Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

SKKN sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học lịch sử việt nam thế kỷ XVI XVIII lớp 10, chương trình chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 36 trang )

1


MỤC LỤC
I. Phần mở đầu

Trang 2

1. Lí do chọn đề tài

2

2. Mục đích sáng kiến

2

3. Đối tượng sáng kiến

3

4. Đối tượng khảo sát và thực nghiệm

3

5. Phương pháp nghiên cứu

3

6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu

4



II. Phần nội dung

4

1. Cơ sở lý luận

4

1.1: Khái niệm tư liệu lịch sử và vai trò của việc sử dụng tư liệu lịch sử trong
giảng dậy

4

1.2: Các loại hình tư liệu lịch sử

6

2. Thực trạng của vấn đề

6

3. Các bước tiến hành sử dụng tư liệu trong giảng dạy Lịch sử Việt Nam
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII

7

3.1: Tìm tòi, tập hợp tư liệu

7


3.2: Chắt lọc nguồn tư liệu, xây dựng ý đồ cho bài giảng sử dụng tư liệu
lịch sử đảm bảo thời gian, phù hợp với nội dung từng mục từng phần trong bài
giảng

27
3.3: Vận dụng nguồn tư liệu lịch sử ...

28

4. Tác dụng của việc sử dụng tư liệu lịch sử ...

30

5. Một số lưu ý khi sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học

31

6. Kết quả áp dụng

32

III. Phần kết luận

34

1. Tự nhận xét

34


2. Đề nghị

34

IV. Các danh mục tư liệu tham khảo

35

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
bùng nổ, con người phải đối diện với những vấn đề phức tạp và để giải quyết
được những vấn đề phức tạp ấy, đòi hỏi thế hệ trẻ phải được trang bị đầy đủ
không chỉ về mặt kiến thức mà còn về phương pháp luận, phương pháp tư duy
và hành động trong thực tiễn, đòi hỏi giáo dục phải đi trước, mở đường cho sự
phát triển chứ không phải đi sau, phản ánh sự phát triển của xã hội loài người.
Có thể nói, giáo dục - đào tạo đang bị sức ép từ nhiều phía, nhất là sức ép giữa
lượng trí thức ngày càng tăng và sự tiếp nhận có giới hạn của con người. Trong
khi mặt bằng chất lượng giáo dục – đào tạo trên thế giới còn chênh lệch thì yêu
cầu nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo ở nước ta ngày càng trở nên cấp
thiết.
Hiện nay, quan niệm dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm” đã và đang
đạt hiệu quả tốt bởi sự nỗ lực của những người làm công tác giáo dục, những
nhà giáo tận tâm không ngừng vận dụng các kỹ thuật dạy học mới, đổi mới
phương pháp cho phù hợp với kiểu bài, với đặc trưng bộ môn, biết tích hợp các
nội dung vào bài học và vận dụng kiến thức liên môn để làm rõ vấn đề.
Đối với bộ môn Lịch sử, không thể phủ nhận trong sự nghiệp giáo dục,

môn Lịch sử ở trường phổ thông đã góp phần không nhỏ trong việc giáo dục
lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước và trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với sự
phát triển của nước nhà. Đã có nhiều thầy cô giáo tâm huyết với nghề, thường
xuyên đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao tính hấp dẫn của môn
học và đào tạo được những thế hệ trẻ hiểu và trân trọng những giá trị mà bộ môn
đem lại. Nhưng những năm gần đây, thông qua các kỳ thi tốt nghiệp trung học
phổ thông, thi tuyển sinh Đại học- Cao đẳng, các cuộc điều tra xã hội học, dư
luận xã hội cho thấy nhận thức về lịch sử của thế hệ trẻ còn rất hạn chế, và kết
luận phần lớn học sinh không thích học môn Lịch sử, coi đó là môn học phụ với
quá nhiều sự kiện khô khan và nhàm chán...

3


Năm học 2013-2014, cùng với sự đổi mới trong quy chế thi, hình thức và
môn thi tốt nghiệp THPT. Theo đó ngoài hai môn thi bắt buộc là Toán và Ngữ
văn, học sinh được chọn hai môn còn lại trong số các môn Ngoại Ngữ, Hóa, Lý,
Sinh, Sử, Địa. Tỉ lệ học sinh chọn môn Lịch sử rất ít, thậm chí có những trường
không có học sinh dự thi môn Lịch Sử. Có nhiều lý do để dư luận giải thích cho
điều này, song những người làm công tác giảng dạy bộ môn Lịch sử không thể
không khỏi chạnh lòng và suy nghĩ....Làm thế nào để cuốn hút được học sinh
yêu thích môn Lịch sử, để môn học trở nên phong phú, đa dạng và hấp dẫn, để
người học cảm nhận đang được tiếp cận và khám phá với những điều mới mẻ,
tìm hiểu chân lý khoa học góp phần nâng cao chất lượng bộ môn và tạo niềm
yêu thích Lịch sử đối với giới trẻ.
Vì thế, tôi quyết định chọn vấn đề "sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học
Lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI-XVIII". Thiết nghĩ, việc sử dụng tư liệu một cách
hợp lý, sinh động, có mục đích sẽ tạo cho bài giảng sự phong phú, người học
cảm thấy hứng thú và kích thích sự say mê tiếp cận bộ môn của học trò.
2. Mục đích sáng kiến

