MỤC LỤC
MỤC
1. Đặt vấn đề
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng
2.3. Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất
lượng học sinh yếu kém
2.3.1. Tổ chức phụ đạo học sinh yếu kém
2.3.2. Nâng cao chất lượng học sinh yếu kém dài hạn
2.3.3. Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá
2.3.4. Duy trì học sinh đi học chuyên cần
2.3.5. Giám sát giờ tự học buổi tối của học sinh ở trọ.
2.4. Hiệu quả của SKKN
3. Kết luận
Tài liệu tham khảo
TRANG
1
1
1
3
4
4
5
7
8
9
10
11
12
1. Đặt vấn đề
Trường THPT số 2 Bát Xát được thành lập từ năm 2005 và bắt đầu tuyển
sinh từ năm học 2006-2007. Học sinh vào học tại trường chủ yếu là người dân
tộc thiểu số (trên 80 %) đến từ 17 xã vùng cao của huyện Bát Xát. Đa số học
sinh ở các xã, thôn bản cách xa trường hàng chục cây số, thậm chí có những xã
như Y Tý, Ngải Thầu cách trường hơn 80 cây số, cho nên có tới 75% học sinh
của nhà trường phải trọ học xa nhà. Do gia đình ở xa, điều kiện kinh tế khó khăn
nên việc giám sát, đôn đốc việc học tập của học sinh gần như không có, phụ
huynh phó mặc cho nhà trường.
Với đặc thù học sinh vùng cao, đa số là người dân tộc thiểu số nên chất
lượng học sinh đầu vào rất thấp (nhiều năm liền nhà trường tuyển sinh theo hình
thức xét tuyển, có những năm thi tuyển nhưng vẫn tuyển sinh cả những em bị 3
điểm 0). Chính vì thế bài toán nâng cao chất lượng học tập cho học sinh đại trà
là một vấn đề cấp bách đặt ra cho nhà trường. Một nhà trường muốn phát triển
bền vững, muốn thu hút được học sinh vào học không có cách nào khác là phải
nâng cao chất lượng học sinh đáp ứng yêu cầu của xã hội. Vì vậy, việc nghiên
cứu tìm ra các biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng học tập của học sinh
đại trà có vai trò rất quan trọng đối với các nhà trường nói chung và đối với
trường THPT số 2 Bát Xát nói riêng.
Xuất phát từ những nhận thức trên tôi chọn đề tài: “ Một số biện
pháp quản lý nâng cao chất lượng học tập học sinh yếu kém trường THPT
số 2 Bát Xát” với mục đích đúc rút kinh nghiệm nhằm trao đổi, học hỏi để
tìm ra những biện pháp hay hiệu quả có thể áp dụng phù hợp với các trường
có điều kiện tương đồng với trường THPT số 2 Bát Xát.
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Cơ sở lý luận về quản lý nâng cao chất lượng học tập học sinh đại
trà.
2.1.1. Khái niệm quản lý và quản lý giáo dục
- Theo “Từ điển tiếng việt”: “Quản lý là tổ chức và điều hành động
theo những yêu cầu nhất định” [28; tr 789].
- Theo tác giả Nguyễn Văn bình thì: “Quản lý là một nghệ thuật đạt
được mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ
huy hoạt động của những người khác” [5; tr 176]
- Theo tác giả Đỗ Hoàng Toàn: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có
định hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều
kiện biến chuyển của môi trường” [24; tr 43].
- GS Mai Hữu Khuê quan niệm: “Quản lý là sự tác động có mục đích tới
tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục
đích đã định trước” [15; tr 19,20].
- GS Đặng Vũ Hoạt và GS Hà Thế Ngữ cho rằng: “Quản lý là một quá
trình có định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý là một hệ thống là quá
trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những
mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý
mong muốn” [13; tr17]
- Theo GS Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (khách thể
quản lý) nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến” [21; tr 24].
Các định nghĩa trên tuy nhấn mạnh một số khía cạnh của quản lý. Tuy
nhiên điểm chung thống nhất đều coi quản lý là hoạt động có tổ chức, có mục
đích nhằm đạt tới mục tiêu xác định. Trong quản lý bao giờ cũng có chủ thể
quản lý, khách thể quản lý quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý.
Nói một cách tổng quát nhất, có thể xem quản lý là: Một qúa trình tác
động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt
được mục tiêu chung.
Mặt khác, tác giả Nguyễn Ngọc Quang đã nêu về quản lý giáo dục như
sau: “Quản lý giáo dục là những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui
luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ thống vận hành theo
đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng …đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”
Như vậy quản lý công tác giáo dục chính là quản lý nhà trường, tìm ra
cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể để tác động đến đội ngũ giáo viên
có vai trò quan trọng, quyết định đến việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ
giáo dục của nhà trường theo kế hoạch đề ra từng năm học và theo yêu cầu phát
triển giáo dục.
2.1.2. Chất lượng dạy học và hiệu quả giáo dục của giáo viên
Theo tác giả Nguyễn Công Giáp, bàn về phạm trù chất lượng và hiệu quả
giáo dục có nêu: “Chất lượng dạy học của giáo viên được thể hiện bằng chất
lượng học tập của học sinh dựa vào tiêu chí, thành tích về học tập, tỉ lệ lên lớp,
tỉ lệ tốt nghiệp …”
Theo Rudi Schollaer một chuyên gia giáo dục người Bỉ: Chất lượng ngày
nay được gắn với thị trường: “Chất lượng bằng sự thoả mãn của khách hàng”.
