Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Một số vấn đề về lịch sử - Văn hóa Đông Nam Á (Bài giảng Chuyên đề Tái bản lần thứ nhất có sửa chữa bổ sung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.78 KB, 92 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LỊCH SỬ

LÊ PHỤNG HOÀNG

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ
LỊCH SỬ – VĂN HÓA ĐÔNG NAM Á
(Bài giảng chuyên đề)
(Tái bản lần thứ nhất có sửa chữa bổ sung)

LƯU HÀNH NỘI BỘ - 2006


BÀI I

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG
NGƯỜI GỐC HOA Ở ĐÔNG NAM Á
(cho đến nửa đầu thế kỷ XX)

MỤC ĐÍCH CỦA CHUYÊN ĐỀ

Trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á, người gốc Hoa đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, thậm
chí ở một vài nước (Indonesia, Singapore) còn mang tính quyết đònh. Không có họ, nền kinh tế các nước
trong vùng chắc chắn sẽ vấp phải không ít khó khăn.
Trong vòng trên dưới hai thập niên trở lại đây, vò thế của họ trong sinh hoạt kinh tế ở các nước
Đông Nam Á lại có chiều hướng tăng lên, do họ có những mối quan hệ khăng khít với các lãnh thổ
Trung Hoa, vốn đang trải qua thời kỳ phát triển thònh đạt về kinh tế, như Trung Quốc, Đài Loan và
Hongkong.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa người gốc Hoa và người bản đòa không phải lúc nào cũng êm đẹp. Ở
những nước Đông Nam Á có tỷ lệ người gốc Hoa cao (như Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Việt


Nam), người bản đòa thường nhìn sự giàu có, mà sinh hoạt kinh tế đã mang lại cho người gốc Hoa, bằng
con mắt đố kỵ và thèm muốn. Mỗi khi xảy ra những biến động chính trò, người gốc Hoa dễ trở thành
vật bung xung cho những tình cảm bực dọc bò dồn nén lâu nay trong nhân dân. Biến cố tháng 5-1998
vừa qua ở Indonesia là một ví dụ điển hình.
Tại sao dù người Hoa đã có mặt ở các nước Đông Nam Á, phổ biến từ trên dưới 100 năm nay, cá
biệt có trường hợp từ vài ba thế kỷ, giữa các cộng đồng sắc tộc người Hoa và người bản đòa vẫn tồn tại
một hố ngăn cách không thể vượt qua được; vì sao người Hoa dễ trở thành đối tượng của những cơn
biến động chính trò và kinh tế ở các nước trong vùng?
Đó là những câu hỏi mà chuyên đề "Lòch sử hình thành cộng đồng người gốc Hoa ở Đông Nam Á
cho đến nửa đầu thế kỷ XX" góp phần giải quyết.

1


Chương I

BUỔI ĐẦU DI DÂN CỦA NGƯỜI HOA
ĐẾN CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á
(Cho đến thế kỷ XVI, khi người Âu xuất hiện ở Đông Nam Á)

I.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH BAN ĐẦU CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA.

Giữa các cộng đồng sắc tộc khác nhau ở Đông Nam Á và tổ tiên người Hoa đã diễn ra các cuộc
tiếp xúc cách đây nhiều ngàn năm, vào khoảng thiên niên kỷ VII-VI tr.CN (theo ý kiến của nhà khảo
cổ học người Mỹ W.Solheim)(1). Khu vực diễn ra đặc biệt sôi động các cuộc tiếp xúc sắc tộc là vùng
lưu vực sông Tây Giang và cả thượng và trung lưu sông Dương Tử, nơi cách đây vài ngàn năm có nhiều
sắc tộc sinh sống và hòa lẫn vào nhau. Theo cách phân loại dựa vào ngôn ngữ, đó là các tộc Việt,
Indonesia, Thái, Môn-Khơme và Tây Tạng-Miến.
Từ thế kỷ I tr.CN đến thế kỷ X. s.CN, miền Bắc bán đảo Đông Dương bò rơi vào ách thống trò của
các triều đại phong kiến Trung Quốc. Nơi đây trở thành chốn cư trú tạm thời hay lâu dài của các binh

lính, quan chức và có thể cả thương nhân và thợ thủ công người Hoa. Tìm đến đây thỉnh thoảng có cả
những làn sóng người chạy nạn chiến tranh, chạy trốn sự truy bức mỗi khi có sự thay đổi triều đại ở
Trung Quốc, hay chạy đói vì thiên tai. Bắc bán đảo Đông Dương còn là nơi dung thân của những kẻ
tham gia các cuộc nổi dậy nông dân bò thất bại, chẳng hạn cuộc nổi dậy Hoàng Sào nổi tiếng trong thế
kỷ X (2).
Ngoài ra, ở một số tụ điểm dân cư trong một vùng đất rộng lớn trải dài từ Thượng Miến đến phía
bắc phần lãnh thổ của Campuchia hiện nay đã có mặt các thương nhân Hoa ngay từ thế kỷ II s.CN (3).
Tuy nhiên, không thể cho rằng những cuộc dòch chuyển kể trên như là bước khởi đầu trực tiếp của
quá trình hình thành các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á vì chúng diễn ra rời rạc, cách nhau từng
khoảng thời gian khá dài và nhất là vì chưa tạo được những cộng đồng dân cư đông đảo, mà trong đó
tộc người Hoa chiếm đa số từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cộng đồng người Hoa di dân sang Đông
Nam Á trong thiên niên kỷ đầu sau Công nguyên không tồn tại lâu dài, lúc hiện, lúc mất, vì một số
quay về tổ quốc, còn số ở lại đã lấy người bản xứ, học ngôn ngữ và tiếp thu cả phong tục, tập quán đòa
phương để rồi sau vài thế hệ hoàn toàn bò hòa tan vào cộng đồng người bản xứ, quên đi tiếng mẹ đẻ và
thậm chí cả nguồn gốc tổ tiên mình. Tính không ổn đònh của các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á
kéo dài cho đến nửa đầu thiên niên kỷ I s.CN.
Tuy nhiên, tình hình bắt đầu thay đổi từ thế kỷ XII, đặc biệt rõ rệt từ thế kỷ XIV-XV. Những hiện
tượng như: một số quay về Trung Quốc, số khác bò đồng hóa với người bản đòa vẫn còn nguyên; nhưng
lúc này số người di dân từ Trung Quốc tăng lên đến mức chẳng những cộng đồng người Hoa đông hơn,
mà cả mức cố kết về xã hội và sắc tộc của họ cũng trở nên chặt chẽ hơn. Có thể nói đây là thời điểm
bắt đầu hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa như là một bộ phận dân cư riêng biệt ở các nước
Đông Nam Á. Những thay đổi này gắn liền với với sự kiện là ở Trung Quốc đã xuất hiện một tình
huống thúc đẩy khá nhiều người dân rời bỏ quê hương để tìm đến những vùng đất lạ. Đó là: đất cày
thiếu, số người không có đất canh tác tăng lên; nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ ra đời đã thúc đẩy các
thương nhân đi tìm thêm thò trường tiêu thụ hàng hóa. Đó là chưa kể chế độ phong kiến Trung Quốc
1

Solheim W.G. New Light on a Forgotten Past. - National Geographic. Wash, 1971, No3, p.339.
Purcell V. The Chinese in Southeast Aisa. L. 1965, p.182-183.
3

Cady F.F. Southeast Aisa : Its Historical Development. N.Y., 1964, p.24.
2

2


còn đề ra chính sách kiểm soát ngặt nghèo ngoại thương và trưng dụng tùy tiện các phương tiện sinh
nhai của thương nhân. Hậu quả là không ít bần nông và thương nhân đã tìm đến sinh nhai ở vùng Đông
Nam Á, nơi có khí hậu ôn hòa và nhiều đất hoang và cũng là nơi một nền kinh tế hàng hóa đang hình
thành. Những yếu tố này đã thu hút không ít người Hoa tìm đến đònh cư lâu dài ở Đông Nam Á.
Dù trong các thế kỷ XIV - XV không phải nơi nào ở Đông Nam Á cũng đều cần đến một khối
lượng đông đảo lao động người Hoa, họ vẫn có thể tìm được cho mình một chỗ làm, hoặc trong các
ngành nghề thủ công, hoặc trong hoạt động thương mại, hoặc khai phá đất hoang. Cần nhấn mạnh ở
đây là thương mại, vốn bò xem là một nghề phụ, hoặc thậm chí hạ đẳng ở Trung Quốc, thì ở Đông Nam
Á lại được coi là con đường tốt nhất để đưa đến cuộc sống sung túc, giàu có.
Sau khi nhà Nguyên bò lật đổ và được thay bằng nhà Minh (thế kỷ XIV-XVII), các mối liên hệ
ngoại giao và thương mại giữa Trung Quốc và các vương quốc Đông Nam Á được đẩy mạnh. Làn sóng
người từ Trung Quốc kéo sang các nước này diễn ra nhộn nhòp đến mức vào khoảng thế kỷ XVII trên
khắp các miền ở Đông Nam Á - từ Miến Điện và Lào đến những khu vực hẻo lánh trên quần đảo
Maluku và Philippines - đều xuất hiện những nhóm người Hoa ít nhiều đông đảo.
Cho đến lúc này, việc người Hoa di cư sang và đònh cư ở Đông Nam Á diễn ra một cách êm ả,
không gặp trở ngại nào đáng kể từ phía giới cầm quyền cũng như người dân bản đòa. Đó là vì ở Đông
Nam Á có nhiều đất hoang, nhưng chủ yếu là vì các hoạt động kinh tế cơ bản của di dân người Hoa thương mại và thủ công nghiệp - không va chạm trực tiếp đến quyền lợi của người bản xứ, thậm chí
chúng còn mang lại sự sung túc cho đòa phương, nơi họ tìm đến cư trú. Do đó, không những không cấm
đoán, giới cầm quyền Đông Nam Á còn cố sức rút ra các lợi ích không nhỏ từ hoạt động kinh tế của di
dân người Hoa. Nhưng như vậy không có nghóa là người Hoa không gặp trở ngại gì trên bước đường
kiếm sống ở nơi đònh cư mới. Khó khăn chính là họ phải sống trong một môi trường xã hội và văn hóa
hoàn toàn xa lạ (ngoại trừ ở Việt Nam). Do đó, giữa dân đòa phương và di dân người Hoa đã tồn tại một
sự xa cách, mà đôi khi đã đưa đến mối quan hệ thù đòch, nhất là ở những nơi thương nhân người Hoa
nắm độc quyền cung cấp và thu gom hàng hóa, đònh đặt giá cả và cho vay nặng lãi.

I.2. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC CỦA DI DÂN NGƯỜI HOA.

Sinh sống trong một môi trường hoàn toàn xa lạ, không hiếm khi thù đòch như trên, người Hoa đã
tìm kiếm những hình thức tự vệ về tâm lý và xã hội. Hoặc là họ dấn sâu hơn nữa vào môi trường bằng
cách lấy vợ người đòa phương (di dân người Hoa hầu hết là đàn ông) và học ngôn ngữ bản đòa. Nhưng
đa số người Hoa đi theo con đường khác - giữ gìn và thiết chế hóa các rào cản xã hội - tâm lý giữa họ
và các sắc dân đòa phương, bằng cách sử dụng những hình thức tổ chức xã hội riêng biệt đã hình thành
từ lâu.
Hình thức tổ chức bền vững nhất của các di dân người Hoa là hội đồng tộc, mà trong thuật ngữ khoa
học gọi là "hội tộc" ("clan"). Xuất hiện từ thời rất xa xưa, hội tộc ở Trung Quốc lan tràn rộng rãi trong
các thế kỷ XV - XVII và mở rộng chức năng của nó ở ngay tại các lãnh thổ miền Nam Trung Quốc, nơi
xuất phát các đợt di dân đến Đông Nam Á. Bản thân việc rời bỏ quê hương để tìm đến lập nghiệp ở
những vùng đất xa xôi phải được sự đồng ý của các thành viên lớn tuổi nhất trong tộc. Chi phí đi đường
không hiếm khi được quỹ của tộc đài thọ. Còn người ra đi nếu làm ăn khấm khá, phải đóng góp một
phần tài sản cho tộc. Do vậy, dù việc rời bỏ Trung Quốc ra đi trên thực tế có nghóa là đã cắt đứt mọi
quan hệ thân thuộc, những di dân người Hoa vẫn có một thói quen rất bền vững là tìm đến những người
cùng họ ở vùng đất mới để kết hợp thành một thứ na ná như hội tộc, bất chấp họ có phải là bà con thực
sự hay không (cần nhớ rằng ở Trung Quốc, số người cùng một họ rất đông, vì số họ trong cả nước chỉ
hơn trăm). Vai trò của hội tộc trong đời sống hàng ngày của di dân người Hoa rất đáng kể. Những nghóa
vụ tương trợ lâu dài đã đoàn kết những thành viên của hội tộc ở vùng đất lập cư, tăng cường tính bền
vững của cộng đồng, nhưng đồng thời đòi hỏi mỗi người Hoa phải tuân phục triệt để trưởng hội tộc.
Một hình thức tổ chức khác là "hội đồng hương", ra đời từ một thực tế lòch sử - sắc tộc là cư dân
miền Nam Trung Quốc, nơi phát xuất đại bộ phận di dân người Hoa ở Đông Nam Á, đã sống phân tán

3


thành nhiều nhóm trên các lãnh thổ ít nhiều biệt lập với nhau. Mỗi nhóm có một thổ ngữ riêng. Tình
hình đã khiến họ khó hiểu nhau khi phải tiếp xúc với nhau bằng ngôn ngữ nói. Di dân người Hoa ở
Đông Nam Á sử dụng rất nhiều thổ ngữ, như tiếng Hẹ (gốc miền Đông Quảng Đông), Phúc Kiến,

