Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

skkn PHÁT TRIỂN NĂNG lực học SINH QUA PHƯƠNG PHÁP dạy học THEO TÌNH HUỐNG TRONG môn GIÁO dục CÔNG dân 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.57 KB, 43 trang )

Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH QUA PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC THEO TÌNH HUỐNG TRONG MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN 12
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu
mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo
dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những định hướng cơ bản của
việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời
thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát
huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới
Phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng
lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu
hướng quốc tế trong cải cách phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ
năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.
Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu
trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông
trong dạy và học”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT
theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới
phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học và một số biện
pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này.
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo
dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm

Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm



1


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì
qua việc học.
Trước bối cảnh đó năm 2002 bắt đầu triển khai chương trình và sách giáo
khoa phổ thông mới mà trọng tâm là đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học của học sinh.
Các cơ sở giáo dục và đào tạo đã chỉ đạo các trường tổ chức các hội thảo chuyên đề,
các lớp bồi dưỡng, đổi mới sinh hoạt chuyên môn, tổ chức hội thi giáo viên giỏi các
cấp, động viên khen thưởng kịp thời... Đặc biệt việc triển khai “Đổi mới sinh hoạt
chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học”, theo hướng lấy học sinh làm trung tâm;
Triển khai “Mô hình trường học đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh”; Triển khai thí điểm phát triển chương
trình giáo dục nhà trường phổ thông theo Hướng dẫn số 791/HD-BGDĐT ngày
25/6/2013 của bộ giáo dục và Đào tạo; Triển khai áp dụng phương pháp “ Bàn tay
nặn bột” theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Quan tâm, chỉ đạo đổi mới
hình thức và phương pháp tổ chức kiểm tra, thi, đánh giá như: Hướng dẫn áp dụng
Ma trận đề thi theo công văn số 8773/BGDĐT-GDTrH ngày 30/12/2010 về việc
hướng dẫn biên soạn đề kiểm tra, vừa chú ý đến tính bao quát nội dung dạy học vừa
quan tâm kiểm tra trình độ tư duy của học sinh; Thực hiện chỉ thị số 33/2006/CTTTg ngày 08/9/2006 về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục
đã hạn chế được nhiều tiêu cực trong thi cử, kiểm tra. Bản thân mỗi giáo viên đã đổi
mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá; sử dụng thiết bị dạy học và ứng
dụng công nghệ thông tin, truyền thông trong tổ chức hoạt động dạy học, vận dụng
được quy trình kiểm tra, đánh giá mới.
Bên cạnh đó nhiều dự án của Bộ giáo dục và đào tạo đã và đang được triển
khai thực hiện trên phạm vi cả nước (Ứng dụng công nghệ thông tin); Tăng cường

hoạt động tự làm thiết bị dạy học của giáo viên và học sinh.
Chính vì mục tiêu trên, có thể khẳng định rằng, các phương pháp dạy học đã
biến quá trình học của học sinh từ thụ động sang chủ động, từ việc nghe giảng sang
hoạt động tư duy, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm, đổi mới quan hệ giáo viênhọc sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

2


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

Chương trình dạy học truyền thống có thể gọi là chương trình giáo dục “ định
hướng nội dung” dạy học hay “định hướng đầu vào”, chương trình này chú trọng
việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học khách quan về nhiều lĩnh vực khác nhau.
Tuy nhiên, nó chưa chú trọng đến những tình huống thực tiễn, nên ngày nay nó
không còn thích hợp nữa vì tri thức khoa học luôn thay đổi theo thời gian, việc quy
định cứng nhắc những nội dung chi tiết trong chương trình dạy học dẫn đến tình
trạng nội dung bị lạc hậu so với tri thức hiện đại, định hướng khả năng vận dụng tri
thức trong những tình huống thực tiễn còn hạn chế, sản phẩm giáo dục là những con
người mang tính thụ động, hạn chế khả năng sáng tạo và năng động.
Chương trình giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra
của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất và nhân
cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm
chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống thực tiễn.
Ở trường THPT môn Giáo dục công dân có vai trò quan trọng trong việc trực
tiếp hình thành ý thức chính trị, hành vi đạo đức, pháp luật và lối sống cho học sinh.
Môn học này có đặc điểm là gần gũi, gắn bó mật thiết với đời sống thực tiễn sinh
động của gia đình, nhà trường và xã hội. Chính đặc điểm này giúp cho môn Giáo dục
công dân có những lợi thế để giáo viên có những phương pháp giảng dạy tích cực
nhằm phát triển các năng lực cho học sinh, đặc biệt là các năng lực chuyên biệt như:

Tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã
hội; Tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng, đất
nước; Giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội. Môn GDCD cùng
các môn học khác đều nhằm vào mục tiêu đó. Với vị trí và chức năng của môn học,
môn Giáo dục công dân cần phải có những chuyển biến mạnh mẽ về đổi mới phương
pháp giảng dạy” nhằm làm thay đổi quan niệm của học sinh coi đây là môn học phụ
và là một môn học mà các bậc phụ huynh ít quan tâm. Từ đó giúp cho học sinh và
các bậc phụ huynh hiểu đúng đắn môn Giáo dục công dân, phải hiểu nó là một môn
khoa học và được đối xử “bình đẳng” như các môn học khác, tác dụng của môn học
đối với việc hình thành phẩm chất, chính trị, tư tưởng, đạo đức, nhân cách của con
người mới trong giai đoạn sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

3


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn Giáo dục công dân, tôi đã chọn đề tài “Phát triển năng lực học sinh
qua phương pháp dạy học theo tình huống trong bộ môn Giáo dục công dân 12 ”.
Tôi hy vọng rằng sáng kiến kinh nghiệm có khả năng vận dụng vào thực tiễn
giảng dạy của mình trong quá trình công tác và là một tài liệu để đồng nghiệp tham
khảo góp phần đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng giảng dạy bộ
môn.
Đề tài này chắc chắn không tránh khỏi những sai xót, rất mong sự góp ý của
các thầy cô đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Lịch sử phát triển của giáo dục, phát triển năng lực học sinh qua phương pháp
dạy học theo tình huống là một trong những phương pháp được quan tâm nghiên

cứu từ rất sớm cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm phát huy vai trò tích cực của
người dạy và người học. Tuy nhiên, tùy vào từng giai đoạn phát triển của lịch sử,
phương pháp dạy học theo tình huống đã được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc
độ khác nhau.
Trong một bài viết của mình, tác giả Trịnh Đình Tùng nhà xuất bản Đại học
Sư phạm đã khẳng định: “Khi hướng dẫn học sinh nắm kiến thức cơ bản, giáo viên
cần chú ý đến “ nhu cầu tư duy” của học sinh, khi các em tiếp thu kiến thức mới,
hoặc muốn hiểu sâu sắc, làm phong phú hơn kiến thức đã biết. Trong trường hợp này
ở học sinh xuất hiện những thắc mắc, những vấn đề được đặt ra để giải quyết, các
nhà giáo dục học gọi trường hợp như trên là tình huống có vấn đề. Trong dạy học
giáo viên luôn luôn chú trọng khêu gợi học sinh đặt vấn đề tìm hiểu, không dừng ở
việc thụ động tiếp thu. Đặt câu hỏi nêu ra điều mình chưa biết là một yếu tố quan
trọng để học tập thông minh, chủ động. Vấn đề đặt ra là phải nhằm vào bản chất,
những điều quan trọng để hiểu sự kiện, chứ không phải là những chi tiết vụn vặt,
hình thức bên ngoài. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm cách giải quyết vấn đề, sau
đó tiếp thu và củng cố kiến thức mới…Cách dạy học như vậy được gọi là dạy học
theo tình huống , khác hẳn với cách giảng dạy nhồi nhét, học sinh chỉ biết nghe, ghi,
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