Ông ta cho rằng nhà trường cần tạo ra những môi trường học tập lớn lao để nâng
cao chất lượng của quá trình cơ bản là học và dạy. Nếu như những phương sách
cải tiến của nhà trường không gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc học tập và thành
tích của học sinh thì chắc chắn là chúng ta chỉ đang lãng phí thời gian mà thôi.
Cho nên, việc nâng cao chất lượng học sinh đại trà là nhằm mang lại hiệu
quả thật sự, là giúp học sinh lấy lại được căn bản, củng cố lại kiến thức. Và
người quản lý về chuyên môn phải tìm ra được giải pháp, cách nghĩ, cách làm,
đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi về vật chất lẫn tinh thần để giáo viên có
thể toàn tâm, toàn ý với công việc giảng dạy của mình.
Hơn nữa, sản phẩm giáo dục được tạo ra không chỉ do từng giáo viên
riêng rẽ, mà của tập thể giáo viên qua từng lớp học phải có sự tác động quản lý
của người gần gũi với mình sao cho các hoạt động giáo dục được diễn ra một
cách đồng bộ, nhịp nhàng và cuối cùng đạt hiệu quả cao.
2.1.3. Yêu cầu đối với giáo viên
- Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập
với các hình thức phong phú, đa dạng, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài
học, với đặc điểm và trình độ học sinh, với điều kiện của lớp, trường và địa
phương.
- Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh được
tham gia một cách tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình khám phá và lĩnh
hội kiến thức; chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng đã có của học
sinh; tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ thự tin trong học
tập cho học sinh; giúp các em phát triển tối đa năng lực, tiềm năng của bản thân.
- Thiết kế và hướng dẫn học sinh thực hiện các câu hỏi, bài tập phát triển
tư duy và rèn luyện kĩ năng; hướng dẫn sử dụng các thiết bị, đồ dùng học tập; tổ
chức có hiệu quả các giờ thực hành; hướng dẫn học sinh có thói quen vận dụng
kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
- Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lí,
hiệu quả, linh hoạt, phù hợp với đặc trưng của cấp học, môn học, nội dung, tính
chất của bài học, đặc điểm và trình độ học sinh, thời lượng dạy học và điều kiện
cụ thể của nhà trường.
2.1.4. Yêu cầu đối với cán bộ quản lí giáo dục
- Nắm vững chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông thể hiện ở chương
trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học, sử dụng phương tiện, thiết bị, hình
thức tổ chức dạy học và đánh giá kết quả giáo dục.
- Tạo điều kịên thuận lợi cho giáo viên nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Có biện pháp quản lí, chỉ đạo nâng cao chất lượng học tập của học sinh
trong nhà trường một cách có hiệu quả; thường xuyên tổ chức thực hiện, kiểm
tra, đánh giá chất lượng qua các kì thi khảo sát chất lượng.
- Động viên, khen thưởng kịp thời những giáo viên thực hiện có hiệu qủa
cao.
2.2. Thực trạng chất lượng học tập học sinh yếu kém trường THPT số
2 Bát Xát.
2.2.1. Đặc điểm tình hình nhà trường
- Trường THPT số 2 Bát Xát đóng trên địa bàn xã Bản Vược, huyện bát
Xát, tỉnh Lào Cai. Đây là một xã vùng cao biên giới của huyện Bát Xát, đời sống
kinh tế dân cư gần đây có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều khó khăn.
- Đội ngũ giáo viên: Trường có 33 giáo viên (Toán: 5, Lý: 4; Hóa: 3,
Sinh: 3, Ngữ văn: 4, Sử: 2, Địa: 2, NN: 4, Tin: 2, GDCD:1, TD: 3). Trình độ
chuyên môn: 32/33 đạt chuẩn.
- Cơ sở vật chất: Trường có 14 phòng học, 01 phòng Thư viện, 02 thực
hành, 01 phòng Tin học và có đủ các phòng làm việc cho cán bộ, giáoviên. Khu
ở nội trú cho học sinh có 5 phòng rộng mỗi phòng có thể ở được 20 học sinh, 6
phòng nhỏ mỗi phòng có thể ở được từ 4 đến 8 học sinh.
- Tình hình học sinh: Tổng số học sinh toàn trường 490/14 lớp, trong đó:
+ Học sinh dân tộc: 400 (81,6%)
+ HS nữ: 179 (36,5%)
+ Học sinh phải trọ học: 369 (75,3%), trong đó có 97 học sinh ở trong khu
nội trú còn lại ở trọ trong các nhà dân xung quynh khu vực trường.
- Chất lượng học sinh các năm học 2011-2012, 2012-2013 và khảo sát đầu
năm 2013-2014.
