Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tổng quan tình hình kinh tế thế giới 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.33 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. Nhận thức chung về nền kinh tế thế giới
1.1. Khái niệm kinh tế thế giới và kết cấu của nó.
1.2. Những xu hướng chủ yếu của kinh tế thế giới hiện nay.
2. Tổng quan chung về kinh tế thế giới.
2.1. Kinh tế thế giới 2011- tăng trưởng chậm lại trong sự bất ổn và
đầy thách thức.
2.2. Bùng nổ lạm phát toàn cầu, hi sinh tăng trưởng và cải thiện việc
làm ở mức độ nhỏ.
2.3. Thị trường tài chính tiền tệ toàn cầu bất ổn và khó đoán định
2.4. Nguy cơ đổ vỡ do tác động của khủng hoảng nợ công ở Mỹ và
châu Âu
2.5. Các chính sách vĩ mô trên thế giới được thực hiện thiếu sự phối
hợp và trái chiều nhau.
2.6. Một số vấn đề khác của kinh tế thế giới 2011
2.6.1. Giá lương thực và dầu tăng cao
2.6.2. Rủi ro về mất an ninh lương thực và năng lượng.
3. Xu hướng kinh tế thế giới những tháng cuối năm 2011 và tác động tới
Việt Nam
3.1. Xu hướng kinh tế thế giới những tháng cuối năm 2011.
3.2. Tác động tới Việt Nam
Tài liệu tham khảo

Trang
4
4
4
5
5
10


15
18
25
26
26
29
30
30
31
33-34

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt

FDI

Foreign direct investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GET

Global Employment Trends

Xu hướng việc làm toàn cầu


1


GDP

Gross Domestic Product

T ổng sản phẩm quốc nội

G7

Group 7

Nhóm 7 nước công nghiệp
phát triển.

G-20

Group 20

Nhóm các nền kinh tế phát
triển và mới nổi.

ILO

International Labor Organization

Tổ chức Lao động Quốc tế

IMF


The International Monetary Fund

Quỹ Tiền tệ Quốc tế

OECD

Organisation for Economic

Tổ chức Hợp tác và Phát triển

Cooperation and Development.

kinh tế

UNCTAD

United Nations Conference on
Trade and Development

Hội nghị Liên hiệp quốc về
Thương mại và Phát triển

WB

World Bank

Ngân hàng Thế giới

WEO


World Economic Outlook

Triển vọng KTTG

KTTG

Kinh tế thế giới

Tổng quan tình hình kinh tế thế giới 2011
LỜI MỞ ĐẦU
Trong 9 tháng đầu năm 2011, các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế
đang phát triển tiếp tục vật lộn với nhiều diễn biến bất lợi. Các dấu hiệu lạc quan
về sự phục hồi kinh tế toàn cầu giảm xuống ở điểm thấp nhất kể từ khi nó bắt đầu
gần hai năm trước. Tình trạng kinh tế khó khăn tiếp tục gia tăng thêm do ảnh
hưởng của thiên tai (động đất, sóng thần, hạn hán, lũ lụt, lốc xoáy…) diễn ra ở
2


nhiều nền kinh tế hàng đầu, bởi bất ổn chính trị lan rộng ở Bắc Phi và Trung
Đông. Các tổ chức kinh tế quốc tế và giới phân tích đều dự báo rằng nền kinh tế
thế giới đang mất đà tăng trưởng trong nửa đầu năm 2011 và sẽ chậm lại trong
nửa cuối năm 2011.1 Thế giới dường như đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng
niềm tin: Tình trạng nợ công tràn lan; một loạt nước bị hạ mức tín nhiệm tín dụng
hoặc đang đứng trên ranh giới này; các thị trường tài chính rối loạn; giá vàng
tăng vọt; Nhìn chung, tâm lý lo ngại bao trùm kinh tế toàn cầu.

Bài này trình bày tổng quan về nền kinh tế thế giới trong 3 quý đầu năm
2011, nội dung kết cấu như sau:
1.


Nhận thức chung về nền kinh tế thế giới.

2.

Tổng quan chung về kinh tế thế giới năm 2011.

3.

Xu hướng kinh tế thế giới các tháng cuối năm 2011
và tác động tới Việt Nam.

NỘI DUNG
1.

Nhận thức chung về nền kinh tế thế giới.
1.1. Khái niệm kinh tế thế giới và kết cấu của nó.
Kinh tế thế giới (KTTG)là tổng hòa các nền kinh tế các quốc gia và quan hệ
kinh tế giữa các quốc gia với nhau.
Nền kinh tế thế giới dưới góc độ hệ thống gồm hai bộ phận cơ bản là các chu
thể kinh tế thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế.
1 Ngày 17/6, trong báo cáo "Triển vọng kinh tế thế giới", IMF hạ dự báo tăng trưởng GDP 2011 cua Mỹ từ 2,8%
trong tháng 4 xuống 2,5% và GDP 2011 từ 2,9% xuống 2,7%. Cả hai mức dự báo trên đều thấp hơn so với mức tăng
trưởng 2,9% trong năm 2010. Ngày 17/6, tập đoàn Goldman Sachs hạ dự báo tăng trưởng GDP quý 2 cua Mỹ từ 3%
xuống 2% do các trở ngại như thất nghiệp cao, sản xuất yếu và sự ảm đạm cua nền kinh tế. Ngày 16/6, Tổ chức Hợp
tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho biết chỉ số tăng trưởng kinh tế tổng hợp cua các nền kinh tế OECD trong tháng
4/2011 tiếp tục trì trệ.

3



Các chu thể cua kinh tế thế giới gồm các nền kinh tế quốc gia độc lập trên
thế giới (kể cả vùng lãnh thổ); các tổ chức kinh tế quốc tế (như WB, IMF…); các
tổ chức kinh tế khu vực (như EU, APEC, ASEAN,…); các công ty xuyên quốc gia
(TNCs); các tổ chức phi chính phu (NGOs).
Các quan hệ KTTG là quan hệ giữa các nước, các nền kinh tế với nhau về
mặt kinh tế, bao gồm quan hệ về thương mại, tài chính, nguồn nhân lực, khoa học
công nghệ…
Kết cấu cua nền KTTG hiện nay phổ biến được nhìn dưới góc độ trình độ
phát triển. Đó là các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển. Dân
số thế giới hiện nay khoảng 7 tỷ người; GDP cua toàn thế giới khoảng 60.000 tỷ
USD. Trong đó, các nước phát triển chiếm khoảng 14,2% dân số thế giới nhưng
chiếm 72 % GDP cua thế giới.
1.2. Những xu hướng chủ yếu của kinh tế thế giới hiện nay
KTTG hiện nay có những xu hướng chu yếu:
-

Xu hướng phục hồi tăng trưởng.

-

Xu hướng phát triển lực lượng sản xuất và KHCN.

-

Xu hướng phát triển kinh tế thị trường.

-

Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế.


-

Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.

-

Những vấn đề kinh tế toàn cầu.

KTTG năm 2011 chịu tác động, chi phối mạnh mẽ cua các xu thế chu yếu
cua KTTG nêu trên.
Hàng năm, các tổ chức quốc tế như IMF thường đưa ra đánh giá về tình hình
KTTG và dự báo triển vọng KTTG năm tiếp theo. Đây là cơ sở quan trọng để các
quốc gia, giới nghiên cứu tham khảo, đánh giá về nền KTTG trong năm đó.

