Tải bản đầy đủ (.pdf) (221 trang)

Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.9 MB, 221 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THANH NGỌC

NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA
TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH

Hà Nội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THANH NGỌC

NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA
TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)

LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRIỆU THẾ VIỆT

Hà Nội, 2015


LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình hoàn thành Luận văn Thạc sĩ, bên cạnh sự nỗ lực của bản
thân, tác giả luận văn xin phép được gửi lời tri ân chân thành tới:
PGS.TS. Triệu Thế Việt - giảng viên Khoa Du lịch học, Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, người thầy đã đồng hành cùng tác
giả trong suốt quá trình thực hiện đề tài, một tấm gương về sự nghiêm túc, chỉn chu
trong từng vấn đề nghiên cứu. Thầy không chỉ là một giáo viên hướng dẫn tận tình
mà còn truyền cho học viên sự đam mê trong nghiên cứu khoa học.
Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo sau Đại học, Ban chủ nhiệm Khoa và quý
thầy cô giáo trong Khoa Du lịch học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
- Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả học tập và
nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn UBND tỉnh Lào Cai; Sở Văn hóa Thể thao và Du
lịch tỉnh Lào Cai; Trung tâm thông tin du lịch các huyện Sapa, Bắc Hà, Mường
Khương; Các đồng chí lãnh đạo các thôn: Bản Hồ, Thanh Kim, Thanh Phú, Phố
Mới… và bà con các thôn bản tại Sapa, Bắc Hà, Mường Khương đã tạo điều kiện
thuận lợi và hỗ trợ nhiệt tình cho tác giả trong quá trình thu thập tài liệu để hoàn
thành luận văn.
Cảm ơn sự giúp đỡ, thông cảm của quý đồng nghiệp, gia đình, bạn bè trong
suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn cao học của tác giả.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thành đề tài với tất cả tâm huyết và năng lực bản
thân song vẫn không thể tránh khỏi còn nhiều thiếu sót, tác giả rất mong nhận được
sự ủng hộ và những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn.
Chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 01 năm 2015
Tác giả

Vũ Thanh Ngọc

1



LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em - Vũ Thanh
Ngọc, học viên cao học khóa 2012 - 2014, Khoa Du lịch học, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Em xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Khoa Du lịch
học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Học viên

Vũ Thanh Ngọc

2


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................................. 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 9
6. Bố cục luận văn................................................................................................................ 10
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................................... 10
B. NỘI DUNG .................................................................................................................... 12
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ........................................ 12
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài .......................................................................... 12
1.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu ............................................................. 19
1.3. Điều kiện phát triển du lịch văn hóa Lào Cai ............................................................... 20
1.4. Những bài học kinh nghiệm trong nghiên cứu, phát triển du lịch văn hóa................... 37

1.5. Những vấn đề chưa khai thác........................................................................................ 41
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................... 42
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA TỈNH LÀO CAI.... 43
2.1. Các sản phẩm du lịch văn hóa tiêu biểu của tỉnh Lào Cai ............................................ 43
2.2. Các sản phẩm du lịch văn hóa khác. ............................................................................. 47
2.3. Các tuyến du lịch văn hóa tiêu biểu của tỉnh Lào Cai .................................................. 48
2.4. Thực trạng về sản phẩm du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai. ................................................ 49
2.5. Thực trạng về hoạt động quản lý điểm đến .................................................................. 57
2.6. Thực trạng công tác phối hợp bảo tồn di sản văn hóa. ................................................. 68
2.7. Nhận định về chu kỳ sống của điểm đến, xác định cơ hội, thách thức cho du lịch văn
hóa tỉnh Lào Cai................................................................................................................... 71
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................................... 76
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA
TỈNH LÀO CAI ................................................................................................................. 77
3.1 Những căn cứ đề xuất giải pháp .................................................................................... 77
3.2. Nhóm đề xuất, giải pháp về sản phẩm du lịch văn hóa. ............................................... 79
3.3. Nhóm đề xuất, giải pháp về quản lý điểm đến.............................................................. 84
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................................... 91
C. KẾT LUẬN .................................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 94

3


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BQL

: Ban quản lý.

KHXH&NV : Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

EU

: European Union
(Liên minh Châu Âu)

HIGO

: Health life science, Interdisciplinary and Glocal Oriented
(Tổ chức Khoa học sức khỏe đời sống, liên ngành và định hướng cho
cộng đồng địa phương)

ICOMOS

: International Council on Monuments & Sites
(Hội đồng Quốc tế các di chỉ và di tích)

ILO

: International Labor Organization
(Tổ chức Lao động Quốc tế)

NXB

: Nhà xuất bản

SNV

: Smart Development World Netherland Vietnam
(Tổ chức Phát triển Hà Lan - Việt Nam)


UBND

: Uỷ ban Nhân dân.

UNESCO

: United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization
(Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc)

UNWTO

: United Nation World Tourism Organization
(Tổ chức du lịch thế giới)

VD

: Ví dụ

VHTTDL

: Văn hóa, Thể thao và Du lịch

VTOS

: Vietnam Tourism Occupational Skills Standards
(Tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam)

4



A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những năm đầu của thế kỷ XXI, du lịch văn hóa đã trở thành một xu thế
mới được ưa chuộng trên thế giới, đặc biệt là tại các nước đang phát triển, bởi chính
những nền văn hóa đặc sắc, tiêu biểu của các quốc gia mới là điểm hấp dẫn tự thân
mạnh nhất thu hút du khách đến với quốc gia đó và Việt Nam cũng không phải
ngoại lệ. Du lịch văn hóa là cầu nối giữa các nền văn hóa nhằm giúp thỏa mãn bản
chất của du lịch là khám phá cái khác lạ và mới lạ, do đó bản sắc văn hóa là tiềm
năng du lịch mạnh nhất mà mỗi quốc gia sở hữu. Việc tìm hiểu và nghiên cứu về du
lịch văn hóa tại mỗi quốc gia nói chung hay mỗi địa phương nói riêng giúp chúng ta
có tầm nhìn xa hơn, định hướng tối ưu hơn cho việc sử dụng tài nguyên văn hóa vào
phát triển du lịch một cách có hệ thống và bền vững.
Lào Cai có thế mạnh là tài nguyên văn hóa với sự hội tụ những bản sắc văn
hóa truyền thống của hơn 25 dân tộc anh em, họ đã sáng tạo và lưu giữ hàng trăm di
tích lịch sử và văn hóa cho nơi đây. Những di tích nổi bật như: khu bãi đá trạm khắc
cổ tự với các hình khắc về bản đồ, chữ viết hình người có niên đại cách ngày nay
hàng nghìn năm ở thung lũng Mường Hoa (Sapa); hệ thống các di tích lịch sử văn
hóa như đền Mẫu, đền Thượng, đền Bảo Hà…Với sự kết hợp nhiều nền văn hóa của
các dân tộc dẫn tới các phong tục tập quán và lễ hội của Lào Cai vô cùng phong
phú, đặc sắc với nhiều quy mô khác nhau như: quy mô của cộng đồng làng, bản;
quy mô vùng (hội Gầu Tào ở Pha Long - Mường Khương, hội Roóng Poọc người
Giáy ở Tả Van, Sapa...) và cũng có quy mô cấp tỉnh như hội xuân Đền Bảo Hà...
thời gian lễ hội cũng trải dài cả 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đặc biệt, khác với các
tỉnh đồng bằng, mùa hè ở các làng bản vùng cao của Lào Cai cũng là mùa của lễ
hội, đặc điểm này rất thuận lợi cho sự phát triển du lịch văn hoá. Bên cạnh đó Lào
Cai còn có vị thế thiên phú về du lịch, là cửa ngõ vùng Tây Bắc đưa du khách vào
sâu nội địa Việt Nam, sang Trung Quốc, thậm chí là đi các nước Asean. Nguồn tài
nguyên tự nhiên đặc sắc với những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú như đỉnh Fanxipan
hùng vĩ (Sapa), những hang động kỳ ảo (Bát Xát, Bắc Hà…) làm nên vẻ đẹp đậm
chất núi rừng của Lào Cai. Tất cả những ưu thế trên là nguồn tài nguyên độc đáo