Năm học
Toàn trường
Tỷ lệ học sinh yếu kém
Chia ra
Lớp 10
Lớp 11
19,0%
16,9%
17,4%
19,7%
Lớp 12
19,7%
16,7%
2011-2012
18,4%
2012-2013
17,9%
Khảo sát đầu năm
56,3%
57,3%
43,7%
24,1%
2013-2014
2.2.2. Thuận lợi và khó khăn
a) Thuận lợi:
- Trường nhận được sự quan tâm của Sở GD&ĐT Lào Cai, UBND huyện
Bát Xát và phối hợp thường xuyên của UBND, công an xã Bản Vược.
- Nhà trường có tương đối đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học,
có khu ở nội trú cho học sinh đáp ứng nhu cầu ¼ số học sinh trọ học.
- Đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình, trình độ chuyên môn cơ bản đều đạt
chuẩn.
b) Khó khăn
- Chất lượng học sinh đầu vào thấp ( Khảo sát đầu năm lớp 10 năm học
2013-2014 có 43,7% học sinh từ trung bình trở lên).
- Học sinh người dân tộc thiểu số chiếm đa số (81,6%), năng lực nhận
thức còn hạn chế, học sinh chịu nhiều ảnh hưởng từ các phong tục, tập quán và
các hủ tục của các dân tộc. Do đó, tỷ lệ chuyên cần hàng ngày, đặc biệt các dịp
lễ tết thường rất thấp.
- Đa số học sinh phải trọ học xa nhà (chiếm 75,3%), trong đó hơn 70%
học sinh ở trọ ngoài nhà dân. Do phải trọ học nên thiếu sự quản lý, giám sát của
gia đình, học sinh dễ sa vào các trò chơi điện tử, tu tập, đi chơi dẫn đến bỏ bê
học hành.
- Một bộ phận giáo viên chưa am hiểu học sinh vùng cao, các phonmg tục
của các dân tộc, các địa phương nên gặp nhiều khó khăn trong giáo dục, vận
động học sinh.
2.3. Các biện pháp quản lý nâng cao chất lượng học tập học sinh yếu
kém.
2.3.1. Tổ chức phụ đạo học sinh yếu, kém
a) Tổ chức lớp học, xây dựng chương trình, nội dung
- Thông qua khảo sát đầu năm kết hợp kết quả năm học trước và những
trường hợp cá biệt giáo viên bộ môn phát hiện trong quá trình giảng dạy, giáo
viên chủ nhiệm phối hợp với giáo viên bộ môn lập danh sách những học sinh có
học lực yếu kém.
- Giáo viên chủ nhiệm thông báo đến phụ huynh có học sinh yếu kém
thông qua liên lạc qua điện thoại, họp phụ huynh học sinh định kì (3 lần/1 học
kì) để thông báo sự tình hình học sinh và bàn biện pháp phối hợp giúp đỡ học
sinh.
- Tổ chức phụ đạo cho học sinh yếu kém ngay từ đầu năm học và duy trì
thường xuyên cho đến hết năm học. Tập trung tổ chức phụ đạo một số môn cơ
bản như: Toán, Vật lý-Hóa học, Ngữ văn, Ngoại ngữ, trong đó tập trung chính
vào 2 môn Toán và Ngữ văn.
- Chương trình, nội dung phụ đạo phải phù hợp với khả năng nhận thức
của học sinh và phải linh hoạt. Đối với học sinh lớp 10 cần tập trung ôn tập, bổ
trợ kiến thức cơ bản ở các cấp THCS cho học sinh có kiến thức nền tảng để tiếp
thu chương trình trên lớp. Ví dụ như môn toán cần ôn lại từ cách quy đồng mẫu
số, giải phương trình bậc nhất, bậc 2, giải hệ phương trình ...; môn Ngữ văn cần
ôn lại từ cách đặt câu, xác định các thành phần của câu, các biện pháp tu từ, cách
viết 1 đoạn văn, cách trình bày 1 văn bản ...; môn Hóa học ôn lại cách viết công
thức hóa học, hóa trị, viết các phương trình phản ứng cơ bản, cân bằng phương
trình bằng phương pháp đại số, vận dụng các công thức tính số mol ...
b) Phân công giảng dạy học sinh yếu kém
- Ngay từ đầu năm học, họp cùng các tổ trưởng chuyên môn bàn về kế
hoạch, biện pháp quản lý, tổ chức, phân công giáo viên dạy bồi dưỡng để thống
nhất kế hoạch bồi dưỡng sớm và trong suốt năm học (bồi dưỡng trái buổi).
- Yếu tố giáo viên cũng rất quan trọng vì thế tôi phân công giáo viên có
năng lực, kinh nghiệm, nhiệt tình, đặc biệt giáo viên phải có tính kiên trì, nhẫn
lại để kích thích tinh thần học tập của học sinh cũng như kiên trì giúp đỡ học
sinh. Giáo viên được phân công sẽ phải xây dựng kế hoạch chi tiết và chịu trách
nhiệm về chất lượng học sinh môn mình dạy. Sự tiên bộ của học sinh là một
trong những tiêu chí quan trọng để xét thi đua, khen thưởng giáo viên.
- Giáo viên bộ môn phải chú ý cải tiến phương pháp dạy học, giúp học
sinh tự học, tự tìm tòi, nghiên cứu nhằm lấy lại kiến thức căn bản.
c) Bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tham gia dạy học sinh yếu kém
- Ngoài việc giáo viên phải nhiệt tình, chịu khó sưu tầm tài liệu, có kinh
nghiệm, tổ chuyên môn thường xuyên trao đổi về chuyên môn, giúp nhau về tài
liệu.
