Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Vai trò của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong sản xuất nông nghiệp vụ đông xuân năm 2010 trên địa bàn xã quỳnh liên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.12 KB, 80 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA NƠNG LÂM NGƯ
--------------

VAI TRỊ CỦA VIỆC CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU CÂY TRỒNG
TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM
2010 TRÊN ĐỊA BÀN XÃ QUỲNH LIÊN, HUYỆN QUỲNH
LƯU, TỈNH NGHỆ AN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
KỸ SƯ NGÀNH KHUYẾN NÔNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Người thực hiện: Lê Hữu Sơn
Lớp:

48 KN&PTNT

Người hướng dẫn: KS Nguyễn Thị Hương
Giang

Vinh, tháng 7/2011
i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
giảng viên K.S Nguyễn Thị Hương Giang, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng trong nghiên cứu và bảo vệ trong một
cơng trình khoa học nào, các thơng tin tài liệu trích dẫn trong luận văn được ghi rõ nguồn
gốc. Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn.
Nếu sai tơi hồn tồn chịu trách nhiệm.
Vinh, tháng 7 năm 2011


Sinh viên
LÊ HỮU SƠN

ii


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp là một cơng trình ngiên cứu khoa học nhỏ của tân kỹ
sư tương lai. Thành quả này được đúc rút từ các kiến thức mà thầy cô đã truyền thụ
trong những năm ngồi trên ghế nhà trường. Trong thời gian thực tập tôi đã được
sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân, tổ chức giúp tơi hồn thành khóa luận này.
- Chân thành cảm ơn:
Ban giám hiệu trường Đại học Vinh, ban c0hủ nhiệm khoa Nông-Lâm-ngư,
Các thầy cô Cán bộ ngành Khuyến nông &PTNT đã giảng dạy, hướng dẫn và
truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt thời gian học tập 2007-2011.
Kỹ sư Nguyễn Thị Hương Giang, bộ môn Khuyến nông &PTNT Trường Đại
học Vinh đã hết lòng hướng dẫn và giúp đỡ trong quá trình thực hiện luận văn tốt
nghiệp.
- Xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến tất cả các ban sinh viên cùng khóa đã giúp
đỡ tơi trong q trình học tập và thực hiện luân văn tôt nghiệp
Nghệ An, tháng 7/2011
SVTH LÊ HỮU SƠN

iii


MỤC LỤC
Trang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH...................................................................................................i
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP.................................................................................................i

KỸ SƯ NGÀNH KHUYẾN NÔNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN..........................i
2.1.1. Đối tượng........................................................................................................xxxi
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................xxxi
* Phạm vi không gian................................................................................................xxxi
*Phạm vi thời gian....................................................................................................xxxi

iv


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- ATVSTP

An toàn vệ sinh thực phẩm

- BVTV

Bảo Vệ Thực Vật

- CCCT

Cơ cấu cây trồng

- CNH – HDH

Cơng nghiệp hóa hiện đại hóa

- HTCT

Hệ thống cây trồng


- HTX

Hợp tác xã

- KH & CN

Khoa học và cơng nghệ

- KHKT

Khoa học kỹ thuật

- KLTN

Khóa luận tốt nghiệp

- LĐNN

Lao động Nông nghiệp

- NN & PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

- UBND

Ủy ban nhân dân

- SXNN


Sản xuất nông nghiệp

- TTCN

Thị trường công nghiệp

- VAC

Vườn ao chuồng

- WTO

Tổ chức thương mại quốc tế

- XDCB

Xây dựng cục bộ

v


DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH...................................................................................................i
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP.................................................................................................i
KỸ SƯ NGÀNH KHUYẾN NÔNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THƠN..........................i
2.1.1. Đối tượng........................................................................................................xxxi
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................xxxi
* Phạm vi khơng gian................................................................................................xxxi
*Phạm vi thời gian....................................................................................................xxxi


vi


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH...................................................................................................i
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP.................................................................................................i
KỸ SƯ NGÀNH KHUYẾN NÔNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN..........................i
2.1.1. Đối tượng........................................................................................................xxxi
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................xxxi
* Phạm vi không gian................................................................................................xxxi
*Phạm vi thời gian....................................................................................................xxxi

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự tồn tại và hưng thịnh của loài người gắn liền với hoạt động nơng nghiệp.
Vì hoạt động kinh tế đầu tiên của con người là những hoạt động nhằm thoả mãn
những nhu cầu căn bản nhất như: ăn, uống trước khi nghĩ đến các hoạt động khác
“Con người có thể sống mà khơng có điện, có xe máy, ơtơ… nhưng không thể sống
thiếu lương thực”. Thực tế phát triển kinh tế từ tình trạng lạc hậu đến văn minh và
tiến bộ, ở bất kỳ nước nào dù là nước giàu hay nước nghèo, nơng nghiệp đều có vị
trí quan trọng. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền kinh tế,
cung cấp những sản phẩm thiết yếu cho con người tồn tại, cung cấp nguyên liệu cho
công nghiệp và tái sản xuất nông nghiệp. Việt Nam là nước có điểm xuất phát thấp
từ một nuớc nơng nghiệp mang tính tự cung tự cấp thì bây giờ nhiều sản phẩm nơng
nghiệp đã có mặt trên thị trường thế giới và có được những vị trí nhất định như sản
lượng gạo xuất khẩu đứng thứ nhất; Lạc đứng thứ 3; điều, hạt tiêu đứng thứ 2;…
trên thế giới. Có thể nói nơng nghiệp đã phần nào đóng vai trị tiên phong trong
cơng cuộc phát triển kinh tế, ổn định xã hội.[8]
Như chúng ta đã biết Việt Nam là một quốc gia có tỉ lệ dân số hoạt động
trong ngành sản xuất nông nghiệp lớn, chiếm khoảng 76%. Thu nhập chính của họ

vẫn là từ nơng nghiệp. Trong q trình phát triển kinh tế nhiều thế kỷ qua, nơng
nghiệp ln giữ vị trí quan trọng. Với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật như
hiện nay, nhất là trong nơng nghiệp thì chưa có một ngành nào có thể thay thế vị trí
này được. Bên cạnh việc góp phần làm tăng truởng kinh tế và giải quyết được rất
nhiều vấn đề của cuộc sống thì nơng nghiệp ở Việt Nam cịn thể hiện một nền văn
hố lâu đời của dân tộc ta – nền văn minh lúa nước.

