Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SKKN ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy GDCD THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.73 MB, 32 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ATGT

An toàn giao thông

CNTT

Công nghệ thông tin

GD-ĐT

Giáo dục và Đào tạo

GDCD

Giáo dục công dân

THPT

Trung học phổ thông

Trang1


Phần 1 : MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Năm học 2013-2014 là năm tiếp tục thực hiện đổi mới phương pháp dạy
học do Bộ GD-ĐT (GD-ĐT) ban hành. Năm thực hiện nhiệm vụ của ngành giáo
dục, tiếp tục đổi mới phương pháp dạy - học. Đặc biệt sẽ tập trung đổi mới


phương pháp giảng dạy các môn xã hội - những môn mà chúng ta thấy bấy lâu
nay xã hội chưa yên tâm, sẽ tổ chức những hội thảo từ cơ sở đến cấp quốc gia
về đổi mới ở cả 03 khâu: Cách dạy, cách kiểm tra và gắn dạy học với thực tiễn.
Năm học 2013 - 2014 sẽ đột phá tăng cường ứng dụng CNTT. Làm thế nào để
ở tất cả các trường đều có giáo viên nòng cốt có thể sử dụng thiết bị, ứng dụng
các bài giảng điện tử, hình thành kho dữ liệu các môn học. Trường nào cũng có
giáo viên sử dụng được bài giảng điện tử. Vì thế nhiệm vụ đặt ra cho mỗi giáo
viên là phải đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng linh hoạt các phương pháp
dạy học để nhằm phát huy tính tích cực, tự giác chủ động sáng tạo của học sinh
trong quá trình học tập nhằm chiếm lĩnh kiến thức một cách độc lập với từng
môn học. Với đặc trưng môn học GDCD là một môn học xã hội mang tính chất
khô khan, cứng nhắc, nên thực tế đã cho thấy rằng đại đa số học sinh có những
Trang2


khuynh hướng sai lầm là: Coi môn học GDCD là môn học đạo đức chính trị
thuần tuý trong nhà trường, các em không hiểu những tri thức khoa học của bộ
môn GDCD, trong đó nổi bật tri thức khoa học về thế giới quan, nhân sinh
quan, phương pháp nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn là những nhân tố
cơ bản mà mỗi con người cần phải tự trang bị cho bản thân để hoàn thiện nhân
cách chính mình. Các em cho rằng môn học GDCD là môn học phụ, nên các em
chưa thực sự chú ý đến việc học tập của bộ môn này. Trong các nhà trường vẫn
còn tồn tại ý thức coi môn GDCD là môn học bổ trợ. Chính vì quan niệm đó
nên một số trường vẫn còn bố trí cho giáo viên dạy kiêm nhiệm, trái ngạch và
đã dẫn đến tình trạng giáo viên không đầu tư nhiều cho tiết dạy, trong quá trình
giảng dạy giáo viên còn sử dụng phương pháp truyền thống như thuyết trình,
đọc chép. Học sinh chỉ tập trung trả lời các câu hỏi có sẵn trong sách giáo khoa
nên đã tạo cho tiết học trở nên khô khan, đơn điệu, nghèo nàn về phương pháp.
Học sinh luôn thụ động nên đã tạo cho học sinh sự nặng nề, uể oải…
Cơ sở vật chất, tài liệu, phương tiện dạy học còn thiếu, số liệu thông tin,

hình ảnh chưa cập nhật kịp thời và thiếu sự đa dạng. Việc tập huấn, bồi dưỡng,
hội thảo chuyên đề bộ môn còn ít. Vì thế đã làm cho giáo viên không có cơ hội
để bồi dưỡng, học hỏi bạn bè đồng nghiệp nhằm nâng cao chuyên môn nghiệp
vụ bộ môn.
- Thế kỷ XXI - thế kỷ của khoa học và công nghệ, chúng ta đang từng bước
tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học – ki thuật. Vì thế, sự chuẩn bị
nguồn lực cho đất nước bước vào thời kì đổi mới là một trong những nhiệm vụ
cấp thiết của toàn xã hội và ngành giáo dục đào tạo nói riêng. Muốn theo kịp các
nước tiên tiến và đón đầu sự phát triển đòi hỏi phải đổi mới giáo dục một cách
đồng bộ là tất yếu.
- Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời
gian đầu tư vào mỗi bài dạy. Từng bước áp dụng các phương tiện hiện đại như:
máy chiếu đa năng, máy chiếu đa vật thể, projector..v.v. băng hình, tranh ảnh
vào trong giảng dạy bộ môn GDCD là con đường hữu hiệu có tác dụng tăng hiệu
Trang3