Đề xuất được những biện pháp, cách thức sử dụng tư liệu lịch sử trong
dạy học Lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI-XVIII nhằm góp phần làm rõ sự kiện lịch
sử một cách lô gic, sinh động và hấp dẫn, nâng cao chất lượng và hứng thú học
tập bộ môn cho học sinh, qua đó bồi dưỡng thêm những kinh nghiệm về mặt
phương pháp- cách thức thực hiện, năng lực nghề nghiệp của chính bản thân
mình.
3. Đối tượng sáng kiến
Đối tượng của đề tài hướng vào việc tìm hiểu, sử dụng, vận dụng tư liệu
lịch sử trong giảng dạy Lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI-XVIII. Lịch sử lớp 10chương trình cơ bản.
4. Đối tượng khảo sát và thực nghiệm
Sáng kiến áp dụng cụ thể vào đối tượng là học sinh lớp 10 trêng THPT sè
I thµnh phè Lµo Cai.
5. Phương pháp nghiên cứu
4


Trong quá trình thực hiện, tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu lí luận
và phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
6. Phạm vi nghiên cứu và kế hoạch nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu của sáng kiến: Tập trung nghiên cứu một số biện
pháp, cách thức sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học Lịch sử Việt Nam thế kỷ
XVI-XVIII, vận dụng vào bài 21, bài 22, bài 23, bài 24 sách giáo khoa Lịch Sử
10- chương trình cơ bản tại trường trung học phổ thông số I thành phố Lào Cai.
- Kế hoạch nghiên cứu:
Thời gian
Tháng 9,10-2013

Kế hoạch thực hiện
Tìm hiểu, nghiên cứu và xác định nội dung đề tài sáng kiến kinh


nghiệm
Tháng 11 và 12- Triển khai viết đề cương sáng kiến kinh nghiệm và nội dung phần
2013
mở đầu
Tháng 01 và 02- Xác định tiến trình phần nội dung SKKN và triển khai viết phần
2014

nội dung SKKN và thực hiện áp dụng vào thực tiễn giảng dạy ở

Tháng 03/2014

các lớp
Lấy ý kiến tổng hợp kết quả thực nghiệm để đánh giá hiệu quả của
đề tài. Viết phần kết luận và hoàn thiện SKKN.
PHẦN NỘI DUNG

1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm tư liệu lịch sử và vai trò của việc sử dụng tư liệu lịch sử
trong giảng dạy
Lịch sử là những gì đã xảy ra trong quá trình phát triển của xã hội loài
người và đồng thời nó cũng tồn tại khách quan đối với chúng ta. Vấn đề được
đặt ra ở đây là, Lịch sử đã xảy ra và chúng ta nhận thức nó như thế nào? Những
căn cứ nào để cho ta nghiên cứu, nhận thức được những gì xảy ra trong quá khứ
(tất nhiên là không thể chính xác tuyệt đối). Điều quan trọng nhất của hoạt động
nghiên cứu Lịch sử là nhận thức được quá khứ và nhận thức được Lịch sử thông
qua việc nghiên cứu lịch sử. Qua đó có thể khái quát thành những quy luật,
những bài học lịch sử để phục vụ cuộc sống hiện tại. Do lịch sử đã trải qua, cho
5



nên con người không thể quan sát trực tiếp các sự kiện, quá trình lịch sử đó, do
vậy việc nhận thức phải dựa vào nhiểu nguồn sử liệu ( tư liệu lịch sử) khác nhau.
Việc xác định khái niệm tư liệu lịch sử có rất nhiều quan điểm khác nhau:
Nhà sử học người Nga Chi-khơ-mi-rốp cho rằng tư liệu lịch sử là tất cả những gì
còn sót lại của cuộc sống đã qua. Trong phương diện Triết học thì tư liệu lịch sử
là khái niệm phản ánh đặc tính của hiện vật có thể được để thu nhận tri thức của
hiện vật khác. Theo phương diện xã hội, tư liệu lịch sử là một phương tiện để
bảo tồn, lưu giữ, truyền bá. Rê-ban cho rằng tư liệu lịch sử là tổng hợp thành
quả từ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người được lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác bằng phương diện xã hội. Trong bách khoa toàn thư, tư
liệu lịch sử là những gì phản ánh trực tiếp quá khứ. Xét về mặt lý luận, có nhiều
quan niệm khác nhau về khái niệm tư liệu lịch sử. Song ta có thể hiểu tư liệu
lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan hệ xã hội
nhất định.
Qua thực tế giảng dạy và trong phạm vi của đề tài, tôi thiết nghĩ giải thích
một cách dễ hiểu nhất, tư liệu lịch sử là các sự kiện, tài liệu mà mỗi giáo viên
cần phải sưu tầm để tìm hiểu quá trình lịch sử đang học. Tư liệu càng sinh động,
phong phú bao nhiêu thì sự kiện càng cụ thể và càng hay bấy nhiêu. Thiết nghĩ,
trong giảng dạy lịch sử, điều kiện cơ bản nhất để tái tạo hình ảnh quá khứ là tư
liệu lịch sử. Nếu không có nguồn tư liệu phong phú, không cung cấp được
nguồn tư liệu cụ thể chân thực thì dù có vận dụng phương pháp giảng dạy nào đi
chăng nữa cũng không thể đạt hiệu quả mong muốn.
Nói như vậy để thấy rằng, các nguồn tư liệu lịch sử có vai trò cực kỳ quan
trọng, như nhà sử học Ba Lan J.iopolski đã viết: Tư liệu luôn là tài sản quý giá
nhất của nhà sử học, không có nó ta không thể là nhà sử học. Và nếu xem một
công trình nghiên cứu lịch sử là một món ăn thì các nguồn tư liệu chính là
những sản phẩm, những gia vị để chế biến nên món ăn đó. Không có nguồn tư
liệu thì lịch sử không thể được viết ra "không có cái gì có thể thay thế tư liệukhông có chúng thì không có lịch sử".
1.2. Các loại hình tư liệu lịch sử
6