phục vụ cho việc phát triển du lịch của Lào Cai

5


Trong những năm qua, Lào Cai đã có những định hướng phát triển nhất định
cho ngành du lịch, tạo được ấn tượng ban đầu về hình ảnh du lịch Lào Cai. Dựa vào
thế mạnh về văn hóa, tỉnh cũng đã có những định hướng và triển khai những dự án
đẩy mạnh phát triển du lịch văn hóa tại địa phương như: kết hợp vòng cung Tây Bắc
xây dựng chương trình du lịch về cội nguồn, chợ phiên Tây Bắc hay các chương
trình du lịch lễ hội. Tuy nhiên, phương pháp khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên
văn hóa của Lào Cai chưa thực sự được định hướng theo từng giai đoạn phát triển
của điểm đến do đó thành tựu đạt được chưa tương xứng với nguồn tài nguyên. Do
đó du lịch Lào Cai cần được đánh giá lại về thực trạng, nhìn nhận một cách đúng
đắn về du lịch văn hóa và tìm ra những giải pháp đúng hướng, khả thi để khai thác
tối ưu những tiềm năng văn hóa nổi trội, tạo sự kết hợp linh hoạt nhằm đem lại sự
phát triển một cách hệ thống và bền vững cho du lịch văn hóa Lào Cai.
Vì những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Nghiên cứu phát triển du lịch
văn hóa tỉnh Lào Cai” để làm đề tài luận văn cho mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1 Nhóm đề tài nghiên cứu về du lịch văn hóa
Trong nhóm đề tài này có thể kể đến các công trình nghiên cứu, các tài liệu
tham khảo về du lịch văn hóa như:
- Trần Thúy Anh, Giáo trình du lịch văn hóa những vấn đề lý luận và nghiệp vụ, là
nguồn tài liệu cung cấp những vấn đề lý luận quan trọng và thực tiễn được đúc rút
từ kinh nghiệm của hoạt động văn hóa. Tài liệu này giúp tác giả luận văn có cách
nhìn từ góc độ du lịch văn hóa để tiếp cận hướng nghiên cứu của mình [3].
- Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam là tài liệu cung cấp cái nhìn tổng quát
về văn hóa Việt Nam, địa bàn khu trú các bản sắc văn hóa đặc trưng của từng dân
tộc và tác giả luận văn dựa vào đó để bổ sung, hoàn thành cũng như có những lý

giải chính xác hơn về các vấn đề trong luận văn của mình [45].
- Tổ chức ICOSMOS, Công ước quốc tế về du lịch văn hóa mang lại sự hệ thống
hóa và trình tự của việc nghiên cứu về du lịch văn hóa, cũng như cho tác giả luận
văn thấy sự so sánh, đối chiếu giữa các định nghĩa, khái niệm về du lịch văn hóa
cũng như quy trình nghiên cứu [12].
Các công trình nghiên cứu về du lịch văn hóa nói chung không chỉ có một số
tác phẩm nêu trên, nhưng nghiên cứu tập trung về du lịch văn hóa của tỉnh Lào Cai

6


thì chưa có công trình nào cụ thể. Trong quá trình tìm hiểu và tham khảo tài liệu của
tác giả, chỉ có thể kể ra các công trình có tính chất liên quan như:
- Lê Quốc Thắng, Nghiên cứu phát triển kinh tế du lịch ở Lào Cai nhằm đưa ra
những giải pháp về phát triển kinh tế, du lịch nói chung của toàn tỉnh để cân bằng
giữa tiềm năng và thực trạng phát triển [35].
- Nguyễn Thị Hường, Nghiên cứu về phát triển du lịch cộng đồng vùng núi phía
Bắc Việt Nam (trường hợp Lào Cai và Mai Châu). Công trình này chủ yếu dựa trên
đặc điểm dân tộc của cư dân địa phương và nghiên cứu để phát triển loại hình du
lịch cộng đồng tại hai địa bàn trên [14].
- Nguyễn Đình Dũng, Lào Cai phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa vùng miền
đưa ra những vấn đề về bảo tồn di sản văn hóa và trách nhiệm, nghĩa vụ của du lịch
đối với công tác bảo tồn văn hóa [6].
- Trần Hữu Sơn, Nghiên cứu xây dựng mô hình làng văn hóa du lịch ở Sapa là một
công trình nghiên cứu rất chi tiết, chỉ ra những nét đặc sắc, thực trạng phát triển của
làng văn hóa du lịch (trường hợp bản Dền, thôn Bản Hồ, Sapa) và từ đó khái lược
các đặc trưng và định hướng phát triển cho loại hình này [32].
Những công trình trên là nguồn tài liệu phong phú và rất hữu ích đối với tác
giả luận văn trong việc kế thừa các nghiên cứu khoa học để phục vụ cho việc hoàn
thiện đề tài nghiên cứu của mình về du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai.

2.2 Nhóm đề tài nghiên cứu về các vấn đề bổ sung
Nhóm đề tài nghiên cứu về các vấn đề bổ sung ở đây tác giả muốn đề cập
đến là các công trình nghiên cứu về địa bàn tỉnh Lào Cai như điều kiện tự nhiên, tộc
người, các phong tục tập quán hay lễ hội đặc trưng… Từ các nghiên cứu này, tác
giả được cung cấp một nguồn thông tin nền vững chắc về các nguyên nhân, yếu tố
có tác động tới nền văn hóa tỉnh Lào Cai. Có thể kể đến một số công trình của tác
giả Trần Hữu Sơn như:
- Nghiên cứu vấn đề tộc người ở Lào Cai đã chỉ ra những đặc trưng của các tộc
người trên địa bàn tỉnh Lào Cai và các yếu tố tác động đến văn hóa của từng tộc
người nói riêng [33].
- Địa chí khái lược Lào Cai cũng là một tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả bởi
tính tổng quát về điều kiện tự nhiên của tỉnh Lào Cai, một trong những yếu tố có
ảnh hưởng lớn tới nền văn hóa các tộc người [30].