4


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

nhớ mà lười suy nghĩ. Dạy học theo tình huống sẽ phát huy tính tích cực tự nhận
thức của học sinh. Một trong những đặc trưng cơ bản của việc phát triển tư duy của
học sinh là phát huy năng lực độc lập học tập, phát triển trí thông minh óc sáng tạo
của các em trong việc biết tự giải quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của giáo viên và
trao đổi với bạn học.
Về bản chất, dạy học theo tình huống không phải là một phương pháp dạy

học cụ thể mà là nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành của nhiều phương pháp dạy học
liên kết với nhau, trong đó giáo viên tạo ra tình huống có vấn đề, nêu vấn đề và tổ
chức, thúc đẩy hoạt động tìm tòi sáng tạo của học sinh giải quyết vấn đề”. Nhiệm vụ
của người giáo viên trong dạỵ học truyền thống là người truyền đạt kiến thức cho
học sinh. Kiến thức đã được giáo viên chuẩn bị sẵn và cung cấp cho học sinh ở trên
lớp theo kiểu giáo viên giảng (đọc), học sinh chép. Giáo viên là người có sứ mạng
truyền thụ kiến thức cho học sinh, là trung tâm của giờ học, còn học sinh đóng vai
trò thụ động, chờ đợi kiến thức do người giáo viên cung cấp. Nhưng tri thức loài
người ngày càng phát triển phong phú, trong một thời lượng cho phép hết sức hạn
hẹp, giáo viên không thể cung cấp cho học sinh tất cả những gì thuộc về chuyên môn
của mình. Hơn nữa, nếu có cung cấp được thì những kiến thức do giáo viên đưa ra,
học sinh tiếp thu một cách thụ động, sẽ không vững chắc trong nhận thức của học
sinh.
Khoa học giáo dục đã chỉ ra rằng, quá trình học phải là một quá trình chủ động
lĩnh hội kiến thức của học sinh, phải là quá trình tự đào tạo thì việc nắm kiến thức
mới lâu dài và bền vững. Đã từ lâu các nhà giáo dục đã khởi xướng một kiểu dạy học
mới, theo đó thay đổi hắn quan niệm về vị trí của người giáo viên ở trên lớp. Giáo
viên từ vai trò là trung tâm lớp học, người giữ đặc quyền trong việc cung cấp kiến
thức có sẵn cho học sinh trở thành người tổ chức hướng dẫn học sinh tự tìm đến kiến
thức, biến việc học trở thành một nhu cầu tự thân. Có nhiều cách gọi khác nhau về
kiểu dạy học này như: “dạy học lấy học sinh làm trung tâm” “ dạy học tích cực”,
“dạy học tự học”, “dạy học theo tình huống ”, “dạy học Ơritic”…Dù có tên gọi khác
nhau, nhưng nội dung cơ bản của các quan niệm dạy học này đều nhằm đến mục tiêu

Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

5


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12


là phải tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh, biến việc học tập của học sinh
trở nên hứng thú, trở thành nhu cầu của chính người học”.
Đặc biệt cuốn “Tài liệu dạy học và kiểm tra, đanh giá kết quả học tập theo
định hướng phát triển năng lực học sinh môn Giáo dục công dân ” của Bộ giáo
dục và đào tạo đã gợi mở các biện pháp nhằm phát huy năng lực của học sinh cấp
THPT.
Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học
được tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống
và nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo
điều kiện cho học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội
của việc học tập.
Các chủ đề dạy học phức hợp là những chủ đề có nội dung liên quan đến nhiều
môn học hoặc lĩnh vực tri thức khác nhau, gắn với thực tiễn. Trong nhà trường các
môn học được phân theo các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, còn cuộc sống
thì luôn diễn ra các mối quan hệ phức hợp. Vì vậy sử dụng các chủ đề dạy học phức
hợp góp phần khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn của các môn khoa học chuyên
môn, rèn cho học sinh năng lực giải quyết vấn đề phức hợp, liên môn.
Phương pháp nghiên cứu theo trường hợp là một phương pháp dạy học điển
hình của dạy học theo tình huống, trong đó học sinh tự lực giải quyết một tình huống
điển hình, gắn với thực tiễn thông qua làm việc nhóm.
Vận dụng dạy học theo các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan
trọng để gắn việc đào tạo trong nhà trường với thực tiễn đời sống, góp phần khắc
phục tình trạng giáo dục hàn lâm, xa rời thực tiễn hiện nay của nhà trường phổ thông.
Tuy nhiên nếu các tình huống được đưa vào dạy học là những tình huống mô
phỏng lại, thì chưa phải là tình huống thực. Nếu chỉ giải quyết vấn đề trong phòng
học lí thuyết thì học sinh cũng chưa có hoạt động thực tiễn thực sự, chưa có sự kết
hợp giữa lí thuyết và thực hành.
Chính vì vậy, hoàn thành vấn đề này với tôi có ý nghĩa vô cùng quan trọng, có
thể vận dụng lý luận vào dạy học và khả năng vận dụng vào thực tiễn giảng dạy của

bản thân trong quá trình công tác.
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

6


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Vận dụng dạy học theo tình huống trong bộ môn Giáo dục công dân 12 nhằm
đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực
học sinh, nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, khắc phục tình trạng dạy học theo
kiểu giáo điều, thụ động , giáo viên đọc cho học sinh chép những kiến thức có sẵn.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy việc đổi mới phương pháp là rất quan trọng. Đó
là vấn đề đã được đề cập đến nhưng tôi thấy chưa thật hiệu quả. Tôi nghiên cứu đề
tài này nhằm tìm ra phương pháp, giải pháp phù hợp nhằm “Phát triển năng lực
học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn Giáo dục công
dân 12”
V. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Học sinh lớp 12 THPT nhằm “ Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp
dạy học theo tình huống”
VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Một số bài giảng trong chương trình Giáo dục công dân 12
VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về những vấn đề liên quan đến đề tài của những
nhà khoa học giáo dục ở nước ta.
- Nghiên cứu lý luận các quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng ta bàn về giáo dục.