Khoa học lịch sử có nguồn tư liệu hết sức phong phú và đa dạng. Tùy theo
nội dung phản ánh và tính chất mà người ta thường chia tư liệu lịch sử ra thành
các nhóm: tư liệu thành văn, tư liệu vật chất, tư liệu truyền miệng, tư liệu tranh
ảnh, phim ảnh.... Nhưng cũng có những sách lại chỉ chia làm hai loại là tư liệu
trực tiếp (xuất hiện cùng với sự kiện, thuộc về sự kiện và thường được coi là
nguồn tư liệu gốc có giá trị) và tư liệu gián tiếp (là phản ánh lịch sử qua thông
tin gián tiếp, với mục đích truyền đạt thông tin- qua tác giả sử liệu, ở đó các sự
kiện xảy ra không đồng thời với tư liệu).
Nhưng dù là loại hình tư liệu nào cũng đều nhằm mục đích làm rõ, sinh
động và cụ thể sự kiện lịch sử đang tìm hiểu. Tùy đặc thù từng chương, bài,
mục, phần trong bài dạy mà giáo viên có cách vận dụng tư liệu cho phù hợp.
2. Thực trạng của vấn đề
Việc sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông là
vấn đề hết sức quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy học, kích thích sự
hứng thú và niềm yêu thích của học trò đối với việc học tập bộ môn, hướng tới
một bài giảng dạy học theo hướng tích cực, giáo dục một con người mới đáp
ứng được xu thế hội nhập quốc tế.
Sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học là một khâu hết sức quan trọng
trong việc khơi dậy hứng thú học tập, động cơ, sự tập trung chú ý theo dõi bài
giảng của học sinh, kích thích tính tích cực học tập của các em. Tư liệu càng cụ
thể bao nhiêu, sinh động bao nhiêu, phong phú bao nhiêu thì càng hay bấy
nhiêu, nó là điều kiện cơ bản để tái tạo hình ảnh quá khứ. Nếu không có nguồn
tư liệu phong phú, cụ thể và chân thực thì dù có sử dụng phương pháp giảng dạy
nào cũng khó có có thể đạt hiệu quả như mong muốn.
Mỗi giáo viên có cách truyền đạt môn Lịch sử khác nhau, một giờ học
Lịch sử sẽ trở nên phong phú, đa dạng, hấp dẫn nếu người dạy có sự sáng tạo,
lập luận, dẫn dắt người học, để người học cảm nhận đang được tiếp thu kiến
thức mới, tìm hiểu chân lý khoa học. Nên quan niệm sách giáo khoa là một

nguồn tài liệu, bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng, tập hợp các tư liệu được chắt
lọc, tổ chức thực hiện giúp học sinh được khám phá môn học một cách hứng thú
7


và hiệu quả. Nhưng trên thực tế không phải giáo viên nào cũng làm được như
vậy. Một số thường ít quan tâm đến việc sưu tầm, tìm kiếm tư liệu phục vụ cho
bài giảng, nặng về cung cấp kiến thức sách giáo khoa khiến giờ học nặng nề,
kém sinh động, hiệu quả bài học không cao.
3. Các bước tiến hành sử dụng tư liệu trong giảng dạy Lịch sử Việt Nam từ
thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII (sách giáo khoa Lịch sử 10- chương trình cơ
bản)
3.1. Tìm tòi, tập hợp tư liệu
Có nhiều nguồn tư liệu lịch sử để phục vụ cho bài giảng của giáo viên,
song trong phạm vi của sáng kiến, căn cứ vào đặc thù bài học và đối tượng học
sinh, tôi xin nêu ra hai loại hình tư liệu lịch sử phổ biến được sử dụng trong
giảng dạy lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đó là tư liệu tranh
ảnh, sơ đồ, bảng biểu và tư liệu thành văn. Cụ thể như sau:
a. Đối với bài 21: Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các
thế kỷ XVI- XVIII.
- Tư liệu thành văn:
+ Lê Uy Mục (1505-1509): Sao nhãng triều chính, "đêm đêm cùng cung
nhân uống rượu vô độ, ai say thì giết". Giết các công thần, tôn thất có ý không
ủng hộ mình, tính hung hãn đến nỗi một sứ thần Trung Quốc đã phải gọi y là
"vua quỷ". Vì vậy người trong hoàng tộc hợp quân giết Uy Mục và lập Tương
Dực.
+ Lê Tương Dực: Hoang dâm vô độ, thường bắt phụ nữ cởi truồng chèo
thuyền cho mình đi chơi trên Hồ Tây. "Nhà vua tính hiếu dâm như tướng lợn,
loạn vong không còn lâu nữa."
+ Bọn quý tộc ngoại thích dựa thế nhà vua, kết thành bè đảng "phàm súc

vật, hoa màu của dân gian đều cướp cả, nhà dân ai có đồ lạ, vật quý thì đánh dấu
để lấy."
+ Mạc Đăng Dung (1527-1529): Mạc Đăng Dung quê ở làng Cổ Trai,
huyện Nghi Dương (Hải Dương) là cháu bảy đời của trạng nguyên Mạc Đĩnh
Chi làm quan đến chức Tể tướng thời Trần, bố là Mạc Hịch, mẹ là Đặng Thị
8