Quảng Châu, Triều Châu, Hải Nam. Tại vùng đònh cư mới, những người nói cùng thổ ngữ sống quần tụ
trong một khu phố, làng hay cả vùng. Giữa họ nảy sinh tình cảm của những người cùng một quê hương
gốc tích và nói cùng một ngôn ngữ. "Hội đồng hương" ra đời chính trên cơ sở tình cảm quê hương ngôn ngữ này. Với thời gian, mối quan hệ này trở nên bền vững đến mức cho đến tận thế kỷ XIX, dù
sinh sống ở những miền đất rất cách xa nhau tại xứ sở mới, những người cùng quê hương và ngôn ngữ
vẫn tìm đến nhau để lập "Hội đồng hương". Hình thức tổ chức này bắt đầu mang tính chất của một thiết
chế. Nó trở thành một hiệp hội có cấu trúc tổ chức rõ ràng, có lề thói xử sự được quy chế hóa, có chế
độ tự quản theo luật đònh. "Hội đồng hương" đã giúp đỡ các di dân trong cuộc đấu tranh để sinh tồn,
nhưng đồng thời lại khiến những di dân người Hoa thêm xa lạ với nhau: những người không nói cùng
thổ ngữ chẳng những không hiểu nhau, mà đôi lúc còn thù đòch nhau. Sự việc không ít lần đã đưa đến
những cuộc ẩu đả đổ máu.
Một hình thức tổ chức khác là hội cùng nghề, theo kiểu các phường hội. Thông thường, việc cùng ở
chung một hội đồng hương đã đònh trước việc chọn nghề: những người cùng hội đồng hương đều chọn
nghề giống nhau.
Cả ba loại hiệp hội nói trên, ngoài chức năng tương trợ vật chất và điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội giữa các thành viên trên cơ sở đảm bảo quyền kiểm soát của giới lãnh đạo đối với các thành viên
của hội, còn thủ giữ vai trò quan trọng trong việc giữ gìn các nghi thức tinh thần và tâm lý biểu trưng
cho tộc của mình, chẳng hạn như tuân thủ các chuẩn mực đạo đức lâu đời trong sinh hoạt gia đình, tiến
hành các lễ nghi thờ cúng, các ngày lễ tôn giáo, nghi thức cưới hỏi và ma chay, tài trợ các đền chùa,
nghóa đòa và sau này cả bệnh viện của hội.
Dù đã được thu hút vào các hình thức tổ chức khác nhau, cộng đồng người Hoa ở các nước Đông
Nam Á vẫn chưa thể được xem là một hiện tượng ổn cố hoàn toàn. Có những bằng chứng cho thấy
những người mới đến vẫn luôn nuôi hy vọng quay về cố quốc, sau khi đã trở nên khá giả (nếu ra đi vì
lý do kinh tế) hoặc sau khi tình hình đã trở nên ổn đònh (ra đi vì lý do chính trò)(1).
Một điều cũng cần lưu ý là giữa các cộng đồng người Hoa di dân ở Đông Nam Á với nhau và với
chính quyền phong kiến Trung Quốc lúc đó là nhà Minh không tồn tại một mối quan hệ nào, dù Bắc
Kinh đang tiến hành một chính sách ngoại giao tích cực trong vùng. Có thể giải thích hiện tượng này
bằng các nguyên nhân sau. Thứ nhất, là chòu ảnh hưởng của học thuyết Khổng Tử, giới cầm quyền
phong kiến Trung Quốc lên án bất kỳ hành động rời bỏ quê hương xứ sở, mồ mã cha ông để đến lập
nghiệp ở những vùng đất xa lạ nằm ngoài cương thổ Trung Quốc. Sự ra đi của người Hoa hoàn toàn là
việc của cá nhân và của họ tộc người đó. Nhà Minh và cả nhà Thanh sau này không bao giờ đề ra chủ

trương xây dựng những khu cư trú (colony) ở hải ngoại. Thứ hai, là họ lo sợ sự ra đời ở nước ngoài của
các trung tâm chống đối ách thống trò nặng nề và chế độ kiểm soát ti tiện của họ ở trong nước. Cuối
cùng là chính quyền phong kiến nhìn bằng con mắt hồ nghi các hoạt động thương mại của các thương
nhân - di dân người Hoa ở vùng bờ biển Trung Quốc, vì chúng không chòu sự kiểm soát của họ.
Vì những nguyên nhân trên, dù các khu di trú của di dân người Hoa ở Đông Nam Á trong các thế kỷ
XV-XVII đã xuất hiện nhiều và với số dân không nhỏ, người ta hoàn toàn không thể gọi chúng là hệ
thống các khu di trú. Chính đây là sự khác biệt cơ bản giữa các khu di trú người Hoa và khu di trú người
Âu, vốn sẽ ra đời không lâu sau đó ở Đông Nam Á.
I.3. TÌNH HÌNH KHÁI QUÁT CÁC KHU DI TRÚ CỦA NGƯỜI HOA TỪ THẾ KỶ XV-XVIII.

Một trong những nơi mà người Hoa có mặt sớm nhất và đông nhất là vương quốc Đại Việt, nằm ở
khu vực duyên hải miền Bắc và miền Trung bán đảo Đông Dương, ngay từ thế kỷ X, sau khi nhân dân
1

Willmot D.E. The Chinese of Semarang. N.Y. 1960, p.4.

4


vương quốc này bằng cuộc đấu tranh kiên cường đã thoát khỏi ách thống trò kéo dài cả ngàn năm của
phong kiến Trung Quốc. Sau khi những kẻ xâm lược bò đánh đuổi, khoảng 87.000 quan chức người Hoa
và gia đình đã bò trục xuất, nhưng vẫn còn một số đáng kể đã ở lại và đăng ký vào sổ bộ như người
Việt Nam(1).
Trong các thế kỷ XI - XIV, tức thời kỳ tồn tại của Đế chế Angkor trên lãnh thổ Campuchia, trong
nước này đã xuất hiện một khu di trú cố đònh của người Hoa. Họ sinh sống chủ yếu bằng nghề buôn
bán (2). Họ chở đến đây kim loại màu, vải lụa và vải bông, đồ gốm và giấy. Luân chuyển qua tay họ
một khối lượng đáng kể hàng hóa bản đòa - ngà voi, gia vò và dầu ăn. Thương nhân Campuchia thường
chỉ đóng vai trò người trung gian giữa dân đòa phương và thương nhân Trung Quốc. Người Hoa ở
Campuchia cũng dự phần vào hoạt động thương mại quốc tế : vào thời đó Angkor là trung tâm thương
mại quan trọng trên các ngã giao đường giữa Đông và Tây.

Trong vùng lưu vực sông Mênam thuộc miền Trung Thái Lan hiện nay và cả dọc theo bờ duyên hải
vònh Thái Lan, từ thế kỷ XIII- XIV, người Hoa đã xuất hiện và sống lẫn với người đòa phương. Hoạt
động kinh tế của họ là buôn bán và khai thác thiếc (3). Trong lãnh thổ vương quốc Sukhothay (thế kỷ
XVIII) có một công xưởng sản xuất đồ gốm sử dụng lao động từ Trung Quốc sang. Dưới thời vương
quốc Ayuthaya (thế kỷ XIV - XVIII), số người Hoa sinh sống ở Xiêm đã tăng lên đáng kể. Theo lời
một trong các quan chức phụ trách ngoại thương của Ayuthaya, vào những năm 60 của thế kỷ XVII trên
toàn lãnh thổ vương quốc có "nhiều ngàn người Hoa". Họ đã sống ở đây từ thời xa xưa, lập gia đình và
sống lẫn với dân bản đòa. Tích cực tự đồng hóa với dân bản đòa là nét nổi bật trong khoảng thời gian dài
trong sinh hoạt của di dân người Hoa ở Xiêm.
Các vùng bình nguyên Xiêm thường là nơi tìm đến bằng đường biển của những người dân các tỉnh
đông nam Trung Quốc, còn các miền núi là nơi đònh cư của những người phát xuất từ tỉnh Vân Nam.
Người ta gọi họ là người "Hồ". Họ khác về nhiều mặt so với các cộng đồng người Hoa còn lại: tôn giáo
(chủ yếu theo đạo Hồi), tiếng nói và cả lối sống. Họ sống thành từng làng, trồng cây thuốc phiện và
buôn bán đường dài (theo thương đội).
Người Hoa ở Xiêm đa số sống bằng buôn bán, số còn lại sống bằng các nghề thủ công, canh tác
đất đai. Một số ít hơn làm nghề thuốc và ca hát.
Theo lời nhà truyền giáo người Pháp G. Tachar, phần lớn hoạt động thương mại ở Xiêm vào cuối
thế kỷ XVIII nằm trong tay thương nhân người Hoa. HọÏ cạnh tranh với các thương nhân đến từ Nhật,
Ấn, Ba Tư và các nước châu Âu. Các hội đoàn thương mại của người Hoa ở kinh đô Ayuthaya và các
đô thò cảng bên bờ biển Xiêm đã làm những người đương thời phải sững sờ vì sự đoàn kết chặt chẽ và
thế lực của chúng. Chẳng hạn ở Pattaya, chính quyền đòa phương thậm chí không dám đánh thuế thương
nhân người Hoa ở đây (4). Các thuyền buôn của Anh đến cảng Nakhon Sithammarat đã tìm đến không
phải giới chức đòa phương, mà hội đoàn người Hoa để xin phép buôn bán tại cảng này (5). Trong cuộc
cạnh tranh gay gắt với giới thương nhân châu Âu, các nhà buôn người Hoa đã không ngần ngại sử dụng
cả võ lực. Năm 1633, một người Hoa có vũ trang đã bao vây tiệm buôn của người Hà Lan và tống xuất
họ khỏi Xiêm.
Trong thế kỷ XVIII ở Xiêm có thông lệ là bán các chức tước cấp tỉnh ở miền Nam. Không ít thương
nhân người Hoa đã trở thành quan chức bằng con đường này. Trong bộ máy công quyền đã hình thành
một tầng lớp ổn đònh quan lại gốc Hoa.
1


2

3

4
5

Fijiwara Ruchiro. Chính sách đối với dân Trung Hoa di cư của các triều đại Việt Nam - Khảo cổ, Sài Gòn, 1974, N0
VIII, tr.143.
Cady F.F. Sđd, p.24.
Purcell V., Sđd, p.85-86.
Skinner G.W. Chinese Society in Thailand. An Analitical History. N.Y. 1962, p.7-8.
Anderson J. English Intercourse with Siam in the Seventeenth Century. L. 1890, p.80.

5


Sau khi quân Miến tràn vào lãnh thổ Xiêm và vương quốc Ayuthaya bò sụp đổ năm 1767, một quan
chức cấp tỉnh gốc Iukchin (tức có cha người Hoa và mẹ người Thái) tên P'ya Taksin đã cầm đầu một
đạo quân. Ông tỏ ra là người cầm quân xuất chúng khi chỉ trong vòng một năm đã đánh đuổi được quân
xâm lược Miến và sau đó lên ngôi vua (1). Dưới thời P'ya Taksin, kinh đô chuyển về Thonburin và sau
đó đến Bangkok, gần với các con đường thương mại của thế giới. Lúc này, vốn liếng của thương nhân
chuyển mạnh hơn sang ngành thủ công - cơ xưởng và nông nghiệp; nhiều đồn điền trồng tiêu mọc lên.
Họ cũng thu mua lúa và chuyển sang Trung Quốc.
Với những tiểu quốc nằm trên quần đảo Mã Lai, Trung Quốc đã lập quan hệ ngoại giao từ thế kỷ
V, và những di dân người Hoa đã có mặt ở bờ biển Bắc Java vào thế kỷ X, nhưng phải đến thế kỷ XI số
người Hoa ở đây mới tăng lên đáng kể. Sau khi Hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt thất bại trong mưu
toan đánh chiếm Java (cuối thế kỷ XIII), hơn 100 chiến binh Trung Quốc nằm trong đạo quân xâm lược
đã không thích quay về cố quốc. HọÏ tìm đến đònh cư trên đảo Billinton. Nơi đây đã thành khu di trú lâu

dài của người Hoa. Sự ra đời của cộng đồng người Hoa ởû bờ biển phía Bắc Java, trong vùng Semarang
hiện nay, gắn liền với chuyến đi của Trònh Hòa, một quan chức nhà Minh đến vùng biển phía Nam
Trung Quốc vào đầu thế kỷ XV. Các thủy thủ Trung Quốc đặt chân lên đây đã tạo ra những khu di trú
người Hoa đông đảo nhất trên quần đảo (2).

Trong các thế kỷ XIII - XV có những nhóm khá đông người Hoa sinh sống thường xuyên trên đảo
Java - ở Tuban, Surabaya, trong lãnh thổ các tiểu vương quốc Bantam và Jakarta. Đây là trung tâm
hoạt động thương mại chính của họ. Ít lâu sau, các hiệu buôn của người Hoa xuất hiện ở bờ biển Bắc
và Tây Kalimantan - ở Bunkomi (Brunei hiện nay), Sambas, Pontianaka và Sucadan, và trên đảo
Tamasik (Singapore hiện nay) và ở đô thò - cảng Malacca(3).
Không phải là hiếm chuyện giới thống trò các tiểu vương quốc lấy vợ người Hoa nhằm tranh thủ sự
ủng hộ của các đội tàu buôn từ Trung Quốc thỉnh thoảng kéo sang đây, hay nhận những điều kiện cộng
tác ưu đãi với các thương nhân người Hoa đònh cư tại chỗ. Về phần mình, các đại diện cộng đồng người
Hoa cũng không bỏ lỡ cơ hội lập mối quan hệ thông gia với các quan chức đòa phương để được hưởng
các chế độ ưu đãi, hoặc được phân chia ruộng đất cùng với các nông dân sống trên đó và thậm chí được
tưởng thưởng cả một số chức tước.
Để hình dung cuộc sống trong môi trường xa lạ của những di dân người Hoa thành đạt nhất, có thể
tìm đọc trong các thư tòch cổ ở Bantam thuộc Tây bộ Java. Theo sự miêu tả trong đó, khu phố của người
Hoa, được vây quanh bằng một lớp hàng rào chắc chắn và đường hào đầy nước, gồm những căn nhà
vững chắc xây bằng đá. Nằm bên cạnh đó là nhà của dân đòa phương xây bằng các loại cây sậy trông
chẳng khác những túp lều tồi tàn. Đa phần cư dân người Hoa là thương nhân, một số có cả nô lệ.
Hoạt động thương mại ở các thò trấn Java diễn ra nhộn nhòp. Người ta bán các mặt hàng chở từ
Trung Quốc sang, như đồ lụa, đồ vải, chén đóa bằng sứ, thuốc súng, đồ trang sức. Thương nhân người
Hoa thu mua của người bản xứ đồ gia vò và thiếc để chở sang Trung Quốc hay bán lại cho thương nhân
người Âu (4).
Thương mại là hoạt động kinh tế chính, nhưng không phải là duy nhất của người Hoa. Ở Tây bộ
Kalimantan chẳng hạn, họ còn làm ruộng. Một số người đã làm chủ các đồn điền trồng tiêu hay nhiều
thửa ruộng ở tiểu quốc Bantan. Ở Java, người Hoa xây dựng các nhà máy luyện đường. Các xưởng thủ

1

2
3
4

Rong Syamananda. A History of Thailand. Bangkok, 1981, p.93.
Willmott D.E., Sđd, p.1-3.
Purcell V., Sđd, P.235, 239.
Purcell V., Sđd, P390.