- Chỉ đạo các tổ chuyên môn xây dựng các chuyên đề mà trong giảng dạy
đối tượng này thường gặp khó khăn hoặc giảng dạy chưa có hiệu quả, được đánh
giá là một giải pháp khoa học mang tính phổ biến rộng rãi lưu lại trong tổ.
- Học tập kinh nghiệm ở các trường bạn để giáo viên có tầm nhìn rộng
hơn, có nhiều kinh nghiệm hơn nhằm kích thích sự ham học của học sinh yếu
kém.
d) Kiểm tra, giám sát
- Ban giam hiệu, tổ trưởng chuyên môn thường xuyên dự giờ giáo viên,
tạo điều kiện về thời gian, tài liệu để tiết dạy có hiệu quả, tránh dạy không đủ
tiết, chất lượng không cao hoặc dạy còn bỏ sót kiến thức theo chương trình để
còn lỗ hỏng kiến thức.
- Định kì hàng tháng, giáo viên bộ môn báo cáo sự tiến bộ của học sinh
với Ban giám hiệu, báo cáo kết quả kiểm tra, đánh giá sự chuyển biến hay không
chuyển biến của học sinh và đề xuất các biện pháp kịp thời.
e) Khen thưởng, động viên giáo viên
- Bồi dưỡng học sinh giỏi đã khó, bồi dưỡng học sinh yếu kém đạt chất
lượng lại càng khó hơn. Vì thế cần phải có sự động viên, đây là biện pháp quan
trọng nhằm kích thích, động viên sự tích cực hoạt động và nhiệt tình của giáo
viên làm cho chất lượng và hiệu quả công việc ngày càng tốt hơn, điều quan
trọng là làm sao lôi cuốn được phong trào học bồi dưỡng của học sinh yếu kém
vì đối tượng này rất hay chán học.
- Kích thích giáo viên về mặt tinh thần như khen trước hội đồng, vinh
danh như giáo viên có học sinh giỏi, giáo viên dạy giỏi hay về mặt vật chất như
khen thưởng bằng hiện vật giá trị tương được như giáo viên có học sinh giỏi đối
với giáo viên bồi dưỡng học sinh yếu kém đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.
- Sự quan tâm đặc biệt của Ban giám hiệu là điểm rất quan trọng, giúp
giáo viên hết mình với trường, với phong trào. Ban giám hiệu cần thường xuyên
thăm hỏi, trao đổi về công tác bồi dưỡng học sinh yếu kém của giáo viên, giúp
đỡ ngay khi có khó khăn, đề xuất, luôn tạo cho giáo viên sự hưng phấn trong
quá trình bồi dưỡng. Từ đó giáo viên sẽ tích cực, nhiệt tình và sáng tạo
2.3.2. Nâng cao chất lượng học sinh yếu kém dài hạn
a) Rà soát, giúp đỡ học sinh yếu kém
- Căn cứ kết quả các kì khảo sát chất lượng, phân tích, lập danh sách
những học sinh học lực loại yếu và loại kém, kể cả nhựng học sinh trung bình có
biểu hiện giảm sút chất lượng học tập, xác định mức độ và nguyên nhân yếu
kém của học sinh ở từng môn học, từ đó xây dựng kế hoạch và tổ chức phụ đạo,
giúp đỡ các em vươn lên trong học tập.
- Nhà trường phải tổ chức họp phụ huynh để thông báo đến tận gia đình
mỗi học sinh và cùng với gia đình học sinh, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ
môn bàn bạc, thống nhất kế hoạch phụ đạo.
- Việc tổ chức phụ đạo cho học sinh được xem là một trong những hoạt
động bình thường của nhà trường, tránh căng thẳng, phân biệt đối xử, ảnh hưởng
đến tâm lí học tập.
- Nhà trường phải có kế hoạch cụ thể, tổ chức khoa học, phân công những
giáo viên có năng lực, có trách nhiệm cao tham gia phụ đạo cho học sinh; có thể
tổ chức chung cho một số lớp hoặc theo khối lớp; lập danh sách có kiểm tra,cho
điểm, đánh giá, theo dõi kết quả học tập phụ đạo của mỗi học sinh.
- Cuối mỗi học kì, nhà trường tổ chức bàn giao kết quả phụ đạo những
học sinh này cho giáo viên chủ nhiện lớp và giáo viên dạy lớp chính khoa lớp đó
để tiếp tục theo dõi năng lực học tập của học sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn phải kết hợp chặt chẽ, theo
dõi, thông tin kịp thời đến gia đình về tình hình chuyển biến của từng học sinh.
Nhà trường tạo mọi điều kiện thuận lợi để học sinh học tập, gia đình dành nhiều
thời gian cho các em học tập ở nhà.
b) Coi trọng việc giúp đỡ học sinh yếu kém, học sinh dân tộc trong học
tập.
