tỉnh Tây Nguyên và tất cả những người dân sống ở các xã 135). Ban đầu,
kinh phí từ quỹ KCB cho người nghèo được sử dụng hỗ trợ cho người nghèo qua
hai hình thức: Mua thẻ BHYT cho người nghèo hoặc thanh toán trực tiếp cho cơ sở
y tế đã điều trị miễn phí cho các đối tượng được hưởng chính sách 139. Đối với trẻ
em dưới 6 tuổi cũng được thực hiện thẻ BHYT theo Luật BHYT mới ban hành.
1.2.5. Xã hội hóa y tế
Liên quan đến chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa y tế, ngày 18/4/2005, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt
động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao. Nghị quyết đã nêu rõ định hướng
phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, giải pháp để vừa bảo đảm định hướng
phát triển, vừa khuyến khích, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng xã hội hóa các hoạt
động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao. Nghị quyết cũng khẳng định nhà
nước tiếp tục tăng đầu tư cho y tế, bảo đảm ngân sách cho y tế. Đẩy mạnh tiến độ
phát triển và nâng cao chất lượng BHYT; cũng cố và mở rộng BHYT bắt buộc theo
hướng đa dạng hóa các loại hình BHYT đáp ứng nhu cầu của nhân dân; phát triển


13


mạnh BHYT cộng đồng dựa chủ yếu vào sự đóng góp của người tham gia bảo hiểm,
có sự trợ giúp của nhà nước và các nguồn tài trợ khác; khuyến khích các loại hình
BHYT tự nguyện. Đổi mới chế độ viện phí trên cơ sở từng bước tính đúng, tính đủ
các chi phí trực tiếp phục vụ bệnh nhân. Từng bước chuyển đổi việc cấp kinh phí
hoạt động thường xuyên cho các cơ sở khám chữa bệnh sang cấp trực tiếp cho đối
tượng thụ hưởng dịch vụ y tế do Nhà nước cung cấp thông qua hình thức BHYT.
Chính sách này cũng khuyến khích các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể
thao tăng cường tính tự chủ, giảm dần sự phụ thuộc vào NSNN cho các hoạt động
của cơ sở [14], [16].
1.2.6. Chính sách tự chủ tài chính
Định hướng đổi mới cơ chế quản lý các đơn vị công lập sang đơn vị cung
ứng dịch vụ theo hướng tăng cường tính tự chủ, giảm dần sự phụ thuộc vào NSNN
cho các hoạt động của cơ sở đã được cụ thể hóa bằng sự ra đời của Nghị định
10/2002/NĐ-CP qui định chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
Nghị định 10 cũng cho phép việc trả tiền lương, tiền công cho người lao động với
hệ số điều chỉnh tăng lên 2,5 lần so với mức lương tối thiểu chung do Nhà nước qui
định áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động
thường xuyên, được tăng 2 lần áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo một
phần chi phí hoạt động thường xuyên. Khi Nhà nước tăng lương và các khoản phụ
cấp thì đơn vị sự nghiệp có thu phải tự đảm bảo khoản tăng thêm này theo chế độ
mới. Đơn vị sự nghiệp có thu phải lập và chấp hành dự toán thu chi theo Luật Ngân
sách nhà nước và gởi lên cấp có thẩm quyền phê duyệt và giám sát. Được điều
chỉnh kinh phí cho phù hợp với nhu cầu chi thực tế, kinh phí chi thường xuyên từ
NSNN và nguồn thu sự nghiệp cuối năm chưa chi hết được chuyển sang năm sau
tiếp tục sử dụng. Hàng năm ngoài phần đảm bảo chi thường xuyên, thủ trưởng đơn
vị sự nghiệp có thu quyết định thành lập 3 quỹ (sau khi thống nhất với tổ chức công
đoàn) gồm: “Quỹ dự phòng ổn định thu nhập”, “quỹ khen thưởng và phúc lợi” tối
đa không quá 3 tháng lương bình quân thực tế, “Quỹ phát triển sự nghiệp” và Nghị
định cũng qui định rõ việc sử dụng các quỹ này. Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp có thu

phải thực hiện công khai tài chính theo qui định của pháp luật [9].
Để hướng dẫn thực hiện Nghị định 10, ngày 21/3/2002 Bộ Tài chính ban
hành thông tư số 25/2002, quy định chi tiết chế độ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp có thu thực hiện tự chủ tài chính. Thông tư 50/2003/TT-BTC hướng dẫn chi
tiết triển khai thực hiện Nghị định 10. Đến tháng 2/2004, liên tịch Bộ Y tế-Bộ Tài
chính và Bộ Nội vụ đã ban hành thông tư liên tịch số 13/2004/TTLT riêng cho
Ngành Y tế, hướng dẫn chi tiết thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính, lao động và
tiền lương cho các đơn vị sự nghiệp y tế như các bệnh viện, viện có giường, các
trung tâm, các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu, viện phòng bệnh. Các cơ sở khám
chữa bệnh được thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính sau khi đã có đề án và được
cấp có thẩm quyền cho phép. Trong lĩnh vực quản lý nhân lực, Thông tư liên tịch số
13 quy định thủ trưởng cơ sở y tế công lập có thu được chủ động bố trí, sắp xếp, sử
dụng biên chế, lao động để nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của đơn vị.
Như vậy, sau 2 năm ban hành Nghị định 10 mới có thông tư hướng dẫn thực hiện
cho Ngành Y tế. Điều này đã cho thấy tính đặc thù của dịch vụ y tế cũng như giải
thích cho tiến độ chậm chạp của các đơn vị y tế khi triển khai chính sách này. Sau 4
năm thực hiện, Nghị định 10 đã được sữa đổi thành Nghị định 43/2006/NĐ-CP ban


