BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
HUỲNH THỊ PHƯƠNG NHƯ
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN
NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CHÍNH TRỊ
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CẦN THƠ
luËn v¨n th¹c sÜ khoa häc gi¸o dôc
ĐỒNG THÁP – 2012
B GIO DC V O TO
TRNG I HC VINH
HUNH TH PHNG NH
VN DNG PHNG PHP THO LUN
NHểM TRONG DY HC MễN CHNH TR
NHM NNG CAO CHT LNG O TO
TRNG CAO NG CN TH
luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục
Chuyờn ngnh: Lý lun & PPDH B mụn Giỏo dc Chớnh tr
Mó s: 60.14.10
Ngi hng dn khoa hc: PGS. TS. ON MINH DU
NG THP 2012
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối
với PGS.TS Đoàn Minh Duệ - Thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu để tôi thực hiện đề tài này.
Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các nhà khoa học, các thầy cô
trong khoa Giáo dục Chính trị, khoa Đào tạo Sau đại học Trường Đại học Vinh,
cũng như Trường Đại học Đồng Tháp đã quản lý, giảng dạy, cung cấp tài liệu,
hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Đồng thời cho tôi được gửi lời cảm ơn tới BGH Trường Cao đẳng Cần Thơ,
Lãnh đạo Tổ Chính trị, các giảng viên, giáo viên giảng dạy môn Chính trị và các
em học sinh hệ Trung cấp Trường Cao đẳng Cần Thơ đã tạo điều kiện thuận lợi và
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài này.
Đồng Tháp, tháng 7 năm 2012
Tác giả
Huỳnh Thị Phương Như
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1
B. NỘI DUNG...........................................................................................................................8
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CHÍNH TRỊ Ở CÁC
TRƯỜNG CAO ĐẲNG...........................................................................................................8
1.1. Cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học môn Chính trị.................................................................................................8
1.2. Thực trạng việc vận dụng PPTLN trong dạy học môn Chính trị ở Trường
Cao đẳng Cần Thơ..............................................................................................22
Kết luận chương 1 .............................................................................................36
Chương 2. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM
TRONG DẠY HỌC MÔN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CẦN THƠ...........38
2.1. Kế hoạch thực nghiệm sư phạm..................................................................38
2.2. Quá trình thực nghiệm sư phạm................................................................39
2.3. Kiểm tra, đánh giá sau thực nghiệm sư phạm............................................61
Kết luận chương 2 .............................................................................................67
CHƯƠNG 3. QUY TRÌNH VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUÁ
TRÌNH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC
MÔN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CẦN THƠ................................................69
3.1. Quy trình vận dụng PPTLN trong quá trình dạy học môn Chính trị ở
Trường Cao đẳng Cần Thơ...............................................................................69
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng TLN góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Cần Thơ.......................................................74
Kết luận chương 3............................................................................................. 80
C. KẾT LUẬN...................................................................................................................... 82
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................84
E. PHỤ LỤC...........................................................................................................................87
BẢNG QUI ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT
1. BCHTW
: Ban chấp hành trung ương
2. HS, SV
: Học sinh, sinh viên
3. GV
: Giáo viên
4. PPDH
: Phương pháp dạy học
5. QTDH
: Quá trình dạy học
6. PPTLN
: Phương pháp thảo luận nhóm
7. THPT
: Trung học phổ thông
1
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những yêu cầu cấp thiết của giáo
dục, đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kì đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, trong đó chất lượng dạy
học trong nhà trường nói riêng là một yêu cầu cấp bách hiện nay. Bởi lẽ, nền kinh
tế thị trường đang ngày càng đòi hỏi người lao động phải có đủ năng lực mới có
thể đón nhận công việc. Nhà trường không thể cung cấp hết cho người học tất cả
các kiến thức họ cần, mà chỉ cung cấp phương pháp cho HS đi tìm tri thức và nắm
vững tri thức.
Trong những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học trong giáo dục là
vấn đề được Bộ Giáo dục và Đào tạo rất quan tâm. Đã có nhiều hội nghị, hội thảo
bàn về vấn đề này.
Kết luận của Hội nghị lần thứ 6 BCHTW khóa IX về việc thực hiện Nghị
quyết Hội nghị BCH TƯ lần thứ 2, khoá VIII đã khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ
phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp
tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào qúa trình dạy - học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự
học, tự nghiên cứu cho SV, nhất là SV đại học”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
thông qua một lần nữa nhấn mạnh quan điểm: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan
trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển
giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Chính vì vậy, đổi
mới PPDH trở thành xu hướng diễn ra mạnh mẽ ở các cấp học, bậc học từ THPT
cho đến Trung cấp chuyên nghiệp, Cao đẳng và Đại học theo hướng phát huy tính
2
tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, SV trong quá trình học tập. Đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của người học là đòi hỏi cấp bách
của sự nghiệp giáo dục ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thực tiễn giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin nói chung và môn Chính
trị nói riêng cho thấy việc truyền thụ tri thức cho học sinh thật không dễ dàng. Môn
Chính trị là một trong những môn học trang bị cho học sinh những kiến thức, thế
giới quan, phương pháp luận khoa học, giáo dục niềm tin và tình cảm sâu sắc trong
quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh, là môn khoa học mang tính lý luận khái
quát, trừu tượng cao. Để truyền đạt được tri thức Chính trị giảng viên thường
không thể truyền đạt ngay cho học sinh điều mình muốn dạy, mà cách làm tốt nhất
là định hướng các tri thức đó vào những tình huống để học sinh tự mình chiếm lĩnh
tri thức thông qua hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo.
