Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Tìm hiểu công cuộc đổi mới của cộng hoà dân chủ nhân dân lào (1986 2005)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.22 KB, 94 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
----------------------

Nguyễn Thị Ngọc Dung

Tìm hiểu công cuộc đổi mới
của cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào
(1986 - 2005)
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60.22.50

Luận văn thạc sỹ khoa học lịch sử

Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS. Phan Văn Ban
Vinh - 2006


A. Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài:
1. 1. Ngày 2/12/1975, Nhân dân các bộ tộc Lào đã dành đợc thắng lợi
trọn vẹn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Nhà nớc cách mạng và chế
độ Dân chủ Nhân dân ra đời. Nớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào bớc vào
một thời kỳ mới trong tiến trình lịch sử dân tộc: thời kỳ bảo vệ, xây dựng và
phát triển đất nớc.
Từ đó đến nay trong một khu vực đầy biến động tuy có nhiều cơ may
thuận lợi nhng cũng không ít trở ngại khó khăn, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào đã và đang vơn lên giữ vững hòa bình, độc lập tự chủ, phấn đấu vợt qua


nghèo khó và lạc hậu để từng bớc xây dựng đất nớc phát triển theo định hớng
xã hội chủ nghĩa. Dới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, đất nớc Lào đã đạt đợc nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là trong công cuộc đổi
mới đất nớc. Công cuộc đổi mới đất nớc của Lào đợc tiến hành từ năm 1986
đến nay, đã gần 20 năm, đây là thời điểm cần thiết để chúng ta nhìn lại chặng
đờng mà Lào đã đi qua, đánh giá những thành tựu, rút ra những bài học kinh
nghiệm phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nớc mà Lào đang tiến hành,
đồng thời qua đó cũng tìm kiếm những điểm tơng đồng mà Việt Nam có thể
tham khảo trong quá trình xây dựng đờng lối đổi mới đất nớc mình.
1. 2. Mối quan hệ Việt Nam - Lào là mối quan hệ đặc biệt, có cội
nguồn lịch sử. Hai nớc cùng chung biên giới nằm trên bán đảo Đông Dơng
cùng đoàn kết với nhau trong công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nớc.
Năm 1962, Việt Nam và Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, sự
kiện đó càng làm tăng thêm tình thân thiết, hữu nghị giữa hai dân tộc. Do vậy,
việc nghiên cứu, tìm hiểu những chặng đờng phát triển của Lào đặc biệt là
công cuộc đổi mới hiện nay là rất cần thiết, giúp chúng ta hiểu rõ hơn nớc bạn
láng giềng vốn có quan hệ truyền thống lâu đời với Việt Nam. Qua đó góp

2


phần phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong thời kỳ mới. Hơn
nữa, gần đây do yêu cầu đổi mới của Việt Nam, việc nghiên cứu các nớc trong
khu vực đợc chú trọng hơn, đặc biệt là kinh nghiệm phát triển ở những nớc có
hoàn cảnh tơng đồng. Kết quả nghiên cứu về Lào chẳng những có ý nghĩa về
chính trị và khoa học mà còn mang ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Đã từ lâu, Lào ở
vị trí địa lý nằm sâu trong nội địa có nhiều nớc láng giềng bao bọc, không có
đờng biển giao lu Quốc tế, do vậy Lào vẫn thờng bị coi nh một " Khu đệm", "
Hành lang", ngời Phơng Tây ít tin tởng vào triển vọng phát triển và độc lập
về kinh tế của Lào. Trong một số tài liệu báo chí Phơng Tây, Lào bị coi là
"Đất nớc bị lãng quên" (Laos - Forgotten Country). Tổ chức ngân hàng thế

giới còn kết luận: Lào hoàn toàn phụ thuộc vào thế giới bên ngoài để trang trải
các yêu cầu về phát triểnvv
Tình hình đó đòi hỏi sự nỗ lực nghiên cứu, phân tích đánh giá một cách
có hệ thống và khoa học về quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Lào từ giải
phóng đến nay đặc biệt là những thành công trong công cuộc đổi mới, khẳng
định những cố gắng của Đảng và Nhân dân các bộ tộc Lào trong việc phát
triển đất nớc và giữ đúng định hớng xã hội chủ nghĩa.
1. 3. Là ngời giảng dạy bộ môn lịch sử, tôi cũng rất muốn tìm hiểu về
công cuộc đổi mới ở Lào để có nhận thức sâu sắc hơn nớc bạn láng giềng, từ
đó có thể truyền tải cho học sinh những hiểu biết về Lào, giúp học sinh so
sánh với quá trình đổi mới ở Việt Nam và hiểu rõ hơn xu thế đổi mới, hội nhập
quốc tế hiện nay.
Những lý do trên đã khuyến khích chúng tôi chọn đề tài: " Tìm hiểu
công cuộc đổi mới của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (1986 - 2005)" Làm
đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành lịch sử thế giới.
2. Lịch sử vấn đề:
Về công cuộc đổi mới của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã đợc các
vị lãnh đạo Đảng, Nhà nớc Lào đề cập đến trong nhiều văn kiện, nghị quyết,