14

hành ngày 25/4/2006 trong đó việc giao quyền tự chủ được mở rộng đối với tất cả
các đơn vị sự nghiệp công lập và mang tính toàn diện bao gồm cả việc thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. Cùng với Nghị định này, ngày
9/8/2006, Bộ Tài chính đã ban hành thông tư số 71/2006/TT-BTC hướng dẫn thực
hiện Nghị định 43. So với Nghị định 10, Nghị định 43 đã mở rộng thêm quyền và
trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập, quy định cụ thể hơn việc thực hiện
quyền và trách nhiệm này, khắc phục những tồn tại của Nghị định 10. Vấn đề tự chủ
tài chính bệnh viện là vấn đề nhạy cảm vì nó liên quan đến khả năng sử dụng dịch
vụ bệnh viện của các thành phần xã hội khác nhau, vùng miền khác nhau, liên quan

đến vấn đề công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe. Các qui định về quản lý tài
chính bệnh viện liên quan đến đời sống của nhân viên y tế phục vụ trong bệnh viện
[4], [16], [18].
Nghị định 43/2006, quyền tự chủ được mở rộng một cách toàn diện từ tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ đến bộ máy, biên chế nhân sự và
cuối cùng là tự chủ về tài chính. Nội dung tự chủ cũng có nhiều điểm mới giao
quyền tự chủ triệt để hơn cho các đơn vị như:
 Tự chủ về bộ máy, biên chế, nhân sự:
 Được quyết định về biên chế đối với các đơn vị tự chủ toàn phần. Đối
với đơn vị tự chủ một phần và đơn vị vẫn do NSNN đảm bảo kinh phí thì Thủ
trưởng đơn vị mới được quyền xây dựng kế hoạch biên chế hàng năm trình cơ quan
chủ quản giải quyết;
 Được ký hợp đồng thuê khoán công việc;
 Được quyết định tuyển dụng cán bộ; bổ nhiệm vào ngạch viên chức;
quyết định điều động, biệt phái, nghỉ hưu, thôi việc, chấm dứt hợp đồng làm việc;
 Tự chủ về tài chính:
 Được quyết định các khoản thu, mức thu cụ thể theo nguyên tắc đảm
bảo bù đắp đủ chi phí và có tích lũy đối với những hoạt động dịch vụ theo hợp đồng
với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các hoạt động liên danh liên kết;
 Được quyết định một số mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ cao
hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước co thẩm quyền quy định;
 Được quyết định phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị
trực thuộc;
 Được quyết định mua sắm tài sản, đầu tư xây dựng từ nguồn Quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp theo quy hoạch được phê duyệt;
 Được huy động vốn từ các tổ chức tín dụng, từ cán bộ và viên chức
trong đơn vị để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ;
 Được liên doanh, liên kết với các tổ chức và cá nhân để hoạt động
dịch vụ, đầu tư xây dựng, mua sắm máy móc thiết bị;
 Được quyết định mức thu nhập cho người lao động sau khi đã thực

hiện trích lập Quỹ hoạt động phát triển sự nghiệp (25%) đối với các đơn vị tự chủ
toàn phần;
 Được quyết định mức thu nhập cho người lao động, nhưng không quá
3 lần quỹ tiền lương do nhà nước quy định, sau khi trích lập Quỹ phát triển hoạt
động sự nghiệp (25%) đối với các đơn vị tự chủ một phần [14].