7


- Các tác phẩm như: Văn hóa dân gian Lào Cai [27] hay Lễ hội cổ truyền Lào Cai
[28] mang lại cho tác giả luận văn những góc nhìn chi tiết và tỉ mỉ hơn về các yếu tố
góp phần làm nên sự đặc sắc cho sản phẩm du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai.
- Các công trình khác như: Văn hóa H’mông [26]; Văn hóa dân gian người Kháng ở
Tây Bắc [31] hay Lễ cưới người Dao tuyển [29] là những tài liệu cung cấp cho tác
giả luận văn những căn cứ, lập luận và bằng chứng để chứng minh sự khác biệt, tính
đặc sắc của bản sắc văn hóa các dân tộc ở Lào Cai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Đánh giá sơ bộ về tiềm năng và thực trạng của du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai.
- Đề xuất các căn cứ khoa học phục vụ cho phát triển du lịch văn hóa.
- Đề xuất các nhóm giải pháp chủ yếu về du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai và nhóm vấn
đề bổ sung cho việc phát triển du lịch văn hóa tỉnh.

3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn du lịch, du lịch văn hóa, điều kiện phát
triển du lịch văn hóa.
- Đánh giá về tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch văn hóa của tỉnh Lào Cai từ
đó chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế còn tồn đọng và tìm ra những
nguyên nhân.
- Xây dựng các nhóm đề xuất, giải pháp sao cho phù hợp với thực trạng phát triển
của du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai, đồng thời đảm bảo tính bền vững, bảo tồn và phát
huy các di sản văn hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Không gian nghiên cứu: địa bàn tỉnh Lào Cai.
Thời gian nghiên cứu của tác giả luận văn bắt đầu từ tháng 03 năm 2013 đến tháng
12 năm 2014 về thực trạng hoạt động du lịch văn hóa của tỉnh Lào Cai trong giai
đoạn từ năm 2006 đến hết năm 2013, từ đó đề xuất các giải pháp cho giai đoạn phát
triển tới năm 2020.

8


5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp kết hợp để hoàn thành đề tài nghiên cứu,
các phương pháp hỗ trợ cho nhau để làm rõ các vấn đề liên quan. Du lịch học là một
ngành phải sử dụng các phương pháp của nhiều ngành khác để bổ trợ cho việc
nghiên cứu nên tác giả lấy kiến thức chuyên ngành du lịch làm trọng tâm và sử
dụng kiến thức các liên ngành để làm cơ sở phân tích, lập luận, minh chứng cho
nghiên cứu của mình.
5.1 Nhóm phương pháp thực tế.

Các công cụ được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu bao gồm:
- Phương pháp thực địa, khảo sát thực tế: Tác giả đã thực hiện khảo sát thực tế, qua
đó thu thập thông tin, hình ảnh, quan sát, ghi chép các thông tin thực trạng tại địa
bàn tỉnh Lào Cai qua hai lần khảo sát vào năm 2013 và 2014.
- Phương pháp thu thập thông tin và xử lý số liệu: Tác giả tiến hành thu thập các
thông tin, dữ liệu từ các nguồn như tham luận, đề tài khoa học, công trình nghiên
cứu, sách báo, tạp chí chuyên ngành và các ngành liên quan, các dự án, thông tư,
nghị quyết, báo cáo của các cơ quan quản lý cấp Trung Ương và Địa phương như:
Tổng cục Du lịch Việt Nam, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch, Sở Văn hóa Thể
Thao du lịch tỉnh Lào Cai, Cục thống kê tỉnh…
- Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi: Để phục vụ cho nhu cầu nghiên
cứu của luận văn, tác giả xây dựng hệ thống bảng hỏi cho các đối tượng khách,
cộng đồng địa phương và các đơn vị kinh doanh lữ hành. Với tổng số 500 phiếu
phát ra cho 2 đợt kháo sát, tác giả thu về tổng cộng 412 phiếu hợp lệ cho cả hai đối
tượng khách nội địa và quốc tế và tác giả đã tiến hành xử lý các số liệu về các thông
tin dựa trên nguồn thông tin thu về. Đồng thời cũng áp dụng phương pháp lấy ý
kiến chuyên gia qua phỏng vấn trực tiếp cán bộ quản lý, cán bộ địa phương và
những người trực tiếp kinh doanh dịch vụ du lịch tại Lào Cai để tổng hợp, so sánh ý
kiến về thực trạng phát triển chung.
- Phương pháp thống kê, phân tích: Thông qua các số liệu thống kê về các hoạt
động du lịch, tài nguyên, sản phẩm…của tỉnh Lào Cai, tác giả xử lý số liệu và hệ
thống hóa bằng biểu đồ, các bảng phân tích nhằm làm rõ thực trạng phát triển của
du lịch và du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai.

9


- Phương pháp xây dựng bản đồ: Dựa trên các bản đồ hành chính và bản đồ du lịch
cơ bản của tỉnh Lào Cai, tác giả luận văn xây dựng thành bản đồ các điểm du lịch
với thông tin chi tiết để phục vụ chính cho đề tài nghiên cứu của mình.

5.2 Nhóm phương pháp tiếp cận
- Phương pháp miêu thuật: Phương pháp này nhằm tường thuật về địa hình, sự kiện,
truyền thuyết của tài nguyên du lịch văn hóa vật thể và phi vật thể của Lào Cai,
nhằm giúp cho người đọc nắm được về đối tượng nghiên cứu từ tổng quan đến cụ
thể. Đây là phương pháp mang tính phản ánh trung thực về thực trạng.
- Phương pháp giải mã văn hóa: Có những ý kiến công nhận đây là một phương
pháp khoa học, song cũng có những ý kiến phản đối. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
luận văn, tác giả luận văn công nhận và sử dụng phương pháp giải mã văn hóa để
tiếp cận và giải mã các đặc trưng văn hóa tỉnh Lào Cai đặt trong không gian văn hóa
Tây Bắc.
- Phương pháp nghiên cứu địa lý: nhằm xác định tổng quan về điều kiện tự nhiên,
môi trường, đặc thù về địa lý của tình Lào Cai.
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử: để nắm bắt quá trình hình thành, phát triển của
địa bàn tỉnh Lào Cai xuyên suốt tiến trình lịch sử dân tộc.
- Phương pháp nghiên cứu dân tộc học: để xác định các vùng khu trú đặc thù của
từng dân tộc và sự hình thành của các tộc người.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo và phụ lục, phần
nội dung chính của công trình này được chia làm ba chương như sau:
Chương 1: Tổng quan các vấn đề liên quan đến đề tài.
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai.
Chương 3: Một số đề xuất, giải pháp góp phần thúc đẩy phát triển du lịch văn
hóa tỉnh Lào Cai.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn đóng góp vào việc hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận về du lịch văn
hóa và áp dụng vào nghiên cứu.
Luận văn nghiên cứu, khảo sát và đưa ra những nhận định, đánh giá về tiềm
năng và thực trạng hoạt động du lịch văn hóa tại địa phương, đồng thời xác định sơ
bộ về vòng đời điểm đến du lịch tỉnh Lào Cai


10


Xây dựng và phân loại các nhóm đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát
triển của loại hình du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai phù hợp với giai đoạn phát triển
đồng thời vẫn đảm bảo công tác bảo tồn di sản văn hóa.