- Nhà trường cần có kế hoạch, biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém, học
sinh dân tộc ngay từ đầu năm học qua kết quả khảo sát đầu năm;
- Đối với những học sinh yếu kém của lớp 12 cần tổ chức ôn tập, giúp
các em nắm kiến thức cơ bản để thi TN THPT; yêu cầu gia đình kết hợp chặt
chẽ với nhà trường để giáo dục hoạc sinh.
- Cần nắm vững những đối tượng học sinh xếp loại yếu kém của các lớp
10,11:
+ Số liệu cụ thể các đối tượng trên;
+ Số liệu học sinh người dân tộc (nam, nữ) từng khối lớp về nề nếp, chất
lượng học tập, tỉ lệ học sinh bỏ học, lí do; tỉ lệ học sinh yếu kém, tỉ lệ học sinh
tốt nghiệp,….
+ Báo cáo danh sách chuyển trường ( chuyển đi, chuyển đến).
Thật ra không có cách nào, giải pháp nào là hoàn hảo, thật sự có hiệu quả
cho mọi không gian và thời gian, chỉ có sự cố gắng áp dụng các giải pháp khéo
léo vào hoàn cảnh cụ thể một cách hợp lý sẽ giúp ta thành công hơn. Điều quan
trọng đầu tiên đối với người quản lý chuyên môn là phải có tấm lòng say mê với
công việc, luôn luôn suy nghĩ, đầu tư và tìm biện pháp. Năm nay chưa đạt chỉ
tiêu, năm sau tiếp tục tìm ra cách làm hiệu quả hơn, không nên nản lòng.
Phải biết phát huy thế thế mạnh sẵn có của mình ở chỗ nào, nhất là về đội
ngũ giáo viên ở trường THPT, không thể cầu toàn, dàn trải cho tất cả các bộ
môn mà nên tấn công vào mũi nhọn ở những môn có học sinh yếu nhiều như
Toán, Lý, Hóa, Văn, Ngoại ngữ.
Tổ trưởng lập kế hoạch cụ thể và tổ chức bồi dưỡng, phụ đạo học sinh
theo từng bộ môn:
+ 100% giáo viên trong tổ quan tâm đến từng đối tượng và thực hiện
trong mỗi giờ dạy chính khóa. Nội dung dạy phù hợp với đối tượng học sinh,
đặc biệt phần giao nhiệm vụ về nhà cần cụ thể cho từng nhóm đối tượng học
sinh tránh chung chung.
+ Nghiêm túc, khách quan cho những câu hỏi, bài tập nâng cao để phát
hiện học sinh giỏi bộ môn.
+ Tổ chức bồi dưỡng học sinh: phân công giáo viên dạy, thu thập nghiên
cứu tài liệu tham khảo.
+ Kế hoạch và tổ chức phụ đạo học sinh yếu kém:
▪ Thực hiện nghiêm túc khi kiểm tra: cho điểm đúng quy chế, công bằng,
khách quan.
▪ Giáo viên khuyến khích học sinh phát huy tính tích cực học tập và làm
bài đầy đủ trước khi đến lớp.
▪ Nội dung giảng dạy: ôn lại lí thuyết, làm nhiều bài tập mẫu và sau đó
cho học sinh vận dụng làm bài tập.
2.2.3. Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá
Đa phần học sinh yếu, kém do rỗng kiến thức từ các lớp dưới nên rất khó
tiếp thu và theo kịp chương trình trên lớp. Vì vậy đối tượng này thường rất sợ
học, sợ kiểm tra. Nếu không có biện pháp kịp thời sẽ dẫn đến học sinh mặc cảm,
thiếu tự tin và càng ngày càng học yếu. Để giải quyết vấn đề này ngoài việc phụ
đạo, bổ trợ kiến thức bị rỗng cho học sinh thì rất cần sự đổi mới phương pháp,
nội dung dạy học, kiểm tra đánh giá phù hợp với đối tượng.
Thứ nhất, nhà trường, giáo viên cần xác định rõ đổi mới phương pháp dạy
học không có nghĩa là áp dụng một cách máy móc các phương pháp, kĩ thuật
dạy học mới mới là đổi mới mà đổi mới ở đây là giáo viên phải sáng tạo làm thế
nào để thu hút được tất cả các đối tượng học sinh tham gia vào quá trình học,
đặc biệt là không được bỏ rơi học sinh.
Thứ hai, để đổi mới phương pháp có hiệu quả giáo viên cần xác định rõ
đối tượng học sinh của lớp mình dạy để từ đó lựa chọn nội dung, phương pháp
phù hợp. Đối với học sinh yếu, kém cần lựa chọn những nội dung hết sức cơ
bản, đơn giản hóa các nội dung trong sách giáo khoa để học sinh dễ hiểu, dễ tiếp
thu, một số kiến thức chỉ cần học sinh nhơ một cách máy móc sau đó vận dụng
làm đi làm lại nhiều lần các dạng bài tập cơ bản. Giáo viên cũng cần “chế biến”
các bài tập trong sách giáo khoa đơn giản hơn, cụ thể, chi tiết hơn để vừa sức
với học sinh. Điều quan trọng nhất để kích thích học tập cho học sinh yếu kém
là học sinh phải làm được bài tập giao về nhà, phải biết cách học để nắm được
những kiến thức đơn giản, cơ bản nhất. Chính vì vậy cuối giờ học giáo viên phải
giao nhiệm vụ hết sức cụ thể và phải vừa sức với học sinh bằng các phiếu giao
nhiệm vụ cho nhóm hoặc từng học sinh cụ thể.