vii


Nói đến sản xuất nơng nghiệp là nói đến đất đai, cây trồng, vật nuôi và các
điều kiện nguồn lực khác… Trong đó đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt
khơng thể thay thế được. Nó có vai trị quyết định đến sự sinh tồn của con người và
mọi sinh vật sống trên Trái đất [7]. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của KHKT
đã cho ra đời nhiều loại giống mới cho năng xuất cao và phẩm chất tốt. Tuy nhiên,
thiên nhiên luôn vận hành và biến đổi không ngừng tạo ra những đặc diểm khác
nhau giữa các vùng miền, giữa các thời điểm khác nhau; cùng với sự gia tăng dân số
và các tác động của thời tiết như sự nóng dần lên của Trái đất,… làm cho các nguồn
lực để phát triển sản xuất ngày càng bị hạn chế. Do vậy để sản xuất có hiệu quả thì
việc xây dựng cơ cấu cây trồng hợp lý, có khả năng tận dụng hết lợi thế so sánh của
từng vùng miền mang ý nghĩa hết sức to lớn và giữ vai trò quyết định trong sản
xuất.
Xây dựng cơ cấu cây trồng hợp lý thì phải lựa chọn và bố trí cây trồng một
cách hợp lý nhất, các loại cây trồng sẽ hỗ trợ nhau cùng phát triển (cây trồng trước
là tiền đề để phát triển cây trồng sau). Ví dụ: Các loại cây trồng họ đậu (đậu tương,
đậu xanh, lạc,…) có tác dụng cải tạo hỗ trợ đất cung cấp thêm dinh dưỡng cho đất,
vì vậy có thể trồng xen ngơ, cây hịa thảo góp phần giảm q trình xói mịn và thối
hóa đất. Việc bố trí cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng địa phương
như địa hình, khí hậu, đất đai và các yếu tố kinh tế - xã hội,… sẽ tạo điều kiện cho
đối tượng gieo trồng phát triển tốt và cho năng suất sản xuất cao hơn, ổn định mức

sống, cải thiện và nâng cao trình độ sản xuất thâm canh cho người dân.
Trong quá trình xây dựng và bố trí cơ cấu cây trồng cần tính toán đến yếu tố
nguồn lực, đặc biệt là nguồn giống, giống quyết định đến năng xuất, phẩm chất và
hiệu quả của cả quá trình sản xuất.
Trong những năm gần đây, phong trào xây dựng cánh đồng cho thu nhập cao
nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý đã phổ biến khắp các tỉnh thành trong cả
nước. Đặc biệt là các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng như: Vĩnh Phúc, Thái Bình,
Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên… Phong trào xây dựng cánh đồng đạt trên 50
triệu/ha/năm đã được phát động mạnh mẽ và thu được nhiều kết quả đáng kể. Điển
hình như xã Vũ Lạc, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đã thành cơng trong việc

viii


xây dựng cánh đồng đạt 150 – 200 triệu/ha/năm; Phú Thọ đạt 100 – 150
triệu/ha/năm;…
Trên địa bàn tỉnh Nghệ An, phong trào này cũng được phát triển mạnh mẽ,
điển hình có các huyện như Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành, Nghi Lộc,… thực
hiện các công thức rau quanh năm cho thu nhập từ 80 – 100 triệu/ha/năm, lãi từ 25
– 40%.[1]
Quỳnh Liên là một xã nằm ở vùng bãi ngang của huyên Quỳnh Lưu, có tới
62,4% dân cư sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp, nền kinh tế xã nhà đang phát
triển chậm, đời sống nhân dân còn ở mức thấp, việc tiếp cận với các tiến bộ KHKT
còn hạn chế nên việc xây dựng lại cơ cấu cây trồng, tăng thu nhập cịn gặp nhiều
khó khăn. Để đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế trên địa bàn nhằm nâng cao đời
sống của người dân, Đảng bộ và nhân dân xã nhà coi đây là nhiệm vụ bức xúc và
cần đẩy mạnh CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn, ứng dụng nhanh các tiến bộ
KHKT vào sản xuất trong đó đẩy nhanh phát triển nơng nghiệp hàng hóa, do đó
việc xây dựng các mơ hình và chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp trên địa bàn là
đặc biệt cần thiết.

Như vậy, qua phân tích tính cấp thiết của vấn đề ở trên cho thấy mỗi điều
kiện sản xuất ở mỗi vùng khác nhau là khác nhau, cần có những cơ cấu cây trồng cụ
thể hợp lý khác nhau thì mới mang lại hiệu quả cao trong sản xuất. Hầu hết các mơ
hình được triển khai và mang lại hiệu quả song chúng ta chưa tiến hành đánh giá
hiệu quả so sánh trước và sau khi thực hiện tạo cơ sở cho nhân dân tin tưởng tiếp
thu học hỏi và tổ chức nhân rộng.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, được sự nhất trí của trường Đại học Vinh,
cùng với sự hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Thị Hương Giang, tôi đã liên hệ và
được nhận về thực tập tại Phòng NN & PTNT huyện Quỳnh Lưu và tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Vai trò của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong sản xuất
nông nghiệp vụ đông xuân năm 2010 trên địa bàn xã Quỳnh Liên, huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An”
Trong cuốn KLTN này, tuy đã hết sức cố gắng song do trình độ và kinh
nghiệm cịn hạn hẹp, bước đầu tham gia nghiên cứu cịn có nhiều bỡ ngỡ cùng với
những hạn chế của đối tượng nghiên cứu nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Do

ix


vậy, tôi rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp ý kiến của q Thầy cơ và
bạn đọc để nghiên cứu của tơi được hồn thiện hơn nữa. Đây chính là những bài học
kinh nghiệm quý báu cho q trình cơng tác của tơi sau này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu của đề tài này là nghiên cứu vai trò của việc chuyển đổi cơ cấu cây
trồng trong sản xuất nông nghiệp vụ đông xuân năm 2010 trên địa bàn xã Quỳnh
Liên, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Trên cơ sơ đó để đề xuất một số giải pháp
nhằm quy hoạch, bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý để góp phần tăng năng suất và hiệu
quả trong sản xuất nơng nghiệp, qua đó nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân vùng nghiên cứu.

