Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

skkn đặc TRƯNG CHỦ NGHĨA LÃNG mạn QUA NHỮNG tác PHẨM văn học LÃNG mạn VIỆT NAM TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ văn THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.05 KB, 49 trang )

a

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BẢN ĐĂNG KÍ SÁNG KIẾN NĂM HỌC 2014 - 2015
TÊN SÁNG KIẾN: ĐẶC TRƯNG CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN QUA
NHỮNG TÁC PHẨM VĂN HỌC LÃNG MẠN VIỆT NAM
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT

Giáo viên:

1. Vũ Thị Yến
2. Lê Trâm Anh

Đơn vị công tác: Tổ Ngữ văn
Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

Ninh Bình, tháng 5 năm 2015


BẢN ĐĂNG KÝ SÁNG KIẾN NĂM HỌC 2014 - 2015
I. Tên sáng kiến
ĐẶC TRƯNG CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN QUA NHỮNG TÁC PHẨM
VĂN HỌC LÃNG MẠN VIỆT NAM TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN
THPT
II. Đồng tác giả sáng kiến
1. Vũ Thị Yến

2. Lê Trâm Anh


Chức danh: Giáo viên

Chức danh: Giáo viên

Đơn vị công tác : trường THPT chuyên

Đơn vị công tác : Trường THPT chuyên

Lương Văn Tụy

Lương Văn Tụy

Trình độ chuyên môn : Thạc sỹ Ngữ văn Trình độ chuyên môn : Thạc sĩ Ngữ văn
Email:

Email:

Số điện thoại: 01689445274

Số điện thoại: 0984961912

III. Nội dung sáng kiến
1. Giải pháp cũ thường làm
- Trước đây, khi giảng dạy, hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản văn học,
đôi khi giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh tìm hiểu những chi tiết, câu từ, biện pháp
nghệ thuật vụn vặt rồi khái quát đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Vì vậy, những lớp trầm tích ý nghĩa và nhiều phương diện nghệ thuật của tác phẩm
chưa được phát lộ.
- Qua thực tế giảng dạy, tìm hiểu thực trạng dạy và học môn Ngữ văn ở các
trường THPT, chúng tôi thấy một nhược điểm phổ biến là học sinh chỉ nắm được

từng tác phẩm cụ thể, mà chưa có cái nhìn tổng thể hay kiến thức lý luận khái quát
về đặc trưng thể loại, hay đặc trưng của trào lưu, phương pháp sáng tác… Vì vậy,
trong quá trình đọc hiểu và làm văn, học sinh chưa có một phương pháp khoa học,
hệ thống, chưa có kỹ năng so sánh các tác phẩm cùng trào lưu, xu hướng trong
những nền văn học khác nhau (theo kiểu so sánh đồng đại và lịch đại).
2


Ví dụ: Sách giáo khoa phổ thông hiện hành đều giới thiệu, chọn lọc những
văn bản ở văn học trong nước và nước ngoài có cùng thể loại nhưng hầu như học
sinh chỉ chú trọng các văn bản văn học Việt Nam, bỏ qua văn học nước ngoài, học
một cách chiếu lệ (vì văn học nước ngoài không sử dụng trong những bài thi, kiểm
tra quan trọng giữa kì, cuối kì). Chính vì vậy khi tìm hiểu các tác phẩm văn học
Việt Nam, thì hầu hết các em chưa có ý thức so sánh với văn học nước ngoài. Đặc
biệt là sự tiếp thu ảnh hưởng của văn học Việt Nam thời trung đại với văn học cổ
Trung Hoa và văn học lãng mạn Việt Nam 1932-1945 với văn học lãng mạn
Pháp…. Nếu có kiến thức lí luận và cái nhìn so sánh, các em sẽ thấy rằng, tuy cùng
viết theo đặc trưng của văn học trung đại hoặc văn học lãng mạn, nhưng các tác giả
văn học Việt Nam đã có sự cách tân, thổi vào trong sáng tác của mình điệu hồn
riêng của con người Việt Nam. Vì vậy, một nhược điểm phổ biến là nhiều bài viết
của học sinh thường khá hời hợt, rơi vào cảm nhận chung chung, không đạt kết quả
cao.
- Một nền văn học mới ra đời bao giờ cũng gắn liền với quan niệm về con
người mới và thể loại hình thức mới của sáng tác nghệ thuật. Mỗi tác giả khi cầm
bút sáng tác, bản thân tác giả đã “hít thở” bầu không khí của thời đại, chứng kiến
những đổi thay của lịch sử, điều đó góp phần không nhỏ khơi nguồn, nuôi dưỡng
cảm hứng sáng tạo cho tác giả. Cũng chính vì thể mà mỗi trang văn đều soi bóng
thời đại mà nó ra đời (Tô Hoài), tác phẩm nào cũng có mối quan hệ mật thiết với
thời đại mà nó sinh ra, đồng thời nó mang dấu ấn phong cách, cá tính sáng tạo của
tác giả, mang dấu ấn kế thừa văn học thời đại trước và dự báo những phát triển tiếp

theo của văn học giai đoạn sau. Khi tìm hiểu các tác phẩm văn học Việt Nam học
sinh thường tách rời văn bản với hoàn cảnh ra đời (hoàn cảnh rộng và hoàn cảnh
hẹp) mà không hiểu rằng chính những chi phối tác động của hoàn cảnh đã góp
phần không nhỏ tạo nên đặc trưng thể loại văn bản, quan niệm thẩm mĩ, thi pháp
của văn học thời đại đó mà tác giả thể hiện qua nội dung và hình thức của văn bản
nghệ thuật.
Như vậy có thể kết luận rằng để hướng dẫn học sinh đọc hiểu, phân tích,
khám phá, giải mã văn bản nghệ thuật đạt hiệu quả cao, để học sinh có những rung
3


động thẩm mĩ thì giáo viên cần cung cấp, trang bị cho học sinh cho học sinh không
đơn giản là kiến thức cơ bản về tác phẩm (vì những nội dung kiến thức về tác
phẩm đã được tập hợp trình bày ở rất nhiều nguồn tài liệu tham khảo, hướng dẫn
học tốt của các em) mà quan trọng hơn giáo viên giúp các em có kĩ năng tự tìm
hiểu, tự khám phá, nhìn nhận vấn đề trên phương diện tư duy lí luận chắc chắn,
vững vàng, tích hợp tri thức từ nhiều nguồn, nhiều lĩnh vực để hiểu tác phẩm như
một chủ thể độc lập và sáng tạo. Đây cũng chính là một trong những đích cần đạt
tới của giáo dục Việt Nam hiện nay.
2. Giải pháp mới cải tiến
- Chủ nghĩa lãng mạn là một hiện tượng văn học quan trọng nhất của thế kỷ
XIX ở phương Tây, đồng thời đây cũng là một khuynh hướng lớn của văn học Việt
Nam từ 1932 - 1945, có ý nghĩa tích cực thúc đẩy nền văn học nước nhà phát triển
theo hướng hiện đại.
Nói về các nhà thơ lãng mạn, nhà phê bình Hoài Thanh trong bài Một thời
đại trong thi ca đã có những quả quyết đầy chắc chắn và tự hào: Tôi quyết rằng
trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại
này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc hồn thơ rộng mở như Thế
Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như
Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như