15

1.3. Thực trạng các nguồn tài chính bệnh viện
Nhìn chung nguồn thu của các bệnh viện công lập đều dựa vào 3 nguồn
chính: NSNN, viện phí và BHYT. Các bệnh viện có thể được cấp NSNN từ Bộ Y tế
(đối với các bệnh viện TW do Bộ Y tế quản lý) hoặc từ các cơ quan tài chính ngang
cấp tại địa phương (đối với bệnh viện tỉnh, huyện). Nhìn chung, NSNN cấp là
nguồn thu quan trọng và ổn định cho các bệnh viện. Trong khi đó, nguồn thu từ viện
phí và BHYT có xu hướng ngày càng gia tăng trong tổng thu bệnh viện. Kết quả từ
báo cáo kiểm tra 731 bệnh viện năm 2007 của vụ điều trị, Bộ Y tế cho thấy nguồn
thu chủ yếu của bệnh viện là từ viện phí, chiếm 59,4% các nguồn thu và tăng 26,5%
so với năm 2006.
Trong các nguồn thu tại bệnh viện trong những năm gần đây xuất hiện thêm
khoản thu “dịch vụ” hay “dịch vụ theo yêu cầu”. Việc phát triển các dịch vụ này
nhằm đáp ứng nhu cầu của một bộ phận người dân có khả năng chi trả để nhận được
các dịch vụ đem lại sự hài lòng hơn như giảm thời gian chờ đợi, được chọn thầy
thuốc, được nằm phòng riêng có trang thiết bị tốt… Ngoài ra, các dịch vụ này cũng
đem lại nguồn thu đáng kể cho bệnh viện. Mặt khác, ngay cả khi chưa thực hiện tự
chủ thực tế, các bệnh viện đã tiến hành tự chủ quản lý tài chính khi triển khai các
dịch vụ này. Khi thực hiện tự chủ, đặc biệt là theo Nghị định 43, phần lớn các bệnh
viện đều quan tâm đến phát triển dịch vụ theo yêu cầu, coi đây là nguồn tăng thu
chủ yếu. Có bệnh viện có khu dịch vụ theo yêu cầu riêng như Bệnh viện Việt Đức,
Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện Đa

khoa Đà Nẵng còn đa số các bệnh viện lồng ghép cung ứng dịch vụ theo yêu cầu
vào các dịch vụ khám chữa bệnh thường. Dịch vụ theo yêu cầu phát triển chủ yếu
tại các bệnh viện lớn, bệnh viện tỉnh, hoặc tại một số bệnh viện quận/huyện nơi dân
cư đông đúc và có mức sống khá. Đối với các dịch vụ thông thường, các bệnh viện
vẫn tuân thủ theo khung giá quy định theo Thông tư 14 và Thông tư 03, tuy nhiên
đối với các dịch vụ theo yêu cầu, các bệnh viện thường tự xây dựng mức giá, có
trình sở y tế và UBND phê duyệt, nhưng nhiều trường hợp bệnh viện cứ áp dụng
mức thu này khi chưa có ý kiến của cơ quan có thẩm quyền. Rõ ràng, tính tự chủ
của bệnh viện trong quyết định mức giá dịch vụ theo yêu cầu khá cao. Có thể thấy
rõ một thực tế là mức độ tự chủ của bệnh viện trong triển khai các dịch vụ theo yêu
cầu khá cao từ việc quyết định loại dịch vụ gì, xác định mức giá ra sao và tổ chức
nhân lực hoạt động như thế nào [16].
Trong vài năm gần đây khi các bệnh viện thực hiện chủ trương xã hội hóa,
tiến hành liên doanh, liên kết còn có thêm một nguồn thu tài chính tại các bệnh viện
đó là nguồn góp vốn trong các liên doanh, liên kết từ các tổ chức và cá nhân bên
ngoài. Cho đến nay, theo báo cáo của Chính phủ, các bệnh viện công đã huy động
được khoảng 3000 tỷ đồng để triển khai các kỹ thuật cao, trong đó các bệnh viện
trực thuộc Bộ Y tế trên 500 tỷ đồng, các đơn vị thuộc Thành phố Hồ Chi Minh huy
động và vai quỹ kích cầu gần 1000 tỷ đồng, các đơn vị thuộc Hà Nội huy động được
trên 100 tỷ đồng, Quảng Ninh gần 50 tỷ đồng…Tại Bệnh viện Bạch Mai, năm 2006,
tổng số vốn liên doanh liên kết là trên 37 tỷ đồng. Tuy nhiên, cho đến nay việc theo
dõi, đánh giá hiệu quả đầu tư và sử dụng nguồn vốn huy động từ bên ngoài này
nhằm đầu tư phát triển bệnh viện công lập vẫn chưa đầy đủ và có tính hệ thống [16].


16

CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu

- Tài liệu, sổ sách, báo cáo liên quan đến hoạt động tài chính bệnh viện.
2.2. Thời gian nghiên cứu và địa điểm nghiên cứu
Từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 đến ngày 31 tháng 12 năm 2011. Tại Bệnh
viện Đa khoa huyện Tuy An.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
- Nghiên cứu hồi cứu.
2.4. Phương pháp thu thập số liệu
2.4.1. Phân tích số liệu thứ cấp: các văn bản pháp quy liên quan đến tài
chính bệnh viện, báo cáo tài chính, số sách, báo cáo thống kê, quy chế chi tiêu nội
bộ, hoạt động KCB, tổ chức nhân lực bệnh viện trong giai đoạn từ năm 2009 đến
2011.
2.4.2. Thu thập thông tin về bệnh viện qua các biểu mẫu
- Thông tin chung về hoạt động của bệnh viện
- Thông tin chung về tình hình tổ chức, nhân lực, tài chính bệnh viện từ
năm 2009 - 2011.
- Giá cả một số lọai dịch vụ cung ứng trong bệnh viện
- Chi trả của BHYT cho bệnh viện qua các năm 2009 - 2011
- Số liệu miễn giảm phí KCB qua các năm 2009 - 2011
- Số liệu về tình hình chi tiêu thuốc trong bệnh viện.
- Số liệu về trang thiết bị được đầu tư khi thực hiện tự chủ.
- Hồi cứu các số liệu hoạt động tài chính từ năm 2009 - 2011
2.5. Phương pháp phân tích số liệu

- Số liệu từ các biểu mẫu thu thập được xử lý bằng phương pháp thống kê
thông thường.