quả tiết học lên gấp bội. Mặt khác nếu ứng dụng thành công CNTT vào dạy học
bộ môn GDCD, đưa ra các kinh nghiệm khả thi thì chắc chắn rằng chất lượng
học tập bộ môn sẽ được nâng cao và chắc chắn rằng học sinh sẽ rất hứng thú học
môn học này cũng như bao môn học khác trong chương trình phổ thông.
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về việc ứng dụng CNTT
vào môn GDCD ở trường THPT số 1 Huyện Mường Khương để giảng dạy một
số bài trong chương trình giáo dục công dân, nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy môn GDCD 11, học sinh lớp
11 ở trường THPT số 1 huyện Mường Khương năm học 2012 - 2013.
1.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

- Học sinh lớp 11 trường THPT số 1 Mường Khương năm học 2012-2013
- Thời gian nghiên cứu: 2 năm học
- Bắt đầu: tháng 9/2012 đến tháng 2/2014.
1.5. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp cụ thể là:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp nghiên cứu phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thống kê.
Phần 2: NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông ở nước
ta đã được xã hội quan tâm ngay từ những năm 1970. Đến đầu thập kỉ 90 vấn đề
phương pháp dạy học và đổi mới phương pháp dạy học được đặt ra và phát động
nhiều lần trong ngành Giáo dục, nhưng trên thực tiễn giáo dục ở nhà trường vẫn
chưa đạt hiệu quả cao. Đến những năm 1995-1996, 2000-2001 Bộ giáo dục và
Trang4


đào tạo đã phát động phong trào đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện
trong chỉ thị nhiệm vụ năm học hàng năm: Chỉ thị số 29/2001/ CT/ BGD-ĐT
ngày 30/07/2001 của bộ trưởng Bộ GD-ĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và
ứng dụng Công nghệ thông tin (CNTT) Công nghệ thông tin trong ngành giáo
dục giai đoạn 2001-2005 đã chỉ rõ: ...Các bộ môn không chuyên về CNTT cần
đổi mới nội dung chương trình giảng dạy, phương pháp giảng dạy và nghiên cứu
khoa học theo hướng tăng cường áp dụng CNTT. Các ngành khoa học, các
ngành công nghệ, cần tăng cường dạy lập trình để có thể tạo ra các phần mềm
chuyên ngành.
- Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học tin học theo hướng
đảm bảo các kiến thức cơ bản, tính cập nhật của chương trình nhằm hỗ trợ cho

dạy và học các môn học khác trong nhà trường.
- Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong Giáo dục - Đào tạo ở tất cả các cấp học,
bậc học, ngành học theo hướng sử dung CNTT như một phương tiện hỗ trợ đắc
lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học, học tập ở tất cả các môn học....
Thực hiện chỉ thị trên, hầu hết các bộ môn trong nhà trường ở các cấp học,
bậc học, ngành học, đều chú trọng ứng dụng CNTT vào đổi mới phương pháp
dạy học. Phải nói rằng, hiện nay với sự phát triển như vũ bảo về lĩnh vực CNTT,
nước ta đã từng bước tiếp cận và ứng dụng những thành tựu trong lĩnh vực còn
khá mới mẽ này. Tuy vậy, việc ứng dụng CNTT vào việc dạy học ở nước ta vẫn
còn hạn chế so với các quốc gia trên thế giới. Vì vậy việc đổi mới phương pháp
dạy học là việc làm cần thiết và quan trọng của ngành giáo dục trong giai đoạn
hiện nay.
Với đặc trưng của môn học là một môn khoa học, vấn đề đặt ra là làm thế
nào để nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học của thầy và trò đó là vấn đề hết
sức quan trọng. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy bộ môn GDCD,
bản thân tôi luôn suy nghĩ, trăn trở để tìm ra những phương pháp dạy học nhằm
gây hứng thú cho học sinh khi học bộ môn của mình để đạt kết quả cao. Đó cũng
là vấn đề được giáo dục quan tâm đặc biệt hiện nay.
Trang5


2.2.Thực trạng của vấn đề:
a. Thuận lợi- khó khăn
* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của ngành Giáo dục - Đào tạo tỉnh nhà.
- Ban giám hiệu nhà trường có quyết tâm cao và tập trung chỉ đạo, đẩy
mạnh đổi mới phương pháp dạy học.
+ Nhà trường đã trang bị khá đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy
móc phục vụ cho đổi mới phương pháp dạy học: các phòng học bộ môn, thư
viện, phòng máy.