6


công ở các đô thò thời đó phần lớn là của người Hoa (1).
Lòch sử Trung Quốc của người Hoa trên lãnh thổ tiểu quốc Palambang (đảo Sumatra) có nội dung
khá lý thú. Vào khoảng năm 1380, vài ngàn người Hoa sinh sống ở đây bằng nghề thương mại hàng
hải đã bầu một trong số các thương nhân giàu có lên làm thủ lónh của họ. Lợi dụng vò trí thuận lợi của
Palembang nằm trên các tuyến đường nhộn nhòp giữa Ấn Độ Dương và biển Đông, các tiểu vương cai
trò Palembang không chỉ tìm cách buôn bán kiếm lời, mà còn hành nghề thủy tặc, cướp đoạt ngay cả
các chuyến tàu của hoàng đế Trung Quốc chở các cống vật từ các nước phương Nam về Trung Quốc.
Một trong các tiểu vương Palembang trong một lần tổ chức đánh cướp như vậy đã bò bắt và bò gia hình,
nhưng tiểu quốc này vẫn được hoàng đế Trung Quốc cho phép hưởng chế độ tự trò, mà không bò thiên
triều hỏi tội. Diễn biến vừa kể là một ví dụ hùng hồn cho thấy ảnh hưởng rất có giới hạn của nhà Minh
đối với các cộng đồng cư dân người Hoa ở Đông Nam Á, ngay cả đối với vùng quần đảo Malaya Indonesia, nơi không tồn tại một nhà nước phong kiến tập trung nào đủ sức chống chọi với áp lực quân
sự của Trung Quốc.
Quần đảo Philippines từ cuối thế kỷ X thỉnh thoảng tiếp đón các đoàn thương thuyền Trung Quốc
lui tới. Chúng chở hàng hóa, và đôi khi cả người đến sống một thời gian. Người Hoa thường tìm đến
sống trong các khu dân cư đông đúc ven bờ biển, chủ yếu ở Manila trên đảo Luzon. Trong các thế kỷ
XII và XIII, trung tâm hoạt động thương mại nhộn nhòp với Trung Quốc là quần đảo Sulu. Trong số các
hàng hóa phát xuất từ đây có ngọc trai.
Đầu thế kỷ XV giữa các tiểu vương quốc trên đảo Luzon và Trung Quốc lần đầu tiên có sự trao đổi

sứ bộ. Diễn biến này cho thấy có lẽ trên đảo đã tồn tại các khu cư trú ổn đònh của người Hoa, nhưng
quy mô của chúng ra sao, các tài liệu không đưa ra những số liệu thống nhất. Một tài liệu biên niên
của Trung Quốc viết rằng trên đảo có khoảng vài chục ngàn thương nhân giàu có gốc Phúc Kiến. HọÏ
đã sinh sống ở đây từ lâu và không còn tính đến chuyện trở về Trung Quốc. Thậm chí họ đã ở đây đến
đời con hoặc cháu. Con số người Hoa chắc chắn đã bò phóng đại lên nhiều, vì những người Tây Ban
Nha đầu tiên đặt chân đến Manila năm 1570 cho biết rằng trong số cư dân trên đảo Luzon, họ chỉ đếm
được gần 150 người Hoa (2).
Thế kỷ XVII đánh dấu một bược ngoặt trong lòch sử các nước Đông Nam Á, và tất nhiên cả số phận
của những nhóm người Hoa sinh sống trên lãnh thổ các quốc gia này. Từ đầu thế kỷ, nhân dân các nước
Đông Nam Á - đảo lần lượt rơi vào ách thống trò của các thực dân phương Tây xâm nhập vào trong
vùng, đầu tiên là người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, sau đó là người Hà Lan và Anh. Số phận của cư
dân người Hoa trong các thuộc đòa của người Âu ở Đông Nam Á - đảo sẽ được xem xét trong chương
kế tiếp. Ở đây chúng tôi xin đề cập tiếp đến cuộc sống của các cộng đồng người Hoa trong thế kỷ XVII
- XIX ở vùng lãnh thổ của Đông Nam Á - lục đòa, vốn sẽ duy trì được độc lập của mình thêm được
khoảng 200 năm nữa.
Tác động đến tình hình của di dân người Hoa ở các nước Đông Nam Á - lục đòa không chỉ là bước
đầu bành trướng của thực dân châu Âu ở trong vùng, mà còn có cả một biến chuyển hết sức sâu xa
diễn ra ở Trung Quốc vào giữa thế kỷ XVII, sau khi nước này bò rơi vào ách thống trò của những kẻ
xâm lược từ bên ngoài - người Mãn Châu. Một triều đại phong kiến mới được dựng lên - triều Thanh,
thay cho triều Minh.
Vào những năm 80 của thế kỷ XVII, quân lính Mãn Châu đã trấn áp thẳng tay những ổ kháng cự
cuối cùng của người Trung Quốc ở phần lãnh thổ Đông Nam của đất nước - ở các tỉnh Quảng Đông,
Phúc Kiến và đảo Đài Loan - và tỉnh Vân Nam. Bộ phận quân lính Trung Quốc trung thành với nhà
Minh còn sống sót đã kòp bỏ chạy sang lãnh thổ Miến Điện, Việt Nam và xa hơn nữa về phía nam. Kết
quả là nhiều cộng đồng di dân người Hoa ở Đông Nam Á trở thành trung tâm hoạt động của những kẻ
1

2

Willmott D.E., Sđd, p.3.

Prucell V., Sđd, p.500.

7


chống đối kiên đònh với chính quyền Mãn Châu đã được xác lập ở Bắc Kinh. Với thời gian, ở những nơi
này đã xuất hiện nhiều hội kín, tương tự như các hội yêu nước bí mật kháng Thanh được thành lập ở
miền Nam Trung Quốc. Trong hoàn cảnh ở các khu di trú, các hội kín đã mang một số nét đặc thù sau :
cơ sở xã hội của chúng là dân nghèo thành thò (thay vì bần cố nông như ở Trung Quốc). Chúng không
chỉ kháng Thanh, mà còn bảo vệ, trong trường hợp cần thiết, những đồng hương của mình chống lại
những kẻ áp bức người bản đòa. Vũ khí của chúng chủ yếu là khủng bố, còn những nguồn cung cấp tài
chính cho chúng là các sòng bạc, nhà chứa, tiệm hút, hoạt động buôn lậu. Giới cầm đầu các hội tộc
người Hoa ra sức nắm lấy các hội kín. Chính vũ khí khủng bố và những nguồn cung cấp tài chính kiểu
như vậy đã tạo nên tính chất hai mặt của chúng.
Triều Thanh gắng hết sức hạn chế mọi mưu toan thiết lập các mối liên lạc giữa các di dân người
Hoa ở Đông Nam Á và Trung Quốc. Chính quyền mới dồn đuổi mọi người dân sống ở ven biển vào sâu
trong đất liền, nhằm cắt đứt liên lạc với phía nam theo đường biển; việc ra nước ngoài bò cấm đoán
bằng hình phạt tử hình; ngoại thương bò coi là độc quyền của Nhà nước và bò giảm mạnh (1).
Tất cả những biện pháp trên không chỉ khiến các cộng đồng di dân người Hoa trở nên ngày càng xa
lạ với cố quốc, mà còn góp phần đáng kể vào việc củng cố và ổn đònh chúng, vì nguồn bổ sung di dân
mới bò đình trệ trong một thời gian dài, mọi hy vọng quay về cố quốc dù là do tuổi già xem ra khó lòng
trở thành hiện thực. Trong những điều kiện như vậy, di dân đành bằng lòng với cuộc sống ổn cố lâu dài
ở nơi cư ngụ mới và đi tìm những phương cách sống chung tốt nhất với dân bản đòa.
Tình hình của các nhóm sắc tộc người Hoa ở Đông Nam Á mãi đến cuối thế kỷ XVIII và trong thế
kỷ XIX mới thay đổi ít nhiều, khi nhà Thanh, dưới sức ép của những đòi hỏi kinh tế trong nước, đặc biệt
của tiến trình bành trướng tích cực ở biển Đông của các cường quốc phương Tây, đã buộc lòng giảm bớt
những hạn chế đối với ngoại thương, đối với việc ra nước ngoài, và cho phép cả việc tuyển mộ công
nhân trong nước ra làm việc ở ngoại quốc.
Tất nhiên là tác động của những chuyển biến trên, đối với các cộng đồng người Hoa ở các nước
Đông Nam Á là không như nhau. Chòu ảnh hưởng rõ rệt nhất là cộng đồng người Hoa ở Miến Điện và

Việt Nam.
Sau khi những toán lính Trung Quốc, cùng với một trong những hậu duệ cuối cùng của nhà Minh bò
lật đổ, chạy sang lánh nạn ở Miến Điện trước sức ép nặng nề của quân Mãn Châu thắng trận, quân
Thanh trong suốt thế kỷ XVII đã nhiều lần xâm nhập vào lãnh thổ Miến Điện nhằm thanh toán những ổ
kháng Thanh xuất hiện ở đó. Trong những năm 1765 – 1769, quân Thanh lại xâm nhập lãnh thổ Miến
Điện, lần này với một mục đích rõ ràng hơn - chinh phục xứ này, nhưng đã bò người Miến đánh lui. Cứ
mỗi lần lui binh như vậy, một số ít quân lính Trung Quốc đã tìm cách ở lại và hòa nhập vào số người
Hoa đã có mặt sẵn. Đến đầu thế kỷ XIX, theo lời tường thuật của các nhà lữ hành châu Âu, người ta
trông thấy những nhóm người Hoa không đông lắm sinh sống bằng nghề buôn bán ở các đô thò chính
trong nước, như Ava hay Amarapura. Trong một thời gian dài, người Hoa còn được các vua Miến Điện
cho phép khai thác các mỏ bạc hay mỏ đá quý.
Việt Nam tiếp đón một khối lượng người Hoa chạy nạn đông đảo hơn nhiều so với Miến Điện. Năm
1679, một đạo quân khoảng 7.000 người cùng với gia đình họ chạy trốn quân Mãn Châu trên 50 chiếc
thuyền đã cập vào bờ biển miền Trung Việt Nam. Họ đã xin chúa Nguyễn cho phép được tò nạn. Lúc
bấy giờ chúa Nguyễn đang cố gắng mở rộng bờ cõi về phía Nam. Đám người Hoa tò nạn đã được hướng
dẫn đến đònh cư ở vùng Đông Phố. Từ đây, họ phân tán xuống miền Tây Nam bộ (Mỹ Tho) hay miền
Đông Nam bộ (Biên Hòa) (2).
Năm 1715, thêm một nhóm đông đảo người Hoa tìm đến lánh nạn ở miền Nam Việt Nam cũng
bằng đường biển. Cầm đầu họ là một viên quan đại thần tên Mạc Cửu. Họ được phép đến đònh cư tại
1
2

Purcell V., Sđd, p.25.
Đào Trinh Nhất - Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ. Hà Nội. 1924, tr.14-16.

8


một vùng ở tận cùng dãi đất phía Nam tức Hà Tiên, và được hưởng quy chế tự trò. Được sự khai phá của
họ, Hà Tiên dẫn đầu trở thành trung tâm thương mại, tiểu thủ công nghiệp và văn hóa. Con trai của

Mạc Cửu đã lập hội tao đàn, phổ biến học thuyết Khổng Tử. Tất cả những hoạt động này đã nhận được
sự khuyến khích của các chúa Nguyễn (1).
Từ thế kỷ XVIII, người Hoa khi tìm sang Việt Nam thường đến miền Nam (tức Đàng Trong). Lý do
có thể là các chúa Nguyễn đã tạo cho họ nhiều điều kiện thuận lợi hơn so với miền Bắc (tức Đàng
Ngoài). Chúa Nguyễn hy vọng họ sẽ trở thành chỗ dựa xã hội và chính trò ở vùng đất mới, nơi số người
Việt hãy còn ít ỏi so với các dân tộc bản đòa, vốn chòu ảnh hưởng của các nền văn hóa khác.
Trong khi đó ở Đàng Ngoài, vua Lê và sau đó chúa Trònh lại thi hành chính sách chèn ép các di dân
người Hoa. Họ không được phép tự do đi lại trong nước, thương nhân người Hoa chỉ được buôn bán ở
các đòa điểm đã được quy đònh sẵn. Người Hoa không những phải tuân theo các phong tục tập quán của
người Việt Nam, mà họ còn bò buộc mặc quần áo và để đầu tóc như người bản xứ. Số thợ người Hoa
làm việc ở những nơi khai thác quặng mỏ, đặc biệt là quặng bạc bò giới hạn. Tuy nhiên, như các nguồn
sử liệu thời đó cho thấy lệnh này thường không được tuân thủ nghiêm ngặt. Dù bò cấm đoán, tại mỏ bạc
Đồng Thònh số công nhân người Hoa lên đến 10.000. Các di dân người Hoa sống lẫn lộn với người đòa
phương. Họ mở các hiệu buôn và quán ăn. Dù không được phép sống ở Thăng Long, họ vẫn tìm cách
mở các quán hàng ở đây (2).
Trong khi đó, các chúa Nguyễn lại theo đuổi một chính sách khác hẳn. Họ cho phép di dân người
Hoa được tự do ghé lại tất cả các cảng. Ở cảng Hội An trên sông Thu Bồn xuất hiện các điểm cư trú
của thương nhân và thợ thủ công người Hoa. Ở các thò trấn, di dân người Hoa được phép sống quần tụ
thành từng khu riêng biệt và được phép tự quản theo các truyền thống, lề thói lâu nay của người Trung
Quốc. Quá trình xây dựng các thò trấn mới ở miền Nam từ thế kỷ XVIII đều diễn ra với sự tiếp tay của
người Hoa.
Trong thời kỳ diễn ra cuộc nổi dậy của phong trào Tây Sơn chống chúa Nguyễn, cư dân đô thò
người Hoa do sợ mất đi sự đỡ đầu của chính quyền, đã không ủng hộ phong trào. Vì lẽ này, họ đôi khi
phải trả giá đắt. Nhiều nơi cư trú của họ đã bò quân Tây Sơn đốt trụi, riêng ở Chợ Lớn không dưới một
vạn người Hoa bò giết (3). Năm 1802, triều Tây Sơn bò tiêu diệt. Triều đại mới lên cầm quyền là nhà
Nguyễn. Một trong những sắc chỉ đầu tiên của chính quyền mới là thu hút các só phu người Hoa vào
làm trong bộ máy công quyền và quân đội (4).
Ở Campuchia, người Hoa bắt đầu tìm đến đònh cư từ cuối thế kỷ XVII. Một số người Hoa sau khi
đến Mỹ Tho đã ngược dòng Cửu Long đi sâu vào bên trong lãnh thổ Campuchia. Một vùng khác ở xứ
này có số người Hoa đáng kể là tỉnh Kampot nằm bên bờ vònh Xiêm La. Cai quản họ không ai khác

hơn chính là Mạc Cửu, được vua Campuchia phong cho chức Tổng đốc. Lãnh thổ thuộc quyền cai trò
của ông này trải dài từ Kampot đến Cà Mau (5). Người Hoa ở các miền này sống chủ yếu trong các thò
trấn và làm nghề buôn bán. Họ kiểm soát hầu hết các hoạt động mậu dòch giữa Việt Nam và
Campuchia. Năm 1859, Mouhot, một khách du hành người Pháp, khi viếng Kampot đã ghi nhận rằng
trong thò trấn có 3.000 cư dân này, người buôn bán ở chợ chủ yếu là người Hoa và một số ít người Âu,
còn trong số 10.000 cư dân Phnompenh, người Hoa chiếm đại bộ phận.
Thương nhân người Hoa sinh sống trên lãnh thổ Campuchia bò buộc phải cung cấp các khoản chi phí
1