17

CHƯƠNG 3


KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Thông tin chung về tổ chức, nhân lực của bệnh viện
Bảng 3.1. Tình hình nhân lực của bệnh viện (2011)
Nội dung

Tuổi

Giới

Trình độ chuyên môn

Số lượng

Tỷ lệ (%)

20 - 29

08

08%

30 - 39

31

31%

40 - 49


40

40%

≥ 50

21

21%

Tổng số

100

Nam

29

29%

Nữ

71

71%

BS CKI, Th.S

09


09%

BS

09

09%

DS Đại học

03

03%

ĐH khác

05

05%

TH Dược

03

03%

THYT

22


22%

Cán bộ khác

49

49%

Tổng số

100

100

Trong đó

BC: 88 HĐ: 12

Nhận xét: Lứa tuổi trên 40 của CBVC Bệnh viện Tuy An chiếm tỷ lệ khá
cao (>60%). Tỷ lệ nữ cao hơn nam, tương đối phù hợp với lĩnh vực nghề nghiệp.
Trình độ cán bộ sau đại học còn hạn chế chưa có bác sỹ chuyên khoa 2. Tỷ lệ
bác sỹ, dược sỹ còn thấp so với yêu cầu.
Tỉ lệ nhân viên hợp đồng cũng khá cao chiếm 12% tổng lao động
Bảng 3.2. Tình hình nhân lực, giường bệnh các khoa
Khoa

Năm
2009


2010

2011

Nội - Nhi - Nhiễm (nhân lực/giường bệnh)

16/35

16/35

18/45

Ngoại - Sản

23/35

25/35

26/45

(nhân lực/giường bệnh)


18

Nhận xét: Tỷ lệ nhân viên trên giường bệnh rất thấp và hầu như không có
biến động lớn qua các năm, trong khi tỷ lệ giường bệnh đều tăng qua các năm. Đây
là số giường kế hoạch, còn giường thực kê thì tăng hơn rất nhiều.
Bảng 3.3. Tình hình tuyển dụng, đào tạo, thuyên chuyển CBVC
Năm


Nội dung

Tuyển dụng

Đào tạo

Thuyên chuyển cán bộ

2009

2010

2011

Bác sỹ

0

0

0

Điều dưỡng

0

0

0


Kỹ thuật viên

0

0

0

Nữ hộ sinh

0

0

0

Trên đại học

2

2

2

Đại học

3

5


4

CK sơ bộ, đào tạo lại

0

0

0

Nhân viên nghĩ hưu

1

1

2

Nhân viên chuyển đi

1

1

0

Nhận xét: Tình hình tuyển dụng rất hạn chế đặc biệt trong 3 năm không
tuyển dụng được cán bộ nào, mà lại mất đi 2 bác sĩ. Đào tạo sau đại học cũng không
cao, chỉ có đào tạo đại học tăng vào năm 2010 là 05 cán bộ.

3.2. Thông tin chung về giường bệnh và hoạt động chuyên môn
Bảng 3.4. Bệnh nhân điều trị nội trú
Chỉ số

Năm
2009

2010

2011

Giường bệnh nội trú/giường thực kê

70/90

70/90

90/110

Tổng số BN điều trị nội trú

8.131

8.006

7.228

Tổng số BN BHYT điều trị nội trú

1.898


1.916

2.686

Tổng số ngày điều trị nội trú

28.478

25.193

24.478

3.5

3.1

3,4

111,5%

98,6%

95,8%

Tổng số sinh

1.275

1.154


1.589

Tổng số phẩu thuật

1.119

1.166

1.245

432

593

661

Ngày điều trị trung bình 1 BN nội trú
Công suất sử dụng giường bệnh

Tổng số chuyển viện


19

Nhận xét: Công suất sử dụng giường bệnh có chiều hướng giảm dần. Số lần
sinh và số lần phẩu thuật tăng hàng năm.
Bảng 3.5. Bệnh nhân điều trị ngoại trú

Năm


Chỉ số

2009

2010

2011

Tổng số lần khám

139.840

119.171

134.672

Tổng số BHYT khám

90.546

71.002

90.331

181

131

292


Tổng số BN điều trị ngoại trú

Nhận xét: Tỉ lệ khám và điều trị ngoại trú so với các năm không có sự khác
biệt nhiều.
Bảng 3.6. Cung cấp dịch vụ cận lâm sàng
Chỉ số