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm về các biện pháp có liên quan đến đề tài, so
sánh đối chiếu với lớp đối chứng để rút ra kết luận.
- Tiến hành điều tra, khảo sát thực tiễn dạy học Giáo dục công dân 12 ở
trường THPT Ngô Thì Nhậm.
- Cụ thể là một số bài giảng trong chương trình Giáo dục công dân 12
Đề tài được viết dựa trên các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát, khảo sát, so sánh.
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

7


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

- Phương pháp phỏng vấn, điều tra.
- Phương pháp thống kê toán học.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng
lực được sử dụng như sau: năng lực liên quan đến bình diện, mục tiêu của dạy học,
mục tiêu dạy học được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành; năng lực là sự
kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn…
Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá mức độ
quan trọng và cấu trúc hóa các nội dung và hoạt động và hành động dạy học về mặt
phương pháp:
- Năng lực mô tả việc giải quyết những đòi hỏi về nội dung trong các tình
huống: ví dụ như đọc một văn bản cụ thể; nắm vững và vận dụng được các phép tính

cơ bản...;
- Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn tạo thành nền tảng
chung cho công việc giáo dục và dạy học;
- Mức độ đối với sự phát triển năng lực có thể được xác định trong các chuẩn:
Đến một thời điểm nhất định nào đó, học sinh có thể/ phải đạt được những gì?
Sau đây là bảng so sánh một số đặc trưng cơ bản của chương trình định hướng
nội dung và chương trình định hướng năng lực:

Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

8


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

Chương trình định hướng

Chương trình định hướng năng lực

nội dung
Mục tiêu - Mục tiêu dạy học được mô - Kết quả học tập cần đạt được mô tả
giáo dục

tả không chi tiết và không chi tiết và có thể quan sát, đánh giá
nhất thiết phải quan sát, đánh được, thể hiện được mức độ tiến bộ của
giá được.

học sinh một cách liên tục.

- Việc lựa chọn nội dung dựa - Lựa chọ những nội dung nhằm đạt

Nội dung vào các khoa học chuyên được kết quả gắn với thực tiễn, chương
giáo dục

môn, không gắn với các tình trình chỉ quy định những nội dung
huống thực tiễn. Nội dung chính, không quy định chi tiết.
được quy định chi tiết trong
chương trình.
- Giáo viên chủ yếu là người tổ chức hỗ

Phương
pháp dạy
học

- Giáo viên là người truyền trợ học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội
thụ tri thức, là trung tâm của tri thức; Chú trọng sự phát triển khả
quá trình dạy học. Học sinh năng giải quyết vấn đề, khả năng giao
tiếp thu thụ động những tri tiếp....
thức được quy định sẵn.

- Chú trọng sử dụng các quan điểm,
phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực,
thí nghiệm, thực hành...
- Tổ chức hình thức học tập đa dạng:

Hình

- Chủ yếu dạy học lí thuyết chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa,

thức dạy trên lớp học.
học


nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng
tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông trong dạy và
học

Đánh giá
kết quả
học tập

- Tiêu chí đánh giá được xây - Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực
dựng chủ yếu dựa trên sự ghi đầu ra, có tính đến sự tiến bộ trong quá
nhớ và tái hiện nội dung đã trình học tập, chú trọng khả năng vận
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

9


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

của học

học

dụng trong các tình huống thực tiễn.

sinh
Vậy dạy học theo định hướng phát triển năng lực theo tình huống được hiểu như thế
nào?
1.Tình huống dạy học

“Học là việc chuẩn bị cho người học vào các tình huống của thực tiễn cuộc
sống” (Robinson). Bởi thế, việc học và lĩnh hội tri thức cần phải được gắn liền với
các tình huống của cuộc sống và thực tiễn nghề nghiệp. Trên thực tế tồn tại nhiều
cách gọi khác nhau cho phương pháp này, ví dụ như: phương pháp dạy học theo tình
huống, phương pháp nghiên cứu tình huống, hay ngắn gọn hơn là phương pháp tình
huống. Có thể nói, tư tưởng áp dụng các tình huống của cuộc sống vào giảng dạy đã
có từ thời Khổng Tử, khi ông sử dụng các hoàn cảnh, câu chuyện có thực gặp trong
cuộc sống hàng ngày để truyền đạt kiến thức, những điều răn dạy cho học trò của
mình. Thế nhưng, phải đến khoảng cuối thế kỉ XIX, việc sử dụng các tình huống
trong giảng dạy mới được áp dụng khá phổ biến.
Một số năm trở lại đây, PPNCTH cũng đã được đưa vào áp dụng trong giảng
dạy ở các nhà trường Việt Nam, tuy chưa phải ở mức phổ biến. Trong đào tạo sư
phạm, PPNCTH đã được sử dụng rộng rãi nhất là trong vòng 20 năm trở lại đây và tỏ
ra cực kỳ hiệu quả trong việc học gắn với thực tiễn và làm cho các giờ học trở nên
sinh động và hấp dẫn hơn.
1.1.Có nhiều định nghĩa khác nhau về tình huống.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tình huống là toàn thể những sự việc xảy ra tại một
địa điểm, trong một thời gian cụ thể, buộc người ta phải suy nghĩ, hành động, đối
phó, tìm cách giải quyết.
Tình huống cũng có thể được hiểu là sự mô tả/ trình bày một trường hợp trong
thực tế nhằm đưa ra một vấn đề chưa được giải quyết và qua đó đòi hỏi người đọc
(người nghe) phải giải quyết vấn đề đó.
Ở góc độ Tâm lý học, tình huống là hệ thống các sự kiện bên ngoài có quan hệ
với chủ thể, có tác dụng thúc đẩy chủ thể đó.
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

10


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12


Trong quan hệ không gian, tình huống xảy 2 ra bên ngoài nhận thức của chủ
thể.
Trong quan hệ thời gian, tình huống xảy ra trước so với hành động của chủ
thể.
Trong quan hệ chức năng, tình huống là sự độc lập của các sự kiện đối với chủ
thể ở thời điểm mà người đó thực hiện hành động.
1.2. Theo Boehrer (1995) thì:
“Tình huống là một câu chuyện, có cốt chuyện và nhân vật, liên hệ đến một
hoàn cảnh cụ thể, từ góc độ cá nhân hay nhóm, và thường là hành động chưa hoàn
chỉnh. Đó là một câu chuyện cụ thể và chi tiết, chuyển nét sống động và phức tạp của
đời thực vào lớp học”.
Những tình huống trong giảng dạy là những tình huống mang tính điển hình,
miêu tả những sự kiện, hoàn cảnh có thật hay hư cấu nhằm giúp người học hiểu và
vận dụng tri thức.
Tình huống được sử dụng nhằm kích thích người học phân tích, bình luận,
đánh giá, suy xét và trình bày ý tưởng của mình để qua đó từng bước chiếm lĩnh tri
thức hay vận dụng những kiến thức đã học vào những trường hợp thực tế.
Tiêu chuẩn của một tình huống tốt:
Về mặt nội dung, tình huống phải:
- Mang tính giáo dục
- Chứa đựng mâu thuẫn và mang tính khiêu khích
- Tạo sự thích thú cho người học.
- Nêu ra được những vấn đề quan trọng và phù hợp với người học,...
Về mặt hình thức, tình huống phải:
- Có cách thể hiện sinh động
- Sử dụng thuật ngữ ngắn gọn, súc tính và ẩn danh
- Được kết cấu rõ ràng, rành mạch và dễ hiểu
- Có trọng tâm, và tương đối hoàn chỉnh để không cần phải tìm hiểu thêm quá
nhiều thông tin,...