Chế Lan Viên…, và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. Bên cạnh đó là
những cây bút văn xuôi lãng mạn như Nguyễn Tuân, Thạch Lam. Họ đều là những
trí thức dân tộc có công lớn trong công cuộc cách tân, hiện đại hoá, đưa văn học
Việt Nam trong một thời gian ngắn ngủi có bước chuyển mình mạnh mẽ, đủ sức
hoà nhập cùng dòng chảy của văn học thế giới hiện đại. Nói về điều này, nhà phê
bình Vũ Ngọc Phan đầy cảm kích : ở nước ta một năm có thể kể như ba mươi năm
của người.
Vì vậy tìm hiểu Đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn chúng ta đã có trong tay
chìa khóa để mở ra thế giới muôn màu sắc của văn chương nhân loại và văn học
Việt Nam. Đặc biệt, với đề tài này chúng tôi sẽ có điều kiện đối chiếu văn học lãng
4


mạn Việt Nam và phương Tây để thẩm thấu được bản sắc riêng của văn học mỗi
dân tộc.
- Khi tìm hiểu Đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn, giáo viên sẽ trang bị cho
học sinh những kiến thức lý luận quan trọng về đặc trưng của một phương pháp
sáng tác lớn trong văn học Việt Nam và văn học nước ngoài, đây là kim chỉ nam
góp phần giúp các em đọc hiểu được các tác phẩm văn học lãng mạn một cách chủ
động và khoa học.
Tìm hiểu Đặc trưng chủ nghĩa lãng mạn qua những tác phẩm cụ thể trong
chương trình, học sinh còn có cái nhìn tích hợp, tổng quát về mối quan hệ giữa tác
phẩm với phong cách tác giả, bối cảnh thời đại (những vấn đề về lịch sử, chính trị
xã hội ảnh hưởng đến tác giả và tác phẩm). Đồng thời học sinh sẽ được so sánh các
hiện tượng vănhọc trong cùng một giai đoạn (mối quan hệ giữa văn học hiện thực
và lãng mạn...)
- Hơn nữa, các tác phẩm văn học lãng mạn (thơ và văn xuôi) được chọn lọc
đọc hiểu trong chương trình THPT đều là những tác phẩm xuất sắc của những tác
giả lớn. Trong xu hướng đổi mới của giáo dục theo hướng phát triển năng lực học
sinh, đây vẫn là những tác phẩm có giá trị vững bền, góp phần không nhỏ trong

việc bồi đắp tâm hồn, hoàn thiện nhân cách cho học sinh biết sống yêu thương,
nhân ái, hoà nhập cùng cộng đồng, nhận biết và trân trọng giữ gìn những giá trị
đích thực của cuộc sống. Đây cũng là những tác phẩm thuộc trọng tâm kiến thức
để ôn thi THPT Quốc gia, thi học sinh giỏi các cấp… Vì vậy nghiên cứu về Đặc
trưng của chủ nghĩa lãng mạn có ý nghĩa thiết thực với giáo viên và học sinh trong
cả quá trình dạy và học.
Từ những lí do trên, chúng tôi thấy việc tìm hiểu Đặc trưng của chủ nghĩa
lãng mạn có ý nghĩa hết sức cần thiết và quan trọng.
IV. Thời gian áp dụng:
Các năm học : 2010 - 2011; 2011-2012; 2012-2013; 2013-2014; 2014-2015
V. Hiệu quả kinh tế và xã hội dự kiến đạt được
5


Là giáo viên dạy văn cấp THPT, tìm hiểu đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn,
cũng là một cách chúng tôi tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Hơn nữa, chúng tôi mong muốn qua đề tài này sẽ giúp học sinh tìm được một con
đường đi hiệu quả, để khám phá thế giới nghệ thuật phong phú trong những sáng
tác đặc sắc của các tác giả lớn. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để chúng tôi được
trao đổi với đồng nghiệp về một vấn đề lý luận văn học quan trọng.
Chúng tôi đã vận dụng sáng kiến này để, ôn thi học sinh giỏi tỉnh, thi
Ôlimpic Đồng bằng và duyên hải Bắc Bộ, bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia… ôn
thi Đại học, ôn thi THPT Quốc gia và đã đạt được những kết quả khả quan.
Cụ thể :
Kết quả
Năm học Thi HSG tỉnh Thi HSG Khu vực Thi HSG Quốc gia Thi ĐH
ĐBDH và BB
2010-2011 Lớp 12 Văn : 11
Điểm
TB

6/6
HS
đạt
giải
(2
giải (1 nhất, 4
môn Văn đạt
nhì,
1
ba,
2
khuyến
nhì, 6 ba )
7,87
khích
2011-2012
Lớp 10 Văn: 3/3 hs
đạt giải (2 Ba, 1
khuyến khích)
2012-2013

Lớp 10 Văn: 3/3 hs
đạt giải (1 nhì, 2
ba.)
2013-2014 Lớp 11 và 12 Lớp 11 Văn : 3/3 hs 3/6 hs đạt giải (3 Điểm TB môn
Văn : 15 giải ( 1 đạt giải (2 nhất, 1giải ba )
văn đạt 7,81
nhất, 8 nhì, 6 ba )
ba)
2014-2015 Lớp 12 Văn: 15

Đạt 5/6 hs đạt giải (2
giải (7 giải nhì,
nhì, 2 ba, 1 khuyến
8 giải ba)
khích)
VI. Điều kiện và khả năng áp dụng
Nội dung sáng kiến này có thể vận dụng rộng rãi trong quá trình dạy và học
các tác phẩm văn học lãng mạn Việt Nam, bậc TH. Các thầy cô giáo và học sinh có
6


thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, hội thảo chuyên đề; vận dụng tài liệu trong quá
trình soạn giảng, thiết kế giáo án, ôn luyện học sinh giỏi các cấp…để dạt hiệu quả
thiết thực, phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục theo hướng phát triển năng lực
học sinh hiện nay
Xác nhận của cơ quan, đơn vị

Tác giả sáng kiến
Vũ Thị Yến

Lê Trâm Anh

7


PHỤ LỤC
Chương 1: Khái quát chung về văn học lãng mạn
Đây là một trong những trào lưu văn hóa lớn nhất ở Âu – Mĩ vào cuối thế kỉ
XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX, có ảnh hưởng và có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển
của văn học toàn thế giới.

1. Cơ sở hình thành
1.1. Cơ sở xã hội
Thời đại của chủ nghĩa lãng mạn là một thời đại đặc biệt giàu biến động
(riêng nước Pháp, một trung tâm quan trọng của nền văn học châu Âu, vào đầu thế
kỉ đã trả qua hai mươi lăm năm liền cách mạng và chiến tranh liên tiếp). Cuộc đại
cách mạng tư sản năm 1789 đánh đổ chế độ phong kiến, thiết lập chế độ tư sản là
một bước ngoặt lịch sử vĩ đại, không những đối với nước Pháp, mà còn đối với cả
châu Âu. “Cả thế kỉ XIX diễn ra dưới khẩu hiệu của cách mạng Pháp” (Lê Nin).
Sự sụp đổ của chế độ phong kiến, và sự kiến tạo những quan hệ xã hội mới đã tác
động sâu xa đến tư tưởng, tình cảm của mọi tầng lớp xã hội. Một mặt, cách mạng
tư sản đã làm dấy lên sự bất mãn của những người đại biểu cho ý thức hệ quý tộc,
bất bình trước trật tự xã hội mới, lo sợ trước phong trào quần chúng, hoang mang
dao động vì tương lai mờ mịt, luyến tiếc thời oanh liệt nay không còn nữa. Mặt
khác, xã hội tư bản ra đời cũng vấp phải sự chống đối của nhiều tầng lớp nhân dân
lao động. Không phải họ chống lại lý tưởng của cách mạng, mà chỉ bất bình với
những thành quả thực tế của cách mạng. Cách mạng tư sản đã giương cao khẩu
hiệu đem lại “tự do – bình đẳng – bác ái” cho con người. Nhưng khi giai cấp tư sản
trở thành ông chủ của xã hội mới, họ đã quy định lại nội hàm của những khái niệm
này: Ai có tiền người ấy có tự do; không có tiền phải bán sức lao động. Xã hội trở
thành một đấu trường khốc liệt, nơi diễn ra những cảnh cá lớn nuốt cá bé. Thương
trường là đấu trường, quan hệ giữa người với người là quan hệ tiền nong sòng
phẳng đến ghê rợn. “Phương châm bác ái được thực hiện bằng những sự lừa bịp
và đố kị trong cạnh tranh… Thay cho thanh kiếm, đồng tiền đã trở nên đòn bẩy
quan trọng nhất của xã hội” (Ăngghen). Tâm lý thời đại dẫn đến sự ra đời của chủ
nghĩa lãng mạn là sự vỡ mộng của nhiều tầng lớp nhân dân trước cơ chế xã hội
8