11


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
Trong phạm vi của đề mục này, tác giả muốn tập trung đề cập tới các khái
niệm, định nghĩa và những quan điểm tiếp cận mang tính lý thuyết, nhằm tạo cơ sở
cho quá trình nghiên cứu, khảo sát và đánh giá cho đối tượng của đề tài.
1.1.1. Du lịch văn hóa: là một khái niệm mà mỗi chủ thể nghiên cứu lại có những
hướng và cách tiếp cận khác nhau, có thể có nghĩa rộng bao hàm nhiều yếu tố, song
cũng có những hướng tiếp cận tập trung vào một yếu tố cụ thể, trong một không
gian hẹp hơn. Quan niệm về “du lịch văn hóa” ở đây cũng cần được phân biệt với
“văn hóa du lịch” để tách bạch giữa một bên là hành vi ứng xử trong các hoạt động
du lịch với một bên là một loại hình du lịch được xây dựng dựa trên các giá trị của
nền văn hóa bản địa. Có khá nhiều khái niệm về du lịch văn hóa đã được đưa ra trên
nhiều phương diện như:
Theo định nghĩa của UNWTO (Tổ chức Du lịch thế giới) thì du lịch văn hóa
được hiểu là: “bao gồm các hoạt động của những người với động cơ chủ yếu là
nghiên cứu, khám phá về văn hóa như: các chương trình nghiên cứu, tìm hiểu về
nghệ thuật biểu diễn, các lễ hội và các sự kiện văn hóa khác nhau, thăm các di tích
và đền đài, du lịch nghiên cứu thiên nhiên, văn hóa hoặc nghệ thuật dân gian và
hành hương”. Đây là một khái niệm có hướng tiếp cận chủ yếu là nghiên cứu và

khám phá, đã có đề cập tới các yếu tố một cách chi tiết song lại khá giới hạn về đối
tượng khách du lịch.
“Du lịch văn hóa là loại hình du lịch mà mục tiêu là khám phá những di tích
và di chỉ. Nó mang lại những ảnh hưởng tích cực bằng việc đóng góp vào việc duy
tu, bảo tồn. Loại hình này trên thực tế đã minh chứng cho những nỗ lực bảo tồn và
tôn tạo, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng vì lợi ích văn hóa - kinh tế - xã hội” [12,
Tr. 2], khái niệm được đưa ra theo khía cạnh nghiên cứu chỉ về di chỉ và di tích.
Còn khái niệm theo Luật du lịch Việt Nam đưa ra là “Du lịch văn hóa là hình
thức dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống” [22, Tr.3]. Đây là khái niệm có ngoại
biên khá rộng về các yếu tố của du lịch văn hóa và không giới hạn về đối tượng
khách cũng như hoạt động của du lịch văn hóa.

12


Vậy, ta có thể hiểu du lịch văn hóa là một loại hình du lịch sử dụng trực tiếp
nguồn vốn văn hóa, kết hợp với các dịch vụ thích hợp để tạo ra các sản phẩm du
lịch đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của du khách, nhưng cũng đảm bảo lợi ích kinh
tế cho những người kinh doanh du lịch, thậm chí cả cộng đồng địa phương tham
gia. Du lịch văn hóa đồng thời có tác động không nhỏ tới việc bảo tồn, phát huy các
giá trị văn hóa và có tính kết nối vùng miền.
1.1.2. Tài nguyên du lịch văn hóa: Trong khuôn khổ luận văn, tác giả sẽ dùng thuật
ngữ “tài nguyên văn hóa” để nhằm làm rõ việc sử dụng các tài nguyên của một nền
văn hóa trong hoạt động du lịch. Tài nguyên văn hóa chia làm hai loại là “tài
nguyên văn hóa phi vật thể” và “tài nguyên văn hóa vật thể”
Nhắc đến việc phân loại tài nguyên du lịch nói chung, hầu hết các tài liệu
đều thể hiện rõ hai loại chính là tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Luật du
lịch Việt Nam đã phân định: “Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm các yếu tố địa
chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có

thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch” và “Tài nguyên du lịch nhân văn gồm
truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách
mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di
sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch”
[22, Tr.8].
Theo hướng hiểu như trên, các thành tố văn hóa sẽ được liệt kê thành các
dạng tài nguyên du lịch văn hóa như: truyền thống văn hóa, văn nghệ dân gian, kiến
trúc, nghệ thuật…. và đây thực chất là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với
ngành du lịch. Tuy nhiên không phải mọi sản phẩm văn hóa đều phải là hoặc phải
trở thành sản phẩm du lịch, có rất nhiều sản phẩm văn hóa không thể hoặc không
nên đưa vào khai thác kinh doanh du lịch mà phải được bảo tồn và gìn giữ. Khi
những tài nguyên văn hóa này được đặt trong một hoàn cảnh nhất định (thuộc vùng
du lịch, trung tâm du lịch hoặc khu vực gần với các trung tâm du lịch), có sự kết
hợp hài hòa và thích hợp với các dịch vụ khác (như lưu trú, vận chuyển thuận
tiện…) và có định hướng khai thác cụ thể (kết hợp giữa khai thác và bảo tồn) biến
các tài nguyên văn hóa thành các tài nguyên du lịch văn hóa có giá trị cao.

13


1.1.3. Sản phẩm du lịch văn hóa: là một sản phẩm du lịch mà cũng là sản phẩm
văn hóa, nó mang đầy đủ tính chất của cả hai sản phẩm trên, nhưng phần lớn là tính
đặc trưng của một sản phẩm du lịch. Theo Luật du lịch Việt Nam “Sản phẩm du lịch
là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của du khách trong chuyến đi
du lịch” [22, Tr.2]
Tiếp cận theo hướng kinh tế, sản phẩm du lịch được định nghĩa là “các dịch
vụ hàng hóa cung cấp cho du khách, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác
các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật
và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó” [8, Tr.27]
Xét riêng sản phẩm du lịch văn hóa thì trước hết đó là một sản phẩm văn hóa