1.3. Phương pháp nghiên cứu tình huống trong dạy học
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

11


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

1.3.1. Khái niệm phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương
pháp đặc thù của dạy học giải quyết vấn đề theo tình huống.
Ở đó, các tình huống là đối tượng chính của quá trình dạy học
Theo Nguyễn Hữu Lam: “phương pháp tình huống là một kỹ thuật giảng dạy trong
đó các thành tố chủ yếu của nghiên cứu tình huống được trình bày với những người
học với các mục đích minh hoạ hoặc các kinh nghiệm giải quyết vấn đề”
1.3.2. Cấu trúc của tiến trình thực hiện phương pháp nghiên cứu tình huống
Xét về mặt khách quan, tình huống dạy học là tổ hợp những mối quan hệ xã
hội cụ thể được hình thành trong quá trình dạy học, khi mà học sinh đã trở thành chủ
thể hoạt động với đối tượng nhận thức trong môi trường dạy học nhằm một mục đích
dạy học cụ thể.
Xét về mặt chủ quan, tình huống dạy học chính là trạng thái bên trong được
sinh ra do sự tương tác giữa chủ thể với đối tượng nhận thức.
Theo quan điểm lý luận dạy học, tình huống dạy học là đơn vị cấu trúc, tế bào
của bài lên lớp, bao gồm tổ hợp các điều kiện cần thiết. Đó là mục đích dạy học, nội
dung dạy học và phương pháp dạy học để thu được những kết quả riêng biệt.
2. Bài tập tình huống dạy học
Bài tập tình huống dạy học là những tình huống khác nhau đã, đang và có thể
xảy ra trong quá trình dạy học được cấu trúc lại dưới dạng bài tập, khi học sinh giải
bài tập ấy, vừa có tác dụng củng cố tri thức, vừa rèn luyện được kỹ năng học tập cần
thiết.
3. Nguyên tắc thiết kế bài tập tình huống

Bài tập tình huống nêu ra phải tạo ra được nhu cầu nhận thức, tạo được tính
sáng tạo, kích thích tư duy của người giải.
Bài tập tình huống nêu ra phải xuất phát từ nhiệm vụ của giáo viên, từ các kỹ
năng cần thiết cho việc đặt câu hỏi để dạy học.
Bài tập tình huống nêu ra phải gắn với cơ sở lý luận với một liều lượng tối đa
cho phép.
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

12


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

Bài tập tình huống phải có đầy đủ hai yếu tố: điều kiện và yêu cầu cần tìm.
4. Kỹ thuật thiết kế tình huống dạy học.
Để giúp học sinh xác định được các dữ kiện, nhận ra được các mâu thuẫn trong
nhận thức, thì xây dựng tình huống dạy học được thiết kế theo các bước sau:
Bước 1. Xác định mục tiêu
Bước 2. Phân tích cấu trúc nội dung của bài học
Bước 3. Thiết kế tình huống dạy học.
Bước 4. Vận dụng tình huống vào dạy học
Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống đặt ra
yêu cầu cao đối với người giáo viên. Khi có tình huống có vấn đề giáo viên phải tìm
cách biểu đạt như thế nào để quá trình dạy học diễn ra có hiệu quả. Giáo viên xem
học sinh là trung tâm của quá trình dạy học. Các hình thức mà giáo viên thường tổ
chức cho học sinh phát hiện vấn đề đó là học lý thuyết và làm bài tập. Giáo viên luôn
thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực để phù hợp với hoạt động học tập
của học sinh giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng và triệt để.
Trong bài giảng của mình, giáo viên phải đặt học sinh vào trạng thái tâm lý
đặc biệt . Lúc đó ở học sinh xuất hiện thắc mắc, hoài nghi, mâu thuẫn trong nhận

thức. Vì thế, học sinh tò mò, nhu cầu nhận thức cái chưa biết nhưng cần phải biết
xuất hiện. Điều quan trọng là giáo viên phải khéo léo đặt ra tình huống và gợi hứng
thú nhận thức ở học sinh. Học sinh chỉ hứng thú nghe giáo viên giảng bài khi bài học
cung cấp những kiến thức mới, khi giáo viên có phương pháp giảng dạy sinh động,
lôi cuốn, kích thích học sinh tìm tòi, học hỏi thêm ngoài những điều đã lĩnh hội trên
lớp.
Cũng qua bài trình bày, giáo viên phải nêu được “tình huống ” trong tình
huống có vấn đề, tức là những kiến thức có tính trừu tượng, khái quát nhất định.
Những vấn đề này học sinh chưa biết nhưng do yêu cầu nhận thức, bắt buộc học sinh
phải biết. Cần chú ý thêm rằng, “tình huống ” trong tình huống có vấn đề phải vừa
sức với học sinh.
Trong dạy học giáo viên có thể đặt ra những tình huống có vấn đề cơ bản và
những tình huống phụ trợ để giải quyết tình huống có vấn đề cơ bản. Bài trình bày
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

13


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

của giáo viên khi gợi ra những tình huống có vấn đề phải tạo ra được bầu không khí
sáng tạo, sinh động trong lớp học. Từ đó, các em sẽ hứng thú say mê trong việc tìm
tòi, lĩnh hội kiến thức mới.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Vài nét về thực trạng

- Về phía giáo viên:
Đổi mới phương pháp dạy học là xu thế của thời đại, là trào lưu chung của loài
người, là mệnh lệnh của công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, là sự đòi hỏi của sự đáp ứng yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực

trong điều kiện thị trường lao động đầy cạnh tranh của con em chúng ta,...chứ không
phải là ý muốn chủ quan của một người hoặc một nhóm người nào đó.
Trong những năm qua, bộ môn Giáo dục công dân đã đổi mới nhiều trong
các khâu cơ bản của quá trình dạy học. Các tình huống trong giảng dạy diễn ra sinh
động, hấp dẫn, không khí học tập sôi nổi, hứng thú, học sinh tích cực làm việc một
cách độc lập, có phần sáng tạo. Nhiều giáo viên có năng lực tổ chức quá trình học tập
theo quan niệm sư phạm hiện đại, vận dụng các phương pháp mới đạt hiệu quả, bên
cạnh những cách dạy học truyền thống; có nhận thức đúng đắn về đổi mới phương
pháp dạy học. Đặc biệt, một số giáo viên đã vận dụng phương pháp dạy học bằng câu
chuyện pháp luật, bằng tình huống có hiệu quả góp phần quan trọng vào việc rèn
luyện năng lực tích cực, độc lập suy nghĩ trong việc giải quyết vấn đề nhằm phát
triển tư duy cho học sinh trong quá trình học tập; giúp học sinh nắm vững, hiểu sâu
sắc, đầy đủ hơn hệ thống kiến thức của môn học, rèn luyện cho học sinh kĩ năng tư
duy, lôgic…Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức nói chung, tinh thần chuyên cần
trong lao động học tập, thái đội vượt khó nói riêng.
Năm học 2014-2015, Bộ Giáo dục triển khai việc đổi mới trong dạy học và
kiểm tra đánh giá nhằm phát triển năng lực của học sinh. Bên cạnh việc cải tiến các
phương pháp dạy học truyền thống, kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học thì
việc vận dụng phương pháp dạy học theo tình huống góp phần quan trọng trong việc
phát triển năng lực tư duy, khẳ năng nhận biết và giải quyết vấn đề của học sinh.

Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

14


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

Song đôi khi vì nhiều lí do, cách dạy học này đối với giáo viên không phải lúc
nào cũng thành công. Hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT chưa

mang lại hiệu quả cao. Truyền thu tri thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học
chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong
việc sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của
học sinh còn chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức lí truyết. Việc
rèn luyện kĩ năng sống, kĩ năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh
thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan tâm.
- Về phía học sinh: Các em thường hay ngại khi được yêu cầu phát biểu, thường chỉ
tập trung vào 1 vài em có lực học khá, giỏi luôn tích cực từ đầu năm đến cuối năm.
Có em ngại nói, nếu thầy cô không quan tâm tới có khi chẳng phát biểu bao giờ.
Vì vậy phần lớn học sinh ngại học Giáo dục công dân , không thích học Giáo
dục công dân . Hầu hết các em coi môn này là môn phụ không cần học, nếu học chỉ
để cho đủ điểm, không cần đọng lại gì trong đầu. Học sinh học một cách thụ động,
chỉ biết ghi chép như một cái máy, học thuộc như một cái máy, thậm chí có những
em ghi bài xong, về để đấy, ngày mai cô có hỏi không biết hôm trước học bài nào.
Tại sao học sinh lại không yêu thích với môn Giáo dục công dân , giờ học
Giáo dục công dân? Phải chăng là do phía người dạy hay sách giáo khoa, hay xu
hướng chung của xã hội?
Trước thực trạng trên , tôi đã chủ động làm phiếu điều tra trước khi thực hiện
đề tài.
PHIẾU ĐIỀU TRA
( Giáo viên làm phiếu điều tra tới học sinh lớp 12 năm học 2014-2015)
Tổng số: 12A- 30; 12B – 33; 12C- 33; 12D- 44; 12E- 46.
Nội dung
Em có quan tâm đến bộ môn Giáo dục công dân
trong trường học phổ thông?
Em có yêu thích giờ học Giáo dục công dân
không?
Khi ra cuộc sống theo em môn GDCD có quan
trọng không?
Đã khi nào em tự xác định việc cần thiết học

môn GDCD?


100 /186

Không
86 /186

110 /186

76/186

90/186

96 /186

70/186

116/186

Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

15


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

Qua kết quả điều tra, số học sinh yêu thích môn Giáo dục công dân chưa nhiều
và cho rằng môn Giáo dục công dân không quan trọng, không cần thiết phải học tập.
2. Nguyên nhân của thực trạng

Sở dĩ có tình trạng trên vì cách dạy học theo tình huống cần rất nhiều thời
gian, đòi hỏi người giáo viên phải tính toán thật kỹ khi xây dựng tình huống. Bởi nếu
tình huống không vừa sức với học sinh hoặc là quá khó hoặc là quá dễ cũng sẽ không
động viên học sinh tham gia tích cực vào quá trình nhận thức tri thức mới. Hơn nữa
nếu đã tốn nhiều thời gian xây dựng mà không khuyến khích người học tích cực sẽ
tạo cho người thầy có tâm lý chán nản, dần dần ngại xây dựng tình huống có vấn đề.
Đồng thời việc thực hiện này ở trên lớp cũng mất nhiều thời gian, nếu không khéo sẽ
dẫn đến cháy giáo án, khó thành công một giờ dạy. Nhiều giáo viên xây dựng tình
huống nhưng thực tế lại không khéo léo dẫn dắt thành ra lại khiến vấn đề trở nên rắc
rối, khó hiểu, thậm chí lại có kết quả ngược lại so với mong muốn.
Chính vì thế, nhiều giáo viên xây dựng các tình huống trong dạy học nêu vấn
đề ở bộ môn Giáo dục công dân không được thường xuyên, mà chỉ là để thực hiện
trong các giờ hội giảng, chuyên đề, hoặc có xây dựng tình huống nhưng chỉ là để đối
phó trong giáo án mà thôi. Hơn nữa, cũng xuất phát từ thực tế quan niệm trong xã
hội về môn học: xem nhẹ, không bằng những môn học thời thượng; nên giáo viên
cũng thiếu nhiệt tình.
Còn các em học sinh được học ở những giờ dạy đó đều được nâng cao hơn về
khả năng giao tiếp trước tập thể, tính tích cực và sáng tạo có điều kiện để thể hiện.
Những kiến thức các em tự mình nhận ra và tự mình ghi nhớ nên được nhớ sâu sắc
hơn. Tuy nhiên, không phải giờ học nào cũng được học như thế nên các em mong
muốn có nhiều giờ dạy hay và hứng thú, có nhiều tình huống cho các em tham gia
giải quyết để nâng cao khả năng tự nhận thức cho mình. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn
1 số em không thích học môn này vì nhiều lí do, hoặc 1 số em chưa thật sự mạnh
dạn, nhận thức quá kém so với các bạn cùng trang lứa (hạn chế của vùng nông thôn
miền núi nghèo) nên còn chưa nhận thức được vai trò, ý nghĩa của cách dạy học này,
vì thế mà chính kiến không rõ ràng.
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

16



Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

III. NỘI DUNG VẤN ĐỀ
1. Biện pháp phát triển năng lực học sinh trong dạy học theo tình huống
1.1. Vị trí và mục tiêu của chương trình GDCD 12
1.1.1. Vị trí
Môn GDCD còn tích hợp nhiều nội dung giáo dục xã hội cần thiết cho các
công dân trẻ tuổi như: giáo dục kĩ năng sống, giáo dục môi trường, giáo dục sức
khỏe sinh sản vị thành niên, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục phòng chống ma
túy, phòng tránh HIV/AIDS.....Tuy nhiên việc tích hợp phải hợp lí, không làm nặng
nề thêm nội dung môn học.
Quá trình dạy học môn GDCD là quá trình khai thác tiềm năng và phát triển
tâm lực học sinh, phát triển tính tích cực hoạt động nhận thức và năng lực tự hoàn
thiện của học sinh.
Nội dung của môn GDCD hướng học sinh vươn tới những giá trị cơ bản của
người công dân Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó
là những giá trị tốt đẹp của dân tộc trong sự hòa nhập với tinh hoa văn hóa nhân loại,
thể hiện sự thống nhất giữa tính truyền thống với tính hiện đại.
Môn GDCD không những trang bị cho học sinh những kiến thức phổ thông,
cơ bản phù hợp với lứa tuổi , về các giá trị đạo đức, pháp luật, lối sống mà còn cần
hình thành và phát triển ở các em những tình cảm, niềm tin, những hành vi và thói
quen phù hợp với những giá trị đã học, giúp cho học sinh có sự thống nhất cao giữa ý
thức và hành vi, giúp học sinh hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình trên một số
lĩnh vực cơ bản, từ đó mà các em hiểu rằng bất cứ người công dân nào, ở bất kì
cương vị nào đều phải sống và làm việc theo pháp luật.Nội dung môn GDCD gắn bó
chặt chẽ với cuộc sống thực tiễn của học sinh, gắn liền với sự kiện trong đời sống
đạo đức, pháp luật, kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương, của đất nước.
1.1.2. Mục tiêu:
Chương trình GDCD 12 là chương trình của lớp cuối cấp bậc THPT, nối tiếp