mới. Nếu như chủ nghĩa hiện thực nhìn thẳng vào thực tại với thái độ phê phán;
văn học cách mạng nhìn vào thực tại với mong muốn cải tạo thế giới; thì chủ nghĩa

lãng mạn khi không bằng lòng với thực tại, đã khát khao vươn tới một xã hội lý
tưởng trong mơ ước.
Tóm lại: Sự sụp đổ của thể chế phong kiến, sự thắng lợi của quan hệ xã hội
tư sản và lòng bất bình của nhiều tầng lớp, giai cấp đối với trật tự xã hội mới là
tiền đề lịch sử của nền văn học lãng mạn châu Âu. Pha-ghê, một nhà nghiên cứu
văn học Pháp đã viết rằng: “Cơ sở của chủ nghĩa lãng mạn là sự ghê tởm đối với
thực tại và nguyện vọng mãnh liệt muốn thoát ra khỏi thực tại đó.”
1.2. Cơ sở ý thức
Chủ nghĩa lãng mạn ra đời còn do sự tác động của chủ nghĩa xã hội không
tưởng, mơ ước mang đến một tương lai hạnh phúc, tốt đẹp cho con người.
Thêm vào đó, triết học duy tâm cổ điển Đức cũng có mối liên hệ mật thiết
với sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn, ngay cả với chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Bởi vì
như Mác và Ăngghen đã nói, trong thời đại tư bản “khi mà những mối quan hệ phổ
biến đối với nhau giữa các dân tộc đang phát triển, thay thế cho tình trạng cô lập
trước kia giữa các dân tộc vẫn tự cung tự cấp” thì “những thành quả tinh thần của
một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc” (Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản). Sự thực thì chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức, tự bản thân nó cũng là một
trào lưu lãng mạn trong triết học. Đặc biệt chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Căng
đã nâng tâm linh con người lên địa vị làm chủ sáng tạo thế giới, nhấn mạnh thiên
tài, linh cảm, tính năng động chủ quan. Chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen
lại khẳng định con người là tuyệt đối vô hạn, là đỉnh cao của sự phát triển của tinh
thần thế giới. Gớt lại rất nhấn mạnh đặc trưng của cá tính… Những quan điểm triết
học và mĩ học đề cao con người này đã phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của chủ
nghĩa cá nhân trong xã hội tư sản cận đại. Mặt tích cực của nó là nâng cao sự tôn
nghiêm, khẳng định ý thức tự chủ ở con người. Tuy vậy, triết học và mĩ học duy
tâm cổ điển Đức lại đề cao con người tách khỏi thực tế xã hội và lịch sử. Những tư
tưởng triết học ấy có ảnh hưởng nhất định tới các nhà văn lãng mạn tích cực và
tiêu cực.
9



Trong bối cảnh đó đã xuất hiện nhiều khuynh hướng, nhiều trào lưu nghệ
thuật, trong đó có chủ nghĩa lãng mạn, có mặt trong lĩnh vực văn chương, hội họa,
âm nhạc...
2. Giới thuyết về khái niệm: chủ nghĩa lãng mạn trong văn học
Từ lãng mạn (romanticism, romantisme) xuất phát từ tình ca (romances) của
thời trung cổ, để chỉ những bài thơ dài nói về những chàng kỵ sĩ, những anh hùng,
về những vùng đất xa xôi và những cuộc tình lỡ làng.... Biêlinxki trong bài Văn
học Nga, năm 1841, định nghĩa: "Chủ nghĩa lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của
con người, thế giới của tâm hồn và trái tim".
Chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện vào cuối thế kỉ XVIII, nghĩa ban đầu là những
cái không có thực, chỉ tồn tại trong sách vở, trong trí tưởng tượng. Sang thế kỷ
XIX, chủ nghĩa lãng mạn không chỉ dừng lại ở đó, mà trở thành thế giới quan của
thời đại: cách nhìn, cách đánh giá, thẩm định thế giới. Đó là sự phản ứng mang
tính tích cực chống lại sự thống trị của tư sản. Chủ nghĩa lãng mạn là tiếng nói của
những con người có văn hóa, có lương tri, của những trí thức tiến bộ. Họ căm ghét
sự thống trị tư sản, vì giai cấp tư sản đã biến những lời hứa tốt đẹp của những nhà
triết học ánh sáng thành những bức tranh châm biếm, biến xã hội mơ ước thành
hiện thực đau thương, đẫm máu.
Chủ nghĩa lãng mạn như là sự tiếp nối của chủ nghĩa tình cảm. Đặc biệt là
Rút-xô, thể hiện tình yêu thương con người một cách hào hiệp. Nên các nhà văn
lãng mạn đã thể hiện thái độ chống lại thực tại tư sản, tạo ra một xã hội mới, tìm
lối thoát cho nhân loại bằng cách: Tìm về với quá khứ, với ánh hào quang của xã
hội nguyên thủy, với những đấng mình quân của xã hội phong kiến; hoặc tìm đến
một tương lai mới, mà ở đó chưa có giai cấp tư sản. Tuy nhiên cả hai lối thoát này
đều không có thực. Chủ nghĩa lãng mạn đã trở thành thế giới quan của châu Âu,
đem đến một luồng sinh khí, tạo nên sức mạnh cho nhân loại.
Văn học lãng mạn là tiếng nói của cá nhân tràn đầy tình cảm, cảm xúc, đồng
thời phát huy cao độ trí tưởng tượng để diễn tả những khát vọng, ước mơ. Nó coi
con người là trung tâm của vũ trụ, khẳng định “cái tôi” cá nhân, đề cao con người

thế tục, quan tâm đến những số phận cá nhân và những quan hệ riêng tư. Bất hòa
10


nhưng bất lực trước thực tại, văn học lãng mạn tìm cách thoát khỏi thực tại đó bằng
cách đi sâu vào thế giới nội tâm, thế giới của mộng ước. Xu hướng văn học này
thường tìm đến các đề tài: tình yêu, thiên nhiên, quá khứ, thể hiện khát vọng vượt
lên trên thực tại chật chội, tù túng, dung tục, tầm thường. Văn học lãng mạn
thường chú trọng diễn tả những cảm xúc mạnh mẽ, những tương phản gay gắt,
những biến thái tinh vi trong tâm hồn con người. Sự ra đời của văn học lãng mạn
đã góp phần quan trọng vào việc thức tỉnh ý thức cá nhân, đấu tranh chống luân lý,
lễ giáo phong kiến cổ hủ để giải phóng cá nhân, giành quyền hưởng hạnh phúc cá
nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực tình yêu, hôn nhân, gia đình. Nó góp phần làm cho
tâm hồn con người thêm tinh tế, phong phú, giúp họ thêm yêu thương mảnh đất
quê hương, quý trọng tiếng mẹ đẻ, tự hào về nền văn hóa lâu đời của dân tộc và
biết đau buồn tủi nhục trước cảnh mất nước.