Đối với Trường Cao đẳng Cần Thơ trong những năm gần đây, đổi mới PPDH
trở thành xu hướng diễn ra mạnh mẽ. Việc đổi mới PPDH nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo được nhà trường hết sức quan tâm. Thực tế cho thấy muốn đạt kết
quả cao trong dạy và học môn Chính trị thì không thể chỉ chú trọng đổi mới nội
dung mà còn phải chú trọng đổi mới phương pháp. Cùng với xu hướng chung, để
nâng cao chất lượng dạy và học môn Chính trị ở Trường Cao đẳng Cần Thơ, phần
lớn cán bộ giảng dạy đã sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong đó có
phương pháp thảo luận nhóm.
Thảo luận nhóm là một trong những PPDH tích cực được sử dụng thường
xuyên trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Để khắc phục lối
truyền thụ tri thức một chiều, lối học thụ động, máy móc, cần phải sử dụng phối
hợp nhiều phương pháp dạy học: PPDH truyền thống và PPDH hiện đại, trong đó
có phương pháp thảo luận nhóm. Thông qua phương pháp này, học sinh sẽ học
được tính hòa nhập, chia sẻ để giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng và rèn
luyện được tính tích cực chủ động. Thông qua đó học sinh biết chia sẻ công việc
một cách bình đẳng, biết giao việc và có trách nhiệm đối với công việc của mình.
3
Đồng thời, thông qua hoạt động nhóm sẽ giúp cho học sinh có kĩ năng, kinh
nghiệm trong tổ chức quản lí đặc biệt là tính năng động.
Từ những lí do trên, tác giả chọn vấn đề: “Vận dụng phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học môn Chính trị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở Trường
Cao đẳng Cần Thơ” để làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dạy học và phương pháp dạy học là vấn đề đã được nhiều nhà giáo
dục, hoạt động xã hội quan tâm. Tuy khai thác ở nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng
nhìn chung các tác giả luôn hướng đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của người học trong nhận thức và chiếm lĩnh tri thức là tư tưởng bao trùm.
Vận dụng PPTLN trong dạy học đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu,
tiêu biểu như:
Thứ nhất, nhóm các PPDH tích cực nói chung:
Công trình “Tài liệu bài giảng lí luận dạy học” của tác giả Nguyễn Văn
Tuấn, Trường Đại học Sư phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh (Lưu hành nội bộ).
Nội dung chủ yếu nói về lí luận dạy học, các quá trình dạy học, các phương pháp
dạy (trong đó có phương pháp thảo luận nhóm) các cách soạn giáo án,….
Nhà giáo Phan Trọng Ngọ (2005) đã có công trình, “Dạy học và phương
pháp dạy học trong nhà trường”, NXB ĐHSP Hà Nội.
Hoặc công trình của 2 tác giả “Một số vấn đề chung về đổi mới phương
pháp dạy học ở trường THPT”, của Nguyễn Văn Cường và Bernd Meier, Berlin/
Hà Nội 2010, thuộc Dự án phát triển giáo dục THPT, chủ yếu nói về cơ sở lí luận
và thực tiễn đổi mới phương pháp dạy học, một số quan điểm, kỹ thuật và phương
pháp dạy học phát huy tích cực, sáng tạo.
PGS.TS Vũ Hồng Tiến “Một số phương pháp dạy học tích cực”, tài liệu
bồi dưỡng giáo viên dạy chương trình môn Giáo dục công dân (Chuyên đề 2),
2007. Tác giả đã so sánh phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy
học tích cực và đi đến khẳng định, phương pháp dạy học truyền thống chỉ diễn
4
giảng, truyền thụ kiến thức một chiều, còn phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi
người học phải tự tìm tòi, nghiên cứu, phát hiện và giải quyết vấn đề, tạo nên sự
tương tác giữa thầy - trò, trò- trò.
Thứ hai, nhóm các PPDH thảo luận nhóm
Trước hết là công trình “Những rào cản của đổi mới phương pháp dạy học
ở đại học” của ThS. Lê Tấn Huỳnh Cẩm Giang, Công tác tại Viện Nghiên cứu
Giáo dục. Bài viết chủ yếu tập trung vào cách chia nhóm và quá trình vận dụng
phương pháp thảo luận nhóm (chủ yếu là nhóm nhỏ), những rào cản quan trọng
trong quá trình vận dụng phương pháp này ở các trường đại học. Từ đó tác giả đã
đề xuất 03 giải pháp để phá dỡ các rào cản hiện tồn tại trong tiến trình đổi mới hoạt
động dạy học ở các trường đại học.
Công trình nghiên cứu của PGS.TS Vũ Quang Hiển Trường Đại học Quốc
gia Hà Nội về “Phương pháp thảo luận nhóm tại lớp trong giờ học Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam”.
Công trình nghiên cứu của TS. Phạm Ngọc Anh về “Phương pháp học
nhóm trong dạy và học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Trường Đai học khoa học xã
hội và nhân văn Hà Nội”
“Tổ chức thảo luận theo nhóm đối với các môn khoa học Mác- Lênin”
Th.S Mai Văn Điệp, Học viện Hải quân. Bài viết này tập trung bàn về cách tổ chức
các nhóm học tập; lựa chọn nội dung và xây dựng giáo án thảo luận; khắc phục
tình trạng lười học của một số sinh viên; vai trò của giảng viên trong duy trì thảo
luận theo nhóm.