2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu cơ cấu cây trồng trong sản xuất nông nghiệp vụ đông xuân năm 2010.
- Tìm hiểu nguyên nhân sự thay đổi cơ cấu cây trồng vụ đơng xn.
- Lợi ích của việc chuyển đổi:
+ Kinh tế
+ Xã hội
+ Môi trường
- Xác định thuận lợi, khó khăn trong q trình chuyển đổi.
- Đưa ra cơng thức cơ cấu cây trồng phù hợp có lợi cho địa phương
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Đề tài nghiên cứu góp phần làm rõ hơn mối quan hệ giữa cơ cấu cây trồng
với các điều kiện tự nhiên xã hội của xã Quỳnh Liên.
- Làm tài liệu cho các nhà quản lý điều hành sản xuất nông nghiệp ở xã
Quỳnh Liên, huyện Quỳnh Lưu.
- Là cơ sở lý thuyết để tìm ra phương pháp bố trí và cơ cấu cây trồng vụ
đơng xuân tại địa phương nghiên cứu để các nhà hoạch định chính sách có hướng
phát triển phù hợp.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn

x


- Xác định được hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng hợp lý, xây dựng được
một số cơ cấu cây trồng thích hợp theo hướng sản xuất hàng hố và phát triển nông
nghiệp bền vững của xã Quỳnh Liên
- Thông qua việc xác định những ưu điểm và hạn chế của cơ cấu cây trồng
tại xã Quỳnh Liên đề xuất giải pháp về cơ cấu cây trồng mới có hiệu quả kinh tế cao
hơn, góp phần nâng cao đời sống nhân dân địa phương.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của việc chuyển đổi cơ cấu

cây trồng trong sản xuất nông nghiệp vụ đông xuân năm 2010 tại địa bàn cũng như
những hạn chế.
- Làm tiền đề xây dựng một nền nông nghiệp phát triển bền vững, đa dạng
hóa sản phẩm nói chung và nơng sản vụ đơng xn nói riêng
- Tăng cường phát huy những tiềm năng sẵn có về diều kiện tự nhiên, kinh
tế- xã hội, tập quán sản xuất, nguồn lao động dồi dào của địa phương kết hợp với
việc áp dụng triệt để tiến bộ KHKT sản xuất, từng bước hiện đại hóa nơng nghiệp
nơng thơn. Tạo ra sức cạnh tranh trong quá trình mở cửa hội nhập vào nền kinh tế
thị trường khu vực và trên thế giới giai đoạn hiện nay.

xi


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm về cơ cấu cây trồng
Cơ cấu cây trồng là thành phần các giống và loài cây trồng có trong một
vùng ở một thời điểm nhất định, nó liên quan tới cơ cấu cây trồng nơng nghiệp, nó
phản ánh sự phân cơng lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp, phù hợp với điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi vùng, nhằm cung cấp được nhiều nhất
những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người (Đào Thế Tuấn,1984) [13];
(Cao Liêm, Trần Đức Viên, 1990) [23].
Cơ cấu cây trồng là một trong những nội dung quan trọng của một hệ thống
biện pháp kỹ thuật gọi là chế độ canh tác. Ngoài cơ cấu cây trồng, chế độ canh tác
bao gồm chế độ ln canh, làm đất, bón phân, chăm sóc, phịng trừ sâu bệnh và cỏ
dại. Cơ cấu cây trồng là yếu tố cơ bản nhất của chế độ canh tác, vì chính nó quyết
định nội dung của các biện pháp khác.
Cơ cấu cây trồng còn là thành phần của một nội dung rộng hơn gọi là cơ cấu
sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp như trên bao gồm nhiều ngành sản
xuất như trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản (Đào Thế Tuấn, 1978) [10].

Xác định cơ cấu cây trồng cịn là nội dung phân vùng sản xuất nơng nghiệp.
Muốn làm công tác phân vùng sản xuất nông nghiệp, trước hết phải xác định cơ
cấu cây trồng hợp lý nhất đối với mỗi vùng. Đây là một công việc không thể thiếu
được nếu chúng ta xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn (Đào Thế
Tuấn, 1962) [24].
1.1.2. Khái niệm về cơ cấu cây trồng hợp lý
Cơ cấu cây trồng hợp lý là sự định hình về mặt tổ chức cây trồng trên đồng
ruộng về số lơượng, tỷ lệ, chủng loại, vị trí và thời điểm, có tính chất xác định lẫn
nhau, nhằm tạo ra sự cộng hưởng các mối quan hệ hữu cơ giữa các loại cây trồng
với nhau để khai thác và sử dụng một cách tiết kiệm và hợp lý nhất các nguồn tài
nguyên cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội (Đào Thế Tuấn, 1978) [10].
Theo Đào Thế Tuấn (1989) [11], Lý Nhạc, Phùng Đăng Chinh và CTV
(1987) [17], cơ cấu cây trồng hợp lý là cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội của vùng. Cơ cấu cây trồng hợp lý còn thể hiện tính hiệu quả
xii


của mối quan hệ giữa cây trồng được bố trí trên đồng ruộng, làm cho sản xuất
ngành trồng trọt phát triển toàn diện, mạnh mẽ vững chắc theo hướng sản xuất
thâm canh gắn với đa canh, sản xuất hàng hoá và có hiệu quả kinh tế cao. Cơ cấu
cây trồng là một thực tế khách quan, nó đơược hình thành từ điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội cụ thể và vận động theo thời gian.
Cơ cấu cây trồng hợp lý còn biểu hiện là việc phát triển hệ thống cây trồng
mới trên cơ sở cải biến hệ thống cây trồng cũ hoặc phát triển hệ thống cây trồng
mới, trên cơ sở tổ hợp lại các công thức luân canh, tổ hợp lại các thành phần cây
trồng và giống cây trồng, đảm bảo các thành phần trong hệ thống có mối quan hệ
tương tác với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, nhằm khai thác tốt nhất lợi thế về điều kiện
đất đai, tạo cho hệ thống có sức sản xuất cao, bảo vệ môi trường sinh thái (Lê Duy
Thước, 1991) [16].
Dựa trên quan điểm sinh học Đào Thế Tuấn (1978) [10] cho rằng, bố trí cơ

cấu cây trồng hợp lý là chọn một cấu trúc cây trồng trong hệ sinh thái nhân tạo, làm
thế nào để đạt năng suất sơ cấp cao nhất. Về mặt kinh tế, cơ cấu cây trồng hợp lý
cần thỏa mãn yêu cầu chuyên canh và tỷ lệ sản phẩm hàng hóa cao, bảo đảm việc
hỗ trợ cho ngành sản xuất chính và phát triển chăn ni, tận dụng nguồn lợi tự
nhiên, ngồi ra cịn phải đảm bảo việc đầu tư lao động và vật tư kỹ thuật có hiệu
quả kinh tế cao.
Xác định cơ cấu cây trồng hợp lý ngoài việc giải quyết tốt mối liên hệ giữa cây
trồng với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, cần phải dựa trên phương hướng sản xuất
của vùng. Phương hướng sản xuất quyết định cơ cấu cây trồng, nhưng cơ cấu cây
trồng lại là cơ sở hợp lý cho các nhà hoạch định chính sách xác định phương hướng
sản xuất (Phạm Chí Thành và ctv, 1996), (Đào Thế Tuấn,1984) [13].
1.1.3. Khái niệm về chuyển đổi cơ cấu cây trồng
Như chúng ta đã biết, các điều kiện tự nhiên trên Trái đất là có hạn và ngày
càng bị khai thác triệt để trong khi dân số vẫn ngày càng tăng. Mặt khác, sự nóng
lên của Trái đất trong mấy năm trở lại đây đang diễn ra mạnh mẽ đã ảnh hưởng rất
lớn đến tình hình diễn biến thời tiết khí hậu của nhân loại, điều này sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển kinh tế nhất là kinh tế nông nghiệp của mọi quốc gia trên
thế giới. Bởi điều này tác động mạnh đến đất đai và các yếu tố nguồn lực phục vụ