+ Tổ chức phong trào thao giảng đổi mới phương pháp dạy học và được
đông đảo cán bộ giáo viên nhiệt tình tham gia.
- Trường có một số giáo viên đã sử dụng thành thạo các phần mềm vi tính,
thuận lợi cho việc trao đổi kinh nghiệm ứng dụng CNTT vào dạy học. Hiện nay
toàn trường đã có 30/ 40 giáo viên soạn bài bằng máy vi tính ( đạt tỷ lệ trên
75%, trừ giáo viên mới ra trường )
- Việc sử dụng bài giảng điện tử sẽ chuyển tải được lượng thông tin lớn đến
với học sinh, việc trao đổi tin nhanh hơn và hiệu quả hơn.
- Được sự ủng hộ tích cực của học sinh, đa số học sinh rất mong muốn
được học những giờ học ứng dụng công nghệ thông tin.
* Khó khăn:
* Về phía giáo viên:
Hiện nay việc ứng dụng CNTT trong dạy và học môn GDCD vẫn còn hạn
chế, những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ
quan và khách quan, cả trong nhận thức lẫn hành động, cả trong khả năng và sự
nhiệt tình của giáo viên:
- Một số giáo viên vẫn còn quen với cách dạy cũ .
- Nhiều giáo viên ngại sử dụng CNTT do tốn thời gian, công sức.
- Một số giáo viên khác chưa thực sự cố gắng tự học, tự nâng cao khả năng
ứng dụng CNTT, chưa dám nghĩ dám làm.
Trang6


- Hầu hết giáo viên chưa sử dụng thành thạo một số phần mềm vi tính. Do
vậy nhiều giáo viên rất ngại làm chủ kĩ thuật phức tạp của máy tính.
*Về phía học sinh:
Trên thực tế, hầu hết học sinh đều say mê, thích thú được học những giờ
có ứng dụng CNTT. Nhưng vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau:
- Một số học sinh chưa thật thích nghi với phương pháp học hiện đại này,
chỉ thụ động ngồi nghe, xem phim, ảnh và sôi nổi bình luận hoặc say sưa nghe

thầy(cô) giáo giảng quên cả việc ghi bài.
- Một số học sinh gặp khó khăn trong việc ghi chép: không biết lựa chọn
thông tin, nội dung chính để ghi vào bài học, ghi chậm hoặc không đầy đủ.
b.Thành công- hạn chế:
* Về phía giáo viên:
- Một số giáo viên đã cố gắng ứng dụng CNTT vào dạy học, tuy nhiên
trong quá trình giảng dạy vẫn còn nặng về hình thức, còn mang nặng tính chất
trình diễn. Nhiều giáo viên còn ôm đồm kiến thức làm mất thời gian mà hiệu
quả giờ dạy chưa cao.
- Trong tiến trình lên lớp với bài giảng điện tử, một số giáo viên thao tác
hơi nhanh nên dẫn đến việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và mức độ hiểu bài của
học sinh chưa được cao.
*Về phía học sinh:
- Một số học sinh chưa thật thích nghi với phương pháp học hiện đại này,
chỉ thụ động ngồi nghe, xem phim, ảnh và sôi nổi bình luận hoặc say sưa nghe
thầy(cô) giáo giảng quên cả việc ghi bài.
- Một số học sinh gặp khó khăn trong việc ghi chép: không biết lựa chọn
thông tin, nội dung chính để ghi vào bài học, ghi chậm hoặc không đầy đủ.
Căn cứ vào những thực trạng trên bản thân tôi xin mạnh dạn đưa ra một
số kinh nghiệm ứng dụng CNTT vào dạy học bộ môn GDCD như sau:
2.3 Giải quyết vấn đề:
Căn cứ vào những thực trạng trên bản thân tôi xin mạnh dạn đưa ra một
số kinh nghiệm ứng dụng CNTT vào dạy học bộ môn GDCD như sau:
Trang7


Một là: Xây dựng thư viện tư liệu.
Để phục vụ cho công tác giảng dạy, đối với môn GDCD kho tư liệu là điều
kiện cần thiết và đặc biệt quan trọng vì đặc trưng của bộ môn GDCD là bộ môn
trang bị cho học sinh hệ thống những tri thức đa dạng, phong phú: Triết học, đạo