2.

Tổng quan chung về kinh tế thế giới năm 2011.
4


Kinh tế thế giới bước vào năm 2011 trong bối cảnh vừa ra khỏi giai đoạn
khó khăn nhất cua cuộc khung hoảng tài chính, suy thoái và bước đầu phục hồi.
Đầu năm 2011, theo dự báo cua Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), tăng trưởng năm nay
sẽ chậm hơn so với năm 2010 (dự báo ở mức 4,3% và thấp hơn đáng kể so với
mức 4,8% dự kiến cua năm 2010); trong đó khu vực các nền kinh tế mới nổi và
đang phát triển được dự báo tăng trưởng 6,4% và các nền kinh tế phát triển là
2,2%. Dự báo này cho thấy các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển tiếp tục là
động lực thúc đẩy phục hồi toàn cầu. Dự kiến trong 10 năm tới, các thị trường mới
nổi nhất là các thị trường mới nổi đi sau (ngoài nhóm BRIC gồm Brazil, Nga, Ấn

Độ và Trung Quốc) sẽ chiếm hơn 50% tổng lượng tăng trưởng cua thế giới.
2.1.

Kinh tế thế giới 2011- tăng trưởng chậm lại trong sự bất ổn và đầy thách thức.
“Tăng trưởng của nền kinh tế thế giới đang chậm lại và điều này xảy ra ở
tất cả các nền kinh tế từ các nền kinh tế phát triển đến các nền kinh tế đang phát
triển và chuyển đổi”
Kể từ đầu tháng 6/2011, những tín hiệu lạc quan xuất hiện từ cuối năm 2010
và những tháng đầu năm 2011 đã không còn, tình hình kinh tế thế giới diễn biến
theo chiều hướng ngày một xấu. Các tổ chức kinh tế quốc tế và giới phân tích đều
cho rằng nền kinh tế thế giới đang mất đà tăng trưởng trong nửa đầu năm 2011 và
sẽ chậm lại trong nửa cuối năm 2011.2
Tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy giảm do các bất ổn gia tăng, trong lúc các
gói kích thích kinh tế được triển khai tại nhiều nước nhằm phục hồi nền kinh tế sau
khung hoảng đang sắp kết thúc, thay vào đó là chính sách thắt chặt tài chính-tiền tệ
để chống lại nguy cơ khung hoảng nợ công và lạm phát. Các nền kinh tế lớn,
không chỉ có Mỹ, châu Âu, Nhật Bản mà cả Trung Quốc và Ấn Độ đứng trước
nguy cơ mất đà tăng trưởng. Một loạt quốc gia phải đối mặt với vấn đề lạm phát,
nợ công, thất nghiệp và thắt chặt chính sách tài chính.
2 Trong báo cáo về triển vọng kinh tế ngày 25/5/2011, OECD dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ đạt 4,2% trong
năm 2011, giảm so với 4,9% cua năm 2010. Ngày 16/6, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho biết chỉ
số tăng trưởng kinh tế tổng hợp cua các nền kinh tế OECD trong tháng 4/2011 tiếp tục trì trệ. Ngày 17/6, trong báo
cáo "Triển vọng kinh tế thế giới", IMF cũng không loại trừ khả năng nền kinh tế toàn cầu có thể suy giảm trong quý
2/2011.

5


Tại Mỹ, trong tháng 5/2011 và tháng 6/2011, hoạt động cua các lĩnh vực như
bất động sản, sản xuất chế tạo...đã suy yếu. Niềm tin vào triển vọng cua nền kinh tế

và cả cách điều hành cua chính phu giảm sút do chương trình nới lỏng định lượng
lần hai sắp kết thúc mà nền kinh tế Mỹ vẫn còn gặp nhiều khó khăn: tỷ lệ thất
nghiệp lại tăng lên, nợ công ở mức kịch trần: năm 2008 mức nợ công cua Mỹ vượt
qua con số 10.000 tỷ USD, gần 12.000 tỷ USD vào năm 2009 và vượt qua 13.000
tỷ USD vào năm 2010. Chưa dừng lại ở đó, tính đến 7/9/2011, con số này đạt mức
14.717 tỷ USD, (vượt qua 100%GDP cua Mỹ năm 2010 ở mức 14.526,5 tỷ USD) 3
tổng cầu tiêu dùng không tăng đu mạnh để kích thích kinh tế tăng trưởng. 4 Tại các
nền kinh tế lớn cua châu Âu, tăng trưởng trong quý II/2011 đều có xu hướng thấp
hơn tăng trưởng trong quý I/2011 trong lúc khung hoảng nợ công đang chuyển
biến theo hướng ngày càng tồi tệ hơn, nguy cơ lạm phát vẫn chưa được giải trừ, và
sản xuất-dịch vụ tăng trưởng thấp.5 Trong khi đó, do hậu quả cua thảm họa động
đất và sóng thần (ngày 11/3/2011) và sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima,
kinh tế Nhật Bản tăng trưởng âm trong hai quý đầu năm 2011.6
Tốc độ tăng trưởng cua các nền kinh tế mới nổi, vốn được xem như là các
đầu tàu trong quá trình phục hồi cua nền kinh tế thế giới, cũng đã bắt đầu chậm
lại.7 Các nền kinh tế năng động nhất là Trung Quốc, Brazil, và Ấn Độ hiện đang
phải thực hiện chính sách tài chính thắt chặt để đối phó với lạm phát và nguy cơ
tăng trưởng nóng8. Báo cáo theo dõi kinh tế châu Á (AEM) cua Ngân hàng Phát
triển châu Á (ADB) cũng cho thấy tăng trưởng cua các nền kinh tế Đông Á đang
3 Nguồn: http:// www.treasurydirect.gov/NP/NPGateway.
4 Trong báo cáo "Triển vọng kinh tế thế giới" ngày 17/6/2011, IMF hạ dự báo tăng trưởng GDP năm 2011 cua Mỹ
từ 2,8% trong tháng 4 xuống 2,5% và GDP năm 2011 từ 2,9% xuống 2,7%. Cả hai mức dự báo trên đều thấp hơn so
với mức tăng trưởng 2,9% trong năm 2010. Ngày 17/6, tập đoàn Goldman Sachs hạ dự báo tăng trưởng GDP quý 2
cua Mỹ từ 3% xuống 2%.

5 Theo OECD, tăng trưởng kinh tế cua Pháp, Đức, Italy tăng 3% quý I/2011, nhưng quý II/2011 là 2,2%. Tăng
trưởng kinh tế cua Anh quý I/2011 là 3%, nhưng quý II/2011 là 1%.
6 Tăng trưởng kinh tế Nhật Bản trong quý II/2011 suy giảm 0,3% và trong quý I/2011 suy giảm 0,9%.
7 Theo kết quả cuộc khảo sát cua HSBC về chỉ số phát triển kinh tế tại các thị trường mới nổi (HSBC EMI) công bố
tháng 7/2011, trong quý II/2011, tăng trưởng tại các thị trường mới nổi đạt mức thấp nhất trong hai năm qua.