Boudet P. La conquête de la Cochin-Chine par Les Nguyen et le rôle des émigrés Chinois.
- Bulletin de l'École Française d'Extrême Orient. HaNoi, 1943, n042, p.115-132.
2
Fujiwara Ruchiro. Chính sách đối với dân Trung Hoa di cư của các triều đại Việt Nam.
- Khảo Cổ. 1974, số VIII - tr.143-152.
3
Fujiwara Ruchiro. Sđd, p.156.
4
Fujiwara Ruchiro. Sđd, p.170.
5
Coedes G. Les peuples de la peninsule Indochinoise. P., 1962. P.198 - 199.

9


dùng vào việc tiếp rước các quan chức đòa phương, đài thọ việc tổ chức các lễ hội của người bản xứ...
Ngoài ra, họ còn phải đóng thuế tương xứng với số tài sản của mình, thuế hành nghề ngoại thương,
buôn bán ngoài chợ... Trong cộng đồng di dân người Hoa ở Campuchia, có một số không nhiều sinh
sống bằng nghề nông: họ trồng bông và tiêu. Sản phẩm của họ được mang ra bán ở chợ. Như vậy, nông
dân người Hoa xét theo khía cạnh này vẫn rất khác nông dân bản xứ, vốn vẫn canh tác trong khuôn khổ
một nền kinh tế tự nhiên.

Theo luật lệ Khmer, người Hoa sinh sống ở Campuchia được coi là thần dân của nhà vua, nhưng họ
được bầu người đứng đầu cộng đồng. Ông này chòu trách nhiệm thu thuế và giữ gìn trật tự. Họ được
miễn các nghóa vụ lao dòch và binh dòch, đồng thời có thể giữ các chức vụ trong bộ máy công quyền
bằng cách mua các chức quan. Dù người Hoa ở Campuchia có các tổ chức cộng đồng riêng của mình,
họ không sống khép kín, mà thường xuyên quan hệ với người đòa phương.
Cho đến nửa sau thế kỷ XIX, số người Hoa sinh sống ở Lào là rất ít. Họ chủ yếu là con cháu của
người Hoa đến đây đònh cư trong các thế kỷ XV - XVII. Cộng đồng của họ sau này có phát triển lên ít
nhiều là nhờ mở rộng các quan hệ mậu dòch với người láng giềng phía bắc.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng trên lãnh thổ bán đảo Đông Dương đã diễn ra quá trình hình thành
các cộng đồng sắc tộc người Hoa như là một bộ phận cấu thành bền vững của xã hội đa sắc tộc. Nó
diễn ra một cách tự nhiên, không gây ra những chấn động xã hội hoặc chính trò lớn. Bắt đầu từ cuối thế
kỷ XIV, quá trình vừa kể kéo dài vài thế kỷ, trong đó các thế hệ người di dân từ Trung Quốc sang và
dân bản đòa sống hòa lẫn vào nhau một cách tự nhiên. Giữa họ không diễn ra các cuộc va chạm đáng
kể nào, hay có những xung khắc về văn hóa hoặc tôn giáo không thể hoà giải được. Hơn thế nữa, họ
còn được gắn kết với nhau bằng những quyền lợi chung nhất đònh, mặc dù họ vẫn giữ gìn những nét đặc
sắc xã hội - văn hóa, và bằng những nét đặc thù trong nếp sinh hoạt hàng ngày của mình. Chẳng hạn,
như di dân người Hoa ở Xiêm La trong nửa sau thế kỷ XVIII đã tích cực tham gia vào hoạt động đấu
tranh quân sự nhằm giải phóng đất nước khỏi ách thống trò của Miến Điện.
Tuy nhiên, tiến trình hòa nhập một cách tự nhiên này đã bò phá vỡ sau khi chủ nghóa tư bản thực
dân phương Tây xâm nhập vào Đông Nam Á và biến các quốc gia trong vùng thành các thuộc đòa hay
nước phụ thuộc. Số phận của các nhóm sắc tộc người Hoa cũng bò biến cố này tác động rất mạnh.

10


Chương II

SỰ HÌNH THÀNH CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA TRONG THỜI KỲ TƯ BẢN
THỰC DÂN
PHƯƠNG TÂY XÂM CHIẾM ĐÔNG NAM Á

(Thế kỷ XVI - Thế kỷ XIX)

II.1. MỐI QUAN HỆ KINH TẾ GIỮA NGƯỜI HOA VÀ TƯ BẢN THỰC DÂN CHÂU ÂU.

Sự xâm nhập của tư bản thực dân phương Tây vào các nước Đông Nam Á đã tác động mạnh đến
toàn bộ tiến trình hình thành các cộng đồng người Hoa trong vùng. Tất cả đều thay đổi: nhòp độ và
động lực của các đợt di dân, nhưng thay đổi chính yếu nằm trong cấu trúc xã hội, đòa hạt sinh sống,
phong cách sinh hoạt của các cộng đồng người Hoa và tính chất các mối quan hệ giữa họ với dân bản
đòa. Di sản của một thời kỳ dài bò thực dân thống trò vẫn còn để lại những ảnh hưởng tiêu cực đến diện
mạo xã hội các cộng đồng người Hoa, đến nhận thức xã hội của hậu duệ các di dân người Hoa đầu tiên
và đến các mối quan hệ phức tạp hiện nay giữa Hoa kiều và dân bản đòa Đông Nam Á.
Khi những thực dân châu Âu đầu tiên xuất hiện ở Đông Nam Á trong thế kỷ XVII, họ đã bò những
thương nhân người Hoa đònh cư ở đây từ lâu tiếp đón với thái độ thù đòch. Trước đó, thương nhân người
Hoa đã phải cạnh tranh với nhiều thương nhân ngoại quốc khác - Ấn, Ả Rập, Nhật. Nhưng cạnh tranh
với người Bồ Đào Nha, Hà Lan và những người Âu khác là chuyện khó khăn hơn nhiều. Vì những
thương nhân Âu này thường đi chung với những đạo quân được trang bò hùng hậu. Nhờ đó, họ dễ dàng
đánh chiếm các cứ điểm, để rồi biến chúng thành các thương điếm riêng lẻ, và cuối cùng mở rộng ra
thành các khu thuộc đòa thò tứ rộng lớn. Họ cũng khuất phục không ít các qúy tộc đòa phương bằng
nhiều cách khác nhau: mua chuộc hay vũ lực. Và hoạt động kinh doanh của họ cứ thế phát triển mạnh
lên trước con mắt ganh tỵ của thương nhân người Hoa.
Nhưng dần dà với thời gian, hai bên phát hiện ra rằng có những lónh vực nhất đònh mà sự cộng tác
giữa hai bên sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả hai. Các thương nhân châu Âu cần có một số lượng ngày
càng lớn những hàng hóa đã được họ tuyển chọn, nhưng không thể thu mua đủ số vì vấp phải nhiều trở
ngại - bất đồng ngôn ngữ, không thông hiểu tập quán đòa phương hay lề thói mua bán. Trong khi đó,
cấu trúc xã hội ở các nước Đông Nam Á chưa phân hóa đủ sâu sắc để cho ra đời tầng lớp thương nhân
chuyên nghiệp bản xứ. Vậy là vai trò của các thương nhân người Hoa với kinh nghiệm mua bán nhiều
năm với dân đòa phương đã được xác lập như là người trung gian giữa thương nhân châu Âu với nông
dân, thợ thủ công và đôi khi phong kiến bản đòa. Ngoài ra, cũng bởi nguyên nhân tương tự, không ít
thương nhân trung gian người Hoa trở thành người thầu thuế và thuế quan ở các vùng bò người Âu
chiếm làm thuộc đòa.

Do đó, không đáng ngạc nhiên nếu dân đòa phương không ít lần tỏ thái độ khinh ghét đám thương
nhân giàu có người Hoa. Chính những người này đònh giá hàng hóa, cho vay nặng lãi, đã thế lại còn
làm người phò tá trực tiếp cho bọn xâm lược Âu đáng ghét. Họ quên rằng họ cũng là người nước ngoài,
theo một tín ngưỡng xa lạ, nói tiếng nói khác, sống theo những phong tục, tập quán lạ lùng đối với
người đòa phương, mặc những bộ đồ không giống như họ. Trong khi chỉ mỗi một trong số những khác
biệt vừa kể cũng đủ gây mối ác cảm nơi người bản xứ.
Trên đây là đại thể số phận của những di dân người Hoa và mối quan hệ giữa họ với người bản xứ.
Nếu đi sâu vào chi tiết, ta sẽ thấy trong từng nước Đông Nam Á, chúng chòu sự tác động của nhiều yếu
tố thuộc bản chất của chế độ thuộc đòa, những thay đổi trong sinh hoạt kinh tế và phương pháp bóc lột
thuộc đòa. Do đó, chúng có những nét riêng biệt ở từng nước cụ thể.
Sau khi người Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ XVI xâm chiếm Philippines, nguồn kích thích chính

11


khiến người Hoa tìm đến sinh sống ở đây là nền thương mại thương thuyền. Các thương nhân Tây Ban
Nha dùng thuyền chở bạc từ Mexico đến quần đảo. Tại đây, họ mua lụa được mang từ Trung Quốc
sang và chở đến Mexico bán lại. Theo cách nói của một nhà sử học người Mỹ, "nhu cầu của Mexico đối
với lụa của Trung Quốc là không giới hạn, còn sự thèm muốn của thương nhân Trung Quốc đối với bạc
của châu Mỹ thì không bao giờ được thỏa mãn".
Đầu những năm 80 của thế kỷ XVI, một khu đất bên bờ sông Pasig ở Manila được dành riêng cho
người Hoa đến tụ hội buôn bán, đó là khu "Parian" ("Chợ lụa"). Tại đây, thương nhân Hoa đã kéo đến
mở cửa hàng, thợ thủ công mở xưởng thợ - đóng thuyền, làm đồ đạc, làm bánh mì... Ngoài ra, cũng có
người làm nghề đánh cá, làm vườn, thợ mộc, thợ nề. Ngay trong khoảng thời gian này, khu Parian đã
quy tụ từ 6 đến 7.000 người Hoa, trong đó từ 3 đến 4.000 sinh sống thường xuyên. Tất cả những công
trình kiến trúc bằng đá ở Manila đều được dựng lên bằng bàn tay của người thợ Trung Quốc. Người
Hoa còn buôn bán hàng hóa ngoại quốc. Họ cung cấp cho người Tây Ban Nha và những người dân
Manila khác lương thực, mà họ thu mua từ các miền quê chung quanh. Như vậy, có thể nói rằng trong
buổi đầu xây dựng và phát triển của nó, Manila - trung tâm quyền lực của chế độ thực dân Tây Ban
Nha ở Philippines - đã dựa chủ yếu vào bàn tay của di dân người Hoa.

Công ty Đông Ấn của Hà Lan, để xác lập độc quyền buôn bán gia vò ở vùng quần đảo Indonesia
trong thế kỷ XVII, lúc đầu đã kiên trì đấu tranh chống những kẻ cạnh tranh thuộc nhiều nước khác
nhau, trong đó có cả người Hoa đã đònh cư từ trước đó trên quần đảo. Nhưng những lãnh đạo Công ty
mau chóng hiểu ra rằng di dân người Hoa có thể thủ giữ một vai trò có ích nào đó. Chẳng hạn, đôi lúc
họ là người phiên dòch trong các cuộc đàm phán giữa người Hà Lan với giới thống trò đòa phương, hoặc
trở thành người cung cấp lương thực, bởi vì người bản đòa đôi khi từ chối buôn bán với những kẻ xâm
lược. Chính quyền thuộc đòa do đó đã khuyến khích sự gia tăng dân số người Hoa ở những vùng bò nó
thống trò. Chẳng hạn nếu số dân cư người Hoa ở Batavia trong năm 1619 không vượt quá 400 người, thì
trong năm 1629 nó đã lên đến 2.000 và đến năm 1725 đã lên tới 10.000 (1).
Trong những năm 20 của thế kỷ XVII, chính quyền thực dân Hà Lan chính thức cho phép người Hoa
được buôn bán lẻ trên đảo Java. Giải thích những lý do cho phép người Hoa sống tại đòa phương được
hành nghề buôn bán, Toàn quyền Hà Lan Koon nói rằng khả năng của họ trong lónh vực này "vượt xa
khả năng của người Hà Lan". Người Hoa cũng được phép thực hiện những chuyến buôn hàng hải giữa
Trung Quốc và Java, hoặc buôn bán ven bờ biển hay giao dòch với Batavia - pháo đài chính của Hà Lan
(2).
Như nhà kinh tế học người Anh Cator đã nhận xét, thương nhân Hoa bám theo ngọn cờ của Hà Lan;
việc mở rộng quyền thống trò của Hà Lan trong quần đảo Indonesia "luôn luôn đi kèm với việc xuất hiện
các thương điếm mới của người Hoa". Chính quyền Hà Lan đảm bảo cho người Hoa an ninh cá nhân,
quyền tư hữu, những điều kiện thuận lợi để kinh doanh cả trong lónh vực thương mại, lẫn trong việc xây
cất các công trình quân sự và chổ ở. Được Công ty giúp đỡ, người Hoa đã tổ chức ngành công nghiệp
chế biến đường mía. Năm 1710, chỉ quanh Batavia đã có đến 130 nhà máy đường, với trên 25.000 công
nhân, trong đó có gần 7.000 người Hoa. Có thể nói vào thời đó người Hoa kinh doanh trong ngành sản
xuất đường có vò thế kinh tế xem ra vững chắc hơn người bản xứ sản xuất cà phê (3).
II.2. NHỮNG VA CHẠM BAN ĐẦU GIỮA NGƯỜI HOA VÀø THỰC DÂN CHÂU ÂU.