Hiến. Mạc Đăng Dung sinh ngày 23 tháng 11 năm Quý Mão - 1483. Thời trẻ,
Mạc Đăng Dung có sức khoẻ phi thường, tướng mạo khôi ngô. Ông xuất thân từ
một thanh niên nghèo, làm nghề đánh cá, trong một dịp đi thi võ ở kinh đô đã
trúng Đô lực sĩ và được sung vào Châu túc vệ chuyên cầm dù đi theo vua. Mạc
Đăng Dung tiến rất nhanh trên con đường hoan lộ, năm 1511 mới 29 tuổi đã
được phong tước Vũ xuyên bá. Năm 1516, Mạc Đăng Dung được cử làm Trấn
thủ Sơn Nam với chức Phó tướng tả đô đốc. Trải qua 3 đời vua Lê, Mạc Đăng
Dung được phong Thái sư Nhân quốc công rồi đến An hưng vương. Lợi dụng
lúc vua Lê Cung Hoàng ươn hèn, tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai
đem quân về kinh đô ép vua nhường ngôi, lập lên triều Mạc.
+ Hướng dẫn học sinh đánh giá khách quan về sự kiện Mạc Đăng Dung
yêu cầu vua Lê nhường ngôi và lập ra triều Mạc
+ Đánh giá về chính sách của nhà Mạc trong giai đoạn đầu, sách Đại Việt
sử kí toàn thư mô tả: "Từ đấy người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không,
ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về...Trong
khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải
đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên."
+ Khi giảng về cuộc chiến tranh Nam- Bắc triều và chiến tranh TrịnhNguyễn, tư liệu về diễn biến góp phần làm rõ kết quả và khắc sâu kiến thức cho
học sinh.
Chiến tranh Nam- Bắc triều: Quân Nam triều nhiều lần đánh ra Bắc
nhưng không làm thay đổi tình thế. Bắc triều (nhà Mạc) liên tiếp mở nhiều cuộc
tiến công vào đất Thanh-Nghệ. Suốt hơn 10 năm (1570-1583) nhà Mạc đem

quân đánh vào 13 lần biến vùng bờ biển từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa thành bãi
chiến trường. Già trẻ bồng bế nhau chạy tan tác, kêu khóc đầy đường, chết đói la
liệt. Cuối 1583, sau khi củng cố lực lượng, Nam triều quyết định đem quân đánh
ra Bắc, lớn nhất là năm 1592, Bắc triều bị thua to mất Thăng Long, chiến tranh
kết thúc, nhà Mạc sụp đổ.
9


Chiến tranh Trịnh- Nguyễn: Gần nửa thế kỷ đánh nhau 7 lần dữ dội
không có kết quả, nhân dân khổ cực quân sĩ hao tổn, chán nản, hai họ ngừng
chiến.
- Tư liệu hình ảnh:
+ Khởi nghĩa nông dân nửa cuối thế kỷ XVI

+ Lãnh thổ sau cuộc chiến tranh Trịnh- Nguyễn

10


b. Đối với bài 22: Tình hình kinh tế ở các thế kỷ XVI-XVIII.
- Tư liệu thành văn
+ Nông nghiệp: Nhiều người nuớc ngoài có mặt thời đó đã rất ngợi ca sự
trù phú của đất đai. Giáo sĩ Marini trong tập ký sự về Đường ngoài đã để hẳn
một chương để mô tả "sự màu mỡ của Vương quốc" này ("Vương quốc xứ Đàng
ngoài"). Marini viết: "Đất đai màu mỡ và không lúc nào nghỉ sản xuất. Nhân
dân rất hiểu giá trị của ruộng đất nên không bỏ hoang và những người nội trợ
giỏi, sau khi thu hoạch mùa màng xong, lập tức lại cày bừa ngay và gieo hạt. Và
11