Năm
2009

2010

2011

Tổng số lần chụp X quang

10.061

9.835

10.227

TS tiêu bản xét nghiệm

66.677

74.951

65.795


TS siêu âm

7.334

6.085

6.836

TS đo điện tim

1.843

1.762

1.904

Nhận xét: Các chỉ số hoạt động cận lâm sàng qua các năm điều không thay
đổi nhiều.
3.3. Thông tin về thu chi tài chính bệnh viện từ 2009 đến 2011
3.3.1.Các nguồn thu
Bảng 3.7. Các nguồn thu tài chính bệnh viện
Năm
2009
2010
2011
NSNN thường xuyên
3.377.798.095
3.849.474.905 4.518.750.000
NSNN không thường xuyên

158.000.000
93.670.000
176.318.158
Viện phí
6.632.844.536 10.338.734.200 9.578.638.440
Thu khác
47.573.644
38.220.668
99.549.680
Tổng
10.216.216.275 14.320.099.773 14.373.256.278
Nhận xét: Nguồn thu tăng qua các năm, chủ yếu là từ nguồn thu viện phí.
Nguồn NSNN (thường xuyên và không thường xuyên) chiếm tỉ lệ từ 27,5% 34,6%. Nguồn viện phí chiếm tỷ lệ từ 64,9 - 72,2% trong tổng các nguồn thu;
Nguồn dịch vụ chiếm tỷ lệ từ 0,3 - 0,7% trong tổng các nguồn thu.
Nguồn thu


20

Bảng 3.8. NSNN so với giường bệnh
Năm
2009
2010
2011
NSNN thường xuyên
3.377.798.095
3.849.474.905 4.518.750.000
Giường bệnh
70
70

90
NSNN / giường bệnh
48.254.258
54.992.498
50.208.333
Nhận xét: NSNN cấp cho giường bệnh trong 3 năm tương đối ổn định.
Nguồn thu

Bảng 3.9. Tỷ lệ các nguồn thu tài chính so với NSNN (thường xuyên và không
thường xuyên) / năm
300%
200%

262.20%
204%

187.60%

100%
1.30%

0%

2009

1.00%

2010

Viện phí so với NSNN


2.10%

2011

Dịch vụ khác so với NSNN

Nhận xét: Nguồn thu viện phí cao gấp khoản 2 lần so với NSNN cấp.
Bảng 3.10. Tỷ lệ các nguồn thu so với tổng chi phí cho KCB / năm
100%
72.50%

65.40%

50%

0%

34.60%

2009

27.50%

2010

72.40%

28%


2011

NSNN so với tổng chi phí KCB
Viện phí và dịch vu so với tổng chi phi KCB

Nhận xét: Xu hướng nguồn NSNN cấp chi cho công tác KCB thấp dần, chủ
yếu chi phí sử dụng từ nguồn viện phí.


21

3.3.2. Phân tích các nguồn chi tài chính bệnh viện
Bảng 3.11. Chi hoạt động chuyên môn
Năm
2009
2010
2011
Nhóm 1: Thanh toán cá nhân
3.944.187.729 4.821.441.363 5.197.959.037
Nhóm 2: Dịch vụ chuyên môn 5.782.617.302 8.434.175.154 8.795.033.994
Nhóm 3: Mua sắm sửa chữa
112.111.090
62.958.250
66.884.000
Nhóm 4: Các khoản chi khác
377.300.154 1.001.525.006
217.066.140
Tổng
10.216.216.275 14.320.099.773 14.276.943.171
Nhận xét: Nhóm chi cho dịch vụ chuyên môn chiếm tỉ lệ cao nhất từ 56,6% 61,6%, nhóm chi cho mua sắm sữa chửa thấp chiếm tỉ lệ từ 0,4% - 1,1%. Xu hướng

chi ngày càng tăng.
Nội dung chi

Bảng 3.12. Chi thanh toán cá nhân
Năm
2009
2010
2011
Tiền lương
2.204.393.259 2.596.916.904 3.021.962.531
Tiền công
67.087.507
48.176.790
71.835.817
Phụ cấp lương
1.012.743.038 1.150.091.408 1.338.520.959
Tiền thưởng
20.610.000
21.730.000
22.450.000
Phúc lợi tập thể
860.900
1.407.000
640.000
Các khoản đóng góp
455.111.225
596.344.041
726.399.730
Các khoản thanh toán khác
183.381.800

406.775.220
16.150.000
Tổng
3.944.187.729 4.821.441.363 5.197.959.037
Nhận xét: Chi cho phúc lợi tập thể và tiền thưởng thấp (0,4% - 0,5%). Các
khoản đóng góp chiếm tỉ lệ tương đối (11,5% - 14,0%).
Nội dung chi

Bảng 3.13. Chi dịch vụ chuyên môn
Năm
2009
2010
2011
Thanh toán dịch vụ công cộng
136.061.176
230.015.397
335.284.163
Vật tư văn phòng
23.754.000
30.493.500
25.131.900
Thông tin, tuyên truyền, liên lạc
10.273.495
13.014.837
13.311.204
Hội nghị
0
2.220.000
2.478.000
Công tác phí