11


Chương 2: Những nguyên tắc mĩ học của chủ nghĩa lãng mạn
1. Đề cao tình cảm của cá nhân con người
“Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm, mà tâm điểm là con
người” (Nguyễn Minh Châu). Văn học là hình thái ý thức xã hội luôn phản ánh tồn
tại xã hội, mà trung tâm là hình tượng con người. Con người trong xã hội tư bản bị
o ép, bị bóc lột trên mọi phương diện, họ chìm trong đau khổ và không tìm thấy
cứu cánh cho cuộc đời. Vì vậy, họ đã chạy trốn thực tại, rúc sâu vào trong tâm hồn,
trong bản ngã, tìm về cái tôi của mình và sống với thế giới tâm hồn riêng. Con
người đã phát hiện ra thế giới tâm hồn của mình vô cùng phong phú đa dạng như
cây đàn muôn điệu, và thể hiện nó một cách ám ảnh và xúc động trên trang giấy.

Nếu như chủ nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống một cách khách quan, thì chủ
nghĩa lãng mạn lại phản ánh cuộc sống một cách chủ quan thông qua tình cảm,
cảm xúc của người nghệ sỹ. Nhà lãng mạn thời kỳ đầu của Pháp Lamactin đã nói:
“Tôi là người đầu tiên làm cho thơ ca rời khỏi núi Pacnatxo (núi thơ). Tôi đã tặng
cho nàng thơ không phải là cây đàn Lia bảy dây quy ước, mà là những thớ của
con tim đang thổn thức.” Đó là cơ sở cho sự phát triển của một thể loại đặc sắc
trong văn học, đó là thơ, đặc biệt là thơ trữ tình.
Nếu chủ nghĩa cổ điển đề cao cái ta lỗi thời thì chủ nghĩa lãng mạn đề cao
cái tôi cá nhân. Con người có điều kiện bộc lộ vẻ đẹp của riêng mình. Đó chính là
một hình thức đề cao con người. Nhưng cái tôi ở đây không phải là cá nhân riêng
tư của một người nào, mà là tiếng lòng của cả một thời đại. Cái tôi mang một phẩm
chất mới, cái tôi cộng đồng, tập thể. Bởi vậy, tiếng nói của trái tim mới đến được
với trái tim và văn học lãng mạn đã trở thành món ăn tinh thần của cả thời đại. V.
Huy-gô đã nói: “Ôi, con người khờ khạo. Anh không biết rằng tôi đang nói về tôi,
chính là đang nói về anh đó”.
Ở Việt Nam những năm 1932 – 1945 đã diễn ra một cuộc cách mạng trong
thi ca, với sự xuất hiện của phong trào thơ Mới lãng mạn. Thơ Mới được hiểu là
thơ đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức. Nội dung đổi mới bao gồm: đổi mới cả
tư duy và thi pháp thơ. Thơ Mới là thơ của cái tôi cá nhân cá thể, lần đầu tiên xuất
hiện trên thi đàn Việt Nam. Cái tôi có ý thức về sự tồn tại của chính nó. Tinh thần
12


của thơ Mới là ở cái Tôi cá nhân. Thơ Mới đã làm cho cái Tôi bộc lộ hết sức
phong phú, hấp dẫn như một bản lĩnh tích cực trong cuộc sống, như một chủ thể
sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật. Lần đầu tiên trong lịch sử thi ca Việt Nam,
xuất hiện một cái tôi cá thể hóa trong cách cảm thụ tự nhiên và thế giới.
Nền văn học trung đại tồn tại và phát triển trong khuôn khổ của ý thức hệ
phong kiến chủ yếu là một nền văn học phi ngã. Xã hội phong kiến không chấp
nhận con người đề cao cái tôi, đề cao bản ngã. Văn xuôi lãng mạn ra đời đã góp

phần đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, nhất là giải phóng người phụ nữ ra khỏi sự
ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Thơ Mới lãng mạn ra đời cũng mang
theo một cái tôi cá nhân, một cái tôi cá thể hóa trong cảm thụ thẩm mĩ. Cái tôi
trong thơ Mới, ở một chừng mực nào đó, đã nói lên một nhu cầu lớn về mặt giải
phóng tình cảm, phát huy bản ngã, tự do cá nhân. Nó làm cho tâm hồn con người
được mở rộng, ngày càng phong phú hơn. “Ngày thứ nhất - ai biết đích ngày nào chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất
khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá
nhân” (Hoài Thanh – Thi nhân Việt Nam). Lần đầu tiên trong 13 năm trời xuất
hiện nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo đến như vậy. Sự giải phóng cái tôi của
chủ thể sáng tạo đã làm mở ra một thời kỳ văn học với những bông hoa giàu hương
sắc: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại
phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc
một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như
Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa
như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như
Xuân Diệu”.
Xuân Diệu – nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ Mới” (Hoài Thanh) luôn
khao khát khẳng định cái Tôi. Với Xuân Diệu, sự tồn tại của cái Tôi được đẩy lên
với ý nghĩa tuyệt đối của nó. Thơ Xuân Diệu tràn ngập chữ “tôi”, 25/47 bài trong
tập “Thơ thơ” xuất hiện chữ tôi (tôi buồn, tôi nhớ, tôi sung sướng, tôi không chờ,
tôi là con nai,…). Cái tôi được khai thác, biểu hiện ở nhiều cung bậc tình cảm,
nhiều trạng thái cảm xúc. Nhà thơ luôn có nhu cầu bộc bạch, phơi trải lòng mình
13


một cách thành thực nhất, táo bạo nhất:
- Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm
- Tôi là con chim đến từ núi lạ
- Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
…….
Có thể nói sự chân thực, độ nồng nàn của cảm xúc đã tạo nên sức hút riêng,
cái duyên riêng của Xuân Diệu đối với bạn trẻ, khiến cho thơ ông được đón nhận
một cách nhiệt liệt. Và chính thi sĩ đã tâm sự: “Tôi gửi tâm hồn tôi cho những
người trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng”. Điều tạo nên cái “mới nhất” của Xuân Diệu so
với các nhà thơ mới là Xuân Diệu luôn khẳng định cái tôi trong quan hệ gắn bó với
cuộc đời trần thế. Thế Lữ nuôi giấc mộng lên tiên, Lưu Trọng Lư ru người đọc
nhập vào thế giới mộng mơ, hư ảo, “cảnh không có ở thời nay mà cũng không có ở
thời nào” (Hoài Thanh). Đến Xuân Diệu, thi nhân đã gạt bỏ giấc mộng sầu man
mác của Lưu Trọng Lư, những nuối tiếc về một thời oanh liệt của Thế Lữ, Huy
Thông, Xuân Diệu say sưa khẳng định cái tôi đứng giữa cuộc đời, Xuân Diệu đã
xây lầu thơ “trên đất của một tấm lòng trần gian” (Thế Lữ) bằng những vật liệu
thực của trần gian. Xuân Diệu là con người của cuộc đời, một người ở giữa muôn
người. Quá trình khẳng định cái tôi của thi sĩ diễn ra song song với quá trình khẳng
định ý nghĩa của cuộc sống hiện tại. Nói như Hoài Thanh: “Xuân Diệu đốt cảnh
bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Thi sĩ là người duy nhất tìm được lối thoát cho
cái tôi cá nhân giữa cõi trần ai:
- Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.
Những vần thơ rạo rực men say của thi sĩ họ Ngô đã thể hiện được một cách sinh
14