Nguyễn Minh Hiền (chủ biên): “Tài liệu bồi dưỡng GV giảng dạy môn
Chính trị ở các trường TCN, Cao đẳng nghê”, Tổng cục dạy nghề 2010. Tác giả
nhấn mạnh vai trò, vị trí của PPTLN trong dạy học môn Chính trị và đặt ra những
yêu cầu thực hiện để mang lại hiệu quả cao trong dạy học.
“Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn GDCD ở
trường THPT”, của TS. Nguyễn Thị Toan, Trường ĐHSP Hà Nội. Bài viết này tập
5
trung phân tích thực trạng của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong
dạy học môn GDCD ở trường trung học phổ thông (THPT), từ đó đề xuất một số
định hướng vận dụng phương pháp này nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học
môn GDCD.
“Thảo luận nhóm thực trạng và giải pháp” của tác giả Thế Phong, đăng
trên Tạp chí Thanh niên phía trước số 48, năm 2011, trong bài viết này, tác giả chủ
yếu đề cập đến vấn đề: Phương pháp học và thảo luận theo nhóm đã bắt đầu hình
thành và triển khai như một cuộc thử nghiệm, “công trình” này cũng đặt ra khá
nhiều câu hỏi, đáng để chúng ta cùng bàn: Phương pháp học theo nhóm, thảo luận
này thực sự hay và bổ ích.
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu của các giảng viên, giáo viên ở
các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp (trung cấp) và trường phổ
thông.
Như vậy, nghiên cứu và vận dụng các PPDH tích cực, trong đó có PPTLN
vào quá trình dạy học đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu vấn đề vận dụng PPTLN trong dạy học môn Chính trị ở Trường Cao
đẳng Cần Thơ chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lí luận và thực tiễn vận dụng phương pháp thảo luận nhóm và qua
thực nghiệm, đối chứng PPTLN trong dạy học môn Chính trị ở trường Cao đẳng
Cần Thơ luận văn đề xuất một số giải pháp thực hiện PPTLN trong dạy học môn
Chính trị nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của phương pháp thảo luận nhóm
Việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm để dạy học môn Chính trị ở
Trường Cao đẳng Cần Thơ.
Thực nghiệm sư phạm để rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp.
6
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm cơ bản về yêu cầu đổi mới giáo dục của
Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục qua các văn kiện Đại hội Đảng.
Đề tài vận dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, ngoài ra còn các phương pháp mang tính đặc thù như sau:
- Phương pháp điều tra xã hội
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, …..
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong
giảng dạy môn Chính trị ở Trường Cao đẳng Cần Thơ.
6. Giả thuyết khoa học
Vấn đề vận dụng vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn
Chính trị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Cần Thơ chưa đạt
được kết quả theo yêu cầu đề ra. Vì thế, cần thiết phải tìm hiểu về cơ sở lý luận,
thực tiễn để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp
thảo luận nhóm trong dạy học môn Chính trị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở
Trường Cao đẳng Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa khoa học của đề tài:
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lí luận và thực tiễn của việc đổi
mới PPDH nói chung và PPTLN nói riêng trong quá trình dạy học môn Chính trị
dành cho HS trung cấp ở các Trường Cao đẳng (có đào tạo hệ trung cấp), Trung
cấp.
- Đề tài cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc vận
dụng PPTLN vào quá trình dạy học môn Chính trị. Bên cạnh đó, đề tài có thể được
sử dụng làm tài liệu tham khảo cho GV dạy môn Chính trị.
7
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài kết cấu
thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp thảo
luận nhóm trong dạy học môn Chính trị ở các trường Cao đẳng
Chương 2. Thực nghiệm sư phạm phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học môn Chính trị ở Trường Cao đẳng Cần Thơ
Chương 3. Điều kiện thực hiện và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quá trình vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Chính trị ở
Trường Cao đẳng Cần Thơ.
8
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN CHÍNH TRỊ
Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG
1.1. Cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong
dạy học môn Chính Trị
1.1.1. Khái niệm nhóm và các hình thức chia nhóm
1.1.1.1. Khái niệm nhóm
Theo từ điển tiếng Việt “nhóm” là tập hợp một số ít người theo những
nguyên tắc nhất định để cùng nhau giải quyết một nhiệm vụ chung [29; 127].
Trong hoạt động xã hội, xét về mặt bản chất, nhóm là một sự thống nhất về
nguyện vọng , nhu cầu, mục đích; là sự phối hợp mang tính bình đẳng của một số
người trong phạm vi công việc.
Theo tác giả Nguyễn Đình Chỉnh trong cuốn Tâm lý học quản lý (Nxb Giáo
dục, 1998) quan niệm: Nhóm không đơn giản chỉ là một tập hợp nhiều người làm
việc cùng nhau hoặc làm việc dưới sự chỉ đạo của một nhà quản lý. Nhóm là một
tập hợp những cá nhân có các kỹ năng bổ sung cho nhau và cùng cam kết chịu
trách nhiệm thực hiện một mục tiêu chung. Các thành viên trong nhóm tương tác
với nhau và với trưởng nhóm để đạt được mục tiêu chung. Các thành viên trong
nhóm phụ thuộc vào thông tin của nhau để thực hiện phần việc của mình [5; 52].