Nhưng dần dà với thời gian quan hệ sống chung cùng có lợi giữa di dân người Hoa và thực dân châu
Âu đã tỏ ra không bền vững và nhường chỗ cho những cuộc va chạm gắt gao giữa họ với nhau ở cả
Philippines lẫn Indonesia.
Ở Philippines, số di dân người Hoa tăng lên nhanh chóng (đầu thế kỷ XVII con số này đã là vài
1


Purcell V., Sđd, p.397.
Purcell V., Sđd, p.396.
3
Furnivall J.S. Netherlands India: A Study of Plural Economy. Cambridge, 1967, p.41.
2

12


chục ngàn) đã bắt đầu làm chính quyền thuộc đòa Tây Ban Nha lo lắng. Đã có nhiều biện pháp khe
khắt chống họ được đưa ra. Họ bò đánh những khoản thuế rất nặng, bò cấm làm một số nghề nhất đònh,
chẳng hạn như buôn bán lẻ và bò hạn chế đi lại trong phạm vi lãnh thổ quần đảo. Bất kỳ mưu toan phản
đối nào từ phía họ cũng đều bò trấn áp thẳng tay. Năm 1657, Toàn quyền Telo ra lệnh trục xuất khỏi
Manila tất cả những người Hoa "dư thừa", chỉ để lại trong thành phố không quá 3 - 4.000 người, đủ để
đảm bảo sinh hoạt kinh tế. Khu Parian bò đốt phá, tài sản của người Hoa sống ở đây hầu như bò phá
tiêu. Những mệnh lệnh trục xuất người Hoa vốn được công bố nhiều lần trong các thế kỷ XVII - XVIII,
thường kèm theo những hoạt động ruồng bố và thảm sát. Chỉ trong năm 1603 có đến gần 25.000 bò tống
xuất vào khu rừng núi tỉnh Pampanga. Tại đây, số lớn đã bò giết. Năm 1639, khu Parian lại bò đốt phá
và có đến 22.000 người Hoa bò giết. Nhưng mệnh lệnh trục xuất người Hoa chỉ sau một thời gian bò bãi
bỏ, vì nền thương mại bằng thuyền đổi bạc Mexico lấy hàng Trung Quốc là nguồn sinh lợi cho các viên
chức thuộc đòa Tây Ban Nha.
Đến giữa thế kỷ XVIII, khi nền thương mại bằng thuyền dần dà tàn lụi, sự quan tâm của chính
quyền thuộc đòa đối với hàng hóa của Trung Quốc giảm dần, cộng đồng người Hoa lại một lần nữa bò
đối xử khe khắc. Đến năm 1766, đa số người Hoa bò trục xuất khỏi quần đảo. Chỉ còn lại vỏn vẹn gần
5.000, hơn nữa họ chỉ được sống trong những vùng cận Manila và bò buộc phục vụ người Tây Ban Nha.
Từ thời điểm này, vò thế kinh tế của người Hoa lai - tức con cháu sinh ra từ các cuộc hôn phối giữa
những người đàn ông Hoa và các phụ nữ đòa phương - bắt đầu được củng cố.
Đầu thế kỷ XIX, trên toàn lãnh thổ Philippines chỉ có khoảng 7.000 người Hoa sinh sống, trong lúc
số người lai lên đến hơn 119.000. Nhiều người trong số này đã theo đạo Công giáo. Họ lại được chính

quyền thuộc đòa cho hưởng nhiều ưu đãi về thuế và tư pháp hơn so với người Hoa. Họ thu mua nông sản
để xuất ra bên ngoài, làm nghề cho vay lãi và buôn bán lẻ ở vùng ven.
Ở Indonesia, tình trạng căng thẳng trong quan hệ giữa người Hà Lan và di dân người Hoa diễn ra
trong những năm 30 - đầu những năm 40 của thế kỷ XVIII. Tình trạng này gắn liền với con số di dân
người Hoa đổ sang đây lên cao và không phải lúc nào cũng tìm được việc làm. Vào năm 1733, chỉ
riêng ở Batavia và vùng phụ cận đã có không dưới 8 vạn người Hoa sinh sống (1). Tình cảnh của họ
thêm phức tạp do nhà Thanh năm 1728 cấm mọi người Hoa đi ra nước ngoài một cách bất hợp pháp
được quay về tổ quốc.
Chính quyền thuộc đòa Hà Lan, về phần mình, lo sợ số di dân dồn tụ quá đông, đã thắt chặt chính
sách đối với di dân người Hoa sinh sống trên đảo Java. Họ bò cấm "đi lang thang", nghóa là đi lại trong
nước tìm việc làm, hoặc mở cửa hàng mới. Thương nhân bò đánh thuế rất nặng. Chỉ những lỗi lầm nhỏ
cũng đủ để người Hoa bò trừng phạt nghiêm kkhắc. Không có lệnh viết tay của chính quyền thuộc đòa,
người Hoa không có quyền đi ra khỏi phạm vi thò trấn, nơi họ đang sống. Bất kỳ người Hoa nào không
đưa ra được câu trả lời thỏa đáng về nguồn gốc phương tiện sinh sống của họ đều sẽ bò tòch thu của cải
và bò trục xuất đến các thuộc đòa khác của Hà Lan, đến đảo Banda, Ceylan hay Mũi Hảo Vọng.
Những biện pháp trừng phạt, đi kèm với các hành động nhũng nhiễu của các viên chức thuộc đòa,
đã khiến cộng đồng di dân người Hoa rất bất bình và năm 1740 đã đưa đến những cuộc bạo loạn. Chính
quyền thuộc đòa Hà Lan đã trấn áp thẳng tay những kẻ bất bình: gần một vạn người Hoa bò giết (2). Sau
những biến cố bi thảm này, ở Batavia chỉ còn lại không hơn 3.000 người Hoa. Thêm vào đó những biện
pháp trừng phạt đã đưa ra trước đây vẫn được giữ nguyên: người Hoa chỉ được sống trong những khu
phố và đòa điểm riêng lẻ, do chính quyền quy đònh, phải có phép đặc biệt mới được đi đến những thành
phố khác.
Đồng thời những biến cố năm 1740, cho thấy người Hoa giữ một vò thế vững chắc trong sinh hoạt
kinh tế ở thuộc đòa, rằng họ thật cần thiết trong vai trò là người trung gian cả cho người Hà Lan, lẫn cho
1
2

Purcell V., Sđd, p.404.
Purcell V., Sđd, p.406.


13


người dân bản đòa. Do đó, vào khoảng năm 1742, sau khi những cuộc chống đối của người Hoa bò dập
tắt, chính quyền thuộc đòa đã tuyên bố lệnh ân xá, còn ban quản lý Công ty Đông Ấn cam kết sẽ quan
tâm đến quyền lợi của họ trong những đòa hạt hoạt động mà họ được phép. Nhờ vậy, trong nửa sau thế
kỷ XVIII tổng số người Hoa và hoạt động kinh tế của họ đã được phục hồi.
II.3. CHẾ ĐỘ TRƯNG THUẾ VÀ NGƯỜI HOA.

Trong những năm sau đó, ở các nước thuộc đòa Đông Nam Á vò thế kinh tế của tầng lớp trên trong
cộng đồng người Hoa được tăng cường không chỉ và cũng không phải hoàn toàn nhờ mở rộng hoạt động
kinh doanh, mà chủ yếu nhờ được phép mở rộng độc quyền trưng thuế. Trong các thế kỷ XVII - XIX,
chế độ trưng thuế được thực hiện trong hầu hết các nước trong vùng, đặc biệt là ở Indonesia.
Thực ra việc giao cho các cá nhân trong một khoảng thời gian nhất đònh quyền trưng thuế, độc
quyền sản xuất hoặc bán các loại sản phẩm nào đó đã từng được thực hiện ở trong vùng từ trước đó.
Nhưng chế độ này phát triển rộng rãi nhất trong nửa sau thế kỷ XVIII, mà trong đó người Hoa thường
thủ giữ vai trò người thu mua hoặc trưng thuế.
Người trưng thuế thu thuế thương nghiệp ở các chợ và thu mua sản phẩm do dân đòa phương làm ra.
Không bò ai kiểm soát, họ là ông chủ thực sự ở chợ. Người trưng thuế Hoa kiều thời đó nắm cả độc
quyền đánh bắt cá trên sông ngòi hay trong vònh, buôn bán thuốc lá, rượu và thuốc phiện, và cả quyền
thu thuế thân. Công ty Đông Ấn, vốn được giao độc quyền chế biến và bán muối, đã giao khoán cho
người trưng thuế toàn bộ các làng Java ven biển; dân cư các làng này bò buộc phải hành nghề khai thác
muối và bán toàn bộ sản phẩm cho người trưng thuế.
Đến cuối thế kỷ XVIII, độc quyền của người trưng thuế được mở rộng ra khắp nhiều vùng. Nhờ
vậy, họ đã có thể phát triển các hoạt động kinh doanh của mình. Năm 1796, trong số 8535 làng nằm
dưới quyền cai quản trực tiếp của Công ty, 1134 được giao thác cho người Hoa thu mua. Bằng các hợp
đồng đã được ký, người trưng thuế Hoa kiều thực sự nắm quyền cai quản những phần lãnh thổ đáng kể,
và họ đã trở thành một thứ phong kiến: dân làng buộc phải nộp thuế đất và những sắc thuế khác, và
phải thực hiện cả các nghóa vụ lao động.
Ở trong một tình cảnh đặc biệt nặng nề là dân cư các làng và vùng bò giao khoán thu thuế trong một

thời gian ngắn (một hoặc hai năm). Thường quyền trưng thuế ở những nơi này là do người Hoa nhận
được từ tay giới chức đòa phương, vốn nằm dưới quyền của thực dân Hà Lan. Người trưng thuế cố bằng
mọi cách thu được càng nhiều lợi lộc càng tốt, mà hoàn toàn không để tâm đến tình cảnh của dân cư
các đòa phương thuộc quyền họ. Họ sử dụng những kẻ đánh thuê có vũ trang, một thứ "cảnh sát tư", để
khuất phục dân làng. Với một chế độ trưng thuế như vậy, người Hoa cố bòn rút được bao nhiêu thì bòn
rút. Cách trưng thuế kiểu này đã làm khánh tận vô số làng và khiến dân đòa phương bất bình. Chỉ trong
miền Cheribon từ năm 1718 đến năm 1802 đã xảy ra hàng loạt cuộc bạo động của người dân vì nguyên
nhân vừa kể.
Đến cuối thế kỷ XVIII, trên đảo Java và Madura có gần 10 vạn người Hoa sinh sống. Thêm vài
chục ngàn ở các đảo khác trong cùng thời gian. Con số này cho thấy ở Indonesia đã hình thành một
cộng đồng người Hoa khá đông đảo, mà thành viên của nó đã trở thành một bộ phận không thể tách lìa
khỏi dân cư Indonesia thuộc Hà Lan. Thực dân đã thành công trong việc xây dựng một chế độ cai trò
gián tiếp, nhưng hiệu quả, bằng sự giúp đỡ của các viên chức được tuyển mộ từ trong tầng lớp trên
trong cộng đồng người Hoa. Họ phải chòu trách nhiệm trước giới thống trò Hà Lan. Hệ thống này hình
thành ngay từ cuối thế kỷ XVIII và tồn tại trong suốt thời kỳ thống trò của Hà Lan ở Indonesia.
Đến giữa thế kỷ XIX, chế độ trưng thuế đã trở nên lỗi thời, nhưng những chân trời mới đã mở ra
trước các doanh gia người Hoa, vốn đã kòp tích lũy một số vốn không nhỏ. Họ bắt đầu mở rộng hoạt
động của mình trong tư cách người cho vay lãi, người trung gian ngành ngoại thương, thu mua rộng rãi
các sản phẩm hàng hóa của các đồn điền và sơ chế chúng, bước vào những ngành công nghiệp truyền
thống của dân đòa phương (chẳng hạn sản xuất vải batik), cạnh tranh với người Hà Lan trong kinh tế

14


đồn điền, mà kết quả là không ít đồn điền lớn đã chuyển sang tay họ. Người Hoa còn thu được những
nguồn lợi từ các nhà hút, nhà chứa, sòng bạc, mà họ là chủ (1).
Vào khoảng thời gian này ở Indonesia xét về mặt xã hội - văn hóa, cộng đồng người Hoa đã bò
phân cách rõ rệt thành hai loại, mà tiếng đòa phương gọi là "peranakan" và "totok". Nhóm đầu bao gồm
những người Hoa sinh ra ở Indonesia và chuyển sang dùng hoàn toàn tiếng đòa phương, kể cả trong
quan hệ gia đình, và đi theo các chuẩn mực văn hóa của dân bản đòa sống chung quanh. Loại thứ hai là

những người Hoa đòa phương vẫn sử dụng tiếng Hoa khi giao tiếp với nhau, dù được sinh ra ở Trung
Quốc hay ở Indonesia (trong đa số trường hợp đây là những di dân thuộc thế hệ thứ nhất hoặc thế hệ
thứ hai). Peranakan và totok đã và đang sống (tức cho đến nay thành những cộng đồng riêng biệt, cả về
mặt lãnh thổ cũng như xã hội: họ không thích giao tiếp với nhau, và lắm khi không có thiện cảm với
nhau). Dù vậy, cả hai giới vẫn tự coi họ là người Hoa và xét về thực chất là một cộng đồng sắc tộc duy
nhất. Trong chuyện này, người Indonesia (và chính quyền Hà Lan trong thời thuộc đòa) cũng coi cả hai
nhóm đều là người Hoa.
II.4. TÌNH HÌNH CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA TRONG NỬA SAU THẾ KỶ XIX.