động đặc trưng của văn học lãng mạn.
Xuất phát từ khát khao khẳng định cái tôi cá nhân, trong văn học lãng mạn

phương Tây xuất hiện cảm hứng ra đi. Và cảm hứng này cũng tràn vào văn học
lãng mạn Việt Nam trong các tác phẩm như: “Đoạn tuyệt” (Khái Hưng), “Giây
phút chạnh lòng” (Thế Lữ), “Tống biệt hành” của Thâm Tâm… Tuy cùng khai
thác về một chủ đề, nhưng những sáng tác về cảm hứng ra đi đã thể hiện rõ cách
ứng xử khác nhau của con người phương Đông và phương Tây. Ở phương Tây, ý
thức cá nhân được hình thành từ rất sớm, ngay từ khi mới chào đời những em bé đã
ngủ riêng giường với cha mẹ, và lớn lên người phương Tây luôn có óc phiêu lưu
mạo hiểm, đi để khẳng định cá tính, để khám phá thế giới. Con người không lệ
thuộc quá nhiều vào gia đình. Nhưng ngược lại, con người Việt Nam sống trong
hai cộng đồng, nhỏ là gia đình, rộng là làng nước. Cái tôi cá nhân của ta chìm đắm
trong cộng đồng như giọt nước hòa vào biển cả. Con người Việt Nam nói riêng và
người phương Đông nói chung ý thức cá nhân yếu hơn phương Tây. Những rường
mối nghiệt ngã đã thủ tiêu con người cá nhân (vua xử thần chết, thần không chết là
bất trung; cha bảo con chết, con không chết là bất hiếu, cha mẹ còn sống con
không được đi xa…). Hơn nữa, do người Việt Nam luôn mang nặng trong tim tình
yêu quê hương, gia đình, khi đi xa luôn khắc khoải nhớ về nơi chôn rau cắt rốn.
Người ly khách trong “Tống biệt hành” của Thâm Tâm khao khát ra đi để khẳng
định cái tôi, khát vọng lên đường để thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc
nhưng trong anh luôn diễn ra sự giằng xé giữa khát vọng lên đường và tình cảm gia
đình sâu nặng. Người ra đi được gọi bằng từ “ly khách” trang trọng, mang dáng
dấp của những đấng trượng phu thuở xưa, một trang nam nhi mang chí lớn, ôm ấp
một sự nghiệp lớn:
“Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.”
Khổ thơ mang âm hưởng trầm hùng, với nhịp điệu dồn dập, từ ngữ rắn rỏi, đặc biệt
là một loạt từ ngữ mang ý nghĩa phủ định (chưa, không, đừng), đã diễn tả quyết
15



tâm ra đi vì nghĩa lớn. Gia cảnh nặng nề, đáng lẽ anh phải ở nhà để gánh vác gia
đình, mới làm tròn bổn phận. Nhưng anh lại là một chàng trai mang chí lớn, li
khách rơi vào bi kịch giằng co giữa bổn phận và khát vọng, giữa tình và chí. Khát
vọng giục anh lên đường, bổn phận níu kéo anh ở nhà. Anh phải tự làm rắn lòng
mình, phải dùng cả ý chí và lí trí để dằn lòng, để cưỡng chế tình cảm. Anh phải
quyết lòng dửng dưng, dứt khoát giã từ:
“Một giã gia đình, một dửng dưng…”
Hai chữ “một” điệp lại thể hiện bước chân dứt khoát của li khách, quyết một đi
không trở về, không vương vấn gia đình.
Nếu chỉ lắng nghe khẩu khí bề ngoài, hẳn mọi người sẽ nghĩ li khách là một
kẻ vô tình, vô tâm, bạc bẽo. Nhưng chỉ duy nhất một người hiểu thấu lòng anh, đó
chính là người đưa tiễn – tri âm tri kỉ của anh:
“Ta biết người buồn chiều hôm trước”
“Ta biết người buồn sáng hôm nay”
Ở li khách có sự đối lập giữa bề ngoài và bên trong. Thái độ dửng dưng, dứt khoát
bên ngoài mâu thuẫn với bao tình cảm sâu nặng dành cho người thân yêu ruột thịt.
Tình cảm ấy khiến trong lòng li khách chất chứa bao nỗi buồn dai dẳng, triền miên.
Những trạng ngữ chỉ thời gian nối tiếp “hôm trước, hôm nay” đã diễn tả nỗi nhớ
thương dằng dặc, những dằn vặt, đau đớn đến xé lòng. Và đến tận giây phút chia
tay, nỗi buồn vẫn dâng đầy trong mắt “sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”. Thì ra
đằng sau vẻ lạnh lùng, kiêu bạc kia là một trái tim rất nặng tình. Song dẫu tình cảm
gia đình vô cùng quyến luyến, vẫn không lay chuyển được chí lớn của li khách.
Đoạn kết giống như cao trào của cơn sóng lòng đã âm ỉ từ khổ một. Bài thơ kết lại
trong giọng nghẹn ngào, tức tưởi:
“Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say”
Khổ thơ gợi cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất: Người ra đi coi
mẹ, coi chị, coi em là chiếc lá bay, là hạt bụi, là hơi rượu say, anh phải dằn lòng,

hy sinh bổn phận của mình vì chí lớn. Cách hiểu thứ hai: Người ra đi khẩn khoản
16


mong người thân, “thà coi” mình như “chiếc lá bay, như “hạt bụi”, như “hơi rượu
say”, những thứ rất nhẹ, thoáng qua, không có nghĩa, để xoa dịu, an ủi nỗi đau xót
trong lòng người ở lại. Dù hiểu theo cách nào, thì chúng ta thấy li khách nói ra điều
đó chẳng dễ dàng. Ba chữ “thà coi” như lên gân, như dằn lòng, nghẹn ngào, đắng
chát mặc cảm bất hiếu của một con người vốn nặng tình và lại trót mang chí lớn.
Hai nét tinh thần đối lập ấy đã góp phần xây dựng nên vẻ đẹp của li khách: vừa cao
cả, lại đầy nhân tính.
Như vậy, tuy ảnh hưởng của văn học lãng mạn Pháp, nhưng cảm hứng ra đi
trong “Tống biệt hành” của Thâm Tâm đã thấm đượm văn hóa cộng đồng và nhịp
đập trái tim của con người Việt Nam. Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam” đã
nhận xét: “Hồn thơ Pháp hễ chuyển được vào thơ Việt là đã Việt hóa hoàn toàn…
Thi văn Pháp không làm mất bản sắc Việt Nam”.
Trong văn xuôi lãng mạn, ta cũng bắt gặp cảm hứng ra đi trong những trang
văn của Nguyễn Tuân về đề tài “xê dịch”. Trước Cách mạng tháng Tám, cái tôi
Nguyễn Tuân về cơ bản là cái tôi cá nhân chủ nghĩa đối lập với xã hội, thể hiện
tâm trạng tù túng của một thanh niên giàu sức sống, đầy khát vọng tự khẳng định
mình, nhưng lại bị vây riết giữa môi trường sống quẩn quanh, trì trệ, buồn tẻ của
xã hội thực dân nửa phong kiến. Ảnh hưởng tư tưởng của Nitsơ, Gitđơ ở phương
Tây, giang hồ, xê dịch với ông nhiều khi chỉ là để tìm mình, để thực hiện cái cá
nhân mình cho đến kì cùng: “Rồi tôi vẫn vênh váo đi giữa cuộc đời như một viễn
khách không có quê hương nhất định, cái gì cũng ngờ hết, duy chỉ có tin chắc ở
cái kho, cái vốn tình cảm và cảm giác của mình”. Nhưng cái tôi Nguyễn Tuân vẫn
không hoàn toàn đóng kín với cuộc đời. Ta tìm thấy bóng dáng của ông hóa thân
vào nhân vật Bạch trong “Thiếu quê hương”. Với Bạch nhiều khi đi là lẽ sống, để
tìm “thực đơn” mới mẻ cho tâm hồn, đi là “hạnh phúc”. Nhưng đôi khi chính anh
ta lại mâu thuẫn: “Ta đi để mà đau khổ cả lúc đi lẫn lúc nghỉ, ơi ta ơi là ta ơi”.