6


chậm lại. Tăng trưởng cua các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng sẽ chậm lại do chính
sách tài chính tiền tệ được siết chặt hơn nhằm giảm nguy cơ phát triển quá nóng.
Thêm vào đó, tác động cua các biến cố như bất ổn chính trị lan rộng ở Bắc
Phi và Trung Đông, nguy cơ khung hoảng lương thực do thiên tai liên tiếp xảy ra
tại nhiều nơi trên thế giới…đã làm gia tăng mức độ rui ro cua hệ thống kinh tế toàn
cầu. Những thách thức nói trên đang khiến kinh tế toàn cầu lặp lại động thái phát
triển cua năm 2010: tăng trưởng nhanh những tháng đầu năm còn tăng trưởng
chậm những tháng cuối năm và làm dấy lên lo ngại về sự trì trệ kéo dài theo chu
kỳ.
Tháng 9-2011, Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới (WEO) cua Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF) đã điều chỉnh giảm các số liệu dự báo về tốc độ tăng trưởng kinh tế
cua các nước phát triển cũng như mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2011
so với dự báo mà tổ chức này đưa ra tại WEO tháng 4/2011. Theo dự báo mới, mặc
dù kinh tế thế giới tăng trưởng 4,3% trong quí I-2011, giảm nhẹ trong quí II-2011
và có khả năng tăng nhanh hơn trong 6 tháng cuối năm nhưng dự kiến tốc độ tăng
trưởng cả năm 2011 chỉ đạt 4,0% (điều chỉnh giảm 0,3%). Tăng trưởng GDP cua
các nước phát triển trong năm 2011 dự kiến đạt 1,6% (điều chỉnh giảm 0,6%);
trong đó kinh tế Mỹ, khu vực Euro và Nhật Bản dự báo tăng trưởng lần lượt ở mức
1,5%, 1,6% và âm 0,5%. Trong khi đó, các quốc gia đang phát triển và mới nổi
tiếp tục đà phục hồi kinh tế mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng dự báo ở mức cao, đạt
6,4% (điều chỉnh giảm 0,2%); Trung Quốc, Ấn Độ được dự báo tăng trưởng lần
lượt là 9,5% và 7,8% (xem bảng 1).
Bảng 1: Các dự báo về tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2011
(% so cùng kỳ năm trước)
Khu
vực/nền

kinh tế

Báo cáo của
IMF

Dự báo của
IMF (9/2011)

Chênh lệch so với
dự báo IMF
6/2011

WB
(6/2011)

8 Ngày 24/5/2011, tập đoàn Goldman Sachs hạ dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2011 cua Trung Quốc từ 10% xuống
9,4% và nâng dự báo lạm phát năm 2011 từ 4,3% lên 4,7%.

7


Thế giới
PT
MN&ĐPT
Mỹ
Nhật Bản
EU
Anh

2009

- 0,7
- 3,7
2,8
- 3,5
- 6,3
- 4,3
- 4,9

2010
5,1
3,1
7,3
3,0
4,0
1,8
1,4

2011
4,0
1,6
6,4
1,5
-0,5
1,6
1,1

2012
4,0
1,9
6,1

1,8
2,3
1,1
1,6

Trung Quốc

9,2

10,3

9,5

9,0

2011
-0,3
-0,6
-0,2
-1,0
0,2
-1,0
-0,4
-0,1

2012
-0,5
-0,7
-0,3
-0,9

-0,6
-0,9
-0,7
-0,5

2011 2012
3,2
3,6
2,2
2,7
6,3
6,2
2,6
2,9
0,1
2,6
1,7
1,8
NA NA
9,3

8,7

-0,4
-0,3
Ấn Độ
6,8
10,1
7,8
7,5

8,0
8,4
-0,5
-0,4
Nga
- 7,8
4,0
4,3
4,1
4,4
4,0
-0,3
0,0
Brazil
- 0,6
7,5
3,8
3,6
4,2
4,1
* Chú thích: PT: các nền kinh tế phát triển; MN&ĐPT: Các nền kinh tế mới
nổi & đang phát triển; NA: chưa có số liệu thống kê đầy đủ.
Nguồn: IMF (World Economic Outlook, April 2011 & September 2011), WB
(Global Economic Prospect, June 2011).
IMF dự báo kinh tế Mỹ tăng trưởng 1,5% trong năm 2011 và 1,8% trong
năm 2012. Tháng 6/2011, dự báo do IMF đưa ra đối với kinh tế Mỹ là tăng trưởng
2,5% trong năm 2011 và 2,7% trong năm 2012.
IMF hạ dự báo tăng trưởng kinh tế cua 17 nước thuộc khu vực đồng tiền
chung châu Âu. IMF cho rằng nhóm nền kinh tế này sẽ tăng trưởng 1,6% trong
năm 2011 và 1,1% vào năm 2012, thấp hơn nhiều so với dự báo 2% và 1,7% được

công bố trước đó. Dự báo đối với khu vực đồng tiền chung châu Âu được dựa trên
lo lắng rằng Hy Lạp sẽ vỡ nợ và gây mất ổn định khu vực. Nhìn chung, IMF dự
báo kinh tế thế giới tăng trưởng khoảng 4% trong năm 2011 và năm 2012. Tăng
trưởng kinh tế Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin và nhiều nền kinh tế phát triển khác sẽ
bù lại phần nào cho sự sụt giảm sản lượng cua kinh tế Mỹ và châu Âu. IMF cho
rằng các nhà hoạch định chính sách kinh tế Mỹ và châu Âu cần hành động quyết
liệt hơn để giảm thâm hụt ngân sách và châu Âu cần đảm bảo các ngân hàng khu
vực có đu vốn để chống chọi với khung hoảng nợ. 6 tháng đầu năm 2011, kinh tế
8


Mỹ tăng trưởng chỉ đạt 0,7% (tính theo năm). Suốt từ khi suy thoái kinh tế Mỹ
chấm dứt cách đây 2 năm, tỷ lệ thất nghiệp liên tục duy trì trên mức 9% (trừ duy
nhất 2 tháng).
Hình 1: Tăng trưởng GDP của Mỹ từ 2007- 2011, (%)

Nguồn: Trading Economics Indicators- http:// www.tradingeconomics.com
2.2.

Bùng nổ lạm phát toàn cầu, hi sinh tăng trưởng kinh tế và cải thiện việc
làm ở mức độ nhỏ.

Lạm phát ở Mỹ đã lên đến 3,2% vào tháng 4/2011, vấn đề tăng chỉ số lạm
phát như vậy là câu chuyện nóng bỏng cua nước Mỹ. Tình trạng lạm phát cùng với
sự trầm lắng cua thị trường bất động sản khiến cho tổng cầu tiêu dùng đã không
tăng đu để kích thích tăng trưởng kinh tế cua Mỹ.9
Lạm phát ở Trung Quốc không ngừng gia tăng từ tháng 3/2011, 10 gây quan
ngại không chỉ trên thị trường tiền tệ mà có thể là ngòi nổ cho nhiều bất ổn xã hội
tại quốc gia đông dân nhất thế giới. Bất chấp việc 5 lần tăng lãi suất kể từ tháng
11/2010 đến hết tháng 7/2011, chính phu Trung Quốc gần như thất bại trong nỗ lực

kiềm chế lạm phát khi mà giá lương thực thực phẩm (yếu tố cấu thành quan trọng
nhất trong giỏ hàng hoá tính CPI) tăng mạnh (tới 11,7%) vào tháng 5/2011 khiến
9