3


chính sách, báo cáo tổng kết. ở một số hội nghị quốc tế, Chính phủ Lào tham
dự và đã báo cáo về nội dung từng chặng đờng đổi mới của Lào.
Tổng bí th Đảng Nhân dân Cách mạng Lào Cay Xỏn Phôm Vi Hãn đã
có nhiều tác phẩm và phát biểu về vấn đề đổi mới phát triển đất nớc: " Chiến
lợc quá độ lên chủ nghĩa Xã hội", "Cách mạng Lào thực trạng và triển
vọng" ," Một số vấn đề quản lý kinh tế hiện nay ở Lào" Đây đều là những
tác phẩm quan trọng phản ánh nội dung đờng lối và chỉ đạo xây dựng kinh tế,
phát triển xã hội của Đảng và Chính phủ.

Ngoài ra còn có một số luận án tiến sỹ của nghiên cứu sinh Lào bảo vệ
thành công ở Việt Nam: Luận án Phó Tiến Sỹ của Khăm Khẳn Na Pha Vông:
" Hoàn thành đổi mới kinh tế ở Lào để ứng dụng trong khu vực kinh tế đối
ngoại" (Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội 1991) luận án Phó Tiến Sỹ của Sởm
Chít Vi La Sởm:" Đổi mới sự tác động của Nhà nớc nhằm khuyến khích phát
triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào" (Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội 1992) Các đề tài tập trung đi sâu
vào những vấn đề đặt ra của sự phát triển trong thời kỳ đổi mới. Đó là những
vấn đề đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới tác động của Nhà nớc nhằm
khuyến khích phát triển hàng hóa trong nông nghiệpvv.
ở Việt Nam từ giữa những năm 80 trở lại đây, việc nghiên cứu về Lào
đợc đẩy mạnh. Nhiều kết quả nghiên cứu bớc đầu đợc công bố. Những công
trình nghiên cứu của Việt Nam giới thiệu về kinh tế- xã hội của Lào sau năm
1975 đợc đăng trên một số tạp chí nghiên cứu chuyên ngành và kỷ yếu hội
nghị khoa học. Năm 1993 Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp với Trờng Đại Học Tổng Hợp Hà Nội xuất bản cuốn sách: " Quan hệ Việt Lào - Lào
Việt" Trong cuốn sách này, các tác giả đã bớc đầu phản ánh chặng đờng 15
năm hợp tác kinh tế giữa 2 nớc, thực trạng và chiều hớng đi lên của nền kinh
tế và công cuộc đổi mới kinh tế đang diễn ra ở Lào.
Năm 1994 Viện nghiên cứu Đông Nam á đã tập hợp đợc sự tham gia
của các nhà nghiên cứu về Lào, kết quả của quá trình nghiên cứu này là tuyển
tập các bài nghiên cứu của nhiều học giả Việt Nam và Lào trong " Tìm hiểu

4


lịch sử văn hóa Lào tập III", do Nhà xuất bản Khoa học - xã hội xuất bản.
Trong đó đáng chú ý là bài của Trần Cao Thành: " Một số vấn đề thực trạng
kinh tế - xã hội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào" hay "Sự lựa chọn con
đờng phát triển trong quá trình đổi mới của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào" của Dơng Phú Hiệp.

Năm 1995 nhân kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng nớc Lào, công trình
"Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào: 20 năm xây dựng phát triển" của Trần Cao
Thành đã phác dựng bức tranh toàn cảnh nớc Lào và quá trình biến đổi của nó
trong suốt 20 năm (1975 - 1995). Đó là quá trình xây dựng và bảo vệ chính
quyền dân chủ nhân dân từ Trung ơng đến địa phơng, là đờng lối xây dựng đất
nớc và những thành tựu trên các mặt kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng là
những hoạch định chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Đảng, Nhà nớc
Lào, nhất là công cuộc đổi