chương trình lớp 10 và 11 để thực hiện một cách đầy đủ mục tiêu của chương trình
GDCD của cả cấp học.Chương trình môn GDCD được xây dựng dựa trên các môn
học cơ bản như :Triết học, Đạo đức học, Luật học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

17


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

xã hội khoa học và các đường lối chủ trương của Đảng chính sách pháp luật của Nhà
nước trong giai đoạn hiện nay.
Chương trình GDCD 12 nhằm giúp học sinh:
Về kiến thức:
- Hiểu được bản chất giai cấp và xã hội của pháp luật, mối quan hệ biện chứng
giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức.
- Nhận biết được vai trò của pháp luật đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi
cá nhân, nhà nước và xã hội.
- Nắm được một số nội dung cơ bản của pháp luật liên quan đến việc thực hiện
và bảo vệ quyền bình đẳng, tự do, dân chủ và phát triển của công dân.
Về kĩ năng:
- Từng bước hình thành năng lực phân tích đánh giá các sự kiện, tình huống
pháp luật trong đời sống hằng ngày của bản thân, gia đình và xã hội.
- Biết cách tìm hiểu, tiếp cận các văn bản pháp luật đã được trang bị trong nhà
trường để tự điều chỉnh hành vi bản thân trong các mối quan hệ xã hội mà học sinh
tham gia hàng ngày.
Về thái độ:
- Tôn trọng, tin tưởng lẽ phải, sự công bằng, ý thức trách nhiệm và tính tích
cực của công dân trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Tôn trọng và tự giác sống, học tập theo pháp luật, trước tiên là tuân thủ các

quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của học sinh trong nhà trường, trong
các hoạt động xã hội cũng như chủ động góp phần phòng chống các biểu hiện vi
phạm pháp luật và đạo đức xã hội.
1.2. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tình huống trong dạy
học môn Giáo dục công dân 12 ở trường THPT Ngô Thì Nhậm
Phương pháp dạy học theo tình huống sẽ đặt học sinh trong một tình
huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc
giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kĩ năng và phương pháp nhận thức.
Dạy học theo tình huống là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận
thức của học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức độ
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

18


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

tự lực khác nhau của học sinh. Qua thực tiễn giảng dạy của bản thân, tôi đã đúc rút
được các biện pháp sau nhằm phát huy năng lực của học sinh:
1.2.1. Lựa chọn, xây dựng một hệ thống tình huống có tính khoa học, thiết
thực, hấp dẫn.
Giá trị đích thực của tình huống là ở nội dung tình huống, cho dù người dạy có
vận dụng tốt mọi kĩ năng, kĩ xảo để dẫn dắt, tổ chức điều khiển người học tham gia
vào tình huống nhưng bản thân tình huống không hấp dẫn hoặc kém hấp dẫn, thiếu
sức thuyết phục, ít có giá trị thiết thực với chủ thể tiếp nhận thì việc đưa tình huống
vào giảng dạy cũng không đem lại hiệu quả gì lớn lao. Do đó người dạy cần lựa
chọn, sàng lọc, xây dựng tình huống dựa trên các tiêu chí sau:
- Tình huống phải phù hợp và phục vụ cho việc thực hiện mục đích, nội dung
của bài học, phù hợp với trình độ người học.
- Nội dung của tình huống phải đảm bảo tính chính xác khoa học, bám sát kiến

thức chuẩn từ sách giáo khoa.
- Tình huống phải có tính thực tế, phải gắn với những sự kiện liên quan đến
đời sống hằng ngày, giúp người học có thể liên hệ với bài học một cách dễ dàng.
- Tình huống phải hấp dẫn, khơi dậy sự hứng thú, khơi dậy khả năng tự học và
yêu thích bộ môn ở người học, có thể bằng nhiều hình thức: ca dao, tục ngữ, mẩu
chuyện vui.
Ví dụ: Khi dạy bài 1 “ Pháp luật và đời sống” để học sinh hiểu rõ hơn về các đặc
trưng của pháp luật, giáo viên kể cho học sinh nghe câu chuyện gương mẫu tôn trọng
luật lệ của Bác Hồ.
Hàng ngày, Bác thường căn dặn anh em cảnh vệ phải luôn có ý thức tổ chức,
kỷ luật, triệt để tôn trọng nội quy chung. Bác bảo: “Khi bàn bạc công việc gì, đã
quyết định thì phải triệt để thi hành. Nếu đã tự đặt ra cho mình những việc phải làm
thì cương quyết thực hiện cho bằng được”.
Một hôm Bác đến thăm một ngôi chùa lịch sử. Hôm ấy là ngày lễ, các vị sư,
khách nước ngoài và nhân dân đi lễ, tham quan chùa rất đông. Bác vừa vào chùa, vị
sư cả liền ra đón Bác và khẩn khoản xin Người đừng cởi dép, nhưng Bác không đồng

Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

19


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

ý. Đến thềm chùa, Bác dừng lại để dép ở ngoài như mọi người, xong mới bước vào
và giữ đúng mọi nghi thức như người dân đến lễ.
Trên đường từ chùa về nhà, xe đang bon bon bỗng đèn đỏ ở một ngã tư bật
lên. Đường phố đang lúc đông người. Xe của Bác như các xe khác đều dừng lại cả.
Anh em cảnh vệ lo lắng nhìn nhau.Nếu nhân dân trông thấy Bác, họ sẽ ùa ra ngã tư
này thì chúng tôi không biết làm thế nào được. Nghĩ vậy, chúng tôi bàn cử một đồng