Tăng trưởng kinh tế Mỹ quý I/2011 chỉ đạt 1,8% so với 3,8% trong quý IV/2010

10 Tháng 3/2011 là 5,4%, đến tháng 5/2011 là 5,5%, đến tháng 6/2011 là 6%. Đây là mức tăng chỉ số CPI cao nhất
ở Trung Quốc trong vòng 34 tháng qua

9


cho mục tiêu kiềm chế CPI xuống mức kỳ vọng 4% xa vời (cho đến cuối tháng
7/2011)11. Trong khi đó, lạm phát ở Ấn Độ lên đến 9,11% tính trung bình trong 5
tháng đầu năm 2011, chu yếu do giá nhiên liệu và lương thực tăng cao.
Mức lạm phát ở Mỹ Latinh cả năm 2011 dự báo lên đến 4,5%. Lạm phát ở
khu vực này được chia thành 3 nhóm: cao, trung bình và thấp. Điển hình cua nhóm
cao là Vênêxuêla (gần 30% trong nửa đầu 2011), Paraguay, Côlômbia; nhóm trung
bình gồm: Braxin, Mehicô và Pêru (có mức lạm phát khoảng 4-6%). Nhóm thấp
gồm một số nước như Chilê, Giamaica, và Nicaragoa (có mức lạm phát khoảng
3%).
Để đối phó với lạm phát, các quốc gia đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt
chặt, nâng lãi suất cao hơn, và sẵn sàng hi sinh tăng trưởng. Một vài nước sử dụng
công cụ nâng dự trữ bắt buộc đi kèm với nâng lãi suất.
Hình 2 : Tỷ lệ lạm phát của thế giới và các nền kinh tế, 2011.

Nguồn: IMF 2011, “World Economic Outlook ,9-2011”, trang 16
11 Ngày 9/8/2011, Tổng cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc cho biết, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 7 tăng
6,5% so với cùng kỳ năm trước, so với mức tăng 6,4% trong tháng 6 vốn đã là mức cao nhất trong 3 năm- Nguồn:
Thời báo Kinh tế Việt Nam - số 191- ngày 11/8/2011.


10


Khác với dự báo hồi tháng 4/2011,12 chỉ số lạm phát tại Liên minh châu Âu
từ tháng 5/2011 đã tăng chậm lại. Nguyên nhân chu yếu là các chi phí đầu vào
cua sản xuất công nghiệp đã được hạ thấp một cách tích cực.
Việc giảm chi phí đầu vào cua sản xuất công nghiệp ở châu Âu là hệ quả
cua:
(i) dòng vốn đầu tư trực tiếp chuyển từ Châu Âu sang Mỹ - nơi được cho là
lý tưởng để hạ thấp chi phí sản xuất cua nhiều hãng công nghiệp ôtô, luyện thép,
chế tạo tầu cao tốc…và
(ii) giá cả hàng xuất khẩu cua Trung Quốc sang châu Âu rẻ hơn (do tỷ giá
nghiêng về phía bất lợi cho xuất khẩu cua nước này), Tuy nhiên, những tín hiệu
tương đối tích cực về mức lạm phát ở châu Âu nói trên chỉ là tạm thời. Trong tháng
6/2011, lạm phát tại Eurozone vẫn ở mức 2,7%, cao hơn so với con số 1,5% cùng
kỳ năm trước. Đây là tháng thứ 7 liên tiếp Eurozone có mức lạm phát trên mức trần
2%. Để đối phó với nguy cơ lạm phát, đầu tháng 7/2011, ECB đã phải từ bỏ ý
định duy trì lãi suất vốn được kìm giữ ở mức thấp (1,25%/năm) nhằm tránh bị tổn
thương hơn bởi khung hoảng nợ công và thu hẹp tài chính và tăng lãi suất cơ bản
(lên 1,5%). Giới phân tích cho rằng lạm phát sẽ còn tăng trong những tháng còn lại
cua năm 2011 trong bối cảnh dầu mỏ, lương thực và nhiều loại hàng hóa khác đang
trên đà tăng giá khiến cho châu Âu phải đối mặt với nguy cơ kép: nợ công và lạm
phát.13 Trong bối cảnh này, chỉ có Đức và Pháp có thể là điểm sáng duy nhất trong
quá trình phục hồi chậm chạp cua kinh tế châu Âu năm 2011.
Theo JP Morgan Global, chỉ số quản lý sức mua (PMI) tháng 5/2011 - chỉ số
đo lường hoạt động cua các nhà máy công nghiệp - ở nhiều nền kinh tế chu lực thế

12 Khi chỉ số CPI của châu Âu lên tới 2,8%, mức cao nhất kể từ tháng 8/2010


13 Trong tháng 6, giá năng lượng tại khu vực Eurozone tăng 10,9% tính theo năm, trong khi đó giá lương thực tăng
2,7%.

11


giới như Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan… đều sụt giảm. 14 Sự sụt
giảm cua chỉ số này đang gây lo ngại về phục hồi yếu trên diện rộng, kéo theo tốc
độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, tương phản với những dự đoán trong những tháng
đầu năm 2011.
Trong điều kiện lạm phát cao và phục hồi tăng trưởng kinh tế yếu, tình trạng
việc làm trên quy mô toàn cầu trong những tháng đầu năm 2011 chưa cải thiện tích
cực như mong đợi. ILO dự báo tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu năm 2011 là 6,1%.
Thực tế này gây lo ngại về sự phục hồi việc làm không đu để cải thiện tổng
cầu tiêu dùng ở các nước công nghiệp phát triển trong năm 2011 khi mà tăng
trưởng kinh tế èo uột chưa có dấu hiệu chấm dứt. Thất nghiệp ở Mỹ thực sự vẫn ở
tỷ lệ đáng lo ngại: 9% trong 5 tháng đầu năm 2011 15 (xem hình 3). Tiêu dùng tư
nhân quyết định đến 70% khả năng vận hành cua nền kinh tế Mỹ vẫn không tăng
đu mạnh để kích thích nền kinh tế tăng trưởng. Sự èo uột cua kinh tế Mỹ khiến
cho triển vọng cua kinh tế toàn cầu năm 2011 trở nên ít sáng sua.
Hình 3: Thất nghiệp ở các nền kinh tế chủ chốt năm 2011, (%)

Nguồn: Trading Economic Indicators, 2011
14 PMI giảm xuống mức 52,9 điểm (mức thấp nhất kể từ tháng 9/2010) so với 55 điểm cua tháng 4/2011. Mức giảm
cùng kỳ cua chỉ số này ở Trung Quốc là 51,8 điểm so với 51,1 điểm; ở Mỹ là 60,4 điểm so với 53,5 điểm. Ngưỡng
suy giảm cua PMI là xuống dưới 50 điểm.
15 Trong tháng 5/2011, khu vực kinh tế tư nhân ở Mỹ chỉ tạo ra 38.000 việc làm mới, thấp xa so với con số dự đoán
170.000 đưa ra trước đó.