Thứ ba, để tìm ra phương pháp phù hợp cho từng kiểu bài, từng đối tượng
học sinh, các tổ chuyên môn cần thực hiện tốt việc tổ chức sinh hoạt chuyên
môn theo nghiên cứu bài học. Thông qua dự giờ, suy ngẫm, chia sẻ giáo viên sẽ
nắm bắt được thái độ học tập, tâm lý của học sinh đồng thời tìm được những
phương pháp, cách thức tổ chức hay và hiệu quả. Việc thủ nghiệm các phương
pháp, cách thức tổ chức giờ học làm rất quan trọng nhằm tìm ra những phương
pháp hiệu quả nhất phù hợp cho từng đối tượng học sinh.
Thứ tư, song song với đổi mới phương pháp dạy, giáo viên cần đổi mới
phương pháp kiểm tra đánh giá phù hợp với đối tượng học sinh. Trong năm học,
trường chỉ đạo các tổ chuyên môn, giáo viên phải thực hiện kiểm tra, đánh giá
theo chuẩn kiến thức kĩ năng đồng thời phải phù hợp với đối tượng học sinh.
Đối với kiểm tra thường xuyên phải linh hoạt, hạn chế tối đa điểm yếu kém, tạo
cơ hội cho học sinh được gỡ điểm, kiên trì giao nhiệm vụ cụ thể và kiểm tra học
sinh yếu, kém. Đối với kiểm tra định kì, tổ trưởng chuyên môn, nhóm trưởng
các bộ môn phải tổ chức ra đề theo một quy trình nghiêm nghặt, đó là: đầu tiên
nhóm bộ môn phải thống nhất ma trận nhận thức cho nội dung cần kiểm tra, sau
đó phân công giáo viên ra đề (huy động tối đa giáo viên vào công tác ra đề) và
kiểm duyệt đề. Đề kiểm tra phải đảm bảo bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng
(không được vượt chuẩn), đúng theo ma trận và quan trọng hơn cả là phải vừa
sức với học sinh, có sự phân hóa cao. Sau khi ra đề, tổ trưởng sẽ tổ chức cho
giáo viên giải đề tập trung để đánh giá mức độ khó, dễ của từng đề trên cơ sở đó
điều chỉnh để thống nhất thành một bộ đề hoàn chỉnh. Để đảm bảo giáo viên
nắm được rõ đối tượng học sinh và đề kiểm tra ra phù hợp với đối tượng học
sinh, trường đã chỉ đạo các tổ chuyên môn, giáo viên khi ra đề phải dự kiến kết
quả đạt được của học sinh, sau khi kiểm tra phải thống kê kết quả đối chiếu với
dự kiến tìm nguyên nhân và giải pháp khắc phục những tồn tại về kết quả, cách
làm bài, những nội dung kiến thức bị rỗng của học sinh.
2.2.4. Duy trì học sinh đi học chuyên cần
Qua nghiên cứu, theo dõi kết quả học tập của học sinh tôi nhân thấy việc
đi học chuyên cần của học sinh có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của
học sinh. Đối với những học sinh có điểm xuất phát giống nhau, khả năng nhận
thức tương đương thì học sinh nào đi học chuyên cần hơn sẽ có kết quả học tập
cao hơn. Vì thế, việc duy trì học sinh đi học chuyên cần là một giải pháp rất
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng học sinh.
Để duy trì học sinh đi học chuyên cần nhà trường cần kiên trì thực hiện
một số biện pháp sau:
- Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp có
năng lực, nhiệt tình, tâm huyết với nghề, thương yêu học sinh. Giáo viên chủ
nhiệm phải có năng lực quả lý, tổ chức lớp học và đặc biệt phải nắm bắt tâm tư
tình cảm, diễn biên thái độ của học sinh để có những biện pháp kịp thời ngăn
chăn học sinh bỏ học, học sinh mải chơi, hay nghỉ học.
- Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm phải nắm được điều kiện gia đình của từng
học sinh (địa chỉ, nghề nghiệp của bố mẹ, điều kiện kinh tế, số điện thoại, sơ đồ
chỗ trọ của học sinh) để xác minh lý do nghỉ học của học sinh kịp thời. Đối với
học sinh trọ học nghỉ học có hoặc không lý do, giáo viên chủ nhiệm phải đến
trực tiếp những nơi học sinh trọ học để xác minh. Những học sinh cố tình nghỉ
học, nghỉ không có lý do chính đáng, nghỉ nhiều thì GVCN tổ chức gặp phụ
huynh và yêu cầu học sinh viết cam kết.
- Kích thích tinh thần vì tập thể của học sinh bằng cách xây dựng các tiêu
chí chấm điểm giờ học, trong đó đề cao tiêu chí chuyên cần, từ đó học sinh sẽ tự
đôn đốc nhau đi học.
