Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

phương pháp tính các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp xây lắp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 81 trang )

B

TR

GIÁO D C VÀ ÀO T O

NG

I H C KINH T TP.HCM

NGUY N ANH HÀO

LU N V N TH C S KINH T

TP. H Chí Minh – N m 2000


ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
---♦---

V

ới vò trí đặc biệt là một trung tâm kinh tế, văn hoá xã hội quan trọng
nhất của phía Nam, Thành phố Hồ Chí Minh thực sự trở thành cực tăng

trưởng kinh tế và là nơi thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh nhất của Việt Nam.
Để môi trường đầu tư ngày càng trở nên hấp dẫn thì việc phát triển mạnh cơ sở
hạ tầng là tất yếu, do vậy tại thành phố có trên 600 doanh nghiệp trong và ngoài
nước đăng ký, tham gia hoạt động theo luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân
có chức năng chính là xây lắp nhận thầu ở tất cả các hình thức tổ chức sản xuất
quốc doanh, ngoài quốc doanh và liên doanh nước ngoài, tính cả nước con số này


lên tới hơn 2.000 doanh nghiệp. Bởi lẽ, đây còn là ngành đã, đang và sẽ phát
triển mạnh ở những nước đang phát triển và trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá như Việt Nam hiện nay.
Cùng hòa nhập với sự phát triển Kinh tế - xã hội trên đòa bàn thành phố,
ngành xây dựng trong những năm gần đây đã có những thay đổi rất thiết thực về
mặt quy mô, số lượng và chất lượng. Trong lónh vực thi công xây lắp, cung ứng
vật tư xây dựng và các hoạt động tư vấn, khảo sát thiết kế, qui hoạch xây dựng
đã có những bước phát triển vượt bậc để đảm nhận một lượng lớn vốn xây dựng
cơ bản và sửa chữa lớn trên điạ bàn. Tuy nhiên sự phát triển đó chưa được bao
lâu thì ngay từ cuối năm 1997 cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính ở khu vực đã
ảnh hưởng lớn đến hoạt động xây dựng ở Việt Nam nói chung và thành phố nói
riêng, nhất là những dự án có vốn đầu tư nước ngoài ở một số lónh vực công
nghiệp, cao ốc văn phòng cho thuê, … đã bò chựng lại. Vốn đầu tư xây dựng cơ
bản và sửa chữa lớn trên điạ bàn năm 1998 là 23.984 tỷ đồng, so với năm 1997
tăng 4,46% đây là mức tăng thấp nhất so với những năm trước, cụ thể năm 1997

♦ Luận văn cao học

1


so với năm 1996 tăng 23%, năm 1996 so với năm 1995 tăng 46%, năm 1995 so
với năm 1994 tăng 33% và đến nay cuộc khủng hoảng đó vẫn còn ảnh hưởng
không ít, năm 1999 chỉ còn 18.919 tỷ đồng, bằng 78,9% so với năm 1998. Như
vậy, thò trường xây dựng bò thu hẹp, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày
càng gay gắt và phát sinh nhiều biểu hiện không lành mạnh để giành giật công
việc như bỏ thầu thấp để phá giá, chi phần trăm cho bên A để được nhận thầu,
bán thầu hưởng chênh lệch, … Từ những diễn biến hết sức phức tạp nên nhiều
đơn vò đã nhận thầu thi công với bất kỳ mọi giá, bất chấp kém hiệu quả kinh tế,
chất lượng xây dựng không được coi trọng, gây bao tổn thất và lãng phí trong

xây dựng cơ bản. Đặc biệt, các chỉ tiêu kết quả trong báo cáo của rất nhiều đơn
vò không được tính toán đầy đủ nội dung, không đảm bảo tính chính xác.
Để nhanh chóng đưa đất nước hoà nhập vào xu hướng phát triển kinh tế
chung của các nước trong khu vực và trên thế giới, chính phủ vừa ban hành nghò
đònh 103/CP về giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp Nhà nước
có hiệu lực từ ngày 25/09/1999. Đó là những biện pháp nhằm tiếp tục sắp xếp,
đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, nhất là những doanh nghiệp nhỏ thua lỗ kéo
dài hoặc các doanh nghiệp nhỏ không cần duy trì sở hữu Nhà nước. Trước đó,
việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước tiến hành rất chậm. Đặc biệt, các
doanh nghiệp xây lắp tiến độ còn chậm hơn. Bởi lẽ, ngoài những nguyên nhân
khách quan do thò trường chứng khoán của Việt Nam chưa thể hình thành, thì
trong đó có nguyên nhân từ phiá doanh nghiệp là rất lúng túng trong việc đo
lường, đánh giá đúng đắn hiệu quả kinh tế của mình để từ đó làm cơ sở đònh giá
đúng được giá trò cổ phiếu của doanh nghiệp trên thương trường.
Trong giai đoạn nền kinh tế chuyển sang cơ chế thò trường, Nhà nước đã
tiến hành nhiều biện pháp quan trọng để cải tiến và hoàn chỉnh từng bước công
tác thống kê - kế toán. Cụ thể, hệ thống chỉ tiêu trong chế độ báo cáo hiện nay
♦ Luận văn cao học

2


phù hợp với yêu cầu đổi mới công tác quản lý, từng bước hội nhập với thông lệ
quốc tế theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) thay thế cho hệ thống sản xuất
vật chất (MPS), đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng tin. Tuy nhiên trong hệ
thống thông tin đó có rất ít chỉ tiêu hiệu quả, mà chủ yếu dừng lại ở chỗ phản
ánh tình hình, kết quả sản xuất kinh doanh, … đây mới chỉ là cơ sở tính toán các
chỉ tiêu hiệu quả.
Xuất phát từ những vấn đề trình bày trên và qua công tác thực tế, tôi chọn
đề tài “ Phương pháp tính các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp xây