Ảnh hưởng thuyết siêu nhân của Nitsơ: siêu nhân là phải biết tàn nhẫn, phải biết
vượt lên thứ luân lý của tình thương, Bạch thích lên giọng khinh bỉ tình cảm gia
đình, những kẻ lên đường bịn rịn, những cuộc tiễn đưa sụt sùi nước mắt. Nhưng
thực tế anh ta vẫn rất nặng lòng với gia đình. Đối với cha, anh ta phải thú nhận:
17


“Lòng thương cha, ai mà không nặng”. Còn đối với vợ, anh ta tìm cách bới móc
mọi khuyết điểm của vợ để có thể li dị, nhưng rồi anh ta lại nhận ra điều đó “thật
không xứng đáng một tí nào với cái vẻ ngây thơ, thành thực của vợ chàng”. Như
vậy, khác với nhân vật trong văn học phương Tây, họ sẵn sàng thoát ly gia đình để
được sống phiêu lưu, mạo hiểm, để khẳng định cái tôi. Nhân vật của Nguyễn Tuân
vẫn mang nặng tình cảm của con người Việt Nam, thoát ly gia đình nhưng vẫn
nặng lòng với người thân. Đáng trân trọng hơn, họ xê dịch quẩn quanh, lẫn vào thú
giang hồ lãng tử, nhưng trong lòng vẫn “yêu thương mà ngợi ca đất nước muôn vẻ
muôn màu của mình”, và ghi lại những phong cảnh tuyệt đẹp của giang sơn Tổ
quốc, trên mỗi bước đường đi qua đều đặt cả tâm hồn mình vào cỏ cây sông nước.
Nhân vật của Nguyễn Tuân chính là hình bóng của nhà văn. “Con người luôn cảm
thấy “thiếu quê hương” ấy, thực sự lại gắn bó tha thiết với quê hương mình bằng
biết bao sợi dây tình cảm tế nhị. Mà chính vì tha thiết với quê hương nên mới cảm
thấy bơ vơ trong hoàn cảnh mất nước và mới có tâm trạng khắc khoải day dứt
“thiếu quê hương… Đó là một tấm lòng An Nam hoàn toàn” (Nguyễn Đăng
Mạnh). Sức hấp dẫn, giá trị muôn đời của những trang văn Nguyễn Tuân là ở đó.
Qua sự phân tích một số ví dụ ở trên đã cho chúng ta thêm căn cứ để hiểu
sâu sắc hơn đặc trưng đầu tiên của chủ nghĩa lãng mạn, đó là đề cao tình cảm của
cá nhân con người, hiểu con người là một “tiểu vũ trụ” với sự phong phú, vô bờ
bến của tâm hồn và trí tuệ.
2. Nhân vật trung tâm
Nhân vật là hình ảnh con người được miêu tả cụ thể trong tác phẩm. Nhân
vật luôn là phương tiện để nhà văn phản ánh hiện thực và ký thác tư tưởng tình

cảm của mình. Mỗi phương pháp sáng tác lại có kiểu nhân vật đặc trưng. Nếu như
chủ nghĩa hiện thực phê phán xây dựng được những nhân vật điển hình sắc nét, thì
nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn lại có vẻ đẹp phi thường, độc đáo.
2.1. Kiểu nhân vật cô độc
Kiểu nhân vật đặc trưng của văn học lãng mạn được thai nghén từ sự đấu
tranh giữa cá nhân và xã hội. Đó là những người bất mãn với thực tại thối nát của
xã hội tư sản. Họ không chấp nhận và chối bỏ xã hội. Ngược lại, xã hội cũng chối
18


từ những con người ấy. Mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội là mâu thuẫn không thể
giải quyết. Nhưng họ chỉ là những con người đấu tranh đơn độc, những con
người cô độc. Trong cuộc đấu tranh ấy, phần thắng không thuộc về cá nhân.
Nhưng những người anh hùng đơn độc ấy vẫn kiên quyết không từ bỏ lý tưởng của
mình. Vì vậy họ thường mang vẻ mặt u buồn, không cười. Tiêu biểu cho kiểu nhân
vật này là Ăng-giôn-rax trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của V.Huygô.
Vẻ đẹp của anh đã được nhà văn lý tưởng hóa cao độ. Theo quan điểm của Huygô,
Ăng-giôn-rax là biểu tượng trọn vẹn cho cái cao cả, là lý tưởng của cách mạng. Và
để hiển minh điều đó, nhà văn đã thể hiện nhân vật với những nét tuyệt đối và đặc
biệt: “Vừa là đao phủ, vừa là thánh tăng, vừa là ánh sáng, vừa là pha lê”, lại
“cứng như tảng đá”. Anh mang vẻ đẹp trẻ trung, thần thánh, là mẫu người anh
hùng lý tưởng nhưng luôn mang “vẻ buồn trang nghiêm” của những người anh
hùng đơn độc, khao khát đấu tranh với xã hội tư sản tàn ác để đem lại ấm no cho
“những người khốn khổ”. Ăng-giôn-rax là người hy sinh cuối cùng trên chiến lũy
với tám phát đạn. Chi tiết đó gợi cho ta liên tưởng đến hình tượng Chúa đóng đinh
trên cây thánh giá để chuộc tội cho thiên hạ. Ăng-giôn-rax là biểu tượng cho những
con người sẵn sàng hy sinh vì hạnh phúc của mọi người.
Điều đặc biệt, những nhân vật này vẫn tự hào và đầy kiêu hãnh, ở họ toát lên
vẻ đẹp kiêu kỳ. Nhân vật lãng mạn gắn liền với chữ KIÊU:
Ta là một, là riêng, là thứ nhất

Không có chi bè bạn nổi cùng ta
………….
Ta bỏ đời mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thê tuyệt.
(Hi Mã lạp sơn – Xuân Diệu)
Xuân Diệu – thi sĩ đại diện đầy đủ nhất cho thời đại chữ Tôi đã tự ví mình với đỉnh
Himalaya, ngọn núi cao nhất thế giới thật kì vĩ biết bao, nhưng cũng cô độc biết
nhường nào!
19


2.2. Kiểu nhân vật tướng cướp - nhân vật nổi loạn
Trong những tác phẩm văn học lãng mạn còn xuất hiện kiểu nhân vật tướng
cướp - nhân vật nổi loạn, nhưng là những tên cướp cao thượng, mang tính lý
tưởng: lấy hành động của mình để cưu mang, cứu vớt đời. Đó là những con người
thừa “đầu thai nhầm thế kỉ”.
Các nhà văn lãng mạn tích cực đều mang thái độ bất mãn sâu sắc với xã hội
tư sản. Họ nhận thức được rõ ràng cái xã hội mới đáng lẽ cho phép từng người biểu
lộ tài năng của mình và “tham gia vào sự thay đổi thế giới”, thì về thực chất lại là
“một xã hội đã bị chắn ngang do sự tàn bạo của đồng tiền, sự tàn bạo này còn
khắc nghiệt hơn cả sự tàn bạo của đẳng cấp và của giống nòi xưa kia”. Nhận thức
sáng suốt đó về thực tại không hề thủ tiêu ý chí của nhân vật trung tâm trong chủ
nghĩa lãng mạn tích cực. Gắn bó với ước vọng của nhân dân về một xã hội tốt đẹp
hơn, hầu hết các nhà lãng mạn tích cực đều đã thể hiện trong tác phẩm của mình
“giấc mơ về hành động thực tế của cá nhân, về chỗ cá nhân có thể thâm nhập vào
thế giới và làm thay đổi được nó.” Nhân vật của họ thường là nhân vật phi
thường, con người nổi loạn. Họ nổi loạn để tạo ra chỗ đứng của mình, nổi loạn để
thế giới phải chú ý tới họ, nổi loạn để chống lại bất công, tiêu diệt cái ác, cho dù là
đơn độc. Những con người này thường sống ngoài rìa pháp luật, sống ngoài xã hội,
vì vậy đã buồn họ lại càng buồn hơn.