Trong nửa sau thế kỷ XIX, số di dân người Hoa mới mang đến những nét mới về chất, do chỗ ách
bóc lột thuộc đòa giờ đây hoàn toàn phục vụ nhu cầu của tư bản châu Âu công nghiệp, chứ không phải
thương nghiệp như trước đây. Các thuộc đòa rất cần lực lượng lao động, mà một xã hội phong kiến và
gia trưởng vốn còn ngự trò trên phần lớn lãnh thổ Đông Nam Á không thể cung cấp được. Những kẻ
khai thác thực dân yêu cầu nhập một khối lượng lớn lực lượng lao động từ ngoài vào - từ Ấn, nhưng chủ
yếu từ Trung Quốc, nơi người ta có thể dễ dàng tuyển mộ rất nhiều người nghèo không phương tiện
sinh nhai, sẵn sàng đi làm ở bất kỳ nơi đâu với đồng lương rẻ mạt. Những người tuyển mộ không ai
khác hơn thường là thương nhân người Hoa, vốn đang làm ăn với các nước Đông Nam Á hay đã hoàn
toàn sang đây sinh sống. Không phải là hiếm chuyện chủ giao kèo dựa vào các hội kín bóc lột thẳng
tay và đánh lừa những người tuyển mộ để thu những món lợi kếch sù. Sau khi nhận việc, culi (tên gọi
chính thức của các công nhân Trung Quốc đã ký giao kèo) bò mắc nợ ông chủ không ít.
Năm 1860, sau khi chiến tranh á phiện lần thứ hai chấm dứt, các cường quốc phương Tây đã buộc
nhà Thanh chấp nhận việc tuyển mộ và đưa ra nước ngoài công nhân Trung Quốc. Từ thời điểm đó, con
số người Hoa ở Đông Nam Á tăng nhanh. Số mới đến đa phần là công nhân đã ký giao kèo, hay "tự
do". Nếu năm 1860, ở Indonesia có 211.000 người Hoa sinh sống, thì đến năm 1890, con số này đã lên
đến 537.000. Ở Singapore, năm 1860 người Hoa chiếm 63% dân số, trong lúc 30 năm trước đó tỷ lệnày
chỉ mới là 39%. Ở Miến Điện, số người Hoa năm 1861 là 10.00, 1891 - 43.000 và đến năm 1911 là
124.000.
Trong ba thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX, nhân tố có ảnh hưởng quyết đònh đến tình cảnh của
các nhóm sắc tộc người Hoa ở Đông Nam Á là ách thống trò của thực dân châu Âu. Vào thời điểm đang
nói toàn bộ vùng này đã bò các cường quốc thực dân Âu Mỹ chia xong: Anh hoàn toàn làm chủ Malaya

và Miến Điện, Pháp hoàn tất xong việc chiếm đóng Việt Nam, Lào và Campuchia, Hà Lan đã kiểm
soát quần đảo Indonesia, Mỹ chuẩn bò thay Tây Ban Nha ở Philippines, còn sót lại mỗi nước Xiêm độc
lập thì phải chòu sự chi phối của Anh và Pháp.
Tình cảnh của các cộng đồng người Hoa tại các thuộc đòa của Pháp phản ánh nét đặc thù trong
chính sách cai trò của Pháp ở từng thuộc đòa. Người Hoa sống ở Nam Kỳ có quyền sở hữu và thừa
hưởng ruộng đất, hoặc được tự do di chuyển (trong toàn cõi Đông Dương), buôn bán, ký các hợp đồng
thực hiện các công trình xây dựng và đánh bắt cá. Chính quyền thuộc đòa giao cho người cầm đầu các
hội quán kinh doanh của người Hoa những chức năng cảnh sát và thuế má rộng rãi để họ duy trì trật tự
và thu thuế trong cộng đồng. Những điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh đã giúp tăng số
1

Furnivall J.S., Sđd , p.213.

15


người Hoa ở Nam Kỳ. Nếu năm 1859, ở xứ này có gần 44.00 người Hoa sinh sống, thì năm 1889 con số
này là 56.000. Con số di dân người Hoa tăng đều trong những năm sau đó.
Ở các phần đất bảo hộ Bắc Kỳ và Trung Kỳ (ngoại trừ các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà
Nẵng), quyền của người Hoa bò hạn chế hơn so với ở Nam Kỳ dù nhiều người vẫn làm chủ một số bất
động sản đáng kể và nhiều đất đai, được phép buôn bán. Ngoài ra, một bộ phận đáng kể người Hoa ở
Bắc Việt Nam còn trực tiếp tham gia các ngành nghề sản xuất. Vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ở
Bắc Kỳ và Trung Kỳ số di dân người Hoa mới đến chủ yếu là công nhân ký hợp đồng. Người ta cần họ
cho những công việc trong nền kinh tế đồn điền đang tăng trưởng của thực dân. Nhiều người Hoa lao
động tại các mỏ than ở Hòn Gai. Ngoài ra, người Hoa còn hành nghề đánh cá, làm vườn, làm việc ở
bến cảng, xưởng đồ gốm. Trong số chủ nhân các quán ăn nhỏ, hiệu giặt ủi, tiệm may có không ít người
Hoa (1). Một số đáng kể di dân người Hoa sống tập trung ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà
Nẵng; những thành phố này thuộc quyền cai trò trực tiếp của chính quyền thuộc đòa Pháp; dân cư người
Hoa sống ở đây cũng được hưởng các quyền như ở Nam Kỳ.
Cùng với việc Campuchia bò biến thành thuộc đòa trong ba thập niên cuối của thế kỷ XIX, trong tình

cảnh của di dân người Hoa sinh sống ở nước này cũng diễn ra những thay đổi nhất đònh. Phát xuất từ
các quan điểm liên quan đến chính sách thuế và xã hội, chính quyền thuộc đòa Pháp đã ban hành chế
độ quản lý gián tiếp cộng đồng người Hoa lúc đó còn đang trong quá trình hình thành. Năm 1891, chế
độ lập hội đoàn được mang ra áp dụng cho tất cả những người châu Á - nước ngoài. Lãnh đạo các hội
đoàn người Hoa được thành lập theo nguyên tắc cùng thổ ngữ và quê quán là những người được bầu ra.
Họ thực ra đóng vai trò là người trung gian trong các quan hệ giữa cộng đồng và chính quyền thuộc đòa.
Người thủ lónh hội đoàn có toàn quyền đối với các thành viên. Không có phép của người thủ lónh, di
dân không thể sống ở Campuchia, đi từ tỉnh này sang tỉnh khác hoặc ra khỏi nước. Chế độ này mang lại
quyền hành rất lớn trong hội đoàn gắn liền với việc tăng thuế thân của người Hoa (năm 1897 ngoài các
loại thuế, thêm các sắc thuế mới: thuế thân bổ sung và chế độ trả bằng tiền nghóa vụ 10 ngày công lao
động). Chính sách này, đặc biệt là trong giai đoạn đầu, đồng thời giúp tăng giới doanh nghiệp người
Hoa. Ngoài ra, năm 1886 người Hoa được quyền sở hữu đất đai - cả ở thành thò lẫn nông thôn. Vào giữa
những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ tính riêng ở nông thôn, người Hoa đã sở hữu gần một vạn hecta
ruộng đất. Nhưng số cư dân người Hoa tăng lên chậm chạp. Nếu trước khi thực dân Pháp chiếm
Campuchia năm 1874, trong nước có khoảng 107.000 người Hoa sinh sống, thì đến đầu Chiến tranh Thế
giới thứ Nhất, con số này là 114.000.
Trong số các lãnh thổ của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, Lào là nơi có ít doanh nhân người
Hoa sinh sống. Lý do có nhiều: lãnh thổ bò chia cắt manh mún và khó tới, không có cửa ngõ trực tiếp
dẫn ra biển, các phương tiện vận chuyển không phát triển và quan trọng hơn cả là thò trường nội đòa hạn
hẹp.
Vào đầu những năm 1920, ở Lào chỉ vỏn vẹn gần 7.000 người Hoa. Sinh hoạt kinh tế chính của họ
là buôn bán lẻ. Ngoài ra, họ cũng làm nghề xay xát gạo (2).
Tuy không phải là một thuộc đòa, nhưng những hiệp ước bất bình đẳng mà các nước phương Tây
buộc Xiêm ký đã thực sự biến nền kinh tế của nước này thành vật phụ thuộc về nông nghiệp cho các
nước tư bản phát triển. Sự xâm nhập của tư bản nước ngoài vào Xiêm đã tác động mạnh đến cộng đồng
người Hoa. Số tư bản phương Tây đổ vào và cả sự tăng trưởng của tư bản Thái vào những năm 70 của
thế kỷ XIX đã hạn chế ở mức độ đáng kể khả năng của tư bản Hoa trong lónh vực sản xuất, nhưng
không cản trở quá trình tăng cường vò thế của tư bản Hoa trong các lónh vực tài chính (cho vay, trưng
thuế) và thương mại (xuất khẩu). Đồng thời, quá trình hoà nhập giữa tầng lớp trên của cộng đồng người
Hoa và quý tộc đòa phương cũng được đẩy nhanh. Chẳng hạn, người đứng đầu hội tộc Chin nổi tiếng

trong cộng đồng người Hoa, vốn có một vò thế nhất đònh trong ngành xuất khẩu vào đầu những năm 80,
1
2

Purcell V., Sđd, p.191-199.
Purcell V., Sđd, P.175, 205.

16


sau khi kết hôn với con gái của một gia đình quý tộc ở Lampong đã được nhượng cho việc khai thác gỗ
tek trong vương quốc này. Vào cuối những năm 1880, ông ta trở thành người đồng trưng thuế ba nhà
đánh bạc và được độc quyền bán rượu. Vào đầu thế kỷ XX, gia đình ông ta làm chủ năm nhà máy xay
lúa, nhà máy xẻ gỗ và ụ tàu (1).
Từ cuối thế kỷ XIX, Xiêm đã tiến hành một số cải cách để ứng phó với sự xâm nhập của tư bản
nước ngoài và những điều kiện của thò trường bên ngoài. Cộng đồng người Hoa cũng bò tác động bởi
những diễn biến này. Chế độ trưng thuế bò bãi bỏ, các hội đoàn bí mật bò cấm, còn những người cầm
đầu chúng bò biên chế vào bộ máy quan liêu nhà nước. Những thay đổi trong cấu trúc lãnh đạo cộng
đồng người Hoa tỏ cho thấy các mối quan hệ xã hội trong nội bộ cộng đồng giờ mang tính tư sản rõ nét
hơn.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, nhòp độ gia tăng dân số của người Hoa diễn ra nhanh hơn và vượt cả nhòp
độ gia tăng toàn bộ dân cư trong nước. Theo đánh giá của G. Skinner, tổng dân số người Hoa ở Xiêm từ
năm 1850 đến năm 1930 tăng từ 30 vạn lên đến 1,5 triệu(2). Từ cuối thế kỷ XIX, cùng với sự tăng
trưởng của tư sản công thương nghiệp người Hoa, tổng số người Hoa sinh sống ở Xiêm cũng tăng nhanh
nhờ số thợ hợp đồng di cư sang đây.
Vì tư bản nước ngoài bóc lột Xiêm chủ yếu bằng con đường ngoại thương, tư sản mại bản đã đóng
một vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Các doanh gia người Hoa chiếm giữ một vò thế vững
chắc. Thông thường họ làm đại lý cho các hãng buôn nước ngoài. Chẳng hạn, trong năm 1890 người
Hoa nắm đến 62% doanh số thương nghiệp, các hãng buôn Anh 26%, còn người Ấn chỉ có 8% (3).
Việc thu mua các sản phẩm xuất khẩu là độc quyền của tư sản mại bản người Hoa. Các hãng buôn

châu Âu thường chọn những nhà buôn người Hoa giàu có và quen thuộc với phong cách buôn bán của
phương Tây để giao cho các hoạt động mại bản. Khoảng 5 hay 6 nhà buôn như vậy kết hợp thành
những hội buôn nắm giữ các đường vận chuyển trên sông và sở hữu nhiều kho bãi và cửa hàng. Nhờ
những tổ chức này, thương nhân người Hoa đã thiết lập được một mạng lưới chi nhánh, và đồng thời
cũng là phân phối, thống nhất. Tổ chức này kiểm soát những người bán hàng rong, chủ các thuyền
buôn, những cửa hiệu nhỏ và vừa. Mỗi mắt xích này đều được đảm bảo lợi nhuận và các cơ hội đầu tư
và luân chuyển vốn nhanh. Để tài trợ cho hoạt động buôn gạo, nhiều ngân hàng người Hoa đã được
thành lập. Họ có cả phòng thương mại, nơi tập trung và điều hành toàn bộ hệ thống mậu dòch.
Vào cuối thế kỷ XIX, cùng với sự xuất hiện của các xí nghiệp công nghiệp lớn do tư bản phương
Tây xây dựng, số xí nghiệp thuộc quyền sở hữu của người Hoa tăng lên. Năm 1890, những người thu
mua lúa và mại bản Hoa kiều có trong tay 20 trong tổng số 25 nhà máy lúa ở Bangkok được trang bò
máy móc hiện đại nhất. Năm 1908, người Hoa có 4 trong tổng số 11 nhà máy xẻ gỗ.
Người Hoa cũng chiếm đa số áp đảo trong giai cấp công nhân đang trong quá trình hình thành ở
Xiêm. Có đến gần 10.000 công nhân Hoa kiều làm việc trong các nhà máy xay xát gạo và xẻ gỗ ở
Bangkok vào đầu thế kỷ XX (4). Công nhân người Hoa cũng có mặt trong các công việc vận chuyển và
đóng gạo vào bao; vài ngàn người làm việc trên các công trường xây dựng, ở bến bãi; phu khuân vác
trên các công trường xây dựng đường sắt (5). Có tới 4 vạn công nhân người Hoa có mặt tại các mỏ thiếc
trên đảo Phuket.
Vào đầu thế kỷ XX, khi nền nông nghiệp các vùng đông dân quanh Bangkok có xu hướng chuyển
sang sản xuất hàng hóa, các trang trại do người Hoa làm chủ đã trồng nhiều rau quả và phát triển

1
2

3
4
5

Skinner G.W. Chinese Society in Thailand. An Analitical History. N.Y., 1962, p.137.
Skinner G.W., Sđd, p.59.