lắp ” để viết luận văn, với mong muốn xây dựng được cơ sở lý luận khoa học để
xác đònh, chọn lựa các chỉ tiêu đầu vào, đầu ra hợp lý làm cơ sở tính toán đúng
đắn các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế, đảm bảo đánh giá một cách khoa học, trung
thực, khách quan, … phản ánh chính xác thực trạng hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp xây lắp. Do điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn và
trong phạm vi qui đònh trình bày của luận văn, tôi không có tham vọng trình bày
hết tất cả các chỉ tiêu liên quan đến việc đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh
nghiệp xây lắp, mà chủ yếu tập trung trình bày một cách giản tiện, dễ hiểu giúp
cho các doanh nghiệp xây lắp có thể áp dụng tính toán các chỉ tiêu kết quả và
chi phí, từ đó tính các chỉ tiêu hiệu quả được chính xác, đồng thời có thể tìm hiểu
nội dung, ý nghiã của từng chỉ tiêu này.
Việc đề ra phương pháp tính các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của doanh
nghiệp xây lắp là thiết thực, bởi trong tình hình kinh tế hiện nay đã có những
dấu hiệu giảm phát, sự yếu kém trì trệ của các doanh nghiệp Nhà nước, … thì
việc đánh giá đúng hiệu quả là thước đo, là cơ sở để tổ chức, sắp xếp lại. Đó
cũng là cơ sở giúp cho Nhà nước hoạch đònh, đề ra những chính sách kinh tế phù
hợp với từng giai đoạn phát triển cuả đất nước.

♦ Luận văn cao học

3


Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, phấn
đấu nâng cao hiệu quả kinh tế là một nhiệm vụ cấp bách đối với mọi doanh
nghiệp để đáp ứng được đòi hỏi của qui luật kinh tế cơ bản, qui luật tiết kiệm
thời gian và nâng cao năng suất lao động dưới chủ nghiã xã hội nhằm không
ngừng nâng cao đời sống cho người lao động. Qua nghiên cứu phương pháp tính
các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp xây lắp sẽ giúp cho các doanh
nghiệp nhìn nhận đúng đắn, chính xác những tiềm năng, lợi thế trong sản xuất

kinh doanh nhằm làm cơ sở cho doanh nghiệp đánh giá đúng năng lực sản xuất
kinh doanh của mình. Từ đó, có thể đề ra các giải pháp thích hợp để nâng cao
hiệu quả kinh tế, đồng thời tìm cho mình được mục tiêu, phương hướng hoạt
động sao cho đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, đó là đòi hỏi bức bách và thiết
thực đối với từng doanh nghiệp.
Để thực hiện đề tài nghiên cứu, luận văn sử dụng một số phương pháp
như phương pháp hệ thống, phương pháp chuyên gia, phương pháp toán học – tin
học, phương pháp thống kê, … và trong luận văn đề cập những nội dung cơ bản
sau:
- Những vấn đề lý luận chung về hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp xây
lắp.
- Phương pháp tính các chỉ tiêu kết quả và chi phí để tính các chỉ tiêu hiệu
quả kinh tế của doanh nghiệp xây lắp.
- Ứng dụng kết quả nghiên cứu để tính các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh
tế của Công ty Xây dựng Số 1 năm 1998 – 1999.
---o0o---

♦ Luận văn cao học

4


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
I – KHÁI QUÁT MỘT SỐ ĐIỂM CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1/ Khái niệm và bản chất hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp xây lắp là phạm trù kinh tế được biểu
hiện bằng các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế – kỹ thuật được xác đònh trên cơ sở so
sánh chỉ tiêu đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp hoặc phản ánh trình độ sử

dụng nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu kinh tế xã hội mà doanh nghiệp đề ra
trong kỳ nghiên cứu. Hiệu quả kinh tế là quan hệ so sánh, đo lường cụ thể quá
trình sử dụng nguồn tài nguyên, vốn, nguồn lao động, các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ và quản lý. Đặc biệt, khi xem xét hiệu quả kinh tế của doanh
nghiệp xây lắp phải gắn sự tồn tại trong thời gian, không gian nhất đònh và trong
những điều kiện cụ thể khác về kinh tế, chính trò, tự nhiên, lòch sử, xã hội, …
Để đạt hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp
xây lắp phải lượng hóa được việc sử dụng nguồn lực sản xuất, kết quả sản xuất
kinh doanh trong từng thời kỳ nhất đònh, từ đó làm cơ sở dự đoán xu hướng phát
triển. Lợi ích của hiệu quả kinh tế làm ảnh hưởng đến tái sản xuất mở rộng
nhằm đáp ứng lợi ích xã hội, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân người lao động (thể
hiện ở đời sống vật chất, tinh thần không ngừng tăng lên), đồng thời lợi ích đó
phải được gắn với việc bảo vệ môi trường, môi sinh, nguồn tài nguyên thiên
nhiên.

♦ Luận văn cao học

5


Bản chất của hiệu quả kinh tế phải được xem xét từ khái niệm, nghiã là
so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả đầu ra của doanh nghiệp xây lắp. Bản
chất của hiệu quả kinh tế đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng tốt các yếu tố đầu
vào (lao động, vật tư, máy móc thiết bò, … ) một cách tiết kiệm nhất cho từng
khâu, từng hạng mục công trình và thu được kết quả ở đầu ra cho từng sản phẩm,
hạng mục công trình đạt chất lượng tốt nhất. Hoặc nói cách khác là đảm bảo tất
cả các yêu cầu tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật, nghệ thuật cho các công trình thực
hiện với chi phí thấp nhất.
Từ khái niệm dẫn đến nhận thức bản chất hiệu quả kinh tế trên đây và từ
bản chất hiệu quả kinh tế đó cho ta nhận thức rõ hơn thực chất của việc nâng cao

hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp xây lắp là nâng cao năng suất lao động xã
hội. Nghiã là giảm tối đa chi phí lao động sống và lao động quá khứ bằng việc
tiếp cận, áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới (kể cả công nghệ vật liệu xây dựng
mới) trong thi công xây dựng nhưng kết quả thu được về chất lượng công trình
tốt hơn, thẩm mỹ hơn so với yêu cầu thiết kế kỹ thuật.
2/ Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế
Dưới góc độ đề tài nghiên cứu, tôi đặt vấn đề xem xét hiệu quả kinh tế
trong phạm vi doanh nghiệp, tuy nhiên dù có thể tách rạch ròi hiệu quả kinh tế
đứng dưới góc độ nào đi chăng nữa thì phải hướng tới tạo động lực cho sự phát
triển, kết hợp các loại lợi ích khác nhau và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế
phải gắn với mục đích của nền sản xuất xã hội, vì mỗi doanh nghiệp đều là
thành viên và đều hướng đến sự phát triển chung và toàn diện của xã hội.
Từ mục đích này, dẫn đến gắn hiệu quả kinh tế với lợi ích kinh tế. Dưới
mỗi chế độ xã hội đều tồn tại ba lợi ích có quan hệ hữu cơ với nhau (lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội). Ba loại lợi ích này càng được kết
hợp hài hòa, hợp lý, động lực của nền kinh tế càng mạnh và ngược lại. Theo
♦ Luận văn cao học