chí cảnh vệ chạy đến bục yêu cầu công an giao thông bật đèn xanh mở đường cho xe
Bác. Nhưng Bác đã hiểu ý. Người ngăn lại rồi bảo chúng tôi:
- Các chú không được làm như thế! Phải gương mẫu tôn trọng luật lệ giao
thông, không nên bắt người khác nhường quyền ưu tiên cho mình.
Chúng tôi vừa ân hận, vừa xúc động, hồi hộp chờ người công an giao thông
bật đèn xanh để xe qua.
Câu hỏi: 1. Em có nhận xét gì về cách ứng xử của Bác?
2. Em hiểu thế nào về tính quy phạm phổ biến của pháp luật?
Sau khi học sinh nghiên cứu sách giáo khoa và trả lời câu hỏi, giáo viên có thể chốt
lại :
1. Cách ứng xử của Bác là phù hợp với tính quy phạm phổ biến của pháp luật
Vì như Bác đã nói: “ Khi bàn bạc công việc gì, đã quyết định thì phải triệt để thi
hành. Nếu đã tự đặt ra cho mình những việc phải làm thì cương quyết thực hiện cho
bằng được”.Khi có tín hiệu đèn thì mọi người đều phải chấp hành như nhau, không
phân biệt, bất kì ai ở trong điều kiện hoàn cảnh nhất định cũng phải xử xự theo
khuôn mẫu được pháp luật quy định, có như vậy mới đảm bảo công bằng.
2. Tính quy phạm phổ biến của pháp luật có nghĩa là pháp luật là những quy
tắc xử sự chung, là khuôn mẫu chung, được áp dụng nhiều lần, ở nhiều nơi, đối với
tất cả mọi người, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây chính là ranh giới để
phân biệt pháp luật với các loại quy phạm xã hội khác.Tính quy phạm phổ biến này
làm nên giá trị công bằng, bình đẳng của pháp luật, vì bất kì ai ở trong điều kiện,
hoàn cảnh nhất định cũng phải xử sự theo khuôn mẫu được pháp luật quy định.
VD: Luật Giao thông đường bộ quy định: Chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển
giao thông hoặc chỉ dẫn của đèn tín hiệu, biển báo hiệu, vạch kẻ đường...là quy tắc
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

20


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12


mà mọi người tham gia giao thông đường bộ đều phải tuân theo, ai không tuân thủ
quy tắc này đều là vi phạm pháp luật, việc xe của Bác dừng lại khi có tín hiệu của
đèn đó là việc chấp hành Luật Giao thông đường bộ một cách nghiêm túc.
Về phía học sinh sau khi tự trả lời và nghe giáo viên giải thích các em đã xác
định được năng lực tự học cho mình trong đó biết đánh giá và điều chỉnh những sai
sót, những hạn chế của bản thân trong cuộc sống, trong khi tham gia giao thông, đúc
kết những kinh nghiệm để có thể chia sẻ, vận dụng vào các tình huống khác trong
thực tiễn để nâng cao năng lực phẩm chất của bản thân. Bên cạnh các năng lực chung
, qua câu chuyện các em còn tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi cho phù hợp với
pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội, chủ động tham gia hợp tác giải quyết các
vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội.
1.2.2 Chuẩn bị tốt các câu hỏi dẫn dắt gợi mở.
Khi đưa ra tình huống, câu hỏi dẫn dắt gợi mở là hết sức quan trọng, nhiều khi
là một trong những yếu tố quyết định chất lượng của tình huống và khả năng lĩnh hội
kiến thức của người học. Chúng ta đều biết rằng yếu tố thúc đẩy tư duy là những
nhiệm vụ nhận thức nảy sinh trên cơ sở tri giác (cái gì là nền tảng của hiện tượng,
nguyên nhân của nó là gì?), là những nghịch lí (tại sao những con tàu lớn bằng thép
thì nổi, còn miếng sắt nhỏ lại chìm?), là sự ngạc nhiên v.v… Chính những câu hỏi
“Cái gì?”, “Tại sao?”, “Như thế nào?” đã kích thích óc tìm tòi của người học, kích
thích sự phân tích, so sánh và khái quát hóa. Cho nên, hầu hết các tình huống đều có
một kết thúc mở dưới dạng một câu hỏi nhằm hướng người học đến vấn đề cần giải
quyết cũng như nhằm tạo điều kiện cho người học có thể tiếp cận và giải quyết vấn
đề theo nhiều phương hướng khác nhau chứ không bị gò bó, ép buộc đi theo một
phương hướng cụ thể nào cả.
Vì vậy, để chuẩn bị tốt câu hỏi dẫn dắt gợi mở, người dạy cần phải lưu ý
những yêu cầu sau:
- Câu hỏi phải chứa đựng một mâu thuẫn nhận thức. Điều này chỉ đạt được khi
câu hỏi phản ánh được mối liên hệ bên trong giữa điều đã biết và điều phải tìm.
- Phải chứa đựng phương hướng giải quyết vấn đề, thu hẹp phạm vi tìm câu trả

lời. Nghĩa là có định hướng rõ ràng, nhằm đúng bản chất của vấn đề, không được
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

21


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

chung chung, mơ hồ và có thể gây cho người học hiểu nhầm hay hiểu lệch ý. Câu hỏi
phải tạo điều kiện làm xuất hiện giả thuyết, tạo điều kiện tìm ra con đường đúng đắn
nhất để giải quyết vấn đề.
- Câu hỏi cần phải được diễn đạt đúng văn phạm, ngắn gọn, rõ ràng, chính xác,
khoa học.
- Phù hợp trình độ của người học, không quá đơn giản hay quá phức tạp.
- Câu hỏi phải mang tính logic, có sự gắn kết giữa lí thuyết và thực tiễn, gây
hứng thú nhận thức, kích thích người học tư duy, tìm câu trả lời.
Ví dụ: Khi dạy bài” Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của
đời sống xã hội” tiết 1.
Để học sinh hiểu rõ hơn quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con và ngược
lại, giáo viên nêu ra một tình huống có vấn đề.
“ Ông Tư mất đi, bà Tư đã già yếu nên không thể ở một mình. Bà có nguyện
vọng được ở với con trai út vì hợp với vợ chồng họ hơn. Vợ chồng người con út
cũng mong muốn điều đó.Nhưng những người con khác không đồng ý vì họ cho
rằng: “Con cái được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với cha mẹ mình cần luân
phiên mỗi người phụng dưỡng mẹ một tháng.”
Hỏi: 1. Luân phiên phụng dưỡng mẹ mỗi người một tháng có phải là bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ đối với mẹ không?
2. Nếu là con của bà Tư, em sẽ ứng xử như thế nào?
Đối với tình huống này khi giáo viên đưa ra nó đã chứa đựng một mâu thuẫn, đây là
những tình huống thường xuyên xảy ra trong thực tế, gần với đời sống xã hội của học

sinh, thậm chí có thể đã xảy ra ở gia đình các em, nên có thể sẽ kích thích các em tư
duy, tìm câu trả lời phù hợp nhất.
Có thể các em sẽ có những cách diễn đạt khác nhau nhưng sẽ tập trung vào
việc giải quyết như sau:
1. Luân phiên phụng dưỡng mẹ mỗi người một tháng.
Về hình thức có vẻ bình đẳng, song thực chất không phải là bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ đối với cha mẹ. Bởi vì, đây không chỉ là vấn đề thuộc quyền và nghĩa vụ về
pháp luật mà còn là tình cảm mẫu tử và đạo đức.
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