Fistié P. Evolution de la Thailande Contemporaine. P., 1967, p.66.
Skinner G.W., Sđd, p.105.
Skinner G.W., Sđd, p.115.

17


mạnh chăn nuôi. Chúng sử dụng đến hàng ngàn công nhân nông nghiệp người Hoa. Nơi cần dùng nhiều
lao động làm thuê là các đồn điền cao su ở miền Nam, mà chủ nhân chính là người Hoa. Họ thường
thuê mướn công nhân đồng hương. Nhiều xưởng hay cửa hàng tiểu, thủ công nghiệp trong nước như
đóng tàu thuyền, rèn, làm đồ gốm, đóng giày, đồ mộc, đồ trang sức... nằm trong tay các tiểu chủ người
Hoa. Cùng lao động với họ có không ít thợ người Hoa (1).
Vốn mạnh, nhiều kinh nghiệm trên thương trường, chỗ dựa chính trò vững chắc... là những thế mạnh
của tư bản phương Tây, mà giới doanh gia người Hoa ở Đông Nam Á đang trong quá trình hình thành
không thể có, và tất nhiên họ gặp khó khăn không ít khi phải cạnh tranh với tư bản châu Âu. Một trong
những biện pháp bảo vệ vò thế của mình, mà tư bản Hoa bắt đầu sử dụng từ đầu thế kỷ XX là các
phòng thương mại của họ. Đây là những tổ chức khép kín được lập ra nhằm tương trợ cho nhau, trao đổi
tin tức trên thương trường, chia xẻ vùng ảnh hưởng, hòa giải trong nội bộ các bất đồng giữa các đồng
nghiệp - đồng hương... Lúc đầu, phòng thương mại được thành lập theo ngành nghề, cơ bản là theo các
hội buôn cũ, thời gian sau xuất hiện các liên hiệp phòng thương mại trên quy mô cả nước. Những
phòng thương mại Hoa kiều xuất hiện ở Philippines năm 1904, ở Singapore năm 1906, Indonesia năm
1907. Về sau xuất hiện thêm các phòng thương mại hỗn hợp, như Philippines - Hoa, Indonesia - Hoa...
Như vậy, khi các nước Đông Nam Á lần lượt rơi vào ách thống trò của chủ nghóa đế quốc phương
Tây, các nhóm sắc tộc người Hoa trong vùng đã bò cuốn hút mạnh mẽ vào trong tiến trình tư sản hóa.
Do một loạt các nhân tố xã hội - lòch sử đã miêu tả ở trên, sự ra đời của giai cấp tư sản và giai cấp vô
sản trong cộng đồng di dân người Hoa diễn ra nhanh hơn nhiều so với trong nội bộ dân bản xứ. Sự khác
biệt này được duy trì trong một thời gian khá dài và sẽ để lại những hậu quả quan trọng đối với điều
kiện sinh tồn của thiểu số người Hoa ở Đông Nam Á.

1


Skinner G.W., Sđd, p.115.

18


Chương III

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN XÃ HỘI - KINH TẾ
CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA TRONG BỐI CẢNH
KHỦNG HOẢNG CỦA CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA
III.1. SINH HOẠT KINH TẾ CỦA NGƯỜI HOA Ở ĐÔNG DƯƠNG.

Sau Chiến tranh thế giới thứ Nhất và Cách mạng xã hội chủ nghóa tháng Mười Nga, chế độ thuộc
đòa ở các nước Đông Nam Á bò rơi vào khủng hoảng, giống như toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghóa trên
thế giới. Tình hình này đã làm xuất hiện một loạt các hiện tượng mới đáng kể trong cuộc sống của các
nhóm sắc tộc người Hoa trong vùng. Chúng đụng chạm đến mọi mặt trong sinh hoạt của cộng đồng
người Hoa. Trước hết, chúng tôi xin đề cập đến khía cạnh xã hội - kinh tế của tiến trình.
Vào những năm 20 - 30 của thế kỷ XX, tư bản người Hoa ở các nước Đông Nam Á đã bò tư bản độc
quyền Âu Mỹ, dựa vào các phương thức hiện đại khai thác lao động và tài nguyên tự nhiên cùng kỹ
thuật tân kỳ, đẩy lùi dần xuống vò trí thứ yếu. Nếu năm 1913, phần của người Hoa trong ngành khai
thác mỏ thiếc ở Malaya là 68% sản lượng, thì năm 1925 còn 56% và đến năm 1929 chỉ còn lại 39%.
Bức tranh tương tự cũng được nhìn thấy ở Xiêm: trong những năm 1916 - 1917, các mỏ thiếc của người
Hoa cung cấp hơn 67% sản lượng thiếc khai thác được, nhưng trong những năm 1936 - 1939 còn không
đầy 38%. Còn tư bản Mỹ ở Philippines đã đánh bật người Hoa khỏi công nghiệp khai khoáng và khái
thác gỗ, cũng như nhiều ngành công nghiệp khác trước Chiến tranh thế giới thứ Hai. Ở Indonesia, trong
khoảng thời gian này tổng số đầu tư của tư bản Hà Lan được xác đònh là 1.040 triệu đô la, còn của
người Hoa chỉ 150 triệu (1).
Tuy nhiên, ở những nước chúng ta vừa xem xét tư bản người Hoa vẫn nắm chắc, giống như trước
đây, hầu như toàn bộ hoạt động thương mại, dòch vụ, và phần nào đó công nghiệp khai khoáng và chế

biến, kinh tế đồn điền.
Ở Việt Nam, vò thế vững chắc của tư bản người Hoa nằm trong lónh vực thương nghiệp. Họ làm chủ
hầu hết thuyền buôn (trong tay họ có đến 3.000 thuyền), thương nhân Hoa hầu như nắm độc quyền việc
buôn bán gạo. Họ nắm trong tay đa số nhà máy xay xát gạo ở Chợ Lớn. Thương nhân Hoa buôn gạo
còn thành lập các đại lý, vốn cũng là người Hoa để thu gom lúa trực tiếp từ tay người sản xuất (2).
Những nhà buôn sỉ cỡ lớn cũng làm luôn cả nghề cho vay và cung cấp tín dụng. Họ cung cấp tín
dụng cho các nhà buôn sỉ cấp hai. Những người này mua chòu hàng của họ, kể cả hàng nhập khẩu, và
bán lại cho những người buôn lẻ.
Theo tính toán của nhà kinh tế học người Mỹ Callis,vào năm 1941, tổng số vốn đầu tư của người
Hoa ở các nước Đông Dương thuộc Pháp là 80 triệu đô la, trong lúc toàn bộ vốn đầu tư của tư bản nước
ngoài là 384 triệu (3). Thành phần của doanh nhân người Hoa, ngoài thương nhân, còn có chủ nhà máy
xẻ gổ, nhà máy đường, đồn điền. Nhiều người Hoa cũng làm các nghề tiểu, thủ công nghiệp, làm vườn,
đánh cá (4).
Trong cấu trúc xã hội của cộng đồng người Hoa ở Việt Nam trước Chiến tranh thế giới thứ Hai,
chiếm vò trí quan trọng vẫn là công nhân làm việc trong công nghiệp khai khoáng và ở các cảng. Con
1
2
3
4

Purcell V., Sđd, p.457.
Purcell V., Sđd, P.195 - 196.
Purcell V., Sđd, P.84.
Purcell V., Sđd, P.191 - 195.

19


số công nhân làm thuê từ Trung Quốc kéo đến Việt Nam và những nước Đông Nam Á khác trong
những năm này không còn bò ràng buộc bởi những hợp đồng nô dòch do các hội kín đưa ra. Giờ đây họ

(cả thợ không chuyên môn và chuyên môn) đều được tuyển mộ theo những hợp đồng tự nguyện. Nhưng
chính quyền thực dân đã đưa ra những đònh suất để hạn chế bớt số di dân người Hoa.
III.2. SINH HOẠT KINH TẾ CỦA NGƯỜI HOA Ở PHILIPPINES.

Ở Philippines, năm 1939 theo số liệu thống kê chính thức (chỉ tính đến số người nước ngoài) có
117.500 người Hoa sinh sống. Đa phần họ thuộc "giai cấp trung bình". Vốn của người Hoa là 180 triệu
peso (không tính ngành công nghiệp), trong đó có 150 triệu đầu tư vào thương mại, còn 26 triệu dành
cho công nghiệp chế biến. Để so sánh, có thể nêu ra số vốn của tư bản Mỹ trong những năm này là 315
triệu peso. Giới thương nhân người Hoa ở Philippines đa số là người buôn bán nhỏ và rất nhỏ. Khắp các
làng trên quần đảo đều có những cửa hiệu nhỏ, mà dân đòa phương gọi là "sari-sari" ("chạp phô"). Ở
đây, người ta có thể mua đủ thứ mặt hàng thiết yếu hàng ngày với giá không mắc. Chủ nhân các "sarisari" này thường chật vật xoay sở hàng ngày, nhưng dẫu sao cũng kiếm được chút đỉnh và không bỏ qua
dòp có thể cho vay lấy lãi. 80% cửa hàng "sari-sari" là của người Hoa, còn tư bản người Hoa kiểm soát
gần nửa hoạt động buôn bán lẻ ở Philippines. Năm 1936, chính phủ tự trò Philippines ban hành đạo luật
về cửa hàng tạp phẩm buộc thương nhân người Hoa phải ghi chép sổ xuất nhập bằng tiếng đòa phương,
chứ không bằng tiếng mẹ đẻ; biện pháp này tất nhiên gây khó khăn nhiều nhất cho các cửa hàng nhỏ.
III.3.SINH HOẠT KINH TẾ CỦA NGƯỜI HOA Ở INDONESIA.

Ở Indonesia vào đầu những năm 30 có 1,223 triệu người Hoa (so với 0,537 triệu năm 1900). Trong
bất kỳ tầng lớp xã hội nào cũng có mặt họ: tư bản lớn, chủ ngân hàng, thương nhân, thợ công nhật nông
nghiệp và công nhân làm thuê. Tính chung trong cả nước (số liệu năm 1920) gần 40% người Hoa thuộc
về loại peranakan, số còn lại là totok. Nhưng trên đảo Java, peranakan chiếm đến 70% số người Hoa,
còn ở các phần lãnh thổ khác - chỉ 10%.
Năm 1939, vốn đầu tư của tư sản người Hoa đòa phương là 848 tr. guilde, trong số đó 350 tr. cho
thương mại và hoạt động ngân hàng; 100 tr. vào công nghiệp chế biến và 29 tr. cho kinh tế đồn điền.
Cũng vào khoảng thời gian này, vốn của tư bản Hà Lan và những doanh nghiệp tư nhân khác lần lượt là
3.860 tr. và 2.110 tr. guilde, còn của tư bản Indonesia chỉ vỏn vẹn có 42 tr., tức 11 lần ít hơn so với
người Hoa, dù dân số của họ không vượt quá 3% toàn bộ dân số Indonesia.
Trong tổng số dân tự lập người Hoa là 183.000 người trên đảo Java và 287.000 trên các đảo khác,
tỷ lệ hành nghề mua bán lần lượt là 58% và 23%. Thương mại, chủ yếu là buôn bán lẻ, là lónh vực hoạt
động quan trọng nhất của tư bản Hoa: họ chiếm hàng đầu nơi đây. Cho vay lãi vẫn là lónh vực đầu tư

vốn quan trọng của người Hoa. Người Hoa cho vay với lãi suất không cao hơn ngân hàng và không
giống như ngân hàng, họ không đòi hỏi bất kỳ sự đảm bảo vật chất nào đối với số tiền vay. Do đó,
nông dân thích tìm đến chủ nợ người Hoa, hơn là đến các quỹ cho vay của nhà nước.
Đến đầu những năm 1930, ở Indonesia có nhiều công nhân làm thuê Trung Quốc. Từ năm 1912 đến
năm 1932, tính chung có gần 225.000 công nhân Trung Quốc được tuyển sang làm việc ở Indonesia.
Nhưng trong thời gian có cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1932, đại bộ phận đã rời khỏi đây. Trong số
62.000 culi làm việc ở các mỏ và đồn điền chỉ còn 1.300 người. Cùng với làn sóng người Hoa ồ ạt trở
về nước, nhiều người Hoa còn ở lại đã rời bỏ chỗ làm thuê cũ để quay sang hành nghề buôn bán hoặc
xin vào làm nhân viên trong các văn phòng. Do đó, đến trước Chiến tranh thế giới thứ Hai, số công
nhân làm thuê người Hoa ở Indonesia còn lại tương đối không nhiều.
III.4. SINH HOẠT KINH TẾ CỦA NGƯỜI HOA Ở MIẾN ĐIỆN.

Trước Chiến tranh thế giới thứ Hai, cộng đồng người Hoa chiếm gần nửa số thương nhân ở Miến
Điện. Theo số liệu đăng ký năm 1931, thương mại là hoạt động kinh tế chính đối với 42% số người Hoa
sống tự lập trên toàn lãnh thổ Miến Điện, còn ở vùng trung tâm và vùng đồng bằng sông Irrawaddy tỷ
lệ này lần lượt là 64 và 72%. Người Hoa độc quyền các cửa hiệu cầm đồ, nắm giữ toàn bộ hoạt động

20


buôn bán rượu và thuốc phiện; cùng với người Ấn, họ kiểm soát đại bộ phận ngành nhập khẩu. Phần
của người Hoa, vốn chiếm 1,5% dân số tự lập về kinh tế, trong buôn bán lương thực là 25%. Còn trong
những ngành khác, phần của người Hoa là như sau: khách sạn, nhà hàng - 21%; thương mại và môi giới
- 11%; ngân hàng - tín dụng - 10%.
Gần 21% dân hoạt động kinh tế trong cộng đồng người Hoa ở Miến Điện làm trong công nghiệp,
đặc biệt trong các ngành khai khoáng, các ngành sản xuất thủ công nghiệp và cơ xưởng, chà gạo và xẻ
gỗ. Năm 1940, hơn 20% số xí nghiệp cơ xưởng thuộc quyền sở hữu của các doanh nhân người Hoa.
Dù 23% người Hoa trên toàn Miến Điện kiếm sống bằng nghề nông, đa số họ sống tập trung trong
những vùng riêng lẻ và biệt lập của người Shan. Ở những vùng khác có khoảng 12% người Hoa sinh
sống bằng nghề nông, chủ yếu là chăn nuôi và làm vườn. Trong số họ có cả đòa chủ - cho vay lãi. Công

nhân chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ trong cộng đồng người Hoa ở Miến Điện.
III. 5. SINH HOẠT KINH TẾ CỦA NGƯỜI HOA Ở MALAYA.