đức, chính trị, pháp luật. Những bài dạy về đạo đức, chính trị, pháp luật đòi hỏi
có tính thực tiễn cao. Do vậy giáo viên dạy GDCD phải chú trọng cập nhật
những sự kiện thông tin, số liệu mới phục vụ cho quá trình giảng dạy có hiệu
quả.
- Trước đây giáo viên xây dựng kho tư liệu bằng cách đọc, tham khảo tài
liệu, sách báo và chép lại những thông tin cần thiết vào sổ tư liệu. Hiện nay việc
ứng dụng CNTT giúp giáo viên xây dựng thư viện tư liệu thuận lợi, phong phú,
khoa học hơn và không mất nhiều thời gian như trước, việc khai thác tư liệu có
thể lấy từ các nguồn:
+ Khai thác thông tin, tranh ảnh từ mạng internet.
Ví dụ: Khi dạy bài 6 : “ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, chúng ta có
thể lấy các thông tin hình ảnh như: hình ảnh về những thành tựu của công cuộc
đổi mới, của việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ, mà
trong quá trình giảng dạy chúng ta có thể khai thác các hình ảnh đó từ mạng
nternet để cung cấp cho học sinh, hoặc video clip về việc phóng thành công vệ
tinh vinasat1,2 của Việt Nam vào vũ trụ để học sinh quan sát bằng trực quan,
gây hứng thú học tập cho học sinh, cũng như nâng cao ý thức trách nhiệm cho
học sinh đối với sự nghiệp CNH - HĐH đát nước. Những tư liệu đó có ở trên
mạng internet. Chúng ta có thể vào địa chỉ www.google.com.vn.
+ Khai thác tranh ảnh từ sách, báo, tài liệu, báo chí, tạp chí: Trong quá trình
tham khảo sách, báo, tài liệu... gặp những tranh ảnh đặc biệt cần thiết, có thể
dùng máy scan quét ảnh và lưu vào USB, cuối cùng cập nhật vào kho tư liệu của
mình để phục vụ cho quá trình giảng dạy.
+ Khai thác từ băng hình, phim, video, các phần mềm tranh ảnh, bản đồ, hình
vẽ... thông qua chức năng cung cấp thông tin của máy tính.
Trang8


Ví dụ: Khai thác đoạn phim hoặc các nhân vật có liên quan đến bài giảng như
hình ảnh một số hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta, hình ảnh một

số hàng hóa trên thị trường, khi cần thực hiện thao tác: mở các băng hình, các
đĩa CD- Rom, lựa chọn các đoạn phim có thể làm tư liệu giảng dạy, sử dụng
phần mềm như: HeroSuperPlayer 3000 hoặc Herosoft 2001 hay Camtasia
studio, cắt các đoạn phim rồi lưu vào máy tính thành các file dữ liệu trong thư
viện tư liệu để phục vụ giảng dạy.
+ Khai thác các hình ảnh tĩnh, động, các phần mềm trên các đĩa CD- ROM,
VCD... Chỉ cần kích chuột vào insert/Picture/promfile... vào ổ đĩa CD-ROM lựa
chọn tranh, ảnh, hình vẽ cần tìm rồi đưa vào bài giảng.
Với bộ môn GDCD tôi chỉ khai thác những nội dung cần thiết ở các đĩa VCD
hoặc khai thác vận dụng các đĩa CD-ROM của các phân môn khác như CDROM vật lý, Địa lý. . . khi gặp những nội dung cần thiết, vì hiện nay vẫn chưa
có phần mềm nào dành cho môn GDCD.
Từ các nguồn khai thác trên giáo viên sẽ lưu trữ cho mình một thư viện tư
liệu phong phú, đa dạng để phục vụ cho công tác giảng dạy. Tuy nhiên cần lưu
trữ thành trong file dữ liệu để dễ dàng tìm kiếm khi sử dụng. Hiện nay đối với
bản thân tôi đã lưu trữ được một số file dữ liệu để phục vụ cho quá trình giảng
dạy bộ môn GDCD như: các dữ liệu về hình ảnh dân số, tài nguyên và mô
trường, về vấn đề ATGT, về các tệ nạn xã hội, về các hoạt động đền ơn đáp
nghĩa, về các thắng cảnh của quê hương đất nước, và một số di tích lịch sử của
địa phương và của đất nước.
Hai là: Xây dựng bài giảng điện tử:
Chúng ta có thể sử dụng giáo án điện tử để dạy các bài có tính chất thuyết
trình, kiến thức trừu tượng, đặc biệt là những bài học mà có thể khai thác các tư
liệu, hình ảnh, video, phần mềm ...
Giáo viên phải tự soạn bài giảng điện tử dựa vào các phần mềm ứng dụng sẵn
có như PowerPoint, đây là phần mềm thiết kế bài giảng điện tử tương đối đơn
giản, phù hợp với giáo viên giảng dạy các bộ môn không chuyên như môn
GDCD, hoặc có thể tham khảo bài giảng điện tử sẵn có trên các đĩa CD-ROM
Trang9