như vậy mỗi năm họ thường thu được 2, 3 vụ. Ở những nơi nào không trồng lúa
được thì họ trồng cây ăn quả và thu hoạch lớn. Cây cối tươi tốt đến nỗi lúc nào
cũng chỉ thấy một màu xanh tựa như một khu rừng với một mùa xuân vĩnh
viễn".
Về giống lúa, theo ghi chép của Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII: Vùng châu thổ
sông Hồng có 8 giống lúa chiêm, 27 giống lúa mùa, 29 giống lúa nếp. Nông
nghiệp Đàng Trong có 26 giống lúa nếp, 23 giống lúa tẻ.
"Tháng tư hàng năm lúa chín đầy đồng, gặt hái không kịp, mỗi mẫu thu hoạch từ
90 đến 120 gánh lúa."
Theo giáo sĩ Bo-ri: "Đất đai màu mỡ và sinh lợi....đến nỗi hàng năm họ
gặt lúa 3 lần, thu hoạch được một lượng thóc phong phú đến mức không ai cần
lao động thêm để kiếm sống....quanh năm họ có nhiều hoa quả, những thứ lạ
như dưa bở, dưa chuột, dưa hấu, mít, sầu riêng, dừa, trầu cau, bắp cải, thuốc lá,
mía....đồng ruộng của họ đầy những gà vịt nhà và gà rừng."
+ Thủ công nghiệp
Nghề thủ công cổ truyền:
Tơ: Năm 1644, người Hà Lan mua ở Đàng Ngoài 644 tạ tơ. 1645 mua 800
tạ tơ chở đi Nhật và 120 tạ tơ chở sang châu Âu. Hàng năm người Bồ Đào Nha
cũng đặt hàng vạn lạng bạc cho chúa Trịnh để mua tơ.....
Dệt: Một thương nhân nước ngoài hỏi người thợ dệt: "Tơ lụa được sản
xuất với một số lượng lớn, bao gồm đủ loại như lụa trắng, lụa màu, the, lĩnh,
nhiễu, đoạn...kỹ thuật dệt mềm mại, vừa đẹp, vừa tốt... chị có làm được không? "
Người thợ dệt đáp:"Làm được"
+ Nghề mới xuất hiện:
Làm đường trắng: Lái buôn phương Tây khen đường của nước ta tốt nhất
trong khu vực, là một mặt hàng bán rất chạy. "Đường trắng và mịn, đường phên
tinh khiết, trong suốt, chất lượng tốt. Trước kia họ chỉ làm đủ dùng trong xứ,
nhưng vì các lái buôn Trung Quốc đem lại cho họ nhiều nguồn tiêu thụ, nên họ
đã tăng lò nấu đường lên đến mức có thể đủ hàng để chở 80 thuyền..."


12


Nghề làm đồng hồ: Từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, các giáo sĩ
phương Tây đã dùng đồng hồ làm món quà dâng các chúa. Một người ở xã Đại
Hào huyện Đăng Xương (Thừa Thiên) tên là Nguyễn Văn Tú được sang Hà Lan
hai năm, học được nghề làm đồng hồ. Ông không chỉ học được cách làm mà còn
cải tiến được nó. Cả gia đình ông đều biết làm đồng hồ song vẫn không tạo ra
được một phường chuyên để phát triển hơn nữa. Dù vậy ông vẫn được coi là
người Việt Nam đầu tiên biết chế tạo đồng hồ máy.
Có câu chuyện kể lại như sau: Theo Đại Nam thực lục (tiền biên) thì đời
chúa Nguyễn Phúc Chu, những người thợ ở Đàng Trong đã chế được loại đồng
hồ tự động đánh chuông gọi là Tự minh chung. Loại đồng hồ này có điểm đặc
biệt là nó chia làm 24 giờ. Thời gian này, các cố đạo trên đường đi tìm nơi rao
giảng đạo, họ đến nước ta và dĩ nhiên phải làm mọi cách để lấy lòng chính
quyền nước sở tại. Một trong những cách lấy lòng ấy là họ đã tặng quà bằng
những chiếc đồng hồ chạy bằng máy móc, gọn nhẹ và chính xác. Chiếc đồng hồ
do cha cố tặng cho chúa Nguyễn Phúc Chu một ngày nọ bị hỏng hóc, chạy cà
rịch cà tang, Chúa bực mình lắm, bèn giao cho một người thợ Tây (tên dịch là
Từ Tâm Bá) và một người thợ Tàu là Tài Phú đem về sửa. Hai người này mày
mò mãi mà vẫn không sửa được. Còn các quan lại của ta thì dĩ nhiên là bó tay
“chào thua” trước chiếc đồng hồ sản xuất theo kỹ thuật tiên tiến của phương
Tây. Cuối cùng những người dân ở vùng Thuận Hóa mới giới thiệu cho Chúa
một cụ già 74 tuổi. Cụ tên là Nguyễn Văn Tú, người xã Đại Hòa, huyện Đăng
Xương (nay là huyện Triệu Hải - Bình Trị Thiên). Đến gặp Chúa, cụ thưa:
- Gia đình chúng tôi xin nhận sửa chiếc đồng hồ này. Có lẽ cũng không
khó lắm.
Chúa Nguyễn Phúc Chu ngạc nhiên:
- Gia đình à? Sao lại là gia đình:
Cụ Tú cúi đầu từ tốn đáp:

- Bẩm Chúa, đúng như vậy ạ.
Thế là cụ cầm chiếc đồng hồ mang về sửa. Chỉ hai ngày sau, công việc
hoàn thành. Đem trả lại đồng hồ Chúa lúc bấy giờ là cả một đoàn người, có
13


người em cụ là Nguyễn Văn Thi, người con là Nguyễn Văn Duy, người con rể là
Lương Văn Dũng. Cụ trình với Chúa:
- Tất cả gia đình chúng tôi đều biết sửa và chế tạo ra đồng hồ.