Trong kịch của Huygô, chúng ta thường bắt gặp kiểu nhân vật này, mà tiêu
biểu là Hecnani trong vở kịch cùng tên. Lần đầu tiên một nhà soạn kịch Pháp đã
táo bạo đưa lên sân khấu nhân vật tướng cướp, mà lại là nhân vật chính. Một con
người sống ngoài vòng pháp luật, cùng đồng đảng tung hoành khắp xứ, bị triều
đình truy lùng mọi nơi. Nhưng đây không phải "tướng cướp" hiểu theo nghĩa thông
thường, mà là kẻ "nổi loạn chính trị" có mối thù không đội trời chung với vua Tây
Ban Nha. Con người "nổi loạn" ấy có những phẩm chất tốt đẹp, ý chí căm thù sâu
sắc, tinh thần kiên cường bất khuất trong đấu tranh, tâm hồn cao thượng trong tình
yêu... Những nhân vật này thể hiện thái độ chống đối của nhà văn đối với các chế
độ Trung hưng và Quân chủ tư sản. Tuy nhiên, nhà văn chưa nhìn thấy sự thắng lợi
20


tất yếu của các lực lượng dân chủ trong một tương lai không xa, hơn nữa V. Huygô
lại chủ trương con đường hoà giải mâu thuẫn thay thế cho đấu tranh cách mạng
quyết liệt để tiêu diệt cái ác, và con người phải biết dẹp hằn thù, mở rộng lòng
khoan dung, kìm chế dục vọng. Do đó, nhân vật "nổi loạn" của ông thường dừng
lại giữa đường khi chưa hoàn thành sự nghiệp (Hecnani) hoặc đi đến kết thúc bi
thảm (Ruy Blax trong vở kịch cùng tên...). Đó chính là mặt hạn chế của V.Huygô.
Nhưng dẫu sao những nhân vật “nổi loạn” của nhà soạn kịch lãng mạn này vẫn để
lại trong lòng người thiện cảm tốt đẹp, bởi gốc rễ nhân đạo sâu sắc trong tâm hồn
V.Huygô.
Soi vào văn học lãng mạn Việt Nam chúng ta thấy, Huấn Cao trong “Chữ
người tử tù” của Nguyễn Tuân cũng mang dáng dấp của nhân vật nổi loạn. Huấn
Cao thuộc loại nhân vật chân dung - tư tưởng. Đây là một chân dung sắc sảo được
xây dựng theo lối lý tưởng hóa của một ngòi bút lãng mạn. Vì vậy, Huấn Cao nổi
lên với vẻ đẹp phi thường, khác lạ. Cả tài hoa, thiên lương, lẫn khí phách của ông
đều rất phi thường. Huấn Cao là một hào kiệt kiên cường, bất khuất, dám đứng lên
chống lại triều đình phong kiến. Việc lớn không thành, ông bị bắt và sắp bị hành
hình. Nhưng ông vẫn ung dung, bình thản, thể hiện khí phách hiên ngang, coi cái

chết nhẹ tựa lông hồng. Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, Huấn
Cao đã không hề run sợ, mà dồn hết tài hoa, thiên lương để cảm hóa, đưa quản
ngục trở về với cuộc sống lương thiện. Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn
gửi gắm tới người đọc một thông điệp: trên đời này không chỉ có quyền lực của
nhà tù, mà còn có quyền uy của cái đẹp, đó chính là cái đẹp “nổi loạn”. Huấn
Cao có nguyên mẫu từ Cao Bá Quát, một danh sĩ ở thế kỉ XIX, nổi tiếng hay chữ
và viết chữ đẹp. Ông được tôn là “thánh Quát”, và là niềm tự hào của thời đại trong
vế đối: “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán”. Cao Bá Quát cũng là người nổi tiếng
phóng túng, ngông ngạo, khao khát đổi thay xã hội trong hoàn cảnh triều đình nhà
Nguyễn bảo thủ, trì trệ. Cuối cùng ông đã đi làm quân sư cho cuộc khởi nghĩa Mĩ
Lương chống lại triều đình. Đó là một con người tài hoa, khí phách ngang tàng và
nhân cách cao đẹp. Lấy Cao Bá Quát làm nguyên mẫu để xây dựng nhân vật chính
cho truyện, Nguyễn Tuân đã thể hiện khuynh hướng của trào lưu lãng mạn, phủ
21


định thực tại xã hội đương thời bằng cách quay về ngợi ca vẻ đẹp của một thời đã
qua nay chỉ còn vang bóng. Đồng thời, tác giả cũng bộc lộ lòng yêu nước thầm kín
khi ca ngợi lãnh tụ khởi nghĩa Huấn Cao, gửi gắm sự ngưỡng mộ của mình với
những anh hùng, hào kiệt dám đứng lên chống Pháp bằng gươm súng.
Như vậy, “mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con
đường riêng của mình. Nhưng… tư duy nghệ thuật dù có đổi mới đến đâu đi nữa
thì cũng không vượt ra ngoài các quy luật của chân thiện mĩ, quy luật nhân bản.
Nhà văn có sứ mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản
mênh mông” (Lã Nguyên)
3. Mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh
Nếu như các nhà văn hiện thực phê phán phản ánh chân thực đời sống thông
qua những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, thì các cây bút lãng mạn
gửi gắm triết lý nhân sinh của mình qua những tính cách phi thường trong những
hoàn cảnh phi thường. V.Huygô – chủ soái của chủ nghĩa lãng mạn Pháp cho

rằng: “Cái tầm thường là cái chết của nghệ thuật”. Và đây cũng là nguyên tắc
chung của các nhà văn lãng mạn, luôn ưa thích cái vĩ đại, cái phi thường, cái “quá
khổ”. Dưới ngòi bút của họ, nhân vật trung tâm đều trở nên phi thường, kì vĩ, gắn
liền với hoàn cảnh phi thường. Nhân vật có thể được đặt trên bức phông nền là bức
tranh thiên nhiên hoang sơ, kì bí, dữ dằn nơi đảo hoang, hay vùng núi xa xôi, hẻo
lánh chưa ai đặt chân đến. Năm 1866, tác phẩm “Những người anh hùng của biển
cả” , bản anh hùng chân thực về “những người đánh cá ở đảo Gớc-nơ-đi” ra đời.
Chính khung cảnh của đại dương đã khơi nguồn cảm hứng cho Huy-gô. Gi-li-at,
nhân vật chính của tác phẩm, là một người lao động bình thường trên biển, nhưng
cũng giống như Ka-di-mô-đô (Nhà thờ đức bà Pari) và Giăng-Văn-Giăng (Những
người khốn khổ), anh có sức khỏe phi thường, có lòng dũng cảm và đức hy sinh
đặc biệt của những nhân vật anh hùng xuất thân từ những tầng lớp thấp hèn. Hình
tượng anh nổi bật giữa những bức tranh kì diệu về đại dương, ca ngợi lao động và
sự hy sinh bình dị. Bởi vậy, tiểu thuyết này được đánh giá là “một tác phẩm phóng
khoáng, mở rộng với bốn phương trời và như thế thấm nhuần vô biên”.