24.484.000
31.810.000
37.237.000
Chi phí thuê mướn
19.608.500
14.280.000
2.160.000
Chi phí nghiệp vụ chuyên môn 5.568.436.131 8.112.341.420 8.379.431.727
Tổng
5.782.617.302 8.434.175.154 8.795.033.994
Nhận xét: Chi cho thanh toán dịch vụ công cộng và chi cho nghiệp vụ
chuyên môn tăng nhiều hàng năm. Chi cho các hội nghị thấp.
Nội dung chi


22

Bảng 3.14. Chi mua sắm sửa chữa
Nội dung chi

Năm
2010
51.628.250

2009
2011
Sửa chữa tài sản phục vụ công
44.769.090
66.884.000
tác chuyên môn

Mua sắm tài sản dùng cho công
66.242.000
11.240.000
0
tác chuyên môn
Sửa chữa tài sản phục vụ
1.100.000
90.000
0
chuyên môn và các công trình
Tổng
112.111.090
62.958.250
66.884.000
Nhận xét: Trong năm 2011 không có mua sắm và sữa chửa tài sản dùng cho
công tác chuyên môn.
Bảng 3.15. Các khoản chi khác
Năm
2009
2010
2011
Chi khác
36.598.350
62.961.700
66.747.500
Chi lập các quỹ của đơn vị
340.701.804
938.563.306
35.760.482
Chi hỗ trợ giải quyết việc làm

0
0
114.558.158
Tổng
377.300.154 1.001.525.006
217.066.140
Nhận xét: Năm 2011 chi lập cho các quỹ rất thấp so với năm 2009 và 2010.
Nội dung chi

Bảng 3.16. Chi tiết các quỹ của đơn vị
Năm
2009
2010
2011
Quỹ dự phòng ổn định thu nhập
55.898.000
595.382.090
0
Quỹ phúc lợi
55.898.000
38.853.468
5.926.000
Quỹ khen thưởng
167.687.694
120.560.405
23.909.669
Quỹ phát triển
61.218.110
183.767.343
5.924.813

Tổng
340.701.804
938.563.306
35.760.482
Nhận xét: Năm 2011 không có lập Quỹ dự phòng ổn định thu nhập.
Nội dung chi

Bảng 3.17. So sánh việc sử dụng quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi của đơn vị
Nội dung chi

2009
Quỹ phúc lợi (bảng 3.16)
55.898.000
Quỹ khen thưởng (bảng 3.16)
167.687.694
Tổng
223.585.694
Tiền thưởng (bảng 3.12)
20.610.000
Phúc lợi tập thể (bảng 3.12)
860.900
Tổng
21.470.900
Nhận xét: Chi cho khen thưởng và chi cho
riêng năm 2011 là chi gần hết quỹ.

Năm
2010
2011
38.853.468

5.926.000
120.560.405
23.909.669
159.413.873
29.835.669
21.730.000
22.450.000
1.407.000
640.000
23.137.000
23.090.000
phúc lợi thấp so với tổng quỹ,


23

Chương 4
BÀN LUẬN
viện

4.1. Về tổ chức nhân lực, giường bệnh, hoạt động chuyên môn tại bệnh

4.1.1. Về tổ chức nhân lực, giường bệnh (từ bảng 3.1 đến bảng 3.3)
Tổng số CBVC bệnh viện là 100/90 giường. Theo qui định của Bộ Y tế , đối
với bệnh viện hạng III thì tỷ lệ CBVC làm công việc hành chính là 1,1 - 1,2 /
giường bệnh và CBVC làm việc theo ca là 1,4 - 1,5/giường bệnh thì số lượng nhân
viên bệnh viện còn thiếu, đặc biệt là mất cân bằng giữa các bộ phận, tỉ lệ bác sĩ thấp
hơn các bộ phận khác. Điều này có thể giải thích vì sao nhân viên bệnh viện than
phiền về cường độ lao động mệt nhọc, phải gánh vác nhiều công việc, làm cho công
tác điều trị và chăm sóc người bệnh bị hạn chế, mà lương thì không được hưởng