Để chứng minh cho lời nói của mình, ngoài chiếc đồng hồ cũ của Chúa đã
sửa hoàn chỉnh, cụ còn tặng thêm một chiếc đồng hồ mới. Đặc biệt chiếc đồng
hồ do gia đình cụ chế tạo, ngoài việc đánh chuông báo giờ thì nó còn báo thức
từng ngày trong tháng. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn có nói rõ: "Hễ gặp
ngày nào thì hai bên hiện ra chữ, hết vòng thì trở lại, thật là tuyệt diệu."
+ Thương nghiệp và sự hưng khởi của các đô thị
Kẻ Chợ : Thương nhân Hà Lan Bê-rơn mô tả: "Thành phố Ca Cho (Kẻ
Chợ) có thể so sánh với nhiều thành phố ở châu Á nhưng lại đông dân hơn. Nhất
là những ngày mồng một và rằm âm lịch, là những ngày phiên chợ...các con
đường rộng bấy giờ đều trở thành chật chội đến nỗi chen qua đám đông người
độ 100 bước trong khoảng nửa tiếng đồng hồ là điều sung sướng. Tất cả hàng
hóa trong thành phố, mỗi thứ bán ở một phố riêng và các chợ đó còn chia ra làm
một hai hoặc nhiều khu là nơi mà những người trong khu mới được mở cửa
hàng."
1736, sứ thần Trung Quốc đi chơi Kẻ Chợ đã hưng phấn làm nên 8 bài thơ
với những câu như:
Ngày dài thuyền chở xe dong
Bán buôn lũ lượt trập trùng chen đua
Phố Hiến, nhân dân có câu "Thứ nhất Kinh kì, thứ nhì Phố Hiến", theo
giáo sĩ phương Tây mô tả, thế kỷ XVII Phố Hiến có trên 2000 nóc nhà.

Hội An: Năm 1618, Giáo sĩ Bo-ri nhận xét: "Hải cảng đẹp nhất, nơi mà
thương nhân ngoại quốc thường lui tới buôn bán là hải cảng thuộc tỉnh Caciam
(Quảng Nam).... thành phố đó lớn lắm, đến nỗi người ta có thể nói nó có hai thị
trấn: Một của người Trung Quốc, một của người Nhật Bản."
- Tư liệu hình ảnh:

14


+ Hình ảnh cảnh Thăng Long-Kẻ Chợ những năm 1680 do Samuel Baron
miêu tả sau chuyến đi đến Đàng Ngoài của ông.

+ Phố Hiến

15


+ Hội An

c. Đối với bài 23: Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước,
bảo vệ tổ quốc cuối thế kỷ XVIII.
+ Khai thác nguyên nhân bùng nổ của phong trào Tây Sơn bắt nguồn từ
sự khủng hoảng của chế độ phong kiến Đàng Ngoài, Đàng Trong. Theo một
giáo sĩ phương Tây, bấy giờ "gạo đắt như vàng, tình trạng đói khổ bày ra lắm
cảnh thương tâm khó tả, xác chết chồng chất lên nhau.". Xúc động trước cảnh
tượng đau lòng đó, dật sĩ Ngô Thế Lân đã viết lên mấy câu thơ:
Than ôi. Lạ thay chim lợn kêu
Năm canh gào thét gió vi vu
Thái sơn nghiêng ngả ngày u ám
Đất bằng sóng nổi mịt mù mây

Hồng nhạn kêu buồn bay tan tác
Sài lang ngang dọc giữa đường đi

16


+ Sử dụng tư liệu giải thích rõ tại sao trước đây nhân dân Gia Định ủng hộ
chính quyền họ Nguyễn Phúc Khoát mà lúc này lại ủng hộ họ Nguyễn Tây Sơn.
Lực lượng Tây Sơn không những đánh đâu thắng đó mà còn nổi tiếng vì bình
đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và lấy của người giàu chia cho người
nghèo. Nghĩa quân đã từng nêu lên khẩu hiệu: "Lấy của nhà giàu chia cho dân
nghèo". Điều đó được các giáo sĩ Tây Ban Nha ghi lại như sau: "Họ tấn công và
tước vũ khí viên quan do nhà vua sai vào thu thuế, họ thu lấy tất cả giấy tờ của
viên quan này và đem đốt ở nơi công cộng.....Họ giết những xã trưởng phản
động.....Họ đòi lấy hết những giấy tờ công và đem đốt....Ban ngày họ xuống các
chợ, kẻ đeo gươm, người đeo cung tên, có người mang súng. Họ không hề làm
thiệt hại đến người và của...họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ
không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của quý đem
chia cho người ngèo, còn họ chỉ giữ lại gạo và lương thực mà thôi.... Họ muốn
17


thực hiện công lý trong xã hội và giải phóng nhân dân khỏi ách chuyên chế của
vua quan...người ta gọi họ là giặc nhân đức với người nghèo.
+ Sử dụng lược đồ Tây Sơn khởi nghĩa chống các thế lực phong kiến và
chống quân xâm lược nước ngoài.

Sử dụng lược đồ chiến thắng Rạch Gầm- Xoài Mút để làm rõ thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Xiêm và đưa ra nhận định: Chính các sứ thần triều
Nguyễn cũng nhận thấy "Người Xiêm từ sau cuộc bại trận năm Giáp Thìn,

miệng tuy nói khoác lác mà lòng thì sợ Tây Sơn như cọp."