12



Tuy nhiên, tình hình thất nghiệp lại giảm chút ít ở nhóm nước đang phát
triển như Brazil, Thái Lan, Kazakhstan, Uruguay, Sri Lanka... bằng mức trước
khung hoảng tài chính toàn cầu 2007- 2008. Nhìn chung, sau khi giảm mạnh vào
giai đoạn suy thoái nhất, tỷ lệ mất việc làm ở nhóm các nền kinh tế đang phát triển
và các nền kinh tế mới nổi không cao như ở nhóm phát triển.16
Hình 4: Tỷ lệ thất nghiệp thế giới tính theo khu vực năm 201117( %)

Nguồn: IMF 2011, “World Economic Outlook , 9-2011”, p. 26.
Theo báo cáo “Triển vọng việc làm về ngắn hạn và thị trường việc làm tại
các quốc gia G-20 và những thách thức” cua Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), suy thoái kinh tế có thể dẫn tới tình
trạng thiếu việc làm trầm trọng tại các quốc gia thuộc Nhóm G-20 trong năm tới.
Các chuyên gia cua ILO và OECD đánh giá khả năng tăng trưởng việc làm trong
G-20 khó đạt mức 1%, mà chỉ vào khoảng 0,8% vào cuối năm 2012, thì không thể
bù đắp lại 20 triệu việc làm đã mất kể từ đầu cuộc khung hoảng kinh tế thế giới
2008 tới nay cua Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi chiếm tới 85% tỷ
trọng nền kinh tế thế giớivà mức tăng trưởng này có thể dẫn tới sự thiếu hụt 40

16 Năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp trung bình ở 2 nhóm quốc gia này tuần tự là 6% và 8,3%.

17

Trong đó: ME: Các nước Trung Đông; NAF: Các nước Bắc Phi; CEECIS: Trung Đông Âu và Cộng đồng các

quốc gia độc lập; DEEU: Các nước phát triển và EU; SSA: Sub- Sahara – Châu Phi; SEAP: Đông Nam Á và Thái
Bình Dương; SAS: Nam Á; LAC: Châu Mỹ Latinh và Caribê.

13



triệu việc làm trong nhóm này vào năm 2012 và tình hình nghiêm trọng hơn có thể
diễn ra vào năm 201518.
Để đạt được số lượng việc làm tương tự như trước khung hoảng, tỷ lệ tăng
trưởng việc làm trong G-20 cần phải đạt 1,3%/năm- một điều rất khó thực hiện
trong bối cảnh suy thoái kinh tế hiện nay. Trong khi đó, triển vọng tình hình việc
làm ngày càng tăm tối tại các nước G-20, với dự báo cua OECD rằng tăng trưởng
việc làm bình quân quý IV/2011 chỉ đạt 0,2% tại 7 nước có nền kinh tế phát triển
nhất thế giới. Trong nhóm G-20, Tây Ban Nha và Nam Phi là hai nước có tỷ lệ thất
nghiệp cao nhất, lần lượt ở mức 21,2% và 25,7%. Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và Mỹ đứng
tiếp theo với tỷ lệ thất nghiệp khoảng 9-10%.
Cuộc khung hoảng việc làm sẽ đặt áp lực lên nền kinh tế bằng cách đặt gánh
nặng lên vai người tiêu dùng và thay đổi hành vi chi tiêu cua các hộ gia đình. Hiện
nay, tình trạng tăng trưởng lương thấp hoặc không tăng lương cua đa số lao động
làm công ăn lương dẫn đến sự thâm hụt trong tổng cầu và mất cân bằng tài khoản
vãng lai. Theo các chuyên gia kinh tế, con đường ngăn chặn khung hoảng việc làm
chỉ có thể là thúc đẩy kinh tế tăng trưởng mạnh. Tuy nhiên, cuộc chiến cua nhiều
nền kinh tế phát triển để cắt giảm nợ và cắt giảm chi tiêu công có thể sẽ là rào cản
khó vượt qua cho đà tăng trưởng.

2.3.

Thị trường tài chính tiền tệ toàn cầu bất ổn và khó đoán định.

Trong những tháng đầu năm 2011, chịu ảnh hưởng bởi xu hướng kinh tế thế
giới hồi phục chậm chạp và hàng loạt biến cố toàn cầu phức tạp, thị trường tài
chính tiền tệ thế giới diễn biến bất thường và trái chiều. Chính sách nới lỏng tiền tệ
cua Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) vẫn được duy trì khiến cho đồng USD mất giá
mạnh. Trong khi các nền kinh tế khu vực đồng euro vừa vật lộn với nợ công vừa

duy trì lãi suất kích thích tăng trưởng thì các nền kinh tế mới nổi phải thực thi
chính sách thắt chặt tiền tệ (nâng lãi suất, giảm chi tiêu) theo hướng kiềm chế lạm

18 Quốc Trung (2011), Thất nghiệp đe doạ G-20, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 233- ngày 29/9/2011.

14


phát hơn là ưu tiên tăng trưởng. Giá vàng tiếp tục tăng cao cho thấy sự bất ổn ngày
càng tăng cua các thị trường tài chính toàn cầu.
Những biến động về tài chính tiền tệ trong nửa đầu năm 2011 được phản
chiếu rõ nét thông qua những diễn biến trên các thị trường chứng khoán chu chốt
Nó báo hiệu triển vọng cua thị trường chứng khoán thế giới trong năm nay là
không mấy sáng sua: các chỉ số có xu hướng dao động và đi ngang trước những
hoài nghi về thực trạng phục hồi cua kinh tế thế giới. Chu kỳ tăng điểm các chỉ số
chứng khoán suốt từ đầu năm 2009 cua các thị trường này dường như đã kết thúc
vào tháng 3/2011.
Trong 6 tháng đầu năm 2011, thị trường chứng khoán Mỹ dường như là nơi
tốt nhất để đầu tư cổ phiếu. Chỉ số S&P500 vẫn trên đà tăng trưởng trong nửa đầu
năm 2011. Lãi suất được giữ ở mức thấp kỷ lục (0,25%), cùng với triển vọng tăng
trưởng tuy chậm chạp nhưng có vẻ chắc chắn khiến cho cổ phiếu cua các công ty
Mỹ hấp dẫn với giới đầu tư. Bên cạnh đó, chính sách duy trì vay nợ có hiệu lực cho
đến tháng 6/2011 và chu trương kích thích đầu tư đi kèm với cải thiện điều kiện
đầu tư khiến cho trái phiếu chính phu Mỹ vẫn được coi là kênh đầu tư an toàn.
Bằng việc tiếp tục bơm tiền vào đầu tư, chính quyền cua tổng thống B. Obama
đang theo đuổi quan điểm nhà nước phải bù đắp khoảng trống mà tư nhân chối bỏ
để tiếp tục tìm lối thoát cho tăng trưởng kinh tế quốc gia và cung cố không ngừng
quyền lực áp đảo cua Mỹ. Tuy nhiên, cho đến cuối tháng 6, chính phu Mỹ công bố
mức tăng trưởng vẫn thấp hơn dự báo và chưa tỏ ra có ý định tiếp tục mở rộng
chương trình nới lỏng định lượng vòng 2 (QE2).