xiii


cho sản xuất nơng nghiệp. Do vậy việc bố trí CCCT, mùa vụ cũng sẽ gặp phải
những khó khăn nhất định. Đây là vấn đề hết sức quan trọng nên cần có hướng giải
quyết tốt nhất để khơng làm suy giảm sự phát triển của nền kinh tế.
Chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp nông thôn là một phạm trù mang tính khoa
học và thực tiễn, biểu thị khả năng quản lý và kiểm soát nền kinh tế trên từng địa
bàn lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Trong chiến lược phát triển kinh tế xóa đói
giảm nghèo của Đảng và Nhà nước đã đề ra trong giai đoạn 2001-2010 thì sự
chuyển dịch cơ cấu sản xuất là một trong những mũi nhọn đưa kinh tế đất nước

ngày càng phát triển đi lên.
Nội dung cốt lõi của cơ cấu biểu hiện vị trí, vai trị của từng bộ phận và mối quan hệ
tương tác lẫn nhau giữa chúng trong tổng thể. Một cơ cấu có tính ổn định tương đối và được
thay đổi để ngày càng hoàn thiện, phù hợp với điều kiện khách quan, điều kiện lịch sử, xã
hội nhất định. Cơ cấu cây trồng lệ thuộc rất nghiêm ngặt vào điều kiện tự nhiên, các nguồn
tài nguyên và điều kiện kinh tế - xã hội. Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu không phải là mục
tiêu mà chỉ là phương tiện để tăng trưởng và phát triển sản xuất. Cơ cấu cây trồng được xác
định trên cơ sở bố trí mùa vụ, chế độ luân canh cây trồng, thay đổi theo những tiến bộ khoa
học kỹ thuật, giải quyết vấn đề mà thực tiễn sản xuất đòi hỏi và đặt ra cho ngành sản xuất
trồng trọt những yêu cầu cần giải quyết.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng là sự thay đổi theo tỷ lệ % của diện tích gieo
trồng, nhóm cây trồng, của cây trồng trong nhóm hoặc trong tổng thể và nó chịu sự
tác động, thay đổi của yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội. Quá trình chuyển đổi cơ cấu
cây trồng là quá trình thực hiện bước chuyển từ hiện trạng cơ cấu cây trồng cũ sang
cơ cấu cây trồng mới (Đào Thế Tuấn,1978) [10 ].
Nguyễn Duy Tính (1995) [14] cho rằng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng là cải
tiến hiện trạng cơ cấu cây trồng có trước sang cơ cấu cây trồng mới nhằm đáp ứng
những yêu cầu của sản xuất. Thực chất của chuyển đổi cơ cấu cây trồng là thực hiện
hàng loạt các biện pháp (kinh tế, kỹ thuật, chính sách xã hội) nhằm thúc đẩy cơ cấu
cây trồng phát triển, đáp ứng những mục tiêu của xã hội. Cải tiến cơ cấu cây trồng
là rất quan trọng trong điều kiện mà ở đó kinh tế thị trường có nhiều tác động ảnh
hưởng đến sản xuất nông nghiệp.

xiv


Chuyển đổi cơ cấu cây trồng chính là phá vỡ thế độc canh trong trồng trọt
nói riêng và trong nơng nghiệp nói chung, để hình thành một cơ cấu cây trồng mới
phù hợp và có hiệu quả kinh tế cao, dựa vào đặc tính sinh học của từng loại cây
trồng và điều kiện cụ thể của từng vùng. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải được bắt

đầu bằng việc phân tích hệ thống canh tác truyền thống. Chính từ kết quả đánh giá
phân tích đặc điểm của cây trồng tại khu vực nghiên cứu mới tìm ra các hạn chế và
lợi thế, so sánh để đề xuất cơ cấu cây trồng hợp lý. Khi thực hiện chuyển đổi cơ cấu
cây trồng cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phải căn cứ vào yêu cầu thị trường.
- Phải khai thác hiệu quả các tiềm năng về điều kiện tự nhiên và điều kiện
kinh tế - xã hội của mỗi vùng.
- Bố trí cơ cấu cây trồng phải biết lợi dụng triệt để những đặc tính sinh học
của mỗi loại cây trồng, để bố trí cây trồng phù hợp với các điều kiện ngoại cảnh,
nhằm giảm tối đa sự phá hoại của dịch bệnh và các điều kiện thiên tai khắc nghiệt
gây ra.
- Chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải tính đến sự phát triển của khoa học kỹ
thuật và việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
- Về mặt kinh tế, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải đảm bảo có hiệu quả
kinh tế, sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao.
Nghiên cứu cải tiến cơ cấu cây trồng là tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao
năng suất, chất lượng nông sản bằng cách áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào hệ thống
cây trồng hiện tại hoặc đưa ra những hệ thống cây trồng mới. Hướng vào các hợp
phần tự nhiên, sinh học, kỹ thuật, lao động, quản lý, thị trường, để phát triển cơ cấu
cây trồng trong những điều kiện mới nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất (Lê
Minh Toán, 1998) [26].
Nghiên cứu cải tiến cơ cấu cơ cấu cây trồng phải đánh giá thực trạng, xác định
cơ cấu cây trồng phù hợp với thực tế phát triển cả về định lượng và định tính, dự báo
được mơ hình sản xuất trong tương lai; phải kế thừa những cơ cấu cây trồng truyền
thống và xuất phát từ yêu cầu thực tế, hướng tới tương lai để kết hợp các yếu tố tự
nhiên, kinh tế - xã hội (Lê Trọng Cúc và ctv, 1995) [28], (Trương Đích, 1995) [27].