18


Sử dụng lược đồ cuộc kháng chiến chống Thanh để kết nối các sự kiện
trong diễn biến, dừng lại phân tích lời hiểu dụ của Quang Trung và dẫn: Như lời
mô tả của tác giả Lê Quý Kỷ sự " Huệ dứt lời, chư quân dạ ran như sấm, rung
động cả hang núi, trời đất đổi màu. Rồi chiêng trống đồng thời khua vang, quân
lính gấp rút lên đường ra Bắc".

19


+ Các chính sách của vương triều Tây Sơn: Dẫn Chiếu Cầu hiền của Ngô
Thì Nhậm: Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao
sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả
cho Thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được
đời dùng, thì đó không phải là ý Trời sinh ra người tài vậy."
Người hiền tài phải phục vụ đắc lực cho nhà vua. Nếu không làm như vậy là trái
ý Trời. Hiền tài là tinh hoa của Trời Đất nên lẽ đương nhiên là họ phải đem hết
tài đức phục vụ cho dân, cho nước.
"Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những
người tài cao học rộng chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để
phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?"
"Chiếu này ban xuống, các bậc quan lại lớn nhỏ, cùng với thứ dân trăm
họ, người nào có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, cho phép được dâng sớ
tâu bày sự việc. Lời nói nào có tể chọn dùng được thì cất nhắc không kể thứ bậc,
chỗ nào không dùng được thì gác lại, không vì lời nói sơ suất vu khoát mà bắt
tội. Còn người có nghề hay nghiệp giỏi, có thể cống hiến cho đời, thì hãy cho

phép các quan văn quan võ được tiến cử, nhưng vẫn dẫn vào đợi ra mắt, tuỳ tài
lục dụng. Hoặc người nào từ trước đến nay tài năng còn bị che kín, chưa được
người đời biết đến thì cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử..."
d. Bài 24: Tình hình văn hóa ở các thế kỷ XVI-XVIII.
- Về tư tưởng, tôn giáo:
+ Nho giáo: "Trong tay có sẵn đồng tiền
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì
Còn bạc còn tiền còn đệ tử
Hết cơm hết rượu hết ông tôi
(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm)
+ Đạo Thiên Chúa: Kể chuyện Alexandre de Rhodes (phiên âm tiếng
Việt là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ hay Cha Đắc Lộ, A-lếc-xăng Đơ-rốt; 15 tháng 3
20


năm 1591 – 5 tháng 11 năm 1660) là một nhà truyền giáo và một nhà ngôn ngữ
học. Ông đã góp phần quan trọng vào việc hình thành chữ quốc ngữ Việt Nam
hiện đại bằng công trình Tự điển Việt-Bồ-La, hệ thống hóa cách ghi âm tiếng
Việt bằng mẫu tự La tinh.
Ông sinh tại Avignon, miền nam nước Pháp. Theo một số sử liệu, linh mục
Alexandre de Rhodes (cha Đắc Lộ), sinh năm 1591, nhưng nhiều nguồn khác
ghi ông sinh năm 1593. Ông gia nhập dòng Tên tại Roma ngày 24 tháng 4 năm
1612, thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển. Tuy
nhiên, cùng với đà tiến này, Giáo hội Công giáo cũng gặp sức kháng cự vũ bão
của chính quyền các dân tộc được rao giảng Tin Mừng. Vì thế, bên cạnh nhiệt
tâm truyền giáo, còn phải kể ước muốn được đổ máu đào minh chứng cho Chúa
Jesus của các vị thừa sai tiên khởi. Gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành phố
Rhodes (bán đảo Iberia)), tổ tiên sang tị nạn dưới bóng Giáo Hoàng vì thời ấy
Avignon là đất của Giáo Hoàng, nên tên ông là Alexandre de Rhodes (A Lịch
Sơn Đắc Lộ). Người Việt gọi Alexandre de Rhodes là Giáo sĩ Đắc Lộ.

Đầu năm 1625, Alexandre cập bến Hội An, gần Đà Nẵng. Ông bắt đầu
học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Thầy dạy tiếng Việt cho ông là một
cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Ông viết: Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, chú bé đã dạy tôi
học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm
của từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ Châu Âu, thế mà,
cũng trong vòng 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả những gì tôi muốn
diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời, cậu học đọc, học viết tiếng Latin và đã
có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo
dai của cậu bé. Sau đó, cậu trở thành thày giảng giúp việc các cha truyền giáo
và là một dụng cụ tông đồ hữu hiệu trong việc loan báo Tin Mừng nơi quê
hương Việt Nam thân yêu của thầy và nơi Vương quốc Lào láng giềng.
Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của Alexandre de Rhodes,
nhưng cuộc đời truyền giáo của ông ở đây rất bấp bênh và trôi nổi. Trong vòng
21