Tập hợp các cá nhân HS riêng lẻ sẽ trở thành một nhóm khi và chỉ khi hội tụ
đầy đủ các nhân tố sau hay nói một cách khác, nhóm được hình thành dựa trên một
số yếu tố sau:
- Sự tương tác: là sự tác động qua lại trực tiếp giữa các cá nhân HS trong
cùng một không gian (lớp học) và thời gian (tiết học) nhằm thực hiện các nhiệm vụ
9
chung. Phương tiện để thực hiện các tương tác có thể là phương tiện ngôn ngữ
hoặc phi ngôn ngữ. Nội dung của tương tác là nhiệm vụ học tập. Vì vậy, sự tương
tác diễn ra trong nhóm phải có mục đích, có tổ chức, có sự phân công trách nhiệm
và đặc biệt là phải diễn ra hai chiều. Sự tương tác tích cực của mỗi thành viên sẽ
thúc đẩy hoạt động chung của nhóm nhanh chóng đạt đến mục tiêu.
- Mục tiêu hướng đến: nhóm học tập có thể có nhiều mục tiêu. Có những
mục tiêu chung, mục tiêu lớn lao tuy nhiên cũng có thể có những mục tiêu hết sức
bình thường. Mục tiêu hướng đến của từng thành viên chính là cơ sở để tạo ra sự
phân chia thành nhóm. Mục tiêu chính là động lực, là kim chỉ nam cho hoạt động
của nhóm.
- Các quy tắc làm việc: là những quy định hướng dẫn những hành vi chung
do nhóm lập ra. Các qui định này là cơ sở để nhóm hoạt động có tổ chức, có nề nếp
và có thể kiểm soát, điều khiển các thành viên làm việc theo mục tiêu mà nhóm đã
đề ra.
- Vai trò của các thành viên trong nhóm: căn cứ vào năng lực hoạt động và
trình độ của từng thành viên mà xác định vai trò của từng thành viên trong nhóm.
Hoạt động nhóm luôn gắn với nhu cầu của từng thành viên trong nhóm và nhu cầu
chung của nhóm. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ này sẽ giúp nhóm hoàn thành
nhiệm vụ mọi nhiệm vụ đồng thời góp phần củng cố và duy trì nhóm.
Từ những vấn đề nêu trên, quan niệm về nhóm có thể hiểu như sau: nhóm
là một tập hợp người được xác định bởi các mối quan hệ tương tác, cùng chia
sẻ mục tiêu chung, cùng tuân theo một hệ thống quy tắc nhất định và đóng
những vai trò khác nhau. Một tập thể người không thể được coi như một nhóm
nếu họ không có mối quan hệ tương tác, đặc biệt là nếu họ không cùng chia sẻ
một mục tiêu chung.
1.1.1.2. Các hình thức chia nhóm
Để tiến hành dạy học theo nhóm, việc đầu tiên là phải tiến hành chia nhóm.
Việc chia nhóm tùy thuộc vào số lượng HS trong lớp, thường một nhóm có khoảng
10
từ 5 đến 10 (con số này có thể tăng hoặc giảm tùy theo nhiệm vụ của nhóm, cơ sở
vật chất hiện có, thời gian làm việc của các nhóm và của bài học). Căn cứ vào mục
tiêu, nội dung, mức độ khó dễ của các nhiệm vụ học tập, trình độ của HS, thời gian
cho phép, cơ sở vật chất kĩ thuật, trang thiết bị của nhà trường,….. có thể phân ra
các hình thức chia nhóm khác nhau như sau:
- Chia nhóm ngẫu nhiên: Đây là cách chia được tiến hành khi giữa các đối
tượng HSSV không cần có sự phân biệt. Mọi HSSV đều phải hoạt động để giải
quyết vấn đề, cùng chiếm lĩnh tri thức. Nhiệm vụ được giao không khác nhau
nhiều về nội dung, ít có sự chênh lệch về độ khó và có cùng chung một yêu cầu. Ở
hình thức chia nhóm ngẫu nhiên này, khi chia nhóm GV có thể chia theo vị trí chỗ
ngồi, chia theo số thứ tự trong danh sách, chia theo bàn, theo tổ hoặc bằng cách
đếm vòng tròn.
- Chia nhóm theo năng lực học tập: Việc chia nhóm năng lực học tập được
áp dụng khi cần có sự phân hóa về trình độ bởi mức độ khó dễ của nội dung bài
học cho từng đối tượng HSSV. Người ta thường dựa vào các trình độ : giỏi, khá,
trung bình và yếu để chia thành các nhóm tương ứng.Với cách chia này, GV có thể
đưa ra những yêu cầu cụ thể khác nhau đối với từng nhóm trong việc giải quyết
cùng một nhiệm vụ học tập. Song khi áp dụng hình thức chia nhóm này GV cần
phải thận trọng. Bởi vì muốn chia đúng trình độ của HSSV, GV phải nắm chắc
trình độ của họ, vì nếu không nắm chắc được trình độ của HS mà chia sai nhóm thì
sẽ dẫn đến sự phản tác dụng.
- Chia nhóm gồm đủ trình độ: Cách chia này thường được sử dụng khi nội
dung hoạt động dạy học cần có sự hỗ trợ lẫn nhau. Trong trường hợp này cần phải
xác định vai trò của nhóm trưởng (người có năng lực hơn cả) là rất quan trọng
trong việc phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm.
- Chia nhóm theo sở trường: Cách chia này thường được tiến hành trong
các buổi học tập ngoại khóa, mỗi nhóm sẽ gồm một số HS có chung sở trường,
hứng thú.