sau đó được đưa vào hoạt động kinh doanh du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu học hỏi,
tìm hiểu của du khách. Do đó sản phẩm du lịch văn hóa là tập hợp các dịch vụ cần
thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch văn hóa trong chuyến đi du lịch.
“Sản phẩm du lịch văn hóa phải là sự kết hợp giữa tài nguyên du lịch văn
hóa và các dịch vụ du lịch văn hóa thích hợp phục vụ nhu cầu thưởng thức, khám
phá, trải nghiệm của du khách về những điều khác biệt, mới lạ của các nền văn hóa
khác nhau” [13, Tr.12]. Vậy có thể hiểu sản phẩm du lịch văn hóa phải là sự kết
hợp giữa toàn bộ các loại tài nguyên du lịch văn hóa và toàn bộ các loại dịch vụ du
lịch thích hợp nhằm phục vụ nhu cầu thưởng thức, khám phá, trải nghiệm về những
điều khác biệt, mới lạ về từng nền văn hóa bản địa của du khách.
1.1.4. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của du lịch: được xem là toàn bộ cơ sở hạ tầng,
phương tiện, vật chất và kỹ thuật tham gia vào hoạt động du lịch. Bao gồm cả cơ sở
vật chất của bản thân ngành du lịch như nhà hàng, khách sạn, hệ thống điện, nước,
vệ sinh phục vụ tại điểm du lịch và cơ sở vật chất của các ngành kinh tế khác có liên
quan như: mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống điện, nước
của vùng ….
Hiểu theo nghĩa hẹp, thì cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch là toàn bộ
những cơ sở hạ tầng, vật chất, kỹ thuật được các nhà làm du lịch đầu tư xây dựng để
phục vụ cho hoạt động du lịch như nhà hàng, khách sạn, đường giao thông nội bộ
trong khu, điểm du lịch, công trình điện nước tại khu điểm du lịch, các khu vui chơi
giải trí, phương tiện giao thông, camping, và các công trình bổ trợ khác gắn liền với
hoạt động du lịch.

14


Theo hai cách hiểu trên, cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch là toàn bộ các
cơ sở vật chất của bản thân ngành du lịch và cả các cơ sở hạ tầng của các ngành
nghề khác có liên quan đến hoạt động du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc phát triển du lịch của một địa phương hay một quốc gia.

Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa là toàn bộ các cơ sở vật
chất kỹ thuật tại điểm du lịch văn hóa và cơ sở hạ tầng của ngành nghề khác tham
gia vào hoạt động du lịch văn hóa như: hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, các
công trình cung cấp điện, nước, cơ sở phục vụ ăn, uống, lưu trú, các cửa hàng, khu
giải trí, thể thao, cơ sở y tế, trạm xăng dầu, nhà ga, bến cảng, bãi đỗ xe… phục vụ
trực tiếp cho du khách đến tham quan tìm hiểu du lịch văn hóa. Cơ sở vật chất kỹ
thuật của du lịch văn hóa góp phần quyết định đến chất lượng dịch vụ và hiệu quả
kinh tế của điểm đến du lịch văn hóa.
1.1.5. Nguồn nhân lực: nhân lực trong du lịch toàn bộ lực lượng lao động có liên
quan đến lĩnh vực du lịch. Bao gồm cả nguồn nhân lực thường xuyên như nhân viên
trong các công ty du lịch, khách sạn, các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch… và
nguồn nhân lực không thường xuyên như nhân viên bán hàng tại các trung tâm mua
sắm, nhân viên y tế, ngân hàng, hàng không… Tất cả người lao động có liên quan
đến du lịch.
Do vậy, nguồn nhân lực trong du lịch văn hóa là toàn bộ những người trực
tiếp và gián tiếp làm việc có liên quan đến du lịch văn hóa. Bao gồm quản lý nhà
nước, quản trị doanh nghiệp và kinh doanh du lịch văn hóa. Đội ngũ này quyết định
hiệu quả kinh doanh và sự tồn tại của du lịch văn hóa. Muốn phát triển du lịch văn
hóa bền vững cần phải có đội ngũ nhân lực giỏi chuyên môn nghiệp vụ, am tường
lĩnh vực văn hóa, đủ khả năng đảm nhiệm vai trò truyền tải về hình ảnh đất nước và
con người Việt Nam cho du khách.
1.1.6. Điểm đến du lịch văn hóa: Theo điều 4 của Luật Du lịch Việt Nam (2005) thì
“Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của
khách du lịch”, tuy nhiên, khái niệm điểm đến du lịch không chỉ dùng cho một địa
bàn nhỏ hẹp mà còn được dùng cho một vùng du lịch, á vùng du lịch hay tiểu vùng
du lịch tùy theo quy mô. Điểm đến du lịch trước hết phải là một điểm hấp dẫn du
lịch song không phải điểm hấp dẫn du lịch nào cũng trở thành một điểm đến du lịch
bởi còn tùy thuộc vào các yếu tố bổ sung như cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ

15



thuật…Theo cách hiểu trên thì điểm du lịch được xem là có quy mô nhỏ “là nơi tập
trung một loại tài nguyên nào đó (tự nhiên, văn hóa - lịch sử hoặc kinh tế xã hội)
hay một loại công trình riêng biệt phục vụ du lịch hoặc kết hợp cả hai ở quy mô nhỏ
[41, Tr.113]
Điều 24, Luật du lịch Việt Nam (2005) quy định điểm du lịch có đủ các điều
kiện sau đây được công nhận là điểm du lịch cấp quốc gia:
+ Có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du
lịch.
+ Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít
nhất một trăm nghìn lượt khách tham quan một năm.
Điểm du lịch có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là điểm du lịch địa
phương:
+ Có tài nguyên du lịch hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch.
+ Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít
nhất mười nghìn lượt khách tham quan một năm.
Như vậy, điểm đến du lịch văn hóa là nơi có tài nguyên du lịch văn hóa hấp
dẫn, có khả năng thu hút du khách về nhu cầu khám phá, tìm hiểu, nghiên cứu về
văn hóa như: những di tích văn hóa lịch sử, những danh thắng, các công trình kiến
trúc, các cổ vật, những giá trị văn hóa phi vật thể, các lễ hội, làng nghề, nghệ thuật
ẩm thực…Kết hợp với hệ thống cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật của du lịch văn
hóa có khả năng đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch văn hóa.
1.1.7. Thị trường du lịch văn hóa: Trước hết, thị trường du lịch là nơi diễn ra quá
trình mua và bán các sản phẩm du lịch, Thị trường du lịch văn hóa được hiểu là một
kiểu thị trường du lịch đã phát triển thêm để đáp ứng yêu cầu làm thỏa mãn yếu tố
tìm hiểu văn hóa của du khách. Như vậy, thị trường du lịch văn hóa là nơi diễn ra
sự trao đổi mua bán giữa người mua là khách du lịch có nhu cầu thỏa mãn về sản
phẩm văn hóa và người bán là những nhà cung cấp các dịch vụ có liên quan đến du
lịch văn hóa trong một thời gian và không gian xác định. Thị trường du lịch văn hóa

chịu sự tác động chung của thị trường du lịch về yếu tố địa lý, yếu tố cung cầu, về
tính chất hoạt động và thành phần sản phẩm. Đồng thời, thị trường du lịch văn hóa
đảm nhiệm các chức năng như: chức năng thực hiện, chức năng thừa nhận, chức
năng thông tin và chức năng điều tiết.