Số di dân người Hoa sang Malaya tiếp tục tăng lên trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến
tranh. Từ năm 1921 đến 1941, cư dân người Hoa ở thuộc đòa này tăng từ 1,174 tr. lên 2,379 tr. người,
chiếm 43% dân số, dù trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế nhiều người Hoa đã rời khỏi Malaya. Không ít
người Hoa làm culi trong các mỏ và đồn điền. Số khác sống ở thành thò. Nhiều người làm nghề buôn
bán. Số đông tư sản trung và tiểu ở Malaya là người Hoa, cũng giống như tầng lớp trí thức. Trong cộng
đồng người Hoa có cả đại tư sản.
Đáng nói là trong cộng đồng người Hoa ở Malaya có một bộ phận mang nét đặc thù xã hội - văn
hóa riêng biệt, đó là giới baba - tức người Hoa sống ở Straits Settlements được coi là công dân Anh.
III. 6. SINH HOẠT KINH TẾ CỦA NGƯỜI HOA Ở XIÊM.

Ở Xiêm trước Chiến tranh thế giới thứ Hai, tư sản người Hoa đòa phương, vốn giàu lên nhờ các hoạt
động thương mại - cho vay và trưng thuế, đã chiếm vò trí áp đảo trong một số ngành công nghiệp: tư sản
Hoa sở hữu đến 90% nhà máy chà gạo, gần 50% số gỗ tek được xẻ ở các nhà máy có chủ là người Hoa
(1).
Dù trong ngành khai thác thiếc tư bản châu Âu đến cuối những năm 1920 đã đánh bật người Hoa,
nhưng các nhà máy của người Hoa vẫn sản xuất được một khối lượng thiếc lớn gấp hai số được sản
xuất ở các nhà máy tư bản phương Tây (chủ yếu là tư bản Anh). Tư bản Hoa tích cực dự phần vào việc
xây dựng nhiều đồn điền cao su ở miền Nam Xiêm trong những năm 1920 (đến năm 1929 tư bản Hoa
sở hữu đến 60.000 hecta cao su). Trước Chiến tranh thế giới thứ Hai, tư bản của người Hoa đòa phương
được đầu tư vào hàng trăm công ty và xí nghiệp hoạt động trong ngành xây dựng ở Bangkok (2). Tư bản
Hoa chiếm ưu thế trong hoạt động vận chuyển bằng sà lan từ cửa sông Menam, nơi các tàu biển cập
bến, đến cảng Bangkok.
Ở Xiêm, cũng như ở những nước Đông Nam Á khác, đã có một số culi Trung Quốc sau khi mãn
hợp đồng đã cố tìm cách xoay qua buôn bán với hy vọng sẽ trở thành những ông chủ nhỏ.
*
*


*

Tiến trình phát triển xã hội - kinh tế của bộ phận người Hoa trong dân cư Đông Nam Á diễn ra theo
chiều hướng quan hệ tư bản chủ nghóa tăng lên, giống như xu hướng phát triển của cả vùng. Sự tập
trung đông đảo dân cư người Hoa ở các thành phố, sự tích lũy một số vốn đáng kể trong tay giới thương
nhân Hoa kiều, một khối lượng đông đảo công nhân đến từ Trung Quốc. Tất cả những yếu tố vừa kể là
nguyên nhân khiến quá trình tư sản hóa giới thương nhân, quá trình tư bản thương nghiệp phát triển lên
1
2

Skinner G.W., Sđd, p.214.
Skinner G.W., Sđd, p.115.

21


thành tư bản công nghiệp và sự ra đời của đạo quân làm thuê kiểu hiện đại diễn ra trong các nhóm sắc
tộc người Hoa với cường độ lớn hơn nhiều so với trong cộng đồng dân cư bản đòa. Nhưng chiều hướng
tiến triển xã hội được lòch sử quy đònh là như nhau đối với mọi tầng lớp dân cư Đông Nam Á. Do đó có
thể kết luận rằng trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới đã hình thành một cách khách quan
nhiều tiền đề cho việc hòa nhập về mặt xã hội và kinh tế các nhóm sắc tộc người Hoa ở Đông Nam Á
vào cộng đồng xã hội của nước, nơi họ đang sinh sống. Trong số những trở ngại vẫn chưa được khắc
phục của sự hòa nhập này là ách thống trò thực dân. Chế độ thực dân một mặt kìm hãm sự phát triển
của nền kinh tế dân tộc ở các nước Đông Nam Á và giới hạn khả năng hoạt động kinh tế của bộ phận
người Hoa, mặt khác nó lại ra sức giữ các doanh nhân người Hoa ở lại trong vai trò trung gian phục vụ
việc khai thác thuộc đòa và bằng cách này, đã duy trì sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa người Hoa và tư
bản bản xứ bò thực dân ra sức o ép. Tình hình này, đến lượt nó, đã kích động chủ nghóa dân tộc sôvanh
chống người Hoa trong giới tư sản bản xứ và tạo ra quan hệ xã hội ghẻ lạnh giữa cư dân bản đòa và
người Hoa. Những chuyển biến vừa kể rõ ràng chỉ có lợi cho chính quyền thực dân trong lónh vực chính
trò. Khách quan mà nói, chế độ thực dân là kẻ thù của tất cả cư dân trong vùng, bất kể sắc tộc của họ.


22


Chương IV

QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI HOA Ở CÁC NƯỚC
ĐÔNG NAM Á TRONG NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

Trong suốt nửa đầu thế kỷ XX, tình hình pháp lý của người Hoa ở các nước Đông Nam Á vẫn khá
phức tạp. Theo các đạo luật được chính quyền thực dân hay chính quyền sở tại ban hành, những người
Hoa sinh ra trên lãnh thổ các nước Đông Nam Á đều được coi là công dân các nước này, nhưng không
phải lúc nào họ cũng được đối xử bình đẳng như cư dân đòa phương, hay như những người Âu ngụ cư tại
thuộc đòa. Các di dân người Hoa sinh ra tại Trung Quốc thường bò liệt vào nhóm có tên gọi " người nước
ngoài - châu Á" hay "người nước ngoài phương Đông". Nhóm này không có quyền ngang bằng với
những người Âu sinh sống tại Đông Nam Á, hoặc thậm chí cả với một số người châu Á khác, chẳng
hạn với người Nhật.
Một đạo luật được Trung Quốc thông qua năm 1909 đã làm tình trạng pháp lý của người Hoa ở
Đông Nam Á phức tạp hơn nhiều. Theo đạo luật này, mà nền tảng là nguyên tắc huyết thống, con cái
có cha mẹ là người Hoa đều được coi là có quốc tòch Trung Quốc, bất kể nơi chúng được sinh ra và
đang cư ngụ. Nguyên tắc này được khẳng đònh một lần nữa trong đạo luật về quyền công dân được
Trung Quốc thông qua năm 1929. Đạo luật đặc biệt nêu rõ rằng chỉ những người Hoa nào được phép
của Bộ trưởng Nội vụ Trung Quốc mới có thể trở thành công dân nước khác. Đạo luật này như vậy đã
tương khắc với luật pháp của một số nước Đông Nam Á. Trong nhiều trường hợp, cơ sở cho tình trạng
pháp lý của người Hoa là nguyên tắc lãnh thổ, nghóa là những người nào sinh ra trên lãnh thổ nước sở
tại sẽ là công dân của nước đó, bất kể quốc tòch của cha mẹ.
Không thể không lưu ý rằng tình trạng pháp lý của người Hoa ở Đông Nam Á thay đổi không ít lần
và khác nhau một cách đáng kể theo từng nước.
IV.1. TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI HOA Ở INDONESIA.


Theo đạo luật về quốc tòch được Hà Lan ban hành năm 1910, những người Hoa sinh ra và sinh sống
trên lãnh thổ thuộc đòa Indonesia được coi là công dân Hà Lan. Trên bậc thang pháp lý họ đứng cao
hơn người Indonesia bản đòa, nhưng lại không có quyền ngang bằng với người Âu.
Do muốn có đại diện lãnh sự ở Indonesia, chính phủ Trung Quốc đã nhượng bộ Hà Lan theo thỏa
ước về lãnh sự ký giữa Trung Quốc và chính quyền thuộc đòa Hà Lan năm 1911: Trung Quốc chính thức
từ bỏ các yêu sách về quyền tài phán đối với người Hoa sinh ra ở thuộc đòa và đồng ý với cách xác lập
quốc tòch của người Hoa đòa phương phù hợp với luật của nước nơi họ sinh sống. Khi đồng ý xem những
người Hoa sinh tại thuộc đòa là công dân Hà Lan, Trung Quốc vẫn đạt được sự thỏa thuận sau: nếu
những người này di dân sang Trung Quốc hay sinh sống ở đó, thì họ được xem là công dân Trung Quốc.
Nhưng những lời hứa của Trung Quốc, được ghi trong thỏa ước về lãnh sự, trên thực tế không được thực
hiện. Các lãnh sự Trung Quốc đến nhậm chức ở Indonesia đã hành động như thể họ có quyền tài phán
đối với người totok lẫn người peranakan và tìm cách đưa vào sổ bộ của họ tên tuổi tất cả những người
gốc Hoa sinh sống ở thuộc đòa.
IV.2. TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI HOA Ở MALAYA.

Ở Malaya thuộc Anh quy chế pháp lý của người Hoa cũng mâu thuẫn. Những người Hoa nào sinh ra
và sống ở Straits Settlements đều được xem là công dân Anh và không thể bò trục xuất. Trong lúc đó,
người gốc Hoa sinh sống tại các tiểu vương Mã Lai lại chòu sự bảo hộ của Anh, nhưng các sultan của

23


những tiểu vương quốc này không coi họ là công dân của mình.
Ở Malaya cũng như ở Indonesia, những người Hoa không có quốc tòch bản đòa nhưng sống ở thuộc
đòa không dưới tám năm được hưởng quy chế thường trú. Quy chế này cho họ hưởng những quyền rộng
rãi hơn những người Hoa nước ngoài không có quy chế này. Ở Indonesia chẳng hạn, những quyền theo
quy chế thường trú trên thực tế ngang bằng với quyền của công dân Hà Lan có cha mẹ không sinh sống
thường xuyên ở thuộc đòa. Người được hưởng quy chế thường trú có quyền thành lập các hiệp hội, tổ
chức hội họp và công bố thỉnh nguyện thư. Nhưng tất cả những người Hoa nước ngoài bò cấm trở thành
thành viên của các đảng chính trò và không bò gọi vào quân đội. Quyền tham dự bầu cử và ứng cử chỉ

được dành cho các công dân Hà Lan (1).
IV. 3. TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI HOA Ở XIÊM.

Theo một đạo luật về quốc tòch được ban hành ở Xiêm năm 1913, tất cả những người sinh ra trên
lãnh thổ Xiêm đều được coi là công dân Xiêm, bất kể quốc tòch của cha mẹ họ. Những mưu toan của
Trung Quốc đặt những người Hoa sinh sống ở Xiêm dưới quyền tài phán của mình trên cơ sở đạo luật
năm 1909 không mang lại kết quả. Người Hoa phải đóng cho chính quyền Xiêm một sắc thuế đặc biệt,
còn con cháu của họ do không có lãnh sự Trung Quốc nên đã không thể đăng ký như là công dân Trung
Quốc, mà được đăng ký như người Xiêm (2). Còn những người Hoa nào không muốn làm công dân
Xiêm có thể xin trở thành công dân các nước khác. Năm 1936, trong số 55.000 "người châu Á" - công
dân Anh tuyệt đại bộ phận là người Hoa (3).
Người Hoa ở Xiêm, kể cả những người sinh ra ở Trung Quốc, đều không có quyền tham gia bầu
cử và làm việc trong bộ máy công quyền, nhưng được hưởng những quyền tự do rộng rãi khác. Họ được
sinh sống ở nơi họ thích, được tự do đi lại trong nước, có thể hưởng mọi loại hình sở hữu. Nhìn chung, vò
thế của người Hoa ở Xiêm, thực sự cho họ cùng những cơ hội làm việc và kinh doanh, giống như dân
bản xứ (4).
IV. 4. TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI HOA Ở ĐÔNG DƯƠNG VÀ MIẾN ĐIỆN.

Ở các nước Đông Dương thuộc Pháp, người Hoa đòa phương, ngoại trừ những người đã được nhập
tòch Pháp, được liệt vào loại "người nước ngoài phương Đông". Nằm dưới sự "bảo trợ" của Pháp, họ vẫn
bò xem hoặc là công dân các nước Đông Dương đang sống dưới chế độ bảo hộ của Pháp, hoặc là công
dân Trung Quốc (5).
Nhằm mục đích hạn chế số di dân người Hoa vào các nước Đông Dương, chính quyền thuộc đòa
Pháp đã lập một sắc thuế thân khá cao đối với người Hoa đòa phương. Trong việc thu thuế, chính quyền
được sự hỗ trợ của các hội đoàn Hoa kiều ; những người cầm đầu hội đoàn đã dùng sự hỗ trợ này làm
phương tiện củng cố ảnh hưởng của họ đối với đồng bào mình(6).
Ở Campuchia, theo đạo luật năm 1924 chỉ những công dân Pháp mới được phép sở hữu bất động
sản trong thành phố. Còn đạo luật năm 1929 cấm người Hoa có quyền sở hữu ở làng mạc. Nhưng bất
chấp những hạn chế tương tự, người Hoa ở các nước Đông Dương vẫn có nhiều cơ hội đáng kể để tham
gia hoạt động kinh doanh. Họ có thể đi lại tương đối tự do trên toàn cõi Đông Dương, buôn bán, thực

hiện các công việc theo hợp đồng đã ký(7).
Ở Miến Điện thuộc Anh, theo hiệp ước ký năm 1894 giữa Miến Điện và Anh, người Hoa được coi
là công dân nước ngoài và được hưởng một số ưu đãi nhất đònh. Khi đến Miến Điện, người Hoa có thể
1

Legal Status of Aliens in Pacific Countries L., 1967, p.8, 40, 46 - 47.
Purcell V., Sđd, p.117.
3
Purcell V., Sđd, p.118.
4
Purcell V., Sđd, p.118.
5
Legal Status of Aliens in Pacific Countries L., 1967, p.162 - 163.
6
Purcell V., Sđd, p.189.
7
Purcell V., Sđd, p.189.
2

24


×