theo chỉ tiêu giường bệnh. Nếu được hưởng theo chỉ tiêu giường bệnh với 90
giường thì định xuất được hưởng là 108 nhân viên. Như vậy lương họ sẽ được
hưởng cao hơn so với mức lương hiện tại và họ sẽ không than phiền về cường độ
lao động. Điều này có thể nói lên tính bất cập của cơ chế tiền lương.
CBVC bệnh viện có tuổi đời trên 40 chiếm tỉ lệ khá cao (>60%), trong đó nữ
chiếm phần lớn. Đây là lứa tuổi tích lũy nhiều kinh nghiệm công tác nhất. Tuy
nhiên với áp lực công việc và yêu cầu của người bệnh ngày càng cao thì vấn đề sức
khỏe của nhân viên ảnh hưởng đến công tác chăm sóc người bệnh toàn diện, đặc
biệt là ở những khoa có cường độ làm việc cao không phải là việc đơn giản. Đây là
một vấn đề mà các nhà quản lý cần quan tâm khi bố trí, sắp xếp nhân lực, cũng như
tuyển dụng nguồn thay thế. Tỷ lệ nhân viên hợp đồng chiếm 12%, tuy nhiên lực
lượng hộ lý so với nhu cầu công việc vẫn chưa đảm bảo.
Về tình hình nhân lực/giường bệnh thì thiếu ở hầu hết các khoa lâm sàng,
giường bệnh có tăng nhưng số lượng nhân viên không tăng.
Công tác đào tạo được chú trọng, hàng năm đều cho nhân viên đào tạo nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đây cũng là một biện pháp khắc phục khi chưa
tuyển được bác sĩ. Để đáp ứng cho nhu cầu phục vụ người bệnh về các trang thiết bị
kỹ thuật cao như siêu âm chẫn đoán, kỹ thuật nội soi… bệnh viện phải cử bác sỹ đi
đào tạo, như vậy lực lượng bác sỹ phải gồng gánh hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thành
nhiệm vụ, thời gian nghỉ bù rất ít. Điều này cũng ảnh hưởng phần nào đến tâm lý
của đội ngũ bác sĩ. Đây là điều các nhà quản lý cần lưu tâm, vì đội ngũ bác sĩ hiện
nay, nhất là ở tuyến huyện là một đối tượng hết sức nhạy cảm, sẵn sàng ra đi khi họ
cảm thấy không hài lòng với công việc.
Đối với công tác tuyển dụng, trong 3 năm bệnh viện không tuyển dụng được
một nhân viên nào mà bị mất đi 2 bác sĩ. Điều này có thể nói lên sự khó khăn của
bệnh viện tuyến huyện về nhu cầu thu hút nguồn nhân lực. Xu hướng các bác sĩ mới
ra trường không thích về công tác ở tuyến huyện mà thường chọn bệnh viện tuyến
tỉnh hoặc bệnh viện tư có chế độ ưu đãi cao hơn.
4.1.2. Về hoạt động chuyên môn (từ bảng 3.4 đến bảng 3.6)
Chỉ số giường bệnh có tăng qua các năm, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng đủ,

bệnh viện vẫn kê thêm giường. Ngày điều trị trung bình cho 1 bệnh nhân nội trú là
3,5 ngày năm 2009, năm 2010 là 3,1 và năm 2011 là 3,4; điều này có thể giải thích


24

là do tình trạng quá tải nên bệnh nhân có thể xuất viện sớm hơn và khi số lượng
giường bệnh tăng lên thì bệnh nhân có thể nằm điều trị lâu hơn.
Về hoạt động cận lâm sàng trong năm 2010 thấp hơn năm 2009 và 2011. Đều
này phù hợp với thực tế của bệnh viện vì trong 3 năm nghiên cứu, bệnh viện đang
xây dựng lại nên các hoạt động cũng bị ảnh hưởng, đo dó chưa có thể đánh giá bệnh
viện không lạm dụng dịch vụ cận lâm sàng khi thực hiện tự chủ.
4.2. Đánh giá tình hình thực hiện tự chủ tài chính bệnh viện
4.2.1. Các nguồn thu
Bảng 3.7 cho thấy bệnh viện có 2 nguồn thu chính, đó là: Ngân sách nhà
nước (thường xuyên, không thường xuyên) và viện phí (bao gồm cả bảo hiểm y tế).
- Ngân sách nhà nước: Nguồn thu này về giá trị tuyệt đối thì có tăng qua các
năm, nhưng về tỷ trọng thì có xu hướng giảm dần. Trong 3 năm từ 2009 đến 2011
nguồn NSNN cấp cho bệnh viện khoảng 48 - 54 triệu đồng /giường bệnh (bảng 3.8).
Nguồn ngân sách này không đủ chi cho lương, chi cho hành chính đâu có dư để chi
cho hoạt động chuyên môn. Năm 2009 nguồn thu từ NSNN chiếm 34,6% trong tổng
nguồn thu KCB, năm 2010 chiếm 27,5%, năm 2011 chiếm 27,6% (bảng 3.10).
Nguồn NSNN cấp thiếu thực tế khi mà bệnh viện luôn có số giường bệnh thực kê
cao hơn giường kế hoạch mà NSNN thì chỉ cấp theo giường kế hoạch làm cho bệnh
viện gặp rất nhiều khó khăn khi phải gánh thêm số giường mà không được NSNN
cấp. Nhưng nhìn chung nguồn thu NSNN vẫn là nguồn thu cơ bản và ổn định cho
bệnh viện.
- Nguồn thu viện phí: Đây là nguồn thu chủ yếu của bệnh viện khi thực hiện
tự chủ, giúp cho bệnh viện giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về tài chính bệnh
viện khi kinh phí thiếu thường xuyên, nguồn viện phí đều tăng qua các năm thực