11
Ngoài ra, hiện nay ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, trung học phổ
thông vẫn chưa thống nhất một cách làm việc nhóm chung đối với những đề tài
thảo luận. Các cách làm việc nhóm chủ yếu là do giáo viên quyết định. Trong thời
gian qua, có 3 cách làm việc theo nhóm chủ yếu như sau:
Cách làm việc theo nhóm thứ nhất: Ngang - theo cách này, người nhóm
trưởng sẽ lập đề cương, sau đó các thành viên nhận từng phần, VD bài 1, phần 1…
Sau đó tổng hợp lại, ghép các đoạn đã làm vào thành bài hoàn chỉnh của nhóm.
Ưu điểm của cách này là:
- Thành viên thích vì “làm ít”, không mất công tập hợp.
- Tốn ít công sức.
- Phá huy nhiều khả năng từ thành viên. Mỗi thành viên đều rèn được khả
năng tìm tài liệu, xử lý, viết bài…
Nhược điểm:
- Làm hổng kiến thức của sinh viên, khi tham gia làm phần 1, sẽ không
biết gì về phần 2, 3…
- Thiếu thông tin từ các phần khác, khả năng chồng chéo lên nhau là rất
cao…
Cách làm việc theo nhóm thứ hai: Dọc - theo cách này, thủ lĩnh nhóm sẽ
phải biết năng lực, thế mạnh của các thành viên. Nhận một đề tài, phân chia theo
cách:
- Ai viết đề cương? Làm bảng phân công công việc. Hầu hết là nhóm
trưởng.
- Ai tìm tài liệu?
- Ai xử lý tài liệu?
- Ai viết bài?
- Ai phản biện lại bài viết, tài liệu của nhóm?
- Ai chuẩn bị câu hỏi, phản biện nhóm khác.
- Ai thư ký?
12
Ưu điểm:
- Mỗi thành viên đều nắm rõ chủ đề thảo luận.
- Phát huy được thế mạnh của mỗi thành viên.
- Rèn luyện thêm một số kỹ năng mềm như: Xây dựng kế hoạch nhóm,
phân công công việc…
Nhược điểm:
- Đòi hỏi năng lực của thành viên cao.
- Năng lực quản lý của thủ lĩnh nhóm.
Cách làm việc theo nhóm thứ ba: Tất cả - cách này là các thành viên trong
tất cả các nhóm đều phải làm, nộp hết tất cả các đề tài của môn học.
Ưu điểm:
- Thành viên biết hết kiến thức.
- Sử dụng tối đa thời gian.
Nhược điểm:
- Mất thời gian nhiều, công sức nhiều.
- Dễ gây tình trạng chép bài của nhau.
Tóm lại, có nhiều hình thức chia nhóm khác nhau, mỗi một hình thức có đặc
điểm và ưu thế riêng. Vì vậy trước khi quyết định chia nhóm theo hình thức nào,
GV nên dựa vào mục tiêu bài học, loại bài học, không gian học tập, trình độ, sở
trường của HSSV.
Trong quá trình dạy học bằng PPTLN, thiết nghĩ hình thức chia phổ biến
nhất vẫn là cách chia thứ nhất - chia ngẫu nhiên. Song để cho nhóm chia ngẫu
nhiên hạn chế những nhược điểm của nó thì người GV cần phải chú ý đến hai vấn
đề:
- Một là nhiệm vụ được giao cho mỗi nhóm phải có cả các yêu cầu khó, dễ
khác nhau.
- Hai là phải điều hành sao cho mọi thành viên của nhóm đều phải tích cực
hoạt động.
13
1.1.2. Phương pháp thảo luận nhóm và các hình thức thảo luận nhóm
1.1.2.1. Khái niệm về phương pháp thảo luận nhóm
Xuất phát từ tính chất tham gia hợp tác của nhiều người để cùng giải quyết
một vấn đề của bài học. Do đó, trong quá trình dạy học, việc vận dụng PPTLN có
thể hiểu theo một số khía cạnh như sau:
Trong cuốn “Học và dạy cách học” do GS. Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên, các
tác giả quan niệm thảo luận là PPDH theo nhóm nhỏ. Mặc dù không cắt nghĩa một
cách cụ thể nhưng các tác giả cho rằng dạy học thảo luận nhóm là một phương
pháp nhưng đồng thời là một hình thức dạy học được mong đợi nhất trong các nhà
trường hiện nay, “là phương pháp mà chuyển một số việc kiểm tra sang cho SV
đảm nhiệm” [24; 238].
Trong cuốn “Giáo dục Đại học- phương pháp dạy và học”, tác giả Lê Đức
Ngọc cho rằng: “thảo luận nhóm là một sự trao đổi ý tưởng, quan điểm, nhận thức
giữa các học viên, để làm rõ và làm giàu sự hiểu biết các nội dung phù hợp với
hoạt động đào tạo” [21; 43].
Theo tác giả Phan Trọng Ngọ: “Thảo luận nhóm là phương pháp trong đó
nhóm lớn (lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên
trong lớp đều được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến
chung của nhóm mình về vấn đề đó” [20; 223].
Có thể nói, về mặt lý luận mỗi tác giả đều có những cách tiếp cận ở các góc
độ khác nhau, cách gọi khác nhau, tuy nhiên tựu trung lại đều thống nhất quan
điểm PPDH thảo luận nhóm chính là phương pháp học tập hợp tác, tức là ở đó có
sự hợp tác giữa thầy và trò, giữa trò và trò để giải quyết một nhiệm vụ học tập mà
mỗi cá nhân không đủ khả năng hoàn thành, cần có sự hợp tác của nhiều người. Từ
những quan điểm trên theo chúng tôi: PPDH thảo luận nhóm là một PPDH, trong
đó lớp học được chia thành các nhóm nhỏ để SV trong nhóm tích cực, chủ động
thảo luận những nhiệm vụ học tập dưới sự hướng dẫn điều khiển của GV.