Thị trường tiền tệ thế giới diễn biến với động thái trái chiều với việc nhóm
các nước phát triển có lạm phát thấp (Eurozone, Mỹ) thực hiện chính sách lãi suất
thấp còn nhóm các nước đang phát triển có lạm phát cao (điển hình là Ấn Độ và
Trung Quốc) thực hiện chính sách lãi suất cao. Việc FED duy trì mức lãi suất thấp
kỷ lục để đối phó với nạn thất nghiệp và hỗ trợ cho sự phục hồi yếu cua kinh tế Mỹ
là những nguyên nhân chu yếu làm suy giảm sức hấp dẫn đồng bạc xanh. Nhưng
khía cạnh tích cực cua đồng USD mất giá phần nào giúp cho hàng hóa Mỹ tăng sức
cạnh tranh, từ đó tạo động lực tăng trưởng cho lĩnh vực sản xuất. Đồng yên lên giá
15


so với đồng USD tạo bất lợi cho Nhật Bản - nền kinh tế vốn trì trệ , lại càng khó
khăn hơn sau thảm hoạ kép động đất - sóng thần tháng 3/2011 – đã khiến G7 đồng
thuận can thiệp giúp đồng yên xuống giá. Tỷ giá USD/JPY đã tăng lên khoảng 3%
và duy trì ở mức 80,0 từ cuối tháng 4/2011. Tuy nhiên xu hướng này không kéo
dài khi niềm tin vào nền kinh tế Mỹ trở nên ngày một xấu đi kể từ cuối tháng
6/2011 do vấn đề nợ công.
Trong khi đó, các nền kinh tế mới nổi ở khu vực Mỹ Latinh và Châu Á phải
đối mặt với việc các đồng tiền nội tệ tăng giá trên thị trường quốc tế do nhiều diễn
biến tiền tệ khá phức tạp. Có 2 vấn đề chính liên quan:
(i) Dòng vốn nước ngoài vào các nền kinh tế mới nổi tăng cao trong thời
gian qua: Sự gia tăng cua dòng vốn vào gây nên áp lực tăng giá đối với đồng tiền
nội tệ, không những thế nó còn tạo ra nguy cơ mất ổn định đối với những hệ thống
tài chính được quản lý yếu kém.
(ii) Ảnh hưởng từ chính sách tài khóa mở rộng đối phó với khủng hoảng
những năm 2007-2008. Các biện pháp kích thích nền kinh tế tăng trưởng sau hiệu
quả ban đầu, dần chuyển thành động lực gây ra lạm phát. Điều khó khăn ở đây là
các nền kinh tế mới nổi, vốn chú trọng tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, không
muốn đồng tiền nội tệ tăng giá. Lạm phát chút ít sẽ được hoan nghênh, nhưng giá
xăng dầu, nguyên liệu và lương thực tăng đến mức phá vỡ mặt bằng giá cả đầu vào

cua sản xuất và kinh doanh đã trở thành nguy cơ rất lớn. Trong bối cảnh này, kiềm
chế lạm phát đương nhiên là mục tiêu ưu tiên hàng đầu cua họ. Bên cạnh đó, việc
các nền kinh tế mới nổi duy trì chính sách lãi suất cao càng khiến cho thị trường
tiền tệ cua họ trở nên hấp dẫn hơn các thị trường tài chính ở các nước phát triển.
Cộng hưởng lại, dòng vốn có xu hướng không ngừng chảy vào các nền kinh
tế mới nổi. Dự báo cua IMF cho thấy dòng vốn vào các nền kinh tế mới nổi trong
năm 2011 sẽ dễ dàng vượt qua mức 1000 tỷ USD. Điều này có thể ẩn chứa nhiều
rui ro hơn là mang lại lợi ích. Khu vực sản xuất cua các nền kinh tế mới nổi chưa
đu khoẻ mạnh để hấp thụ những luồng đầu tư lớn, sự gia tăng bất ngờ cua các dòng
vốn có thể khởi đầu bất ổn đối với các thị trường tài chính tiền tệ.
16


Giá vàng tăng cao trong những tháng đầu năm 2011 là điểm nổi bật trên thị
trường tài chính tiền tệ. Với chức năng dự trữ riêng biệt, trong điều kiện các kênh
đầu tư khác còn chưa chắc chắn, thậm chí bất ổn, vàng vẫn được nhiều thể chế tài
chính và chính phu quan tâm khi cấu trúc lại khoản mục đầu tư và dự trữ quốc gia.
Hình 5: Diễn biến giá vàng thế giới từ 10/2010 đến 6/10/2011

Nguồn: />Nhìn chung, thị trường tài chính tiền tệ thế giới trong những tháng đầu
năm đang tích tụ nhiều rui ro và có dấu hiệu không bền vững trong khi hầu hết
các nền kinh tế đều chưa khẳng định hướng chính sách nào giúp họ ổn định hệ
thống tài chính tiền tệ. Do vậy, bên cạnh bất ổn, tình trạng khó đoán định cua thị
trường tài chính tiền tệ thế giới vẫn âm thầm tồn tại.
2.4.

Nguy cơ đổ vỡ do tác động của khủng hoảng nợ công ở Mỹ và Châu Âu.

Khung hoảng nợ công trong 8 tháng đầu năm 2011 đang gia tăng theo hình
xoắn ốc không chỉ là cơn sốt kịch phát ở một vài nước Nam Âu (Hy Lạp, Ailen, Bồ

Đào Nha) mà còn có thể lan rộng thành cuộc khung hoảng tài chính thế giới mới.
Thêm nữa, cuộc khung hoảng nợ công ở châu Âu có thể lan rộng đến Mỹ - nơi mà
nợ công đã gần lên đến mức kịch trần tính đến 31/3/2011.
Cuộc khung hoảng nợ công cua các nước Nam Âu được nhắc đến nhiều hơn
ở nhóm “PIGS” (Portugal, Ireland, Greece và Spain) đã và đang dấy lên những mối
17


quan ngại sâu sắc về hiệu ứng “đô mi nô” trong nợ công quốc tế và sự ổn định cua
thị trường tài chính toàn cầu. Dấu hiệu báo trước đã được thể hiện từ thị trường
bất động sản bong bóng – nhân tố đẩy nhóm PIGS vào khung hoảng nợ.
Hình 6: Tỷ lệ nợ/GDP của các nước châu Âu năm 2011
(Đơn vị: %)

Nguồn: Trading Economics Indicators-http:// www.trading economics.com,
ngày 4-10-2011.

Cuộc khủng hoảng này hiện đang rơi vào vòng luẩn quẩn nằm trong
chuỗi những hệ quả tiêu cực: tốc độ phục hồi kinh tế chậm, tình trạng thất nghiệp
đi kèm, lạm phát tăng, đồng Euro mất giá, tổng cầu tiêu dùng giảm mạnh, kéo theo
tăng trưởng GDP tiếp tục tăng chậm lại hoặc giảm sút. Sự khác nhau về chỉ số CPI
giữa Nam và Bắc Âu (4% và 2% năm 2010) là sản phẩm khác nhau về thói quen
tiêu dùng, cách thức ứng xử với tiền và việc làm, và cả những khác biệt về văn hoá
và lịch sử. Vì lẽ đó, từ gần 10 năm qua, lợi nhuận từ sản xuất ở Nam Âu thấp hơn
chỉ số này ở phần còn lại cua EU. Vấn đề đặt ra với liên minh tiền tệ châu Âu là kỷ
luật tài chính công. Hiệp ước Maastricht buộc thành viên phải nỗ lực tối đa lành
18


mạnh hoá quản lý ngân sách và kinh tế, phải tuân thu những nguyên tắc đã định,

giám sát chặt chẽ và trừng phạt mạnh những thành viên nghiêng về chu nghĩa dễ
dãi cua riêng mình, bất chấp cấu trúc đã thoả thuận.
Nợ công ở châu Âu có chung nguồn gốc là thâm hụt ngân sách chính
phủ không được kiểm soát. Điển hình là trường hợp Hy Lạp – nơi đang đối diện
với tình trạng thâm hụt kép: thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thanh toán
vãng lai. Tháng 6/2011, Moody’s đã một lần nữa giảm xếp hạng tín dụng cua Hy
Lạp từ mức B1 xuống mức Caa1, cách 5 mức so với mức vỡ nợ và tiếp tục duy trì
quan điểm tiêu cực khiến áp lực tiếp tục gia tăng đối với Hy Lạp (xem hình 7)
Hình 7: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP của một số quốc gia EU (%)

Nguồn: European Commission.
Theo sau Hy Lạp là Ailen – nơi đang buộc phải thi hành nhiều chính sách
thắt lưng buộc bụng đối với chi tiêu công. 19 Khung hoảng nợ công tiếp tục kéo 2
nạn nhân là Italia và Tây Ban Nha vào vòng xoáy – nơi mà đang xảy ra khung

19 Chính phu Ailen đã giảm ít nhất 10% lương tối thiểu, tăng thuế giá trị gia tăng và đồng thời cắt giảm 25.000 biên
chế trong các cơ quan nhà nước...