xv



Nghiên cứu cơ cấu cây trồng là một trong những biện pháp kinh tế kỹ thuật nhằm
mục đích sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, nâng cao năng suất cây trồng
và chất lơượng sản phẩm, (Nguyễn Duy Tính, 1995) [14].
1.1.4. Khái niệm về hệ thống cây trồng
Theo Zandstra và ctv, (1981)[12], HTCT là hoạt động sản xuất cây trồng
trong nông trại bao gồm tất cả các hợp phần cần có để sản xuất một tổ hợp các cây
trồng và mối quan hệ giữa chúng với môi trường. Các hợp phần này bao gồm tất cả
các yếu tố vật lý, sinh học, kỹ thuật, lao động và quản lý.
HÖ thống nông nghiệp

Hệ thống trồng trọt

Hệ thống chăn nuôi

Hệ thống chÕ biÕn

HƯ thèng c©y trång

Mơi trường, điều

Đầu vào

c©y trång

kiện tự nhiờn, kinh
t- xó hi

u ra

Nng sut, cht

lng, giỏ c

Công thức
luân canh

(Nguån: Zandstras, 1981)
Sơ đồ 1: Các thành phần của hệ thống nông nghiệp
(Nguồn: Zandstras, 1981)
Theo Đào Thế Tuấn, (1984)[13], HTCT là thành phần các giống và lồi cây
được bố trí trong không gian và thời gian của hệ sinh thái nông nghiệp nhằm tận
dụng hợp lý nhất các nguồn lợi tự nhiên, kinh tế, xã hội. Theo tác giả, cơ cấu cây
trồng (CCCT) là nội dung chính của hệ thống cây trồng. Bố trí cây trồng hợp lý là
biện pháp kỹ thuật tổng hợp nhằm sắp xếp lại hoạt động của hệ sinh thái. Một
CCCT hợp lý chỉ khi nó lợi dụng tốt nhất các điều kiện khí hậu và né tránh thiên tai,
lợi dụng các đặc tính sinh học của cây trồng, tránh sâu bệnh, cỏ dại, đảm bảo sản

xvi


lượng cao và tỷ lệ hàng hoá lớn, đảm bảo phát triển tốt chăn nuôi và các ngành kinh
tế hỗ trợ, sử dụng hợp lý lao động, vật tư, phương tiện.
Theo Zandstra và ctv, (1981)[12], HTCT là các hình thức đa canh bao gồm:
trồng xen, trồng gối, trồng luân canh, trồng thành băng, canh tác phối hợp, vườn
hỗn hợp, Công thức luân canh là tổ hợp trong không gian và thời gian của các cây
trồng trên một mảnh đất và các biện pháp canh tác dùng để sản xuất chúng.
Theo Nguyễn Duy Tính, (1995)[14], HTCT là một thể thống nhất trong mối quan
hệ tương tác giữa các loài cây trồng, giống cây trồng được bố trí hợp lý trong khơng
gian và thời gian.
Do đặc tính sinh học của cây trồng và mơi trường ln biến đổi nên HTCT
mang đặc tính động. Vì vậy nghiên cứu HTCT khơng thể dừng lại ở một không gian

và thời gian rồi kết thúc mà là việc làm thường xuyên để tìm ra xu thế phát triển,
yếu tố hạn chế và những giải pháp khắc phục để chuyển đổi HTCT nhằm mục đích
khai thác ngày càng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, tăng hiệu quả kinh tế
- xã hội phục vụ cuộc sống con người (Đào Thế Tuấn, 1984)[13].
Các nghiên cứu trong việc hoàn thiện hệ thống canh tác, hệ thống cây trồng cần
dùng phương pháp phân tích hệ thống để tìm ra điểm hẹp hay chỗ thắt lại của hệ
thống. Đó là chỗ có ảnh hưởng khơng tốt đến hoạt động của hệ thống cần được tác
động sửa chữa, khai thông để hệ thống hồn thiện hơn, có hiệu quả kinh tế cao hơn
(Đào Châu Thu, 2004)[15].
Hoàn thiện hệ thống hoặc phát triển HTCT mới, trên thực tế là sự tổ hợp lại
các công thức luân canh, tổ hợp lại các thành phần cây trồng và giống cây trồng,
đảm bảo các thành phần trong hệ thống có mối quan hệ tương tác với nhau, thúc
đẩy lẫn nhau, nhằm khai thác tốt nhất lợi thế về điều kiện đất đai, tạo cho hệ thống
có sức sản xuất cao, bảo vệ mơi trường sinh thái (Lê Duy Thước, 1991)[16].
Nghiên cứu để xây dựng một hệ thống mới địi hỏi một trình độ cao hơn, trong đó
cần có sự tính tốn cân đối kỹ càng, tổ chức sắp xếp sao cho mỗi bộ phận của hệ
thống dự kiến nằm đúng vị trí trong mối quan hệ tương tác của các phần tử trong hệ
thống, có thứ tự ưu tiên để đạt được mục tiêu của hệ thống một cách tốt nhất (Đào
Châu Thu, 2004)[15].

xvii


Để có kế hoạch sản xuất của một vùng hay một đơn vị sản xuất, việc đầu tiên
phải đề cập đến là loại cây, diện tích, loại giống, loại đất, số vụ trong năm, để cuối
cùng có một tổng sản lượng cao nhất trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định có
trước (Phùng Đăng Chinh, Lý Nhạc, 1987)[17].
1.1.5. Vai trò của cơ cấu cây trồng hợp lý và chuyển đổi cơ cấu cây trồng
Những năm 60 - 70 của thế kỷ XX, Đào Thế Tuấn cùng các CTV ở Viện
Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu về cơ cấu cây trồng vùng

đồng bằng châu thổ sông Hồng và đã đưa ra nhận định về những yêu cầu cần đạt
được của một cơ cấu cây trồng thích hợp là phải:
Khai thác tốt nhất các điều kiện khí hậu và tránh hoặc giảm được những tác
hại của thiên tai đối với cây trồng.
Khai thác tốt nhất các điều kiện đất đai, bảo vệ và bồi dưỡng độ phì của đất.
Khai thác tốt nhất các đặc tính sinh học của cây trồng (khả năng cho năng
suất cao, phẩm chất tốt, ngắn ngày, thích ứng rộng, khả năng chống chịu cao) nhằm
đạt được hiệu quả sản xuất cao nhất.
Tránh đơược tác hại của sâu bệnh, cỏ dại và các tác nhân sinh học khác với
phương pháp sử dụng ít nhất các biện pháp hoá học.
Đảm bảo tỷ lệ sản phẩm hàng hoá cao, đảm bảo hiệu quả kinh tế cao.
Đảm bảo hỗ trợ cho các ngành sản xuất chính và phát triển chăn ni, tận
dụng các nguồn lợi thiên nhiên (Đào Thế Tuấn, 1989) [11].
Cơ cấu cây trồng hợp lý có vai trị quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
sản xuất nông nghiệp nhằm tăng năng suất cây trồng, tăng giá trị hàng hoá, tăng thu
nhập của người dân bản địa. Do vậy, xác định cơ cấu cây trồng phải dựa trên cơ sở:
- Các yếu tố khí hậu như chế độ nhiệt, chế độ mưa, bão ...
- Các yếu tố đất đai nhươ thành phần cơ giới, thành phần hóa học và đặc
điểm địa hình của đất
- Yếu tố cây trồng, bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý là chọn loại cây trồng tận
dụng được tốt nhất các điều kiện khí hậu, đất đai và tài nguyên khác.
- Bố trí cơ cấu cây trồng là xây dựng một hệ sinh thái nhân tạo. Mối quan hệ
giữa các sinh vật và cây trồng trong cộng sinh, ký sinh. Vì vậy, cải tiến cơ cấu cây