6


cách hiểu như vậy, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội có
các biểu hiện cụ thể khác nhau:
- Các doanh nghiệp quan tâm đến lợi nhuận, vì vậy tăng lợi nhuận là cơ
sở xác đònh hiệu quả theo quan điểm doanh nghiệp.
- Xã hội quan tâm đến tăng giá trò sản xuất (GO) và giá trò sản phẩm nội
điạ (GDP). Vì vậy, tăng GO và GDP là cơ sở để xác đònh hiệu quả theo quan
điểm xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề hiện nay không chỉ trong nước và cả thế giới đều rất
quan tâm là vấn đề bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường

sinh thái, cảnh quan kiến trúc, di tích lòch sử đối với các đơn vò sản xuất kinh
doanh và coi đây là một trong những tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế của
doanh nghiệp. Vấn đề này mới đây cũng đã được Bộ Trưởng Bộ Xây dựng ký
quyết đònh số 29/QĐ-BXD ngày 22/10/1999 về việc ban hành qui chế bảo vệ
môi trường ngành xây dựng. Còn nếu xét tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế
trên khiá cạnh cụ thể từng doanh nghiệp xây lắp thì có thể dựa vào các tiêu
chuẩn sau:
- Chất lượng công trình tăng lên.
- Tăng nhanh tiến độ, giảm thời gian thi công.
- Tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm bớt hư hại trong quá trình thi công.
- Tỷ suất lợi nhuận cao (lấy mốc tối thiểu là từ lãi suất ngân hàng), bảo
toàn và tăng giá trò gia tăng trên vốn, khả năng tự tích lũy để tái đầu tư mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo khả năng thanh toán các khoản
nợ đến hạn.
- Đời sống và thu nhập của người lao động được nâng lên.

♦ Luận văn cao học

7


Tóm lại, tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế biểu hiện mặt chất lượng của
hiệu quả thông qua một hệ thống chỉ tiêu hay nói một cách khác, hệ thống chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp là cách thức lượng hoá tiêu
chuẩn hiệu quả.
II – PHƯƠNG PHÁP CHUNG XÁC ĐỊNH HIỆU QUẢ KINH TẾ
Hiệu quả kinh tế có thể được xác đònh bằng phương pháp so sánh tương
đối và tuyệt đối. Chỉ tiêu hiệu quả hình thành từ phương pháp so sánh trên có tác
dụng khác nhau trong đánh giá và phân tích kinh tế. Kết quả sản xuất của doanh

nghiệp được đem ra so sánh là những sản phẩm mang lại lợi ích tiêu dùng xã hội
được biểu hiện là sản phẩm vật chất hoặc dòch vụ. Những sản phẩm này phải
phù hợp với lợi ích kinh tế, phải được người tiêu dùng chấp nhận. Để làm rõ
phương pháp chung này, ta sẽ xem xét các dạng biểu hiện hiệu quả kinh tế.
1/ Các dạng biểu hiện
Nghiên cứu các dạng biểu hiện hiệu quả kinh tế là nghiên cứu trong mối
quan hệ giữa kết quả (đầu ra) với việc sử dụng nguồn lực hoặc chi phí cho sản
xuất (đầu vào), gọi là dạng thuận hoặc là sự so sánh ngược lại, gọi là dạng
nghòch.
Ü Phương pháp xác đònh hiệu quả theo dạng thuận:
Phương pháp này được sử dụng xây dựng các chỉ tiêu hiệu năng, mức
năng suất lao động và mức doanh lợi, là so sánh chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh
doanh trong kỳ nghiên cứu bao gồm chỉ tiêu giá trò sản xuất và chỉ tiêu lợi nhuận
vơi các chỉ tiêu chi phí tương ứng với kết quả theo từng loại trong cùng thời kỳ
nghiên cứu. Chỉ tiêu này phản ảnh khối lượng kết quả sản xuất kinh doanh tạo
được bình quân trên một đơn vò chi phí sản xuất kinh doanh tương ứng trong kỳ
nghiên cứu, công thức chung:

♦ Luận văn cao học

8


H

=

KQ
CP


KQ: Là kết quả sản xuất kinh doanh trong kỳ nghiên cứu.
CP: Là chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ nghiên cứu.
Ü Phng pháp xác đònh hiệu quả theo dạng nghòch:
Phương pháp này được sử dụng xây dựng các chỉ tiêu cường độ hao phí, là
so sánh giữa chỉ tiêu chi phí sản xuất kinh doanh tương ứng với kết quả trong kỳ
nghiên cứu. Đây là dạng nghòch đảo của công thức trên, chỉ tiêu này phản ảnh
cøng độ tiêu hao chi phí sản xuất kinh doanh cho một đơn vò kết quả sản xuất
kinh doanh, công thức chung:
H’

=

CP
KQ

Trong thực tế hiện nay, còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về biểu
hiện đánh giá hiệu quả kinh tế. Quan điểm thứ nhất coi biểu hiện đánh giá hiệu
quả kinh tế là một mức nào đó về hiệu quả theo dự kiến (HO) dựa vào đó có thể
kết luận là sản xuất có hiệu quả hay không. Ví dụ: nếu H > HO , có thể kết luận
sản xuất có hiệu quả; nếu H < HO , kết luận sản xuất không có hiệu quả. Biểu
hiện hiệu quả được hiểu như vậy thường được dùng để đánh giá, so sánh, lựa
chọn các phương án sản xuất kinh doanh. Quan điểm thứ hai cho rằng biểu hiện
hiệu quả kinh tế là mức hiệu quả tối đa HO có thể đạt được trong những điều
kiện nhất đònh. Theo quan điểm này, H thường nhỏ hơn HO , và như vậy H càng
gần HO , sản xuất càng hiệu quả. Quan điểm thứ ba cho rằng biểu hiện đánh giá
hiệu quả kinh tế là đạt được quan hệ tối ưu giữa kết quả kinh tế đạt được với chi
phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Cụ thể theo quan điểm này là H > 1 å max.