16


1.1.8. Tổ chức, quản lý du lịch văn hóa: cũng đồng nghĩa với công tác tổ chức
quản lý, phát huy và bảo tồn các di sản văn hóa. Đây là điều kiện quan trọng để đảm
bảo tính hiệu quả và bền vững để phát triển du lịch văn hóa. Việc tổ chức quản lý
du lịch văn hóa nhằm mục đích khai thác, phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa
trong du lịch thông qua các kế hoạch và hoạt động cụ thể.
- Xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du lịch văn hóa: Xúc tiến, tuyên truyền quảng bá
sản phẩm có vai trò quan trọng trong quá trình đưa sản phẩm tiếp cận với khách
hàng và xây dựng hình ảnh đầu tiên về sản phẩm với khách hàng. Marketing trong
du lịch là hoạt động không thể thiếu để mang sản phẩm đến với du khách, góp phần
ảnh hưởng tích cực vào quyết định lựa chọn sản phẩm du lịch của khách hàng. Việc
xúc tiến tuyên truyền quảng bá trong du lịch có những cách hiểu như sau: “Xúc tiến
du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ
hội phát triển du lịch” [16, Tr.3]. Đối với du lịch nói chung và du lịch văn hóa nói
riêng, cơ hội cho xúc tiến, tuyên truyền và quảng bá du lịch rộng hơn nhiều so với
các loại hình kinh doanh khác bởi tính lan tỏa của văn hóa. Các di sản văn hóa khi
được công nhận đồng nghĩa với việc di sản đó có một cơ hội để được tuyên truyền
và quảng bá miễn phí với những kênh quảng bá đảm bảo nhất, có uy tín nhất và
thông qua đó, khơi dậy mong muốn khám phá, tìm hiểu, nghiên cứu về sản phẩm và
đưa ra quyết định lựa chọn nhanh hơn. Vậy có thể hiểu, hoạt động xúc tiến, tuyên
truyền và quảng bá trong du lịch văn hóa bao gồm những hoạt động chủ động từ
phía chủ thể và bị động từ những yếu tố, cơ hội khách quan mang lại, nhằm giới
thiệu thông tin, vẻ đẹp của điểm đến hấp dẫn, điểm đến du lịch, từ đó khơi dậy

quyết định lựa chọn sản phẩm du lịch văn hóa của du khách, đồng thời góp phần
thúc đẩy phát triển du lịch.
- Trách nhiệm của ngành du lịch trong công tác bảo tồn di sản văn hóa: Văn hóa là
tài nguyên cốt lõi để cấu thành sản phẩm du lịch văn hóa. Nếu nhìn về góc độ tổng
thể, nơi nào có yếu tố du lịch thì nơi đó chắc chắn tồn tại yếu tố văn hóa. Do mối
quan hệ không thể tách rời, nên sản phẩm du lịch bao giờ cũng mang hình ảnh của
văn hóa. Vì thế, bảo vệ các giá trị văn hóa cũng chính là bảo vệ tài nguyên du lịch.
Bên cạnh đó, di sản văn hóa chính là bản sắc dân tộc. Do vậy, bảo tồn di sản văn
hóa là nghĩa vụ và quyền lợi thiết thực của mỗi con người trong xã hội. Luật Di sản
của Việt Nam đã khẳng định “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng

17


đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai
trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta” [21, Tr.107] do
đó việc bảo tồn di sản văn hóa và các giá trị văn hóa trong du lịch bao giờ cũng là
cần thiết và cấp bách. Xét về mặt du lịch văn hóa những việc làm tiêu cực trong
công tác bảo tồn các di sản văn hóa sẽ làm cho nguồn tài nguyên du lịch bị mai một.
Việc bảo tồn tài nguyên du lịch văn hóa cần phải có quy trình cụ thể như sau: Nhận
diện di sản - Nghiên cứu và kiểm kê di sản - Xây dựng chính sách bảo tồn - Chỉ
định cơ quan bảo tồn - Trùng tu tôn tạo và phát triển - Quản lý và quảng bá di sản.
Như vậy, việc tổ chức, quản lý du lịch văn hóa dựa trên cơ sở nội dung quản lý nhà
nước về du lịch như sau:
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch văn hóa: Ngành du lịch hiện nay đã
và đang không ngừng phát triển, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đã trở
thành nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng trong việc phát triển du lịch của một
vùng, miền. Vì thế, việc khai thác và sử dụng đúng ý nghĩa, mục đích của các di sản
văn hóa là quyết định hiệu quả thành công của ngành kinh doanh du lịch. Tổ chức
quản lý nhà nước về du lịch văn hóa hiện nay đang là vấn đề được lãnh đạo nhà

nước, lãnh đạo ngành và các doanh nghiệp quan tâm. Tổ chức quản lý nhà nước
được thực hiện tốt sẽ góp phần vào hiệu quả kinh doanh của ngành du lịch và định
hướng phát triển bền vững của ngành.
- Đối với chính quyền địa phương: Theo sự phân cấp về quyền hạn và trách nhiệm
của chính phủ, UBND cấp tỉnh, cấp thành phố có trách nhiệm thực hiện đúng và tốt
nhiệm vụ được phân công trong công tác quản lý nhà nước về du lịch văn hóa ở
từng địa phương. Việc quản lý phải được cụ thể hóa trong công tác quy hoạch, ban
hành quy chế, các chính sách phát triển du lịch văn hóa phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương.
- Đối với cơ sở kinh doanh du lịch văn hóa: Các cơ sở kinh doanh du lịch văn hóa
phải chấp hành mọi quy định của nhà nước về tổ chức, quản lý các hoạt động có
liên quan đến du lịch văn hóa. Bên cạnh việc khai thác có hiệu quả các giá trị di sản
văn hóa, các doanh nghiệp phải biết giữ gìn và tôn tạo nguồn tài nguyên vô giá này
để hoạt động kinh doanh phát triển bền vững.

18


1.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên: Là yếu tố tác động lớn đến việc hình thành nét văn hóa
của từng tộc người, đồng thời cũng chi phối việc phân bố các điểm, khu, vùng du
lịch của toàn tỉnh. Tự nhiên nào hình thành văn hóa đó, nên việc nghiên cứu và nắm
được đặc điểm tự nhiên của vùng nghiên cứu sẽ giúp tác giả có những nền tảng cơ
bản để giải thích cho các hiện tượng văn hóa của địa phương. Vd: tập quán canh tác
ruộng bậc thang của đồng bào người H’mông là bởi địa hình núi cao, sườn thoải chi
phối; Thói quen đi ngựa của đồng bào dân tộc cũng xuất phát từ ảnh hưởng của địa
hình để từ đó lễ hội đua ngựa Bắc Hà trở thành lễ hội hấp dẫn nhất của tỉnh Lào
Cai…Vị trí địa lý của Lào Cai làm nên một Sapa với khí hậu đặc trưng vùng ôn đới,
biến nơi đây thành trung tâm du lịch của tỉnh với sức hấp dẫn mạnh mẽ. Không chỉ
khí hậu, mà các nghề truyền thống, nghệ thuật ẩm thực của địa phương cũng chịu