19


hoảng với bong bóng nhà đất khổng lồ và các khoản nợ tăng lên với mức độ chóng
mặt.20
Để đối phó với khung hoảng nợ công, các chính phu thuộc Eurozone buộc
phải thực hiện kế hoạch “thắt lưng buộc bụng”: cắt giảm chi tiêu chính phu, tăng
thuế, giảm lương công chức, cắt giảm các khoản phúc lợi xã hội… Các giải pháp
này đẩy nhiều nhà lãnh đạo các nước đến tình trạng tiến thoái lưỡng nan giữa lựa
chọn giải pháp sửa chữa nghiệt ngã nhằm vực dậy kinh tế hay nhượng bộ đòi hỏi
cua người dân. Biểu tình, đình công đã nổ ra gay gắt ở rất nhiều nước (Hy Lap, Bồ
Đào Nha, Anh, Tây Ban Nha...).

Bất chấp nhiều nỗ lực để đối phó, khung hoảng nợ công ở một loạt các nước
thành viên EU tiếp tục lan rộng. Cuộc khung hoảng nợ công ở Hy Lạp, Ireland,
Italia và Bồ Đào Nha thời gian qua đã bộc lộ sự yếu kém trong hệ thống quản lý
kinh tế cua Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), chu yếu là do Nhà nước
“thả lỏng” chính sách tài khóa, khiến cho thâm hụt ngân sách chính phu không
được kiểm soát. Đồng thời, nó cũng cho thấy tính thiếu bền vững cho cơ chế vận
hành “bất đối xứng” cua Eurozone khi một số nước (như Pháp và Đức) phải gồng
mình để cứu trợ một số thành viên yếu kém khác. Thay đổi chính sách từ phía
chính phu, lộ trình giảm thâm hụt ngân sách tầm ngắn cũng như trung hạn 21 và khả
năng bất ổn chính trị, thậm chí gia tài kinh tế và chính trị đổ vỡ đang là thách thức
đối với châu Âu trong nửa đầu năm 2011.
Theo kịch bản xấu, chỉ cần một mắt xích trong Eurozone như Hy Lạp vỡ nợ,
ECB cần phải tái cơ cấu vốn và đây sẽ là một đòn giáng mạnh vào sự tín nhiệm cua
ngân hàng này. Hệ thống ngân hàng và bảo hiểm cua Mỹ cũng phải chịu tổn thất

20 Italia đang chiếm thị phần vay nợ lớn nhất châu Âu, chiếm tới 24%; Tây Ban Nha chiếm 10%; trong khi đó, Bồ
Đào Nha và Ailen cộng lại chỉ chiếm 3,5%.

21 Để đổi lấy khoản cứu trợ khần cấp từ IMF và EU, Hy Lạp phải cải cách nhằm giảm mức thâm hụt ngân sách từ
32% GDP hiện nay xuống mức 3% GDP và giảm tỷ lệ thất nghiệp từ trên 13% hiện nay xuống dưới 10% vào năm
2014.

20


bởi mối liên hệ chặt chẽ cua nó với hệ thống ngân hàng Châu Âu. Theo tiến trình
đó, cuộc khung hoảng nợ công ở châu Âu sẽ lan sang Mỹ và mở rộng ra toàn cầu.
Cả thế giới và châu Âu đang nỗ lực để ngăn điều này xảy ra. Hội nghị
thượng đỉnh châu Âu tháng 6/2011 cũng đã đặt trọng tâm vào giải quyết cuộc
khung hoảng nợ.22 Tuy nhiên, cho đến thời điểm tháng 8/2011, cuộc khung hoảng

nợ công ở châu Âu vẫn chưa thấy có một lối ra rõ ràng.
Nỗ lực kém hiệu quả trong việc ngăn chặn cuộc khung hoảng nợ công ở
châu Âu và thế mắc kẹt cua hệ thống chính trị ở Mỹ với các cuộc thương thảo đầy
khó khăn giữa chính quyền với Quốc hội về cắt giảm thâm hụt ngân sách và nâng
mức trần vay nợ quốc gia đã khiến cho giới đầu tư mất niềm tin vào khả năng lãnh
đạo kinh tế cua nhiều quốc gia chu chốt. Kết quả là, chỉ trong vòng 2 tuần đầu cua
tháng 8/2011, chấn động trên các thị trường tài chính tiền tệ đã liên tiếp diễn ra.
Mở đầu là việc tổ chức định mức tín dụng Standard & Poor's hạ bậc tín nhiệm cua
Mỹ, kéo theo là các thị trường chứng khoán thế giới sụt giảm dữ dội, khiến cho cả
nghìn tỷ USD bốc hơi. Bất chấp sự trấn an cua nhiều tổ chức tài chính quốc tế và
chính phu các nước sau đó, tâm lý trên thị trường vẫn chưa hết hoang mang. Giới
đầu tư tháo chạy khỏi chứng khoán, đồng USD và đồng Euro để đổ sang vàng, đẩy
giá vàng tăng lên mức cao kỷ lục (vượt quá 1800 USD/ounce) và chưa có dấu hiệu
chững lại.
Thị trường tài chính tiền tệ toàn cầu bất ổn và khó đoán định đã tác động
mạnh đến thị trường vàng thế giới, khiến cho giá vàng tăng cao trong những tháng
đầu năm 2011. Trong khi các kênh đầu tư khác còn chứa nhiều rui ro, vàng vẫn
được nhiều tổ chức tài chính và chính phu mua khi cấu trúc lại khoản mục đầu tư
và dự trữ quốc gia.
Khủng hoảng nợ công ở Eurozone đã tác động nhiều chiều cạnh khác
nhau:

22 Hội nghị đã đạt được thỏa thuận về cơ chế ổn định châu Âu và thống nhất được về nguyên tắc cứu trợ khẩn cấp
Hy Lạp cùng với các biện pháp chính sách “thắt lưng buộc bụng”.