bán trên thị trường. Chương trình này dễ sử dụng, bằng cách đọc sách hướng
dẫn hoặc học hỏi bạn bè, đồng nghiệp thì có thể soạn được bài giảng. Trên thị
trường hiện nay có bán phần mềm hướng dẫn học Microsort PowerPoint, giáo
viên có thể mua về để tự học.
* Quy trình thiết kế một bài giảng điện tử:
- Xác định rõ mục tiêu bài dạy.
- Xác định kiến thức cơ bản, nội dung trọng tâm.
- Lựa chọn tư liệu tranh, ảnh, phim, thông tin cần thiết phục vụ bài dạy.
- Lựa chọn các phần mềm, trình diễn, hiệu ứng ....để xây dựng tiến trình
dạy học thông qua hoạt động cụ thể.
- Chạy thử, sửa chữa và hoàn thiện bài giảng.
Trong quá trình dạy học giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung của từng
bài giảng. Phải đảm bảo đựợc tính kế thừa và phát triển kết quả và dạy học của
bài trước với bài sau. Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính chính xác, khoa học,
phù hợp với thực tiễn. Để làm tốt điều này đòi hỏi giáo viên phải có sự sáng tạo
để sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học phù hợp với nội dung, điều kiện
dạy học và đặc điểm từng học sinh cụ thể của mình. Giáo viên phải nắm vững
nội dung cơ bản của bài học với nội dung có liên quan để có thể chủ động trong
quá trình hướng dẫn cho học sinh khai thác, lĩnh hội được điểm mấu chốt của
bài.
Cụ thể như:
Khi thiết kế bài giảng Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đây là
bài học nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tình hình tài nguyên và
môi trường, thực trạng, những nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường, mục
tiêu và phương hướng cơ bản của chinh sách tài nguyên và bảo vệ môi trường
và trách nhiệm của công dân, học sinh đối với chính sách tài nguyên và bảo vệ
môi trường.
Vì vậy chúng ta phải lựa chọn những tư liệu, tranh, ảnh về môi trường, cho
học sinh xem một số hình ảnh về ô nhiễm môi trường, nguyên nhân và hậu quả
của nó mục tiêu và phương hướng cơ bản của chinh sách tài nguyên và bảo vệ

Trang10


môi trường và trách nhiệm của công dân, học sinh đối với chính sách tài nguyên
và bảo vệ môi trường... từ những hình ảnh trực quan đó học sinh quan sát, nhận
xét và có phản ứng trước những hành động xả rác bừa bãi, những hành vi không
giữ gìn môi trường giúp các em khắc sâu được kiến thức một cách nhanh chóng.
Sau đây là một số hình ảnh cụ thể khi thiết kế bài 12 Chính sách tài
nguyên và bảo vệ môi trường và Chương trình GDCD 11:
1.Tình hình tài nguyên và môi trường ở nước ta hiện nay:
Tài nguyên thiên nhiên phong phú

Trang11


Trang12


Chặt phá rừng

Trang13


Săn bắt động vật

Trang14


 nhiễm môi trường


Trang15


Trang16


Trang17


Trang18


* Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên:
- Dân số đông:

Trang19


- Xả rác bừa bãi:

2. Mục tiêu và phương hướng cơ bản của chính sách tài nguyên và bảo
vệ môi trường. Lễ phát động ngày môi trường :
Trang20


Quần chúng tham gia bảo vệ môi trường:

Bảo tồn đa dạng sinh học:

Trang21



Trang22


Áp dụng công nghệ hiện đại để khai thác tài nguyên:

Khai thác dầu khí

Trang23


Khai thác than
3.Trách nhiệm của công dân đối với chính sách tài nguyên và bảo vệ môi
trường:

Trang24


Trang25


×