22


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

2. Nếu em là con trai út của bà Tư em sẽ phân tích cho các anh chị hiểu:
- Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với mẹ không có nghĩa là chia đều mỗi
người nuôi dưỡng mẹ một tháng.
- Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với mẹ có nghĩa là con cái đều có quyền
và nghĩa vụ phụng dưỡng mẹ. Tuy nhiên nên tôn trọng nguyện vọng của mẹ, những
người con khác không trực tiếp nuôi dưỡng mẹ có thể đóng góp tiền cùng người con
út nuôi dưỡng mẹ, thường xuyên thăm hỏi mẹ, cùng nhau chăm sóc khi mẹ ốm
đau....
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên kết luận chốt lại kiến thức và học sinh nắm
được quyền và nghĩa vụ của con cái với cha mẹ , vận dụng liên hệ vào thực tế cuộc
sống của mình, thậm chí còn có cách nhìn nhận, cách giải quyết đối với các mối quan
hệ xã hội.Qua tình huống này học sinh hình thành được năng lực sáng tạo, xem xét
các tình huống với những góc nhìn khác nhau, ở phía người em út, ở phía các anh
chị.....từ đó phát hiện được các điểm hạn chế trong quan điểm của mình, áp dụng
điều đã biết trong hoàn cảnh mới. Ngoài ra qua tình huống học sinh còn hình thành

được các năng lực chuyên biệt riêng của môn GDCD như tự nhận thức, tự điều chỉnh
hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội( chăm sóc, phụng dưỡng
cha mẹ), tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng, đất
nước, tự đánh giá tự điều chỉnh hành động chưa hợp lí của bản thân trong học tập
cũng như trong cuộc sống hàng ngày ở gia đình mình.
1.2.3. Khai thác tính “vấn đề” của tình huống một cách khéo léo.
Vấn đề là trung tâm, là hạt nhân của tình huống. Vấn đề phải do chính bản
thân tình huống gợi ra, khiêu khích và đòi hỏi người học phải tìm tòi, suy nghĩ, phân
tích, so sánh, đánh giá để giải quyết tình huống. Tình huống phải bộc lộ mâu thuẫn
giữa thực tiễn với trình độ nhận thức, chủ thể phải ý thức được khó khăn trong tư
duy hoặc trong hành động mà vốn hiểu biết đã có chưa đủ để vượt qua. Tình huống
càng mâu thuẫn, càng gây khó khăn, trở ngại giữa cái đã biết và cái phải tìm sẽ càng
kích thích tư duy của chủ thể nhận thức. Khai thác tính “vấn đề” của tình huống là cả
một nghệ thuật, đòi hỏi cao ở sự khéo léo và linh hoạt của người dạy.
Khai thác mâu thuẫn của tình huống dạy học thể hiện ở những điểm sau:
Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

23


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

- Mâu thuẫn của tình huống phải gây được “cảm xúc” cho người học. Nghĩa là
vấn đề của tình huống nên xuất phát từ những sự vật, hiện tượng quen thuộc vẫn
thường diễn ra xung quanh đời sống hay một sự kiện mới lạ còn nóng hổi v.v… đã
được chủ thể tiếp nhận như một chuyện hiển nhiên, và giờ đây chuyện tưởng như là
hiển nhiên đó lại nảy sinh vấn đề, nảy sinh mâu thuẫn khiến người học bất ngờ, ngạc
nhiên, thấy hứng thú và có nhu cầu giải quyết vấn đề.
- Các sự kiện trong mỗi tình huống phải được cấu trúc sao cho người học có
câu trả lời ngay từ đầu, nhưng câu trả lời đó phải mau chóng trở thành không đầy đủ

hoặc không hiệu quả (thậm chí sai), khiến người học phải điều chỉnh hệ thống kiến
thức của mình để giải đáp vấn đề đặt ra, qua đó thu được kiến thức sâu rộng và bền
vững.
- Cần cung cấp một lượng thông tin đủ để người học cảm thấy vấn đề cần giải
quyết không quá xa so với khả năng của họ, cho họ thấy được có cách giải quyết (dù
chỉ là mơ hồ). Tuy họ chưa có ngay lời giải đáp nhưng họ tin rằng nếu họ tích cực
suy nghĩ thì có nhiều hi vọng giải quyết được vấn đề đặt ra.
Ví dụ: Khi dạy bài 6 “ Công dân với các quyền tự do cơ bản” Tiết 2
Để dẫn dắt học sinh vào việc nghiên cứu Quyền được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, giáo viên đưa ra một tình huống có thật, để
học sinh nghiên cứu.
“Bà Trần Thị Tuyết Minh ở Kim Mã - Ba Đình - Hà Nội nhận bà Phương làm
người giúp việc. Sau hai tuần làm việc bà Phương thường xuyên bị bà chủ dùng tay
chân đấm, đá, ghè đầu. Vì cho rằng bà Phương lười tắm, nên bà chủ đã ép bà Phương
vào phòng bật nước nóng hết cỡ rồi xả vào người khiến người bà Phương bị bỏng.
Có lần bắt gặp bà Phương ăn vụng bánh trên bàn thờ, bà chủ đã bắt bà Phương ăn hết
200g ớt cay, khiến miệng bà Phương bị phồng rộp… (Theo Dân trí VN)
Câu hỏi: 1. Thế nào là quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe,
danh dự và nhân phẩm của công dân?
2. Với tình huống trên bà Minh đã vi phạm quyền gì? Trách nhiệm bị
xử lí như thế nào?

Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm

24


Phát triển năng lực học sinh qua phương pháp dạy học theo tình huống trong môn GDCD 12

Đứng trước tình huống này học sinh xuất hiện “cảm xúc” khó tả thương cho

bà Phương, căm ghét bà Minh đến tột độ và cảm thấy cần có nhu cầu giải quyết tình
huống này, bảo vệ người lương thiện, trừng trị kẻ độc ác, vi phạm quyền được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe danh dự và nhân phẩm của công dân.
Có thể ngay từ đầu học sinh sẽ trả lời bà Minh vi phạm, nhưng câu trả lời
chưa đầy đủ, chưa phân tích theo nội dung chuẩn kiến thức, sau đó bằng cách dẫn dắt
khéo léo của mình giáo viên sẽ hướng dẫn các em đi dến tìm hiểu nội dung quyền
được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm.
1. Khoản 1, Điều 20, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác
xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
*) Ðiều 37 Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định: "Danh dự, nhân phẩm, uy
tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ” và được quy định thành
một nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng Hình sự nước ta.
2. Với tình huống trên bà Minh đã vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân( cụ thể là đối với bà Phương).
*) Pháp luật nước ta quy định:
Không ai được đánh người; đặc biệt nghiêm cấm những hành vi hung hãn,
côn đồ, đánh người gây thương tích, làm tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng của người khác như giết
người, đe dọa giết người, làm chết người.
*)Điều 604 Bộ luật dân sự:
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự,
uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong
trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.

Trần Thị Kim Chung- Giáo viên trường THPT Ngô Thì Nhậm


25


×