14
1.1.2.2. Các hình thức thảo luận nhóm
Trong QTDH theo nhóm, thảo luận nhóm là khâu cơ bản, chủ yếu, là giai
đoạn quan trọng của toàn bộ quá trình. Thảo luận nhóm chính là sự bàn bạc, trao
đổi ý kiến, trình bày quan điểm mỗi cá nhân về một vấn đề học tập dưới sự tổ
chức, hướng dẫn của GV. Thảo luận nhóm là một hình thức dạy học phát huy tính
sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu của HS. Thông qua PP dạy
học thảo luận nhóm sẽ phát huy được tính tích cực, sáng tạo làm cho HS thật sự là
chủ thể, là trung tâm của quá trình dạy học. PPTLN có chức năng nhận thức hết
sức quan trọng trong dạy học, vì thế để phát huy tác dụng của PPTLN cần phải có
hình thức chia nhóm để tiến hành cho phù hợp. Có nhiều hình thức thảo luận
nhóm, hiệu quả của chúng tùy thuộc vào ý đồ và tính chất sử dụng của người dạy.
Dưới đây là một số hình thức thảo luận nhóm phổ biến:
- Nhóm nhỏ thông thường: GV chia lớp học thành các nhóm nhỏ (3 đến 5
người) để thảo luận một vấn đề cụ thể nào đó và nhanh chóng đưa ra kết luận tập
thể về các vấn đề đó. Hình thức này thường được sử dụng kết hợp với các kĩ thuật
dạy học khác trong một bài học, tiết học. Nội dung thảo luận của nhóm thông
thường là các vấn đề ngắn, thời lượng ít (5 đến 10 phút).
- Nhóm rì rầm: Giáo viên chia lớp học thành các nhóm “cực nhỏ”, khoảng
2 - 3 người (thường là cùng bàn) để trao đổi (rì rầm) và thống nhất trả lời một câu
hỏi, giải quyết một vấn đề, nêu một ý tưởng, một thái độ…Để nhóm rì rầm có hiệu
quả, GV cần cung cấp đầy đủ, chính xác các dữ liệu, các gợi ý và nêu rõ yêu cầu
đối với câu trả lời để các thành viên tập trung vào giải quyết. Việc chia lớp thành
những nhóm nhỏ hoặc nhóm “rì rầm” là biện pháp khắc phục “người ngoài cuộc”
làm tăng hiệu quả của PPTLN.
- Nhóm kim tự tháp: Đây là hình thức mở rộng của nhóm rì rầm. Sau khi
thảo luận theo cặp (nhóm rì rầm); các cặp (2 - 3 nhóm rì rầm) kết hợp thành nhóm
4 - 6 người để hoàn thiện một vấn đề chung.
15
- Nhóm đồng tâm (nhóm bể cá): Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm: nhóm
thảo luận và nhóm quan sát (sau đó hoán vị cho nhau). Nhóm nhỏ hơn 6 - 10 người
có nhiệm vụ thảo luận và trình bày vấn đề được giao, còn các thành viên khác
trong lớp đóng vai người quan sát và phản biện. Hình thức nhóm này rất có hiệu
quả đối với việc làm tăng ý thức trách nhiệm cá nhân trước tập thể và tạo động cơ
cho những người trình bày ý tưởng của mình trước tập thể.
- Nhóm khép kín và nhóm mở:
Nhóm khép kín là các thành viên trong nhóm làm việc trong khoảng thời
gian dài, thực hiện trọn vẹn một hoạt động học tập, từ giai đoạn đầu tới cuối cùng.
Nhóm mở là các thành viên có thể tham gia một hoặc vài giai đoạn phù
hợp với khả năng và sở thích của mình. Hình thức này mang lại cho người học
nhiều khả năng lựa chọn vấn đề và chủ động về thời gian, năng lực và sở trường
của mình.
Như vậy, để tiến hành PPTLN, GV cần phải chia lớp học thành nhiều nhóm
nhỏ và sử dụng nhiều hình thức chia nhóm khác nhau. Để việc vận dụng PPDH thảo
luận nhóm có hiệu quả GV cần thực hiện phương châm là sử dụng linh hoạt nhiều
hình thức thảo luận nhóm phù hợp với các tình huống dạy học, đồng thời tích cực
phối hợp nhiều hình thức thảo luận nhóm với nhau.
Thông qua các hình thức thảo luận nhóm, kiến thức môn học của HS sẽ được
củng cố, được đào sâu, mở rộng, bước đầu biết phân tích, phê phán, lập luận dẫn
chứng để bảo vệ ý kiến của mình trước tập thể
Tóm lại, có nhiều hình thức thảo luận theo nhóm, mỗi hình thức có đặc điểm
và ưu thế nổi trội của mình. Tùy thuộc vào tính chất, nội dung của bài học cũng như
các điều kiện dạy học khác mà người GV có thể lựa chọn cho mình một hình thức
thảo luận theo nhóm phù hợp hoặc cũng có thể lựa chọn nhiều hình thức thảo luận
theo nhóm kết hợp với nhau một cách linh hoạt.
16
* Một số yêu cầu khi sử dụng PPTLN:
Một là, chia nội dung bài giảng thành những vấn đề nhỏ, những vấn đề này
được coi là một chủ đề thảo luận.
Hai là, chia lớp học thành nhiều nhóm nhỏ, sử dụng linh hoạt các PPTLN
sao cho phù hợp với từng vấn đề thảo luận.