hiện tự chủ năm 2009 thu viện phí đạt 187,6% so với NSNN cấp, năm 2010 là
262,2% và năm 2011 là 204% (bảng 3.9). Điều này cũng nói lên được tính hiệu quả
của việc thực hiện tự chủ tài chính trong bệnh viện. Có điều bất cập là hiện nay
bệnh viện vẫn thực hiện thu viện phí theo thông tư 14, trong khi giá cả các mặt hàng
đều lên trong đó có thuốc và vật tư y tế.
- Ngoài ra bệnh viện còn có nguồn thu từ dịch vụ, tuy nhiên chiếm tỉ trọng
thấp (bảng 3.7, 3.9), cần có chủ trương phát triển các dịch vụ để tăng thêm nguồn
thu.
4.2.2. Các nguồn chi
Bảng 3.11 cho thấy bệnh viện có 4 nhóm chi, trong đó nhóm chi cho dịch vụ
chuyên môn chiếm tỉ lệ cao nhất từ 56,6% - 61,6%, nhóm chi cho mua sắm sữa
chửa thấp chiếm tỉ lệ từ 0,4% - 1,1%. Xu hướng chi ngày càng tăng, điều này cho
thấy bệnh viện cần tăng cường các nguồn thu để bù chi và có thu nhập tăng thêm
cho CBVC. Ngoài ra lãnh đạo bệnh viện cần thông qua các khoản thu, chi để CBVC
biết và cùng chia sẽ những khó khăn trong việc sử dụng các nguồn tài chính, tránh
sự hiểu nhầm, ảnh hưởng đến tâm lý làm việc của nhân viên.
Trong nhóm chi thanh toán cá nhân thì chi cho lương và phụ cấp chiếm
khoản 1/3 tổng các khoản chi và tăng theo hàng năm. Chi cho phúc lợi tập thể và
chi thưởng quá thấp, chiếm tỉ lệ từ 0,4% đến 0,5%, trong khi đó các khoản đóng
góp cho các quỹ do nhà nước và các đoàn thể phát động chiếm tỉ lệ từ 11,5% đến
14,0% (bảng 3.12). Để động viên CBVC tích cực nâng cao công tác chăm sóc người


25

bệnh, lãnh đạo bệnh viện cần quan tâm đến việc khen thưởng kịp thời và thực hiện
chi đúng chế độ khen thưởng theo luật thi đua khen thưởng.
Bảng 3.13 cho thấy chi phí nghiệp vụ chuyên môn chiếm hầu hết các khoản
chi dịch vụ chuyên môn (>95%), trong đó chủ yếu là chi cho mua hàng hóa, vật tư
phục vụ chuyên môn (thuốc, vật tư y tế tiêu hao…). Các khoản chi cho dịch vụ công

cộng (điện, nước…), vật tư văn phòng cũng cao. Điều này chứng tỏ việc sử dụng
nguồn thu từ viện phí để phục vụ lại cho hoạt động chuyên môn rất là cao. Nhà
quản lý cần có các biện pháp tiết kiệm trong việc sử dụng vật tư, điện, nước, xăng
xe…để giảm nguồn chi cho nhóm chi dịch vụ chuyên môn.
Chi cho mua sắm sửa chữa chiếm tỉ lệ thấp nhất trong 4 nhóm chi (bảng
3.14). Từ 2009 đến 2011, bệnh viện đang xây dựng lại, ngoài ra bệnh viện đang có
2 dự án đầu tư trang thiết bị y tế, kể cả thiết bị công nghệ thông tin nên việc mua
sắm tài sản không nhiều là phù hợp. Tuy nhiên trong thời gian đến, việc chi cho bảo
hành, bảo trì các thiết bị sẽ chiếm một khoản không nhỏ.
Về các khoản chi khác (bảng 3.15) so với tổng chi thì không cao (bảng 3.11),
tuy nhiên việc chi tiếp khách tăng theo hàng năm, có lẽ do sự biến động của giá cả
thị trường. Thực hiện theo nghị định 43, bệnh viện trích lập các quỹ như: Quỹ dự
phòng ổn định thu nhập, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ phát triển (bảng 3.16)
[9]. Việc phân chia các quỹ trong 3 năm không giống nhau, năm 2009 quỹ khen
thưởng chiếm tỉ trọng cao (49,2%); năm 2010 thì quỹ dự phòng chiếm tỉ trọng cao
hơn các quỹ khác (63,5%); năm 2011 không có quỹ dự phòng và là năm có khoản
chia cho các quỹ thấp nhất, chiếm 10,5% so với năm 2009 và 3,8% so với năm
2010. Quỹ khen thưởng và phúc lợi giảm dần hàng năm, tuy nhiên việc sử dụng
nguồn tiền từ 2 quỹ trên để chi cho CBVC thì quá thấp, trong năm 2009 và 2010 chỉ
đạt 9,6% và 14,5%. Riêng năm 2011 thì sử dụng quỹ để chi cho khen thưởng và
phúc lợi chiếm tỉ lệ cao (77,4%).
4.3. Hạn chế của nghiên cứu
Trong nghiên cứu này còn có một số hạn chế như:
- Chưa tách phần thu viện phí từ nguồn BHYT và không BHYT để phân tích
đánh giá.
- Nghiên cứu này chỉ nhầm giúp cho công tác quản lý kinh tế y tế nên không
đi sâu vào phần phân tích chi tiết.



×