ảnh hưởng không nhỏ bởi yếu tố địa lý. Do đó, việc sử dụng những kiến thức về địa
lý của Lào Cai sẽ giúp cho tác giả có được những cở sở lý giải cho những đặc trưng
văn hóa bản địa là yếu tố cấu thành nguồn tài nguyên du lịch văn hóa đa dạng cho
du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai.
1.2.2. Tiến trình lịch sử: là yếu tố song hành với văn hóa, mỗi thời kỳ lịch sử sẽ có
một hình thái văn hóa tương ứng. Việc tìm hiểu và xác định các thời kỳ lịch sử phù
hợp sẽ mang lại cho tác giả những nhận định tốt hơn và lý giải rõ ràng hơn về sự
ảnh hưởng tới văn hóa của từng thời kỳ tương ứng.
Xuyên suốt tiến trình lịch sử của Lào Cai, các hình thái văn hóa để lại những dấu ấn
văn hóa đặc trưng của thời kỳ như: Dinh thự Hoàng A Tưởng, dấu ấn kiến trúc của
thời kỳ Pháp thuộc; Đền Bảo Hà, đền Thượng…dấu ấn của thời kỳ Bắc thuộc với
truyền thuyết về những anh hùng dân tộc… Dựa vào nguồn tài liệu của các công
trình nghiên cứu lịch sử Lào Cai, tác giả có thêm nguồn tư liệu để đánh giá, hệ
thống và dẫn chứng cho những lập luận hay giải thích của mình trong luận văn.
1.2.3. Đặc điểm dân tộc học:
1.2.3.1. Các tộc người: Tác giả luận văn kế thừa nghiên cứu khoa học về các tộc
người trên địa bàn tỉnh để làm rõ về đặc trưng riêng của từng dân tộc, dùng những
kiến thức đó trong việc lý giải các hiện tượng và làm cơ sở để biến tài nguyên văn
hóa thành tài nguyên du lịch văn hóa. Những nghiên cứu về tộc người của các tác
giả như Trần Hữu Sơn, Bùi Xuân Đính hay nhóm tác giả của Ban chỉ đạo đại hội

19


đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam là nguồn tri thức khoa học phong phú, chi
tiết, hữu ích cho tác giả trong việc giải mã các bản sắc văn hóa và áp dụng vào hoạt
động du lịch theo định hướng bền vững, kết hợp giữa bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa.
1.2.3.2. Văn hóa tộc người: đây là nguồn cơ sở lý luận và dẫn chứng phong phú, đa
dạng để tác giả kế thừa trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Bởi nội dung

chủ đạo của luận văn là về du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai, do đó các công trình
nghiên cứu, sách tham khảo, chuyên khảo, các tham luận về vấn đề văn hóa là
nguồn tri thức hữu ích cho việc so sánh, phân tích và hệ thống các tài nguyên văn
hóa, đánh giá và phân loại yếu tố tạo nên tài nguyên du lịch văn hóa giàu bản sắc
cho lĩnh vực du lịch văn hóa tỉnh Lào Cai.
1.3. Điều kiện phát triển du lịch văn hóa Lào Cai
1.3.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Lào Cai.
1.3.1.1. Về vị trí địa lý: Lào Cai là một trong sáu tỉnh có biên giới chung với Trung
Quốc, cách Hà Nội khoảng gần 350Km đường bộ và gần 300Km đường sắt, ở tâm
điểm hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hải Phòng và là tỉnh có diện tích tự
nhiên lớn thứ 19 trên cả nước. Với vị trí nằm chính giữa vùng Đông Bắc và Tây
Bắc của Việt Nam, Lào Cai có được lợi thế lớn về tuyến du lịch do các trung tâm du
lịch lớn như Hà Nội, Hạ Long, Điện Biên… mang lại (Bản đồ 1.4, Phụ lục I, Tr.99).
1.3.1.2. Về địa hình, địa mạo, cảnh quan: Địa hình Lào Cai rất phức tạp, phân tầng
độ cao lớn, mức độ chia cắt mạnh, có những đỉnh núi cao thuộc dãy Hoàng Liên
Sơn và dãy Con Voi; những vùng triền núi thấp và trung bình; nhiều núi nhỏ hơn
phân bố đa dạng, chia cắt tạo ra những tiểu vùng khí hậu khác nhau. Đặc biệt Lào
Cai có đỉnh núi Fanxipan trên dãy Hoàng Liên Sơn có độ cao 3.143m cao nhất Việt
Nam. Địa hình núi cao tạo nên những cảnh quan núi rừng hùng vĩ và hấp dẫn,
những vách đá, đỉnh núi hiểm trở, hang động, thác nước và trên nền địa hình như
vậy là thảm động thực vật đặc hữu, có giá trị cao để phát triển loại hình du lịch sinh
thái, du lịch thể thao và du lịch mạo hiểm.
1.3.1.3. Về khí hậu: địa hình đa dạng tạo ra những vùng khí hậu khác nhau trong
tỉnh Lào Cai, tại các vùng núi cao như Sapa, Simacai, Bát Xát, Bắc Hà có thời tiết
mát mẻ và mùa hè và lạnh vào mùa đông. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng cao từ
150C - 200C (riêng Sapa từ 140C -160C và không có tháng nào lên quá 200C). Nhiệt

20



độ trung bình nằm ở vùng thấp từ 230C - 290C [5]. Đặc biệt, Sapa được biết đến là
một “thị trấn sương mù”, có những thời điểm toàn Sapa chìm trong màn sương,
khiến khung cảnh thị trấn vô cùng lãng mạn, xứng đáng được ví với những thiên
đường tại Châu Âu. Điều kiện khí hậu ôn đới giúp Lào Cai trở thành một điểm du
lịch nghỉ dưỡng lý tưởng, đặc biệt đối với khách du lịch nội địa.
1.3.1.4. Hệ thống động thực vật: Lào Cai có tài nguyên rừng phong phú phân bổ
theo các địa hình khác nhau, với nhiều loại gỗ quý như: bách xanh, thiết xam, thông
tre, thông đỏ, bách tùng, dẻ tùng; các dược liệu quý như: thảo quả, tô mộc, sa nhân,
đương quy, đỗ trọng; nhiều loại hoa, quả, rau mang hương vị rất riêng. Đặc biệt,
Vườn quốc gia Hoàng Liên Sơn được đánh giá là một trong những điểm nóng đa
dạng sinh học trong hệ thống các khu rừng đặc dụng của khu vực Đông Dương với
hơn 847 loài thực vật thuộc 164 họ, 5 ngành đã được phát hiện. Hệ động vật tại Lào
Cai cũng phong phú với 442 loài chim, thú, bò sát, ếch nhái, với nhiều loại thú quý
như sơn dương, cheo, nai, hoẵng... và có một số động vật đặc hữu như: gà lôi tía,
khướu đuôi đỏ, rắn lục sừng...[34, Tr. 23]. Sự đa dạng và phong phú của hệ động
thực vật là một tài nguyên du lịch lớn, thu hút các đối tượng khách sinh thái, khám
phá, tìm hiểu, nghiên cứu.
1.3.2 Điều kiện văn hóa tỉnh Lào Cai.
1.3.2.1. Sự đa dạng về tộc người và văn hóa tộc người
Lào Cai là một tỉnh biên giới có 25 dân tộc và nhiều ngành, nhóm địa
phương cùng cư trú, có thể kể đến các nhóm như sau:
- Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường: gồm các tộc người Việt và Mường.
- Nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và Ka Đai: gồm các tộc người Tày (nhóm Thu Lao, Pa
Dí), Thái (Thái Trắng, Thái Đen), Giáy, Bố Y (Tu Dí), Nùng (Nùng Dín, Nùng An)
và La Chí.
- Nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao: gồm có người H’mông (H’mông Lềnh, H’mông
Đơz, H’mông Đuz, H’mông Suaz, H’mông Njuôz) và Dao [Dao Đỏ, Dao Tuyển
(Dao Làn Tẻn) và Dao Họ (Dao Quần Trắng)].
- Nhóm ngôn ngữ Hán - Tạng: có người Hoa (Xạ Phang, Hoa), Hà Nhì, Phù Lá (Xa
Phó, Pu La) [27].