Ba là, mỗi nhóm đều phải có nhóm trưởng, thư kí để ghi chép và tổng hợp ý
kiến của từng thành viên trong nhóm.
Thứ tư, nên giao cho mỗi nhóm một chủ đề, do đó, cùng một thời điểm có
thể các nhóm sẽ thảo luận được nhiều vấn đề khác nhau.
Thứ năm, các nhóm phải hoàn thành công việc được giao, sau đó nhóm sẽ
báo cáo, trình bày trước lớp để các nhóm khác có thể có ý kiến. Trên cơ sở ý kiến
của các nhóm GV sẽ đưa ra kết luận.
1.1.2.3. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm
* Ưu điểm:
- PPTLN tạo cơ hội tối đa cho mọi thành viên trong nhóm được bộc lộ sự
hiểu biết của mình, giúp HS phát triển khả năng tư duy và diễn đạt (điều này đặc
biệt có ích với HS nhút nhát).
- Tạo cơ hội cho mọi thành viên trong nhóm học hỏi lẫn nhau, tập lắng
nghe ý kiến của người khác một cách kiên nhẫn, lịch sự, tập đánh giá ý kiến người
khác một cách độc lập.
- Giảm bớt tính chủ quan, phiến diện, tăng tính khách quan khoa học trong
kiến thức của HS.
- Hình thành thói quen tương tác trong học tập, tăng năng lực hợp tác và
không khí hiểu biết, đoàn kết, tin cậy lẫn nhau.
- Kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm.
- Cải thiện mối quan hệ thầy - trò, trò - trò, GV có thông tin phản hồi từ HS
để điều chỉnh việc dạy của thầy, việc học của trò đồng thời tăng cường mối giao
cảm thầy trò, khiến cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn hơn...
17
Tuy nhiên, khi tìm hiểu thực trạng dạy học môn Chính trị ở Trường Cao
đẳng Cần Thơ, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh những ưu điểm, PPTLN cũng bộc lộ
những hạn chế nhất định cần được khắc phục.
* Hạn chế:
- Về phía giáo viên: Khi vận dụng PPTLN, GV còn hạn chế ở một số thao
tác sau:
Thứ nhất, thao tác lựa chọn vấn đề thảo luận: Việc lựa chọn vấn đề TL
chưa hấp dẫn nên chưa khơi dậy tính tích cực của HS. Có những vấn đề thảo luận
quá khó hoặc quá dễ so với trình độ của HS. Lại có trường hợp lựa chọn chủ đề
phù hợp trình độ đối tượng nhưng nội dung vấn đề lại quá khô khan, không phù
hợp với đặc điểm tâm lý của HS. Việc lựa chọn vấn đề thảo luận là khâu then chốt
quyết định sự thành bại của PP này. Vấn đề không hay, không phù hợp với trình độ
HS sẽ không huy động, thu hút được HS tập trung thảo luận, nếu có thì cũng chỉ
mang tính chất đối phó.
Thứ hai, thao tác chia nhóm: GV chưa xác định được số lượng nhóm
trong một lớp, số lượng HS trong một nhóm. Cho nên, có trường hợp chia nhóm
quá lớn hoặc quá nhỏ, không phù hợp với vấn đề cần thảo luận và đặc điểm của
lớp học.
Thứ ba, thao tác chọn nhóm trưởng: Nhóm trưởng không do nhóm tự
bầu hoặc luân chuyển giữa các thành viên trong nhóm mà do GV chọn một HS khá
trong nhóm chuyên trách. Điều này khiến cho các HS khác trong nhóm mất đi cơ
hội thể hiện mình cũng như cơ hội rèn luyện năng lực quản lý, năng lực trình bày
vấn đề trước nhóm và tập thể lớp.
Thứ tư, thao tác giao nhiệm vụ: GV giao nhiệm vụ chưa rõ ràng, cụ thể.
Do đó, HS không hiểu rõ nhiệm vụ của nhóm là cần phải làm gì, trong thời gian
bao lâu, cách thức thực hiện như thế nào.
Thứ năm, thao tác quan sát, hỗ trợ HS khi thảo luận: Thông thường,
các lớp đều có số lượng HS khá đông (khoảng 50 em). Một số GV khi giao nhiệm
18
vụ xong thường ngồi tại chỗ nên không quan sát, bao quát hết được HS trong lớp
làm gì trong thời gian thảo luận, dẫn tới tình trạng có HS làm việc riêng, nói
chuyện trong thời gian này. GV cũng không nắm bắt được những khó khăn, lúng
túng của HS trong quá trình thảo luận để có sự gợi ý, hỗ trợ kịp thời.
Thứ sáu, thao tác tổng kết. Sau khi viết phương án trả lời ra giấy, nhóm
trưởng thay mặt nhóm đọc kết quả thảo luận trước lớp hoặc viết lên bảng. GV gọi
HS khác nhận xét, bổ sung. GV kết luận. Thao tác này được lặp đi lặp lại khá đơn
điệu, nhàm chán.
- Về phía HS
HS hầu như không được giao nhiệm vụ về nhà chuẩn bị trước cho TLN
nên có phần bị động trong quá trình thảo luận trên lớp. Mặt khác, nếu được giao
nhiệm vụ trước thì HS cũng không chuẩn bị, hoặc chuẩn bị mang tính đối phó.