xviii


trồng tạo nên những quan hệ tỷ lệ mới phù hợp nhất, có hiệu quả, phát triển bền
vững hệ sinh thái (Phạm Chí Thành, Trần Đức Viên, 2000) [18].
Như vậy, nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng có ý nghĩa rất quan trọng

để xây dựng một nền nông nghiệp đa dạng, tạo nhiều nơng sản hàng hố cũng như
các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng là giải quyết
việc làm cho lao động ở nông thôn.
1.1.6. Những yếu tố chi phối sự lựa chọn cơ cấu cây trồng
* Khí hậu và cơ cấu cây trồng: Có thể nói trong các yếu tố ngoại cảnh thì
yếu tố khí hậu có tác động mạnh mẽ nhất đến cây trồng và cơ cấu cây trồng, đặc
biệt là yếu tố nhiệt độ và độ ẩm.
- Nhiệt độ và cơ cấu cây trồng: Từng loại cây trồng, bộ phận của cây (rễ, thân,
hoa, lá…), các quá trình sinh lý của cây (quang hợp, hút nước, hút khống…) sẽ phát
triển tốt ở nhiệt độ thích hợp và chỉ an toàn ở một nhiệt độ nhất định. Viện sĩ Nông
nghiệp Đào thế Tuấn đã nêu ra: cần phân biệt cây ưa nóng và cây ưa lạnh và cần nắm
được tình hình nhiệt độ các tháng trong năm; thời gian nóng bố trí cây ưa nóng, thời gian
lạnh bố trí cây ưa lạnh. Phân loại cây trồng theo yêu cầu nhiệt độ có thể lấy mốc 20oC để
phân biệt cây ưa nóng và cây ưa lạnh. Cây ưa nóng là những cây sinh trưởng tốt và ra
hoa, kết quả tốt ở nhiệt độ trên 20oC như các cây lúa, lạc, mía…, cây ưa lạnh là những
cây sinh trưởng tốt và ra hoa, kết quả tốt ở nhiệt độ dưới 20oC như khoai tây, su hào, bắp
cải…những cây trung gian là những cây sinh trưởng, ra hoa và kết quả tốt ở nhiệt độ
xung quanh 20oC (Lý Nhạc và ctv, 1987) [17].
Để hoàn thành chu kỳ sinh trưởng, mỗi cây trồng cần đạt được tổng tích ơn
nhất định. Tổng tích ôn này phụ thuộc vào thời gian sinh trưởng và yêu cầu nhiệt độ
cao hay thấp của mỗi cây.
- Lượng mưa, ẩm độ khơng khí và cơ cấu cây trồng: Nước cần cho sự sinh
trưởng, phát triển của cây, nước mưa cung cấp phần lớn lượng nước mà cây yêu
cầu, đặc biệt là ở những vùng khơng có hệ thống thuỷ lợi, nước mưa ảnh hưởng đến
các quá trình canh tác như làm đất, thu hoạch. Vì vậy, khi xác định cơ cấu cây trồng
phải chú ý đến lượng nước mưa (Trần Đức Hạnh và ctv, 1997) [19]
Cần nắm được lượng nước cây cần cho một chu kỳ sinh trưởng, đồng thời
khả năng cung cấp nước hàng năm và lượng nước cung cấp hàng tháng của mưa để

xix



bố trí cơ cấu cây trồng. Tuy nhiên để bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý cần nắm được
tình hình diễn biến ẩm độ trong năm, vì ẩm độ khơng khí có ảnh hưởng đến sinh
trưởng, phát triển và năng suất cây trồng.
- Ánh sáng và cơ cấu cây trồng: ánh sáng cung cấp năng lượng cho quá trình
tổng hợp chất hữu cơ của cây, ánh sáng là yếu tố biến động ảnh hưởng đến năng
suất. Cần phân biệt cây trồng theo yêu cầu về cường độ chiếu sáng và khả năng
cung cấp ánh sáng từng thời gian trong năm để bố trí cơ cấu cây trồng cho phù hợp.
Căn cứ vào diễn biến của các yếu tố khí hậu trong năm hoặc trong một thời
kỳ, đồng thời căn cứ vào yêu cầu về nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa, ánh sáng của từng
loại cây trồng để bố trí cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng thích hợp nhằm né tránh
được các điều kiện bất thuận, phát huy được tiềm năng năng suất của cây (Trần Đức
Hạnh và ctv, 1997) [19]
*Đất đai và cơ cấu cây trồng
Đất đai là nguồn lợi tự nhiên cung cấp năng lượng và vật chất cho cây trồng
và con người, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp. Đất và
khí hậu hợp thành phức hệ tác động vào cây trồng. Do vậy cần phải nắm được đặc
điểm mối quan hệ giữa cây trồng với đất thì mới xác định được cơ cấu cây trồng
hợp lý.
Về mặt cơ cấu cây trồng người ta đề cập đến tính thích ứng và tính biến động
năng suất của cây trồng. Các tính thích ứng quyết định khả năng sống của cây trồng
đối với các mức (độ mặn, độ chua, ngập nước hay ẩm…). Khi cây đã có đủ điều
kiện thích ứng thì năng suất được quyết định bởi chế độ nước và hàm lượng chất
dinh dưỡng trong đất.
Tuỳ thuộc vào địa hình, thành phần cơ giới, chế độ nước, tính chất lý hố tính của
đất để bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý.
* Cây trồng và cơ cấu cây trồng
Giống cây trồng là một nhóm cây trồng có đặc điểm kinh tế, sinh học và các
tính trạng hình thái giống nhau, cho năng suất cao, chất lượng tốt ở các vùng sinh