Ngoài ra, Lào Cai còn có một số thành phần dân tộc khác cùng cư trú như Êđê, Pu Péo, Vân Kiều, Chăm, Khơ-me, Ba-na, Xơ-đăng, Hrê, Cơ-tu, Tà-ôi, Xinh-

21


mun..., tuy nhiên, số lượng không đáng kể. Dân cư ở cấp xã, thường thuộc nhiều tộc
người hay nhóm địa phương, nhưng ở cấp thôn/ bản, thường chỉ thuộc về một tộc
người hoặc nhiều lắm là hai tộc người sống chung trong đó có một tộc người chiếm
đa số.
Xét riêng về trang phục dân tộc đã có 34 kiểu loại với sắc màu, chất liệu
khác nhau bởi một số dân tộc được phân tách thành các ngành khác nhau (Ví dụ:
H’mông Hoa, H’mông đen, H’mông xanh; Dao đỏ, Dao tuyển…). Về nghệ thuật
dân gian, Lào Cai có gần 100 điệu múa, có đủ 10 họ với 11 chi khác nhau của các
nhạc khí. Đặc biệt, thật tự hào khi kể đến kho tàng lễ hội ở Lào Cai bởi sự đặc sắc,
đa dạng và thấm đẫm truyền thống dân tộc.
Một số dân tộc tiêu biểu ở Lào Cai:
- Người H’mông: là dân tộc chiếm số lượng lớn nhất ở Lào Cai với 146.147 người;
tiếng nói thuộc ngữ hệ H’mông - Dao; Người H’mông đa dạng về nhóm địa
phương: Trắng, Hoa, Đỏ, Đen, Xanh, được phân biệt bởi hình thức trang phục: Váy
trắng (H’mông trắng); Váy chàm, áo xẻ nách (H’mông Hoa); Váy chàm áo xẻ ngực
(H’mông đen); Váy ống, cuốn tóc, cài lược (H’mông xanh). Phương thức canh tác
chính là nương rẫy. Người H’mông nổi tiếng với đặc sản rượu ngô, rượu gạo. Du
khách đến Sapa, Lào Cai không thể bỏ qua món quà là những chai rượu San Lùng.
Ngôi nhà truyền thống của người H’mông là nhà bưng ván hay vách nứa,
mái tranh, nhà thấp và nền đất nện, lương thực được cất trữ trên sàn gác, một số nơi
có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.
Người H’mông bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch,
sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người
H’mông, phù hợp với nông lịch truyền thống. Tết lớn thứ hai là Tết mùng 5 tháng 5
(Âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3,

13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch)…đây thực sự là những ngày hội với những trò chơi
dân gian được tổ chức ở khắp bản làng. Đối với du lịch văn hóa, những trò chơi
truyền thống, những hoạt động nghệ thuật trong ngày Tết của đồng bào H’mông là
nguồn tài nguyên đáng quý để phát triển những sản phẩm mang tính đặc thù và làm
giàu thêm cho hoạt động du lịch cộng đồng (Phụ lục IIb, Tr.181).
- Người Dao: Dân số 474.000 người, ngôn ngữ thuộc hệ H’mông - Dao. Người Dao
có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ

22


XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Phương thức canh tác chính là làm nương,
thổ canh hốc đá, ruộng. Thợ bạc là nghề gia truyền ngoài ra còn có nghề làm giấy
bản, ép dầu, làm mật…Trang phục của người Dao không quá cầu kỳ những cách in
hoa văn trên vải bằng sáp ong lại rất độc đáo: người ta dùng bút vẽ nhúng vào sáp
ong nóng chảy rồi vẽ lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu
xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.
Tập quán của người Dao là một kho tàng về văn hóa dân gian. Các thủ tục
cưới xin, ma chay hay lễ cấp sắc được gìn giữ gần như nguyên vẹn cho tới nay. Lễ
cấp sắc và lễ cưới của người Dao đỏ đã trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học về dân tộc học. Đây cũng là nguồn tài nguyên quý giá cho việc phát triển
du lịch văn hóa của Lào Cai, loại hình khám phá về phong tục, tập quán (Phụ lục
IIb. Tr.183).
- Người Tày: tên gọi khác là Thổ, thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái Ka Đai). Hoạt động sản xuất truyền thống là ruộng nước bên cạnh đó có trồng lúa
khô, hoa màu. Người Tày nổi tiếng với nghề dệt thổ cẩm. Về ẩm thực, người Tày
nổi tiếng với các loại bánh cho cả ngày thường lẫn ngày Tết. Trang phục của người
Tày đơn giản hầu như không có thêu thùa, trang trí trên quần áo như các dân tộc
khác. Đối với người Tày, cất nhà mới là một hoạt động vô cùng quan trọng đặc biệt
được lưu ý trong cuộc sống. Với người Tày nghệ thuật truyền thống rất đa dạng và
giàu bản sắc.

Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối
rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát
giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường “lượn” trong hội
lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Trong nghi lễ
ở một số địa phương còn có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo (Phụ
lục IIb. Tr.187).
- Người Giáy: Dân tộc Giáy có khoảng 38.000 người, thuộc nhóm ngôn ngữ Tày Thái. Hoạt động canh tác chính là ruộng nước. Trang phục của người Giáy cũng
đơn giản, thường chỉ có trang trí nhẹ nhàng trên áo nữ và túi đeo. Người Giáy nổi
tiếng với các làn điệu hát giao duyên nam nữ và các điệu múa truyền thống và
những hoạt động này được thể hiện một cách sôi nổi tại các dịp lễ tết (Phụ lục IIb.
Tr.190).

23


×