Trong thời gian thảo luận, chỉ có số ít HS làm việc thật sự (nhóm
trưởng và HS khá, giỏi trong nhóm), còn lại các em thường ngồi chơi, nói chuyện,
làm việc riêng. Hiện tượng độc diễn cá nhân bên cạnh “người chầu rìa”, người
ngoài cuộc” diễn ra khá phổ biến, kể cả khi có người dự giờ trong lớp. HS không ý
thức được sự cần thiết phải hợp tác để chiếm lĩnh tri thức nên nhiều khi các em
biến hoạt động TLN thành cơ hội để tán gẫu, lãng phí thời gian.
Câu trả lời của HS thường lặp lại những vấn đề trong giáo trình, thiếu
sự sáng tạo.
Với những chủ đề có nội dung phong phú, hấp dẫn HS dễ đi chệch
hướng, tản mạn do theo đuổi ý tưởng riêng.
TLN thường gây ồn ào, ảnh hưởng tới lớp khác.
19
1.1.3. Sự kết hợp giữa PP TLN với các PPDH khác góp phần khắc phục những
hạn chế của PPDH truyền thống
Mỗi PPDH đều có những mặt mạnh và hạn chế nhất định. Để phát huy được
những ưu điểm của các PPDH và khắc phục được những nhược điểm của nó nhằm
mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học, chúng ta cần phải biết kết hợp một
cách linh hoạt các PPDH lại với nhau một cách hài hòa, phù hợp với từng mục tiêu
và nội dung của từng bài học.
- PPTLN kết hợp với PP thuyết trình, diễn giảng: Khi kết hợp với PPTLN thì
PP thuyết trình, diễn giảng không còn giữ chức năng là cung cấp thông tin. Sử
dụng PP thuyết trình, diễn giảng để hướng dẫn HS cách thức làm việc, gợi ý một
số tư liệu phục vụ cho quá trình thảo luận để giải quyết các vấn đề.
- PPTLN kết hợp với PP nêu vấn đề: PP nêu vấn đề là PPDH mà GV xuất phát
từ nội dung cơ bản của bài học để xây dựng các tình huống có vấn đề, sau đó GV
điều khiển HS cách thức giải quyết các vấn đề để tiến tới lĩnh hội kiến thức. Khi
PP nêu vấn đề được kết hợp với PPTLN, thì cả hai PP sẽ hình thành mối liên hệ bổ
trợ cho nhau. Nhờ chia lớp ra từng nhóm nhỏ mà các vấn đề GV nêu ra sẽ được
các nhóm tranh luận, bàn bạc và mổ xẻ một cách sâu sắc, nhiều vấn đề sẽ được
phát hiện và giải quyết.
- PPTLN kết hợp với PP động não: khi GV đưa ra một vấn đề cần thảo luận, bắt
buộc HS phải tự nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin, thu thập các ý kiến khác
nhau về vấn đề đó, sau đó phân tích, đánh giá để rút ra kết luận. Vì vậy khi kết hợp
PP động não với PP TLN sẽ giúp cho HS rèn luyện được những kĩ năng phản ứng
nhanh nhạy đồng thời làm cho không khí lớp học thêm sôi nổi.
Như vậy, khi PPTLN được kết hợp với các PPDH khác sẽ phát huy được tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS. Giúp HS rèn luyện được kỹ năng làm
việc có sự hợp tác và tạo thói quen trình bày quan điểm của mình trước đám đông,
biết vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn, nhằm bồi dưỡng cho HS PP tự
học, tự nghiên cứu.
20
1.1.4.Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm trong việc phát huy tính
tích cực của học sinh
Thảo luận nhóm là một PPDH tích cực, phát huy cao độ vai trò chủ thể của
người học. Đây là phương pháp thỏa mãn nhu cầu hoạt động, nhu cầu tự nhận thức
của HS. Trên cơ sở chú trọng đến hoạt động độc lập của HS, hướng vào HS, phát
huy cao độ tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Trong quá trình thảo luận
nhóm, HS được tự do bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình, lắng nghe ý kiến của
bạn, hợp tác với nhau trong việc giải quyết những nhiệm vụ chung của cả nhóm.
Được tham gia thảo luận, bàn bạc HS chủ động hơn, tích cực hơn trong học tập,
nâng cao tinh thần trách nhiệm với mọi người.
Trong hoạt động chung của nhóm mỗi HS phải đảm nhận một vai trò, một
nhiệm vụ nhất định, họ ý thức rất rõ thành tích cá nhân của bản thân có ảnh hưởng
trực tiếp tới thành tích chung của toàn nhóm. Điều đó buộc HS phải tích cực hoàn
thành trách nhiệm cá nhân của mình, không trông chờ và ỷ lại người khác. Hơn
nữa sự tác động qua lại giữa các HS trong nhóm còn giúp cho HS chiếm lĩnh tri
thức một cách có hiệu quả, khuyến khích HS tranh luận ứng dụng những gì đã học
vào thực tiễn. Nhờ đó mà thẩm thấu và chuyển hoá được những kiến thức đã lĩnh
hội thành vốn kinh nghiệm vững chắc của bản thân.
Khi tham gia vào thảo luận nhóm, HS được tiếp xúc với nhiều cách giải
thích và các chiến lược giải quyết khác nhau cho cùng một vấn đề. Vì vậy, những
hiểu biết của HS không chỉ bó hẹp trong phạm vi cá nhân mà được mở rộng ra rất
nhiều và được xã hội hoá ở mức độ cao. Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể
cùng làm với nhau những công việc mà một mình các em không thể tự làm được
trong một thời gian nhất định.
Thảo luận nhóm rèn luyện cho HS thói quen bạo dạn hoạt bát trước đám
đông, đây là phẩm chất của con người trong xã hội hiện đại: tự chủ, năng động,
sáng tạo.