- Khen thưởng, tạo động lực, kích thích học sinh đi học cuyên cần kịp
thời. Ngoài việc tuyên dương các lớp đi học chuyên cần hàng tuần, hàng tháng,
trường thưởng tiền cho những lớp duy trì tỷ lệ chuyên cần cao từ 98% trở lên và
thưởng nóng cho những lớp duy trì chuyên cần 100% trong những đợt học sinh
có nguy cơ nghỉ nhiều như những tuần trước và sau dịp lễ, tết.
- Huy động các lực lượng xã hội đôn đốc học sinh đi học, đặc biệt là các
chủ nhà trọ có học sinh trọ học bằng cách phối hợp với công an xã tổ chức cho
các chủ nhà trọ kí cam kết trách nhiệm quản lý, đôn đốc học sinh đi học.
- Do thiếu sự giám sát, quản lý của gia đình nên học sinh trọ học thường
dễ sa vào các trò chơi điện tử, bỏ bê học hành, trốn học để đi chơi điện tử dẫn
đến nghỉ học. Để giải quyết vấn đề này, trường đã làm việc với UBND xã Bản
Vược trong việc quản lý các quán net, yêu cầu các quán net không được cho học
sinh đánh điện tử trong thời gian học tập từ thứ hai đến thứ 7. Nhà trường lập
danh sách tên và ảnh những học sinh “nghiện điện tử” niêm yết ở các quán nét
để chủ quán có thể phát hiện ra học sinh. Trường phối hợp với công an xã đi
kiểm tra đột xuất các quán net, nếu phát hiện vi phạm sẽ đề nghị UBND xã xử lý
nghiêm.
- Đa số gia đình các học sinh vùng cao đều làm nông nghiệp, có gia đình
học sinh là những lao động chính. Vì vậy vào các mùa vụ học sinh phải về giúp
bố mẹ thu hoạch nông sản dẫn đến nghỉ học kéo dài. Để đảm bảo học sinh vẫn
theo học bình thường và đảm bảo công việc của gia đình, trường đã chỉ đạo giáo
viên chủ nhiệm ở những lớp có học sinh là lao động chính trong gia đình, tổ
chức cho học sinh của lớp tham gia tình nguyện hoặc đổi công giúp thu hoạch
nông sản vào các ngày cuối tuần (chiều thứ 7, chủ nhật). Thông qua hoạt động
này vừa đảm bảo cho học sinh được đi học đầy đủ, vừa giáo dục được tình yêu
lao động cho học sinh.
2.2.5. Giám sát giờ tự học buổi tối của học sinh ở trọ.
Do học sinh trọ học không có sự quản lý, đôn đốc của gia đình nên vào
các giờ tự học buổi tối học sinh thường không học bài, hay tụ tập ăn uống, vui
chơi, đi chơi game dẫn đến chất lượng giảm sút, chán học, bỏ học. Đây là bài
toán nan giải, đòi hỏi phải kiên trì, kiên quyết quản lý nhóm đối tượng học sinh
này.
Trước vấn đề cấp bách này, trường đã tham mưu cho chi bộ ra nghị quyết
chuyên đề về kiểm tra buổi tối học sinh trọ học, trong đó có phân công cụ thể
cán bộ, đảng viên, giáo viên tham gia kiểm tra hàng tuần, mỗi tuần có từ 3 đến 4
lần kiểm tra.
Để công tác kiểm tra có hiệu quả việc quan trọng đầu tiên là phải làm tốt
công tác tư tưởng cho giáo viên, tạo điều kiện về thời gian, phương tiện và các
hỗ trợ cần thiết khác một các kịp thời. Hai là, xây dựng sơ đồ các khu trọ học,
lên danh sách học sinh trọ học ở từng khu để theo dõi quản lý. Ba là, tổ chức cho
cán bộ, giáo viên đi kiểm tra và cán bộ quản lý, các tổ trưởng, người đứng đầu
các đoàn thể phải gương mẫu đi đầu tạo phong trào lôi kéo giáo viên nhiệt tình
tham gia. Bốn là, xử lý nghiêm học sinh vi phạm sau kiểm tra, trường đã áp
dụng nhiều biện pháp để xử lý học sinh vi phạm như: phê bình trước cờ, phạt lao
động - vệ sinh, gặp gỡ gia đình yêu cầu học sinh vi phạm nhiều lần viết cam kết.
Ngoài ra, GVCN các lớp tổ chức họp bàn với phụ huynh học sinh có con em trọ
học thống nhất biênh pháp phối hợp quản lý cũng như các hình thức xử lý vi
phạm của học sinh.
Bên cạnh việc tổ chức đi kiểm tra, trường còn phối hợp với công an xã
Bản Vược định kì đi kiểm tra các khu nhà trọ, các quán net nhằm nâng cao trách
nhiệm quản lý học sinh của các chủ nhà trọ, các chủ quán net trong việc thực
hiện cam kết với UBND xã.
Việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng học sinh yếu kém hàng năm là một
việc làm rất khó khăn và phức tạp, đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của cả tập thể và
nhất là có một giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy phong trào này. Tuy giải pháp
quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh yếu kém bộ môn của
chúng tôi đề ra bước đầu có hiệu quả cho nhà trường, nhưng giải pháp này cũng
sẽ tiếp tục củng cố và hoàn thiện hơn trong các năm kế tiếp và hy vọng kết quả
này ngày một tốt hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Sau khi kiên trì thực hiện các biện pháp, chất lượng học sinh đại trà đã có
sự chuyển biến tích cực, học sinh đi học chuyen cần. Tuy tỷ lệ học sinh yếu,
kém vẫn còn cao (11,2%) nhưng đây cũng là nỗ lực đáng được ghi nhận của
thầy và trò trường THPT số 2 Bát Xát thể hiện quyết tâm, kiên trì nâng cao chất
lượng học sinh.