21


• Đồng euro mất giá so với USD và đồng nhân dân tệ. Chính điều này làm tăng áp


lực chi phí cho các nhà sản xuất Trung Quốc gây bất lợi đến xuất khẩu hàng hoá
cua Mỹ và cả Trung Quốc. Thêm vào đó, trong quá khứ, để tránh lệ thuộc vào trái
phiếu kho bạc Mỹ và đa dạng hoá dự trữ ngoại hối, Trung Quốc đã tăng cường
mua trái chính phu cua nhiều nước Châu Âu. Điều này làm tổn thương tổng dự trữ
ngoại hối cua Trung Quốc khi đồng euro, trái phiếu chính phu cua eurozone mất
giá.
• Khủng hoảng nợ công Châu Âu tác động đến luồng chu chuyển FDI trên phạm vi

toàn cầu. Một số quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc
EU (như Mỹ) sẽ hưởng lợi do nhà đầu tư di chuyển vốn FDI ra khỏi Eurozone để
tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia Châu
Âu. Vấn đề đặt ra là sức cạnh tranh tốt hơn cua môi trường đầu tư sẽ tranh thu
được nhiều lợi ích hơn từ dòng chu chuyển này.
Theo Báo cáo Đầu tư Thế giới 2011 cua UNCTAD cho thấy, trong năm
2010, FDI toàn cầu tăng 5% lên 1240 tỷ USD. Đặc biệt, FDI vào các nền kinh tế
chuyển đổi và đang phát triển lần đầu tiên chiếm 52% FDI toàn cầu, trong đó, FDI
vào các nước đang phát triển tăng 12% lên 574 tỷ USD, (con số FDI nói trên đã
phản ánh được tiềm lực và sức bật cua các nền kinh tế đang phát triển và tham
vọng ngày một gia tăng cua họ nhằm cạnh tranh trên các thị trường mới). Tuy vậy,
FDI vào cuối năm 2010 vẫn còn thấp hơn 15% so với mức bình quân trước khung
hoảng là 1470 tỷ USD và cách mức đỉnh 1970 tỷ USD xác lập năm 2007 tới gần
37% (xem hình 8).
Xét riêng từng khu vực, FDI vào Tây Á giảm 12% xuống 58 tỷ USD do
khung hoảng kinh tế và bất ổn chính trị toàn cầu. FDI vào châu Âu giảm mạnh
19% xuống còn 313 tỷ USD do triển vọng kinh tế ảm đạm và cuộc khung hoảng nợ
công tại khu vực. FDI vào châu Phi cũng giảm 9% xuống 55 tỷ USD. Tương tự tại
Nhật Bản, FDI ròng là-1.25 tỷ USD do sự rút vốn cua các tập đoàn xuyên quốc gia.
Ngược lại, FDI vào Bắc Mỹ ghi nhận sự chuyển biến đáng kể khi tăng 44% lên
22



252 tỷ USD. Trong khi đó, FDI vào khu vực Mỹ Latinh và Caribbean tăng 13% lên
159 tỷ USD trong năm 2010. Đáng chú ý, FDI vào châu Á (trừ Tây Á) tăng 24%
lên kỷ lục 300 tỷ USD, chiếm gần 25% tổng lượng vốn FDI trên toàn cầu.
Năm 2011, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu sẽ tiếp tục
phục hồi và có thể đạt 1400 đến 1600 tỷ USD. Tuy nhiên, theo UNCTAD môi
trường kinh doanh vẫn còn khá nhiều bất ổn. Các yếu tố rui ro như tính bấp bênh
cua hoạt động quản trị kinh tế toàn cầu, khả năng lây lan cua cuộc khung hoảng nợ
công, sự mất cân đối cua lĩnh vực tài chính tại một số quốc gia phát triển, cũng như
lạm phát cao và dấu hiệu tăng trưởng nóng tại các nền kinh tế mới nổi có thể cản
trở đà phục hồi cua dòng vốn FDI. Bên cạnh đó, UNCTAD cũng cảnh báo nguy cơ
xuất hiện chu nghĩa bảo hộ đầu tư ngày càng tăng cao vì số lượng các biện pháp
giới hạn đầu tư và thu tục hành chính đã gia tăng mạnh trong các năm vừa qua.
Hình 8 : Dòng vốn FDI trên thế giới và theo nhóm nước, từ 1980-2010
(Đơn vị: Tỷ USD)

Nguồn: UNCTAD 2011, World Investment Report 2011, p3

Hình 9: Giá trị và số lượng các vụ M&A và FDI trên thế giới,
23


Giai đoạn 2007- đến 5/2011.

Nguồn: UNCTAD 2011, World Investment Report 2011.
Hình 10: Top 20 nền kinh tế thu hút FDI nhiều nhất, 2009-2010.

Nguồn: UNCTAD 2011, World Investment Report 2011, p4

24



2.5.

Các chính sách kinh tế vĩ mô trên thế giới được thực hiện thiếu sự
phối hợp và trái chiều nhau.

Trong 8 tháng đầu năm 2011, nợ công là vấn đề “gai góc” nhất đối với các
nền kinh tế phát triển, còn lạm phát là vấn đề “nghiêm trọng” nhất đối với các nền
kinh tế đang phát triển và mới nổi. Một số nền kinh tế lớn như Trung Quốc và EU
thậm chí còn phải đối mặt với cả hai vấn đề này. Bên cạnh đó, các nền kinh tế phát
triển, đặc biệt là nhóm G7, đang đứng trước những khó khăn khác như sản xuất trì
trệ, tăng trưởng thấp, thất nghiệp cao…
Trong bối cảnh này, các động thái chính sách tài chính tiền tệ trở nên trái
chiều và thiếu phối hợp. Việc cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) tiếp tục duy trì chính
sách mở rộng tiền tệ cùng với việc thế giới đang mất dần lòng tin vào triển vọng
cua nền kinh tế Mỹ khiến cho đồng USD mất giá mạnh. Trong lúc đó, các nền kinh
tế mới nổi phải thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ như nâng lãi suất, giảm chi tiêu,
sẵn sàng hy sinh tăng trưởng để kiềm chế lạm phát, đặc biệt ở một loạt nước châu
Á và vùng lãnh thổ như Ấn Độ, Hàn Quốc, Indonesia, Trung Quốc, Thái Lan,
Philippines và Đài Loan.23
Cuộc khung hoảng cua khu vực tư nhân (trong lĩnh vực ngân hàng) năm
2008 đã chuyển sang cuộc khung hoảng cua khu vực nhà nước (lĩnh vực nợ công).
Việc hợp tác giải quyết cuộc khung hoảng này có thể gặp nhiều khó khăn khi các
Ngân hàng trung ương ít có khả năng nới lỏng chính sách tiền tệ như đã từng làm;
các chính phu thiếu tiền nên không thể tăng chi tiêu nhiều như trước, cũng không
thể tung gói cứu trợ sớm. Bên cạnh đó, sự xáo trộn chính trị và nguy cơ bất ổn xã
hội tại một số nước còn khiến cho việc hoạch định chính sách quốc gia và phối hợp
chính sách toàn cầu trở nên khó khăn hơn.24
23 Trung Quốc đã liên tục tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cua các ngân hàng thương mại và nâng lãi suất bất chấp nguy

cơ làm kìm hãm hoạt động kinh tế. Từ đầu năm 2011 cho đến tháng 7/2011, Trung Quốc đã 6 lần nâng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, mỗi lần nâng 50 điểm phần trăm (0,5%) và đã nâng lãi suất cơ bản 3 lần. N gày 03/05, Ấn Độ cũng mạnh
tay nâng lãi suất lên 7.25%, và đây là lần nâng lãi suất thứ 9 kể từ tháng 3/2010.
24 />
25


×