♦ Luận văn cao học


9


2/ Xác đònh các chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh, chi phí tính chỉ tiêu
hiệu quả (Mô hình ma trận)
Các chỉ tiêu thông dụng biểu hiện kết quả để tính chỉ tiêu hiệu quả kinh
tế là sản lượng (Q), giá trò sản xuất (GO), giá trò tăng thêm (VA) và lợi nhuận
(m). Chi phí được chọn để so sánh tính chỉ tiêu hiệu quả kinh tế bao gồm: chi phí
thường xuyên, chi phí một lần (nguồn lực của nền sản xuất xã hội). Phải bảo
đảm tính thống nhất và so sánh được về độ dài thời kỳ nghiên cứu và về phạm vi
không gian của hai chỉ tiêu kết quả và chi phí. Nguồn lực sản xuất là chỉ tiêu
thời điểm nên các chỉ tiêu nguồn lực cần được tính bình quân theo kỳ tính chỉ
tiêu kết quả. Các chỉ tiêu chủ yếu biểu hiện chi phí có thể là: Số lao động, thời
gian lao động, thù lao lao động, chi phí trung gian, chi phí sản xuất, vốn sản
xuất, tài sản sản xuất, vốn đầu tư, … Tương ứng tính được các chỉ tiêu hiệu quả
khác nhau, có nội dung và ý nghiã kinh tế khác nhau. So sánh kết quả kinh tế
với từng yếu tố của chi phí thường xuyên sẽ thu được hiệu quả chi phí từng mặt,
so sánh kết quả kinh tế với toàn bộ chi phí thường xuyên sẽ thu được chỉ tiêu
hiệu quả chung chi phí thường xuyên, so sánh kết quả kinh tế với từng yếu tố
của nguồn lực ta được chỉ tiêu hiệu quả kinh tế với từng mặt của nguồn lực. So
sánh kết quả đó với toàn bộ nguồn lực ta được chỉ tiêu hiệu quả kinh tế chung
nguồn lực sản xuất.
Để dễ dàng quan sát cách thức xây dựng hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh
tế ta sử dụng mô hình ma trận có dạng như sau:
Thuận
Nghòch
Kết quả
(KQ)
Chi phí
(CP)

♦ Luận văn cao học

Kết quả
(KQ)

Chi phí
(CP)

KQ
KQ

CP
KQ

KQ
CP

CP
CP

10


Chúng ta sẽ trình bày hệ thống từng chỉ tiêu cụ thể sau khi đã xác đònh cơ
sở chọn lựa những chỉ tiêu kết quả, chi phí nào ? được sử dụng trong đề tài để
tính các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp xây lắp.
3/ Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp xây lắp
Hệ thống chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh tế tổng hợp toàn bộ hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp:
Ü Chỉ tiêu hiệu năng:

Dưới góc độ đo lường hiệu quả kinh tế tổng hợp toàn bộ quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp trong một thời kỳ ta sử dụng
chỉ tiêu hiệu năng mang tính chất tổng hợp.
Ü Chỉ tiêu hiệu suất (hay cường độ hao phí):
Khi nghiên cứu đo lường hiệu quả kinh tế tổng hợp toàn bộ quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể sử dụng chỉ tiêu cường độ
tiêu hao chi phí tổng hợp.
Ü Chỉ tiêu mức sinh lời (hay doanh lợi):
Dưới góc độ đo lường hiệu quả kinh tế tổng hợp cả quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nghiên cứu, ngoài sử
dụng 2 chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh tế mang tính chất tổng hợp trên đây,
chúng ta cần sử dụng loại chỉ tiêu quan trọng là chỉ tiêu mức doanh lợi.
Chỉ tiêu mức doanh lợi là mức lợi nhuận thu được bình quân trên một đơn
vò đồng chi phí, vốn,… sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Thực chất là chỉ tiêu mức sinh lời. Chỉ tiêu này biểu hiện một đơn vò
đồng chi phí, vốn sản xuất sử dụng trong quá trình sản xuất tạo ra được mức lợi
nhuận bao nhiêu.

♦ Luận văn cao học

11


III – CƠ SỞ ĐỂ CHỌN LƯẠ, XÁC ĐỊNH CÁC CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH
KẾT QUẢ, CHI PHÍ ĐƯC SỬ DỤNG ĐỂ TÍNH HỆ THỐNG CHỈ TIÊU
HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
Không những phải chọn lựa, xác đònh các chỉ tiêu phản ánh kết quả và chi
phí khoa học, phù hợp với tình hình thực tế được sử dụng trong hệ thống tài
khoản quốc gia SNA, trong chế độ báo cáo thống kê kế toán hiện hành mà điều
quan trọng là phải chọn lựa những chỉ tiêu đó sao cho khi xây dựng hệ thống chỉ

tiêu hiệu quả có ý nghiã kinh tế cao, phản ánh trung thực, khách quan tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp. Muốn vậy, chúng ta
phải xét đến tính chất, đặc thù riêng của ngành xây dựng.
1/ Một vài đặc điểm chính của sản xuất kinh doanh xây dựng và sản phẩm
xây dựng
Ngành xây dựng bao gồm các hoạt động: Xây dựng mới, mở rộng, khôi
phục nhà cửa, vật kiến trúc; lắp đăt các thiết bò trong các công trình; sửa chữa
lớn các công trình xây lắp phục vụ sản xuất, đời sống xã hội và dân cư; hoạt
động thi công cơ giới phục vụ cho việc xây dựng các công trình xây lắp. Trong
xây dựng việc “sản xuất cái gì” và “sản xuất cho ai” đã được các chủ đầu tư nêu
yêu cầu rất cụ thể, rất chi tiết trong hợp đồng xây dựng và trong bản thiết kế.
Đối với các nhà thầu phải nghiên cứu phương thức tổ chức thực hiện như thế nào
để vừa bảo đảm được chất lượng công trình vừa tiết kiệm được chi phí, rút ngắn
thời gian xây dựng sao cho giá bán (giá dự thầu) có thể cạnh tranh được. Do vậy,
sản xuất kinh doanh xây dựng và sản phẩm xây dựng có những đặc điểm chính
sau:
- Hoạt động xây dựng phần lớn có qui mô lớn, đầu tư nhiều vốn, thời gian
xây dựng dài có khi từ 5 –10 năm. Hoạt động xây dựng tạo ra tài sản cố đònh có
tính lâu bền (có giá trò lớn và thời hạn sử dụng lâu dài).
♦ Luận văn cao học