20 năm, ông bị trục xuất đến sáu lần. Nhưng sau cả sáu lần ấy, ông đều tìm cách
trở lại Việt Nam khi cơ hội cho phép.
Ông đến truyền giáo ở Đàng Trong vào năm 1625 dưới thời chúa Nguyễn
Phúc Nguyên và ở Đàng Ngoài vào năm 1626 dưới thời chúa Trịnh Tráng. Thời
gian Alexandre de Rhodes giảng đạo tại Việt Nam cũng là thời kỳ các cha thừa
sai dòng Tên hoạt động rất hăng say và hữu hiệu. Riêng Alexandre de Rhodes,
ông đã truyền đạo từ Nam ra Bắc.
Ông kể lại công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài: Khi chúng tôi vừa đến
kinh đô Bắc Kỳ, tức khắc nhà vua truyền lệnh cho tôi phải xây một nhà ở và một
nhà thờ thật đẹp. Dân chúng tuốn đến nghe tôi giảng đạo đông đến nỗi, tôi phải
giảng đến 4 hoặc 6 lần trong một ngày. Chị vua và 17 người thân trong gia đình
vua xin lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Nhiều tướng lãnh và binh sĩ cũng xin theo
đạo. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là thấy các vị sư đã mau mắn từ bỏ bụt
thần để theo đạo Công giáo. Tất cả đều dễ dàng chấp nhận khi tôi giải thích cho

họ hiểu giáo lý đạo Công giáo rất phù hợp với lý trí và lương tâm con người.
Các tín hữu Công giáo Việt Nam có Đức Tin vững chắc đến độ, không gì có thể
rút Đức Tin ra khỏi lòng họ. Nhiều người phải đi bộ suốt 15 ngày đường để
được xưng tội hoặc tham dự thánh lễ. Nhưng phải thành thật mà nói, tôi không
thể chu toàn cách tốt đẹp mọi công tác truyền đạo này, nếu không có trợ giúp
tuyệt vời của các thầy giảng. Vì nhận thấy mình là linh mục duy nhất giữa một
cánh đồng truyền đạo bao la, nên tôi chọn trong số các tín hữu, những thanh
niên không lập gia đình và có lòng đạo đức sâu xa cũng như có nhiệt tâm rao
giảng Tin Mừng, để giúp tôi. Những người này công khai thề hứa sẽ dâng hiến
cuộc đời để phụng sự Chúa, phục vụ Giáo hội, sẽ không lập gia đình và sẽ vâng
lời các cha thừa sai đến Việt Nam truyền đạo. Hiện tại có tất cả 100 thầy giảng
đang được thụ huấn trong chủng viện và được các tín hữu trang trải mọi phí
tổn.

22


Năm 1645, ông bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Ông
mất ngày 5 tháng 11 năm 1660 ở Isfahan, Ba Tư, 15 năm sau lần cuối cùng bị
trục xuất khỏi Việt Nam.
+ Chữ Quốc ngữ theo mẫu tự La tinh: Mô phỏng hình ảnh trang đầu
sách: Phép giảng tám ngày. Song ngữ bằng tiếng La tinh (bên trái) và Tiếng Việt
với chữ Quốc ngữ (bên phải).

- Giáo dục: Sự sa sút của giáo dục so với giai đoạn trước: Nhà sử học Lê
Quý Đôn đã thừa nhận "các bậc tiền bối đã soạn thành bài, lời lẽ cổ nhã, bọn hậu

23



sinh đua nhau làm theo, khi vào trường chỉ xén bớt những chỗ quá dài dòng
đi mà thôi".
- Văn học:
+ Nguyễn Bỉnh Khiêm với bộ Quốc Âm thi tập
+ Tác phẩm Truyền Kỳ mạn lục phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội thế kỷ
XVI. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ
bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có
truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa
đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn
dật. Trong 20 truyện, truyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái
độ nhân sinh, một ý tưởng đạo đức của Nguyễn Dữ. Đó là những mong muốn
của ông về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự
công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người...
Giá trị lớn của Truyền kỳ mạn lục chính là ở những nội dung nhân văn đó.
+ Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, sân khấu ca múa nhạc
Chùa Thiên Mụ: hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm
trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng
5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời
chúa Tiên Nguyễn Hoàng -vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Truyền
thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm
trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị
cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau
này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn,
ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế
đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà
Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão
mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị
chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng
mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn.
24



Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý
nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng
một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là "Thiên Mụ". Dựa
theo huyền thoại, đồng thời căn cứ hình dạng Hán tự từng ghi trên bao tài liệu
cấu tạo bằng nhiều chất liệu, đủ khẳng định rằng trong tên Thiên Mụ, ngữ tố
"Thiên" có nghĩa là "trời". Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có
con nối dõi, nhà vua sợ chữ "Thiên" phạm đến Trời nên cho đổi từ "Thiên Mụ"
thành "Linh Mụ" (hay "Bà mụ linh thiêng"). Sau đó, người dân thoải mái gọi hai
tên: chùa Thiên Mụ và chùa Linh Mụ. Vì rằng từ "Linh" đồng nghĩa với
"Thiêng", âm người Huế khi nói "Thiên" nghe tựa "Thiêng" nên khi người Huế
nói "Linh Mụ", "Thiên Mụ" hay "Thiêng Mụ" thì người nghe đều hiểu là muốn
nhắc đến ngôi chùa này. Với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô được mở rộng ngay
từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải
qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới
triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều
các vua nhà Nguyễn.

Tượng phật bà quan âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút tháp: do nhà điêu
khắc họ Trương tạc năm 1656. Tượng cao 3,7 m, ngang 2,1 m, dày 1,15 m.
25


×