22


Hoặc hoàn cảnh phi thường có thể chính là cuộc sống đầy hiểm họa của
nhân loại, với bao bất công, tệ trạng, bao đau khổ lầm than. Nhân vật Giăng-VănGiăng trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của V.Huy-gô được đặt trên
khung cảnh của Pari với bóng tối của các ngoại ô, những khu phố nghèo bẩn thỉu
với những ngôi nhà cũ kĩ, những cống rãnh chảy qua đường… Từ trong đêm đen
của xã hội, Giăng-Văn-Giăng hiện lên sừng sững với sức mạnh vô địch, với tinh
thần làm việc hăng say, ông đã giàu lên trong xứ sở của mình. Nhưng điều vĩ đại ở
Giăng-Văn-Giăng, là ông không chỉ muốn mình giàu, mà còn mong cho tất cả mọi
người đều giàu có. Với tấm lòng từ bi bác ái của một vị thánh đã được khai tâm,
ông cứu vớt biết bao kiếp đời khốn cùng, cơ cực. Với hình tượng này, tác phẩm đã
trở thành bản anh hùng ca về một con người khốn khổ vật lộn với xã hội và khoa
học để vươn lên đỉnh cao của cái thiện. Ông là nhân vật đã gói trọn triết lý nhân

sinh của nhà văn, người đọc không thể nào quên câu nói cuối cùng của ông với Côdet và Mariuyt: “Trên đời này chỉ có một điều ấy thôi, đó là yêu thương nhau”.
Mặc dù quan niệm của tác giả có phần ảo tưởng: dùng tình thương để cảm hóa thế
giới tàn ác, nhưng Giăng-Văn-Giăng vẫn là hình tượng nhân vật phi thường trong
trái tim và khát vọng cứu vớt nhân loại khổ đau. Vì vậy, thiên tiểu thuyết đẹp như
một “bài thơ về lương tâm con người”.
Chính khát vọng vươn tới cái phi thường, cái cao cả đã tạo nên sự tài hoa
trong ngòi bút và tầm vóc vĩ đại của một nhà “nhân đạo từ trong cốt tủy”, cây đại
thụ của chủ nghĩa lãng mạn Pháp đã toả bóng gần khắp thế kỷ XIX - V.Huy-gô.
4. Nghệ thuật tương phản
Theo nhận xét của các nhà phê bình, thì nghệ thuật lãng mạn có khả năng
dung nạp rộng rãi các thủ pháp nghệ thuật đặc thù như tương phản, cường điệu, trữ
tình ngoại đề, sự đối lập giữa cái trác việt (sublime) và cái thô kệch (grotesque)…
Trong đó, một trong những thủ pháp đem lại hiệu quả nghệ thuật cao nhất cho
những tác phẩm văn học lãng mạn chính là nghệ thuật tương phản với những cấp
độ đa dạng. "Tinh thần lãng mạn chính là sự nối kết liên tục các yếu tố đối kháng
nhau: Tự nhiên và nghệ thuât, thơ ca và văn xuôi, sự nghiêm túc và thú vui, kỷ
niệm và dự cảm, tư tưởng trừu tượng và những cảm giác sống động, sự sống và
23


cái chết... hòa lẫn với nhau một cách mật thiết trong thể loại lãng mạn” (A.W
Sleigel).
4.1. Tương phản trong xây dựng hình tượng nhân vật
4.1.1. Tương phản trong một nhân vật
Dưới ngòi bút của các tác giả lãng mạn, nhân vật nhiều khi là sự thống nhất
hài hòa của nhiều mặt đối lập: giữa ngoại hình và phẩm chất, giữa quá khứ và hiện
tại,… Chúng ta không thể không kể đến nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử
tù” của Nguyễn Tuân, đó là sự kết hợp giữa một nghệ sĩ tài hoa và một anh hùng
“bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Hay Ka-di-mô-đô trong “Nhà thờ
đức bà Pari” có vẻ bề ngoài vô cùng xấu xí, nhưng tâm hồn lại cao đẹp, thánh

thiện…
Trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ”, V.Huy-gô đã triệt để khai thác
vẻ đẹp của nghệ thuật tương phản. Với bút pháp này, nhà văn đã tạo ra kiểu nhân
vật đặc trưng – nhân vật kép, nhân vật phức hợp. Giăng-Văn-Giăng vừa là một
người tù khổ sai, vừa là một vị thánh, điều này đã biến “Những người khốn khổ”
trở thành bản anh hùng ca của lương tâm con người. Bởi tác phẩm đã bộc lộ quá
trình con người đi từ bóng tối ra ánh sáng, đấu tranh với chính mình để vươn tới sự
hoàn thiện. Qua đó, V. Huy-gô đã nhắn gửi tới người đọc triết lý nhân sinh sâu sắc:
muốn cứu đời, cứu người trước hết phải vượt qua được cái ác trong chính bản
thân mình.
4.1.2. Tương phản giữa hai nhân vật
Trong nhiều tác phẩm lãng mạn, luôn có sự song hành của hai nhân vật đối
lập nhau, qua đó tư tưởng của tác giả được bộc lộ sắc nét. Chắc hẳn chúng ta
không thể quên cặp nhân vật xung đột nhau gay gắt là Giăng-Văn-Giăng và Gia-ve
trong “Những người khốn khổ”, một người tiêu biểu cho những con người khốn
cùng, còn người kia đại diện cho quyền lực của xã hội tư bản. Một người là thánh
nhân luôn tìm cách bênh vực bao kiếp đời bé nhỏ, còn kẻ kia là tên mật thám chó
săn luôn rình rập để bắt bớ, hành hạ những mảnh đời yếu đuối…
Hay trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, bút pháp tương phản đã góp
phần tạo nên tình huống truyện độc đáo, đầy oái oăm và bi kịch: cuộc kì ngộ của
24


hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục. Trên bình diện chính trị xã hội, họ là những
kẻ đối địch, có địa vị hoàn toàn đối lập với nhau. Một người là tên "đại nghịch",
cầm đầu cuộc nổi loạn chống lại triều đình, nay bị bắt giam, đang chờ ngày ra pháp
truờng để chịu tội. Còn người kia lại đại diện cho bộ máy cai trị trong xã hội
đương thời, có nhiệm vụ quản thúc, hành hạ tử tù của triều đình. Nhưng ở bình
diện nghệ thuật, cả hai nhân vật này đều là những con người có tâm hồn nghệ sĩ,
họ là tri âm, tri kỉ với nhau. Một người có tài viết chữ đẹp – một nhà thư pháp nổi

tiếng, người kia suốt đời ngưỡng mộ cái tài ấy, bất chấp cả sự an nguy về tính
mạng của mình và gia đình mình, miễn là có chữ của Huấn Cao để thỏa lòng mong
ước. Ở một khía cạnh khác, tình huống này còn là sự đối mặt giữa hai kiểu nhà tù,
hai kiểu tù nhân. Huấn Cao – một người hoàn toàn tự do về nhân cách nhưng đã
mất mọi quyền, kể cả quyền sống. Quản ngục hoàn toàn tự do về thân thể, nhưng
lại bị cầm tù về nhân cách. Hoàn toàn có thể coi đây là cuộc gặp gỡ giữa một tử tù
Huấn Cao và người bị cầm tù chung thân ngay trong môi trường sống của mình.
Chọn tình huống này, nhà văn đã đặt quản ngục vào một sự lựa chọn có tính xung
đột: hoặc làm tròn bổn phận của một ông quan thì phải chà đạp lên tấc lòng tri kỉ,
hoặc muốn trọn đạo tri kỉ thì phải phản lại bổn phận của một viên quan, bất chấp
phép tắc nhà tù, và những quy định của luật pháp triều đình. Quản ngục hành động
theo hướng nào, tư tưởng của truyện sẽ nghiêng theo hướng ấy. Theo cách thứ
nhất, chiến thắng sẽ thuộc về sự tầm thường, đê tiện, độc ác. Theo cách hai, thì cái
đẹp sẽ chiến thắng. Liệu quản ngục có dám thủy chung với tấc lòng tri kỉ, có dám
coi thường bổng lộc và sự an toàn tính mạng của cá nhân và gia đình mình hay
không? Quản ngục có thể thoát khỏi cái nhà tù vô hình vẫn cầm tù nhân cách của
mình hay không? Có dám sống đúng là mình hay không? Tình huống truyện có sức
hấp dẫn, lôi cuốn người đọc tiếp tục theo dõi câu chuyện.
Như vậy, nghệ thuật tương phản có vai trò quan trọng trong việc tạo tình
huống và khắc họa chân dung nhân vật.
4.1.3. Tương phản giữa nhân vật và hoàn cảnh
Trong các tác phẩm văn học, con người không chỉ là “tổng hòa các mối
quan hệ xã hội”, mà chân dung nhân vật còn hiện lên sinh động trong mối quan hệ
25


×