Kết quả cụ thể:
- Tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần: 98,6%
- Tỷ lệ học sinh yếu kém
Năm học
2011-2012
2012-2013
2013-2014
Toàn trường
18,4%
17,9%
11,2%
Tỷ lệ học sinh yếu kém
Chia ra
Lớp 10
Lớp 11
19,0%
16,9%
17,4%
19,7%
13,6%
9,3%
Lớp 12
19,7%
16,7%
10,2%
3. Kết luận
Trong các hoạt động của nhà trường thì hoạt động dạy và học là hoạt động
trung tâm, vì thế người quản lý về chuyên môn không thể tách rời khâu chỉ đạo
hoạt động dạy học nhằm hoàn thành chương trình, đạt mục tiêu của nhà trường
đề ra. Nhiệm vụ nâng cao chất lượng học sinh yếu, kém đối với các nhà trường ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn như trường THPT số 2 Bát Xát là
một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt không chỉ một năm mà còn tiếp tục phải
thực hiện trong nhiều năm nữa. Để nâng cao chất lượng học sinh yếu, kém cần
phối hợp nhiều biện pháp và cần có nhiều cách làm mới phù hợp với điều kiện
thực tế mới đem lại hiệu quả.
Các biện pháp nâng cao chất lượng học sinh yếu kém của trường THPT
số 2 Bát Xát có thể áp dụng được cho những trường phổ thông ở những vùng
sau, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên việc vận dụng vào từng nhà
trường cần linh hoạt.
Muốn tổ chức, chỉ đạo công tác nâng cao chất lượng học sinh yếu đạt hiệu
quả người quản lý chuyên môn phải biết lựa chọn và xử lý linh hoạt các biện
pháp quản lý phù hợp với thực tế của trường. Từ thực tế chỉ đạo tôi rút ra một số
bài học kinh nghiệm như sau:
+ Người phụ trách chuyên môn và người tổ trưởng chuyên môn phải là
người có tâm huyết, luôn suy nghĩ tìm ra biện pháp thích hợp và phải kiên trì
làm cho đến nơi đến chốn.
+ Phải biết phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể giáo viên, phụ huynh
học sinh và phát huy dân chủ trong quá trình cộng tác giữa người quản lí và giáo
viên.
+ Phải có kế hoạch lâu dài. Trong quá trình triển khai kế hoạch bồi dưỡng
cần tham khảo học tập kinh nghiệm của các đơn vị bạn.
+ Vai trò động viên khen thưởng cũng rất quan trọng, có như vậy họ mới
hết lòng với sự nghiệp và chú ý đến các đề xuất hợp lý của giáo viên như là một
trân trọng. Từ đó giáo viên luôn luôn cố gắng, tìm cách cải tiến phương pháp
giảng dạy để đạt hiệu quả cao.
+ Giải pháp thành công là giải pháp đó khi đề ra, chủ xướng phải có
người ủng hộ, thực hiện. Chính vì vậy tạo sự đoàn kết, gắn bó, đồng lòng trong
tập tập thể sư phạm nhà trường là hết sức cần thiết.
Các biện pháp đưa ra chưa phải là đầy đủ và toàn diện, song điều quan
trọng nhất để đem lại hiệu quả là cần thực hiện một cách đồng bộ và kiên trì,
huy động được sức mạnh tập thể, nhiệt huyết của giáo viên. Với mục tiêu đưa
giáo dục vùng cao phát triển đi lên rất cần nhiều cách làm mới, sáng tạo để nâng
cao chất lượng học sinh nói chung và chất lượng học sinh yếu kém nói riêng.
Rất mong nhận được sự đóng góp, chia sẻ kinh nghiệm của các đồng nghiệp
trong công tác giáo dục, đặc biệt là những cách làm hay, hiệu quả ở các đơn vị
bạn.
Bát Xát, ngày 25 tháng 05 năm 2014
NGƯỜI VIẾT
Trần Văn
Dương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật giáo dục 2005; Luật giáo dục 2009 (Sửa đổi một số điều của Luật
Giáo dục 2005).
2. Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục – Nguyễn Ngọc
Quang - Trường CBQL-GD TW.
3. Bàn về phạm trù chất lượng và hiệu quả giáo dục - Nguyễn Công Giáp
- Tạp chí phát triển giáo dục
4. Quản lý chất lượng - Rudi Schollaert – Trường cán bộ quản lý giáo
dục và đào tạo II – TP.HCM.
5. Các văn bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2013-2014 của Sở
GD&ĐT Lào Cai.
8. Nghị Quyết Hội nghị cán bộ viên chức năm học 2013 – 2014 trường
THPT số 2 Bát Xát.
9. Nghị quyết chuyên đề “Kiểm tra việc tự học tối của học sinh” của chi
bộ trường THPT số 2 Bát Xát.