12


- Điạ điểm tiến hành xây dựng 1 công trình được cố đònh tại nơi nhất đònh.
Do đó hoạt động xây dựng chòu tác động của điạ chất công trình, thủy văn và
điều kiện thời tiết khí hậu. Sản phẩm xây dựng được đặt cố đònh tại đòa điểm
xây dựng, chòu tác động về giá cả nguyên vật liệu, giá nhân công, … tại nơi xây
dựng. Từ đặc điểm này giá của từng bộ phận công trình, từng sản phẩm xây
dựng khác nhau kể cả khi sử dụng cùng một bản thiết kế đònh hình. Do đó mỗi

sản phẩm xây dựng đều có giá thích hợp với từng điạ phương cụ thể.
- Hoạt động xây dựng là hoạt động sản xuất vật chất mang tính đơn chiếc
theo hợp đồng đặt hàng thông qua đấu thầu hoặc chỉ đònh thầu, tức là người bán
(các nhà thầu xây dựng) và người mua (chủ đầu tư) được biết rõ từ đầu. Nhà
thầu xây dựng không bán sản phẩm xây dựng nhận thầu ấy cho người khác được.
Do đó trong giá nhận thầu (đơn giá hoặc giá hợp đồng) phải bao gồm đủ các chi
phí và phải thêm cả thuế và lãi đònh mức, tức là lãi phải được dự tính trước khi
thực hiện hợp đồng thi công xây dựng chứ không phải sau khi có sản phẩm xây
dựng hoàn thành mới tính. Cuối cùng, lãi thực được tính lại trên cơ sở lấy thu bù
chi mà có sau khi kết thúc chu kỳ hoạt động. Trong khi sản xuất kinh doanh các
sản phẩm hàng hoá khác, một người bán có thể có nhiều người mua thì mức lãi
đó tùy thuộc rất nhiều vào giá cả mà người bán thương lượng được với các người
mua khác nhau.
- Sản phẩm xây dựng thường có qui mô lớn cả về kích thước lẫn tiền vốn;
thời gian xây dựng dài. Trong khi đó các doanh nghiệp xây dựng và chủ đầu tư
hàng năm đều cần phải kiểm tra lại việc thực hiện công tác xây dựng một cách
toàn diện (thực hiện kế hoạch sản xuất – kỹ thuật – tài chính hàng năm).
- Việc mua bán sản phẩm xây dựng không phải là một hành vi đơn giản
mà là một quá trình.

♦ Luận văn cao học

13


- Thò trường của hoạt động xây dựng là thò trường cạnh tranh giữa những
người bán. Có thể hiểu các nhà thầu bán sản phẩm theo “đơn đặt hàng” thông
qua đấu thầu và hợp đồng xây dựng. Cuộc cạnh tranh giữa các người bán làm
cho giá bán sản phẩm thường là bò giảm dần. Tất nhiên, trong hoạt động kinh
doanh bình thường người ta không thể bán sản phẩm của mình với giá thấp hơn

giá thành. Do đó trong thò trường cạnh tranh của ngành xây dựng, việc xác đònh
và kiểm soát được các chi phí đối với các doanh nghiệp là một yêu cầu cực kỳ
quan trọng, quyết đònh sự tồn tại của doanh nghiệp.
2/ Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của
doanh nghiệp xây lắp
Khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp xây lắp cần phải đảm bảo được các nguyên tắc sau:
- Hệ thống chỉ tiêu phải xuất phát từ yêu cầu quản lý, phát triển sản xuất
kinh doanh và đánh giá được hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, bên cạnh đó
chúng phải có giá trò, ý nghiã thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh tế
của Nhà nước.
- Hệ thống chỉ tiêu phải phù hợp với đặc thù của ngành xây dựng, phản
ánh đúng thực trạng tồn tại khách quan của hiệu quả kinh tế trong từng thời kỳ.
Do vậy, đòi hỏi doanh nghiệp phải tính toán đầy đủ và chính xác từng chỉ tiêu
kết quả và chi phí được chọn lựa.
- Hệ thống chỉ tiêu phải phản ánh đầy đủ cả mặt chất và mặt lượng, đồng
thời đảm bảo tính thống nhất giữa hai mặt chất và lượng của hiệu quả kinh tế.
Có như vậy hệ thống chỉ tiêu ở đây mới có thể mang tính đại diện và là cơ sở để
so sánh hiệu quả giữa các doanh nghiệp, các ngành.

♦ Luận văn cao học

14


3/ Xác đònh các chỉ tiêu kết quả, chi phí được sử dụng tính các chỉ tiêu hiệu
quả kinh tế của doanh nghiệp xây lắp
Trước tiên, muốn lựa chọn các chỉ tiêu kết quả và chỉ tiêu chi phí đúng
đắn, phù hợp với yêu cầu trong thực tiễn và đảm bảo đo lường được hiệu quả
kinh tế của doanh nghiệp là phải có cách nhìn tổng quan về các chỉ tiêu kết quả

và chi phí trên cơ sở hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) của Liên hiệp quốc
đang được nhiều tổ chức và các nước trên thế giới sử dụng như: Ngân hàng Thế
giới, Anh, Pháp, Mỹ, …
Ở Việt Nam từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền
kinh tế thò trường theo đònh hướng xã hội chủ nghiã, để phù hợp, thuận tiện trong
việc tính toán, so sánh, đối chiếu các chỉ tiêu kinh tế của Việt Nam với các nước
trên thế giới, Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành Quyết Đònh 183 – Ttg ngày
25/12/1992 về việc thực hiện và dùng các thuật ngữ SNA. Với sự giúp đỡ của
Liên hiệp quốc, Tổng cục thống kê đã triển khai áp dụng từng bước thay thế hệ
thống sản xuất vật chất (MPS) trước đây nhằm phục vụ cho nghiên cứu và quản
lý kinh tế vi mô, vó mô theo cơ chế kinh tế thò trường mới.
Theo SNA để phản ảnh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp và cũng để lượng hóa trình độ phát triển kinh tế của một nước,
người ta dựa vào các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp biểu hiện bằng tiền (hoặc sản
phẩm) để đánh giá. Còn hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là
quá trình sản xuất mở rộng có các yếu tố đầu vào và đầu ra. Đầu vào là các yếu
tố sản xuất kinh doanh, đầu ra là kết quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh
doanh, là những sản phẩm mang lại lợi ích tiêu dùng xã hội được thể hiện là sản
phẩm vật chất hoặc dòch vụ. Những sản phẩm này phải phù hợp với lọi ích kinh
tế và phải được người tiêu dùng chấp nhận.

♦ Luận văn cao học

15


Dưới đây nghiên cứu chỉ tiêu kết quả và chỉ tiêu yếu tố sản xuất của
doanh nghiệp để tính hệ thống chỉ tiêu hiệu quả của doanh nghiệp làm cơ sở
nghiên cứu cho doanh nghiệp xây lắp.
a) Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất

Để phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể sử
dụng các chỉ tiêu:
- Giá trò sản xuất
- Khối lượng sản phẩm hiện vật hay hiện vật quy ùc đã sản xuất hay tiêu
thụ trong năm.
- Sản lượng hàng hóa thực hiện hay doanh thu.
- Giá trò tăng thêm
- Lợi nhuận
Dó nhiên, không phải tất cả các chỉ tiêu trên đây đều được sử dụng để tính
các chỉ tiêu hiệu quả, mà theo tôi phải căn cứ vào khái niệm, bản chất và tiêu
chuẩn của hiệu quả kinh tế để chọn lựa, xác đònh nghiã là các chỉ tiêu phải có ý
nghiã kinh tế, phản ánh được thực chất hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp xây lắp.
Khối lượng sản phẩm tính theo đơn vò hiện vật biểu hiện rõ ràng sản
lượng mà doanh nghiệp đã cung cấp cho nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ
nào đó. Nó là cơ sở để tính chỉ tiêu sản lượng bằng tiền, là nguồn số liệu để lập
bảng cân đối sản phẩm vật chất của nền kinh tế quốc dân. Nhưng khối lượng
tính theo đơn vò sản phẩm hiện vật có nhược điểm là không tổng hợp được kết
quả chung trong các doanh nghiệp hoạt động nhiều ngành và sản xuất nhiều loại
sản phẩm khác nhau. Không những thế, khối lượng sản phẩm tính theo đơn vò
hiện vật chỉ mới tính được sản phẩm hoàn thành mà chưa tính được sản phẩm

♦ Luận văn cao học

16


làm dở dang hoặc các sản phẩm dòch vụ sản xuất phi vật chất. Do vậy, không
phản ánh đầy đủ toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong kỳ.
Sản lượng hàng hóa và dòch vụ tiêu thụ trong kỳ đối với doanh nghiệp xây

lắp là toàn bộ thu nhập của doanh nghiệp về tất cả hoạt động sản xuất kinh
doanh đã tạo ra trong kỳ hoặc ở kỳ trước nhưng tới kỳ này mới được thanh toán,
trong đó chủ yếu là giá trò hạng mục công trình được bên A nghiệm thu và thanh
toán. Chỉ tiêu sản lượng hàng hóa và dòch vụ thực hiện trong kỳ có ý nghóa quan
trọng, vì chỉ khi nào hoàn thành kế hoạch chỉ tiêu này doanh nghiệp mới hoàn
thành nhiệm vụ cơ bản của mình là sản xuất và cung cấp sản phẩm cho tiêu
dùng xã hội, tích lũy vốn để tái sản xuất mở rộng. Chỉ tiêu này hiện nay không
thuộc chế độ báo cáo theo pháp lệnh Nhà nước. Đối với doanh nghiệp xây lắp
vẫn tính toán và sử dụng để đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Tuy nhiên bất hợp lý trong chỉ tiêu tiêu này là tính trùng kết quả giữa
các thời kỳ, đem kết quả sản xuất của các kỳ trước tính cho kết quả tiêu thụ của
kỳ này, do vậy không đảm bảo tính chất so sánh về phạm vi thời gian và thống
nhất về nội dung kinh tế của kết quả sản xuất.
Trong thực tế người ta thường sử dụng chỉ tiêu giá trò sản xuất, lợi nhuận
để tính toán các chỉ tiêu đo lường, đánh giá hiệu quả kinh tế của một doanh
nghiệp. Mỗi chỉ tiêu phản ánh những góc độ nghiên cứu khác nhau, tuy nhiên đối
với chỉ tiêu giá trò sản xuất nhược điểm lớn nhất là tính trùng, không chỉ thế việc
tính toán cũng gây không ít rắc rối cho đơn vò. Theo tôi nên sử dụng cả chỉ tiêu
giá trò tăng thêm để so sánh, phân tích kinh tế đối với doanh nghiệp xây lắp.
Những lý do cần thiết tôi chọn 3 chỉ tiêu này để phản ánh kết quả sản xuất kinh
doanh vì:
- Giá trò sản xuất là chỉ tiêu phản ánh đầy đủ toàn bộ giá trò của cải vật
chất và dòch vụ do doanh nghiệp tạo ra trong môt thời kỳ nhất đònh. Do đó trong
♦ Luận văn cao học

17


chỉ tiêu giá trò sản xuất chứa đựng toàn bộ chi phí để sản xuất ra sản phẩm vật
chất và dòch vụ. Trong phần sản phẩm vật chất là sản phẩm xây dựng có cả phần

chi phí trung gian là nguyên, nhiên vật liệu, chi phí dòch vụ (không phải do
ngành xây dựng tạo ra mà do các ngành khác như công nghiệp, vận tải, bưu
điện, … tạo ra) được tính vào trong đây. Do vậy, khi sử dụng giá trò sản xuất để
tính một số chỉ tiêu hiệu quả như hiệu năng, năng suất lao động bình quân thì khi
nhìn vào kết quả đó khó có thể so sánh, ước lượng được đâu là kết quả thực do
ngành xây dựng tạo ra, vì trong kết quả đó còn có cả của ngành khác. Trong
thực tế hiện nay có rất nhiều công trình xây dựng sử dụng nguyên vật liệu hiếm,
cao cấp do bên A cung cấp và họ không muốn tiết lộ đầy đủ những thông tin chi
tiết về giá cả của chúng, nên khi tính giá trò sản xuất xây lắp rất khó xác đònh và
tính chính xác chi phí trung gian cấu thành giá trò sản xuất xây lắp.
- Đối với các doanh nghiệp nhà nước còn có một số doanh nghiệp hoạt
động công ích (rất ít) với mục đích ra đời và hoạt động không chỉ vì lợi nhuận mà
cơ bản về lâu dài vì những mục tiêu kinh tế xã hội của nhà nước. Theo mục đích
thành lập, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động ngành xây dựng được chia
thành hai loại: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh nhằm mục đích giữ
vốn và thu lợi nhuận, còn doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích sản xuất và
cung ứng dòch vụ công cộng như thực hiện các công trình duy tu sửa chữa, nâng
cấp đường, lắp đặt hệ thống cống rãnh, … khi thực hiện các công trình này đều có
khoản lãi đònh mức do Nhà nước qui đònh. Theo SNA, trong phân tổ các đơn vò
kinh tế của nền kinh tế quốc dân theo khu vực thể chế, các doanh nghiệp nhà
nước nhóm thứ nhất thuộc khu vực tài chính hay phi tài chính, còn các doanh
nghiệp nhóm thứ hai thuộc khu vực quản lý nhà nước hoặc vô vò lợi hoạt động
không vì lợi nhuận, đôi khi có thể trực tiếp thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc
phòng. Như vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh tế đối với số ít các doanh nghiệp
♦ Luận văn cao học

18


hoạt động công ích nếu sử dụng lợi nhuận làm thước đo và một số chỉ tiêu hiệu

quả như doanh lợi để so sánh với các loại hình doanh nghiệp khác cần phải xem
xét cụ thể từng trường hợp.
- Giá trò tăng thêm của doanh nghiệp là toàn bộ giá trò các sản phẩm vật
chất và dòch vụ do doanh nghiệp sáng tạo thêm trong một thời kỳ. Giá trò tăng
thêm là chỉ tiêu phản ánh một cách trung thực và đúng đắn kết quả cuối cùng
của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hơn là chỉ tiêu
giá trò sản xuất. Tổng giá trò tăng thêm của các ngành sản xuất xã hội sáng tạo
ra trên lãnh thổ quốc gia sẽ tạo thành chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước
(GDP). Do vậy, giá trò tăng thêm là một chỉ tiêu cơ bản nhất và cực kỳ quan
trọng trong hệ thống chỉ tiêu kết quả sản xuất.
- Nếu như để tính tốc độ phát triển hay tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
qua chỉ tiêu GDP bình quân đầu người qua các thời kỳ từng khu vực, từng quốc
gia thì theo tôi, chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng chỉ tiêu giá trò tăng thêm bình
quân đầu người để so sánh trình độ phát triển của từng doanh nghiệp hoạt động
trong cùng ngành, kể cả những doanh nghiệp hoạt động công ích như trên đã
trình bày, thậm chí cả những doanh nghiệp hoạt động trên nhiều lónh vực, ngành
nghề khác nhau. Đây còn là cơ sở căn cứ để so sánh, đánh giá về hiệu quả các
mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
b) Các chỉ tiêu phản ánh chi phí của doanh nghiệp xây lắp
Về chi phí, nhìn chung có thể chia thành 2 nhóm:
Ü Nhóm chi phí tạo ra nguồn lực: là những chi phí tạo ra những điều kiện cho
hoạt động thi công xây lắp của doanh nghiệp. Thuộc nhóm này gồm các chỉ
tiêu:
- Số vốn sản xuất hay gọi vốn kinh doanh của doanh nghiệp bình quân
trong năm
♦ Luận văn cao học

19



Trong đó: Vốn cố đònh bình quân trong năm
Vốn lưu động bình quân trong năm
- Số lao động bình quân
- Số lượng, công suất một số loại tài sản cố đònh và máy móc thiết bò thi
công chủ yếu của doanh nghiệp.
- Diện tích đất đai được doanh nghiệp quản lý và sử dụng vào hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Ü Nhóm chi phí thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh: là các khoản
chi phí thực tế đã tiêu hao trong quá trình thực hiện thi công các công trình
xây dựng. Thuộc loại này gồm các chỉ tiêu:
- Tổng chi phí sản xuất (hay tổng giá thành)
Trong đó:
+ Chi phí trung gian
+ Khấu hao TSCĐ
+ Chi phí về lao động sống (lương hoặc thù lao lao động)
Để tính toán chỉ tiêu hiệu quả kinh tế đối với chi phí sản xuất trong hoạt
động xây lắp nhận thầu, chúng ta sẽ phân chia chi phí thành 2 loại: chi phí và
nguồn lực. Về chi phí được tổng hợp các khoản thực tế đã chi. Về nguồn lực việc
tính toán hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Chẳng hạn để tổng hợp toàn bộ
nguồn lực của doanh nghiệp người ta phải tính đổi toàn bộ nguồn lực sản xuất
như vốn cố đònh, vốn lưu động, lao động, đất đai về một đơn vò tính toán thống
nhất (thường tính bằng tiền). Khi tính chuyển gặp khó khăn ở chỗ biểu hiện
bằng tiền của đất đai và lao động. Vì rằng hiện nay Nhà nước chưa qui đònh rõ
ràng, cụ thể giá cả của các loại đất đai (đối với doanh nghiệp Nhà nước) khác
nhau mà doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh
doanh. Hơn nữa, đất đai lại phụ thuộc rất nhiều yếu tố như biến động của thò
♦ Luận văn cao học

20



trường bất động sản, vò trí điạ lý, … Tương tự nguồn lực lao động cũng vậy, chúng
ta chỉ có thể tính được chi phí sử dụng lao động, nhưng khó khăn ở đây là làm
sao tính đúng được các khoản chi phí đã sử dụng để đào tạo ra nguồn lực đó,
năng lực, kinh nghiệm của mỗi cá nhân người lao động, ... vì vậy nguồn lực là
vấn đề mới và hết sức phức tạp, khó có thể tính toán trong thực tế hiện nay.
Do trong phạm vi đề tài nghiên cứu, đối với nhóm chỉ tiêu tạo ra nguồn
lực tôi chọn chỉ tiêu vốn sản xuất, vốn cố đònh, vốn lưu động, số lao động. Còn
đối với nhóm chỉ tiêu phản ánh chi phí thường xuyên tôi chọn chỉ tiêu được sử
dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh là toàn bộ chi phí sản xuất thường xuyên
trong năm, vì nó bao hàm tất cả các khoản chi phí chủ yếu trong kỳ sản xuất.

♦ Luận văn cao học

21


PHƯƠNG PHÁP TÍNH CÁC CHỈ TIÊU KẾT QUẢ VÀ CHI PHÍ
ĐỂ TÍNH CÁC CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ KINH TẾ
CỦA DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
Việc chọn lưạ các chỉ tiêu kết quả và chi phí ở chương 1 khi kết hợp với
nhau theo phương pháp xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của
doanh nghiệp xây lắp ta có thể có được các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả bộ phận
và chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tổng hợp có ý nghiã thiết thực, phù hợp với thực tế
hiện nay. Vấn đề đặt ra ở chương này là làm sao xây dựng được phương pháp
tính cho từng chỉ tiêu kết quả và chi phí với yêu cầu đảm bảo đầy đủ nội dung,
thống nhất trong cùng kỳ nghiên cứu và dễ dàng thực hiện cho doanh nghiệp.
I – PHƯƠNG PHÁP TÍNH CÁC CHỈ TIÊU KẾT QUẢ VÀ CHI PHÍ ĐƯC
SỬ DỤNG TÍNH CÁC CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP

1/ Phương pháp tính các chỉ tiêu biểu hiện kết quả
a) Giá trò sản xuất (GO = c + v + m)
Giá trò sản xuất của doanh nghiệp là toàn bộ của cải vật chất và kết quả
dòch vụ do doanh nghiệp tạo ra trong một thời kỳ nhất đònh và được biểu hiện
bằng giá trò. Giá trò sản xuất bao gồm giá trò của những kết quả hoạt động sản
xuất sản phẩm vật chất và giá trò những kết quả hoạt động phi vật chất, là chỉ
tiêu tổng hợp toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp xây
lắp nhận thầu trong một thời kỳ nhất đònh được biểu hiện bằng giá trò. Đây là
căn cứ để kiểm tra và đánh giá toàn diện tình hình sản xuất kinh doanh của một
đơn vò xây dựng.

♦ Luận văn cao học

22


Trong thực tế khi tổng hợp báo cáo tôi nhận thấy có không ít đơn vò hoạt
động ngành xây dựng (nhất là các đơn vò ngoài quốc doanh) thường ngộ nhận và
sử dụng chỉ tiêu doanh thu làm giá trò sản xuất. Chính vì thế việc tính toán chỉ
tiêu giá trò sản xuất thường sai lệch, không đảm bảo đầy đủ các yếu tố. Do vậy,
tôi muốn trình bày nội dung cách tính giá trò sản xuất của doanh nghiệp xây lắp
thể hiện qua 2 cách theo doanh thu như sau:
♦ Cách 1: Giá trò sản xuất của doanh nghiệp bằng tổng các yếu tố sau:
+ Doanh thu thuần về sản xuất chính.
+ Thuế VAT phải nộp.
+ Chênh lệch số dư cuối kỳ và đầu kỳ về sản phẩm dở dang, chi phí xây
lắp và sửa chữa lớn dở dang.
+ Doanh thu cho thuê máy móc, thiết bò dùng cho xây dựng cơ bản có
người điều khiển đi theo.
+ Doanh thu bán phế liệu, phế phẩm dưới dạng phế liệu thu hồi được

trong quá trình sản xuất.
+ Doanh thu các hoạt động sản xuất phụ khác của đơn vò không đủ cơ sở
thông tin để tách riêng đưa về các ngành thích hợp.
Đối với các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất chính là xây dựng thường
có các hoạt động sản xuất phụ khác chủ yếu là ngành thương mại như kinh
doanh vật liệu xây dựng, kinh doanh nhà; ngành công nghiệp như sản xuất các
loại vật liệu xây dựng, chế tạo máy; ngành vận tải chủ yếu là vật liệu xây dựng
và một số ngành dòch vụ khác như tư vấn xây dựng, mô giới … (giá trò sản xuất
của tất cả các ngành này được trình bày trong phần phụ lục). Theo qui đònh của
ngành thống kê nếu giá trò sản xuất của các hoạt động sản xuất phụ khác dưới
mức 15 % so với giá trò sản xuất chung thì được tính vào kết quả sản xuất chính.
♦ Cách 2: Giá trò sản xuất của doanh nghiệp bằng tổng các yếu tố sau:
♦ Luận văn cao học

23


+ Chi phí sản xuất theo yếu tố thực hiện trong năm về hoạt động xây
dựng, lắp đặt và sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc.
+ Thuế VAT phải nộp.
+ Lợi tức từ hoạt động kinh doanh của các hoạt động trên.
+ Doanh thu về cho thuê máy móc, thiết bò có người điều khiển kèm theo
dùng cho xây lắp và sửa chữa nhà cửa, vật kiến trúc.
+ Doanh thu về bán phế liệu, phế phẩm dưới dạng phế liệu thu được trong
quá trình sản xuất.
+ Doanh thu các hoạt động sản xuất phụ khác của các đơn vò không có đủ
cơ sở thông tin để tách riêng đưa về các ngành thích hợp (dưới mức 15 % so với
giá trò sản xuất chung).
Hầu hết nội dung các khoản mục trong 2 cách tính trên đây đều giống
nhau. Sự khác nhau thể hiện ở 2 khoản mục chính trong cách 1 (doanh thu thuần

về sản xuất chính và chênh lệch số dư cuối kỳ và đầu kỳ về sản phẩm dở dang, chi
phí xây lắp và sửa chữa lớn dở dang) được tính bằng với 2 khoản mục chính trong
cách 2 (chi phí sản xuất theo yếu tố thực hiện trong năm về hoạt động xây dựng,
lắp đặt và sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc và lợi tức từ hoạt động kinh doanh
của các hoạt động trên). Cách 1 tính trên cơ sở doanh thu thực hiện sau khi công
trình hoàn thành bàn giao được nghiệm thu thanh toán, còn cách 2 được tính từ
các khoản mục chi phí thực tế phát sinh trong kỳ. Hai cách tính dựa trên phưong
trình Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí.
Tuy nhiên, khi áp dụng tính toán đối với các doanh nghiệp xây lắp nhận
thầu, sửa chữa lớn và các doanh nghiệp chuyên thi công cơ giới phục vụ cho xây
dựng, cần chú ý:
- Doanh thu sản xuất chính là doanh thu về xây dựng, lắp đặt, sửa chữa
lớn nhà cửa, vật kiến trúc, tùy theo nhiệm vụ chính của từng đơn vò. Nguồn số
♦ Luận văn cao học

24


×