thái khác nhau và điều kiện kỹ thuật phù hợp. Vì vậy, giống cây trồng phải mang
tính khu vực hố, tính di truyền đồng nhất và khơng ngừng thoả m•n nhu cầu của
con người (Nguyễn Văn Hiển, 2000) [20]

xx


Cây trồng là thành phần chủ yếu của các hệ sinh thái nơng nghiệp. Nội dung
của việc bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý là chọn loại cây trồng nào để lợi dụng được
tốt nhất các điều kiện về khí hậu và đất đai. Mặt khác, cây trồng là những nguồn lợi
tự nhiên sống, nhiệm vụ của nông nghiệp là phải sử dụng nguồn lợi tự nhiên ấy một
cách tốt nhất, nghĩa là dành cho chúng các điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp
nhất.
Muốn bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý chúng ta cần phải nắm vững yêu cầu của
các loài và giống cây trồng đối với các điều kiện khí hậu, đất đai và khả năng của
chúng sử dụng các điều kiện ấy ( Lý Nhạc, Phùng Đăng Chinh và ctv (1987) [17] .
* Quần thể sinh vật và cơ cấu cây trồng
Xây dựng cơ cấu cây trồng là xây dựng hệ sinh thái nhân tạo, ngồi thành
phần sống chủ yếu là cây trồng, cịn có các thành phần khác như cỏ dại, sâu, bệnh,
các vi sinh vật, các động vật… các thành phần sống này cùng với cây trồng tạo nên
một quần thể sinh vật, chúng chi phối sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng.
Theo các tác giả Lý Nhạc, Phùng Đăng Chinh (1987) [17] thì khi bố trí cơ
cấu cây trồng cần chú ý đến các mối quan hệ theo nguyên tắc:
- Lợi dụng mối quan hệ tốt giữa các sinh vật với cây trồng.
- Khắc phục, phòng tránh hoặc tiêu diệt mầm mống tác hại đối với cây trồng
do các vi sinh vật gây nên.
Trong quần thể cây trồng, quần thể chủ đạo của cơ cấu cây trồng có những
đặc điểm chủ yếu sau:
- Mật độ của quần thể do con người quy định trước từ lúc gieo trồng.
- Sự sinh sản, tử vong và phát tán không xảy ra một cách tự phát mà chịu sự

điều khiển của con người.
- Sự phân bố khơng gian tương đối đồng đều vì do con người điều khiển.
- Độ tuổi của quần thể cũng đồng đều vì có sự tác động của con người.
Trong cơ cấu cây trồng cũng xảy ra sự cạnh tranh cùng loài hoặc khác loài.
Khi gieo trồng một loại cây trồng thì vấn đề cạnh tranh cùng lồi rất quan trọng.
Cần xác định mật độ gieo trồng và các biện pháp điều chỉnh quần thể để giảm sự
cạnh tranh trong loài. Sự cạnh tranh khác loài cũng xảy ra khi ta trồng xen hoặc

xxi


giữa cây trồng với cỏ dại. Vì vậy khi xác định cơ cấu cây trồng cần chú ý các vấn đề
sau:
- Xác định thành phần cây trồng và giống cây trồng thích hợp với điều kiện
cụ thể của cơ sở sản xuất.
- Bố trí cây trồng theo thời vụ tốt cũng tránh tác hại của cỏ dại, sâu, bệnh,
Dịch sâu bệnh hại phát triển theo lứa và theo mùa, tác hại của chúng xảy ra nghiêm
trọng trong thời kỳ sinh trưởng, phát triển nhất định của cây trồng. Do vậy xác định
thời vụ tốt cũng có khả năng né tránh được tác hại của sâu bệnh.
* Hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng
Sau khi xác định cơ cấu cây trồng cần tính tốn hiệu quả kinh tế. Cơ cấu cây
trồng mới cần phải đạt hiệu quả kinh tế cao hơn cơ cấu cây trồng cũ. Để đạt hiệu
quả kinh tế cao thì các loại cây trồng trong cơ cấu cây trồng đều phải đạt năng suất
cao.
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là phải sản xuất đa dạng, ngồi cây trồng
chủ yếu, cần bố trí cây trồng bổ sung để tận dụng điều kiện tự nhiên - xã hội của
vùng và của cơ sở sản xuất. Về mặt kinh tế cơ cấu cây trồng cần phải đạt được các
yêu cầu sau đây:
- Bảo đảm yêu cầu chuyên canh và tỷ lệ sản phẩm hàng hoá cao.
- Đảm bảo việc hỗ trợ cho ngành sản xuất chính và phát triển chăn nuôi, tận

dụng các nguồn lợi tự nhiên.
- Đảm bảo việc đầu tư lao động và vật tư kỹ thuật có hiệu quả kinh tế cao.
- Đảm bảo giá trị sử dụng và giá trị cao hơn cơ cấu cây trồng cũ.
Việc đánh giá hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng có thể dựa vào một số
chỉ tiêu năng suất, giá thành, thu nhập (giá trị bán sản phẩm sau khi được trừ đi chi
phí đầu tư) và mức lãi (% của thu nhập so với đầu tư). Khi đánh giá trị kinh tế của
cơ cấu cây trồng cần dựa vào năng suất bình quân của cây trồng và giá cả thu mua
của thị trường. Tuy nhiên, cũng cần chú ý đến những điều kiện ảnh hưởng đến giá
thành sản phẩm như khí hậu, thời tiết, vị trí địa lý và các điều kiện xã hội khác (Lý
Nhạc, Phùng Đăng Chinh và ctv, 1987) [17]

xxii


* Nông hộ và cơ cấu cây trồng
Theo Viện sĩ Đào Thế Tuấn (1997) [21] nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ và
đóng góp phần to lớn vào sự phát triển sản xuất nông nghiệp của nước ta trong
những năm qua. Tất cả những hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông
thôn chủ yếu được thực hiện thơng qua nơng hộ. Do vậy, q trình chuyển đổi cơ
cấu cây trồng thực chất là sự cải tiến sản xuất nơng nghiệp ở các hộ nơng dân. Do
đó nông dân là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp và phát
triển nông thôn.
Kinh tế nông hộ là kinh tế của hộ nông nghiệp sống ở nông thôn, bao gồm cả
thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Hộ nông dân là các
hộ gia đình có tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia
đình trong sản xuất nơng nghiệp, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng
về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia hoạt động trong thị trường với một
trình độ ít hồn chỉnh. Hộ nơng dân có những đặc điểm cơ bản sau:
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất, vừa là
một đơn vị tiêu dùng.

- Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của hộ từ
tự cấp hồn tồn đến sản xuất hàng hố hồn tồn. Trình độ này quyết định đến
quan hệ giữa nông hộ với thị trường.
- Các hộ nơng dân ngồi hoạt động nơng nghiệp cịn tham gia vào các hoạt
động phi nơng nghiệp với mức độ khác nhau, nên khó giới hạn được thế nào là một
hộ nơng dân thuần t. Vì vậy, hộ nông dân tái sản xuất giản đơn nhờ vào ruộng đất
thơng qua cải tiến cơ cấu cây trồng, nhờ đó mà tái sản xuất mở rộng trong nông
nghiệp, phục vụ lợi ích chung của xã hội nên cần thiết phải có chính sách x• hội đầu
tư thích hợp. Hộ nơng dân khơng phải là một hình thái sản xuất đồng nhất mà là tập
hợp các kiểu nông hộ khác nhau, có mục đích và cơ chế hoạt động khác nhau. Căn
cứ vào mục đích và cơ chế hoạt động của nông hộ để phân biệt các kiểu hộ nông
dân khác nhau.
- Kiểu nơng hộ hồn tồn tự cấp: ở kiểu hộ này, người nơng dân ít có phản
ứng với thị trường, nhất là thị trường lao động và vật tư.

xxiii


- Kiểu nơng hộ chủ yếu tự cấp, có trao đổi một phần nơng sản lấy hàng tiêu
dùng, có phản ứng ít nhiều với giá cả (chủ yếu giá vật tư).
- Kiểu nông hộ bán phần lớn sản phẩm nông sản, có phản ứng nhiều với thị
trường.
- Kiểu nơng hộ hồn tồn sản xuất hàng hố, có mục đích thu lợi nhuận.
Mục tiêu sản xuất của các hộ quyết định sự lựa chọn sản phẩm kinh doanh,
cơ cấu cây trồng, quyết định mức đầu tư, phản ứng với giá cả vật tư, lao động và
sản phẩm của thị trường.
Cũng theo Viện sĩ Đào Thế Tuấn, quá trình phát triển của các hộ nông dân
trải qua các giai đoạn từ thu nhập thấp đến thu nhập cao.
- Giai đoạn nông nghiệp tự cấp: Nông dân trồng một cây hay một vài cây
lương thực chủ yếu, ít đầu tư thâm canh, năng suất thấp, gặp nhiều rủi ro.

- Giai đoạn kinh doanh tổng hợp và đa dạng: Khi mới chuyển sang sản xuất
hàng hố, nơng dân bắt đầu sản xuất những loại cây trồng phục vụ cho nhu cầu của
thị trường, thị trường cần loại nơng sản gì thì sản xuất cây trồng đó; sản xuất đa
canh nên giảm bớt rủi ro.
Tóm lại, hộ nông dân chuyển từ sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc sang sản
xuất hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ ở các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào
trình độ, điều kiện kinh tế - xã hội và các chính sách của Nhà nước hỗ trợ, thúc đẩy
nông nghiệp phát triển. Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay, để áp dụng thành
công một tiến bộ kỹ thuật mới hay một phương thức canh tác mới… vào sản xuất
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và giá trị thu nhập/đơn vị diện tích
canh tác thì cần phải có chính sách đầu tư, hỗ trợ, trợ giá của Nhà nước.
* Chính sách và cơ cấu cây trồng
Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng một cách có căn cứ khoa
học, phù hợp với nhu cầu của thực tiễn và xu thế phát triển của x• hội cần có chính
sách về khoa học - công nghệ để thông qua nghiên cứu, nhằm thiết lập ngay trên
đồng ruộng của người nơng dân những mơ hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng có
hiệu quả; đồng thời chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật cho nông dân nhằm nhân rộng
mơ hình. Bên cạnh đó cũng cần có những cơ chế chính sách về tài chính để hỗ trợ
cho người nông khi mới bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cũng

xxiv


như chính sách khen thưởng để khuyến khích những hộ, địa phương chuyển đổi cơ
cấu cây trồng thành cơng, có hiệu quả.
Quá trình phát triển kinh tế sẽ dẫn đến mức độ phân hố giàu nghèo ngày
cành mạnh, có sự chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị, để hạn chế
tình trạng này cần thiết phải phát triển công nghiệp nông thôn, thâm canh, tăng vụ
để sản xuất hàng hoá. Đa dạng cây trồng để đa dạng hố các sản phẩm nơng nghiệp
là q trình chủ yếu để cải tiến cơ cấu cây trồng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị

trường nơng sản ngày càng tăng.
Q trình đa dạng hoá cây trồng là do sự phát triển của kinh tế hộ quyết định
và còn tuỳ thuộc vào từng vùng, nhưng vấn đề khó khăn về vốn đầu tư cho sản xuất
là yếu tố quyết định cơ bản. Các hộ nghèo kinh doanh rất đa dạng, chỉ khi họ giàu
lên mới tập trung vào một số ngành nghề nhất định. Như vậy, chun mơn hố chỉ
có thể xảy ra khi trình độ sản xuất hàng hố đã phát triển đến mức cao (Đào Thế
Tuấn, 1997) [21]
Một khó khăn khác làm cho nông dân ngần ngại không dám đầu tư vào sản
xuất và chuyển đổi cơ cấu cây trồng là thiếu thị trường tiêu thụ nơng sản. Do đó, để
tìm kiếm, mở rộng thị trường, Nhà nước cần có chính sách để tạo mơi trường lành
mạnh, sịng phẳng trong phát triển thị trường và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như
đường giao thông, mạng lưới điện và thơng tin…
Sự phân hố của nơng hộ và trình độ sản xuất chênh lệch của các kiểu nông
hộ ảnh hưởng rất lớn đến cải tiến cơ cấu cây trồng. Các kiểu nơng hộ khác nhau có
trình độ tiếp thu và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật ở mức độ khác nhau. Trình độ là
yếu tố quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng của các nông hộ trong giai
đoạn đầu của sản xuất nơng nghiệp hàng hố, khi kỹ thuật áp dụng chưa phải cần
nhiều vốn thì việc đa dạng hoá sản xuất là một xu thế cần thiết cho sự phát triển.
* Thị trường và cơ cấu cây trồng
Theo Robert S. Pindyck, Daniel L. Rubingeld (Kinh tế học vĩ mô, NXB
Thống kê, Hà Nội, 1999) (dẫn Hồ Gấm, 2003) [22] thì thị trường là tập hợp những
người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau dẫn đến khả năng trao đổi. Thị
trường là trung tâm của các hoạt động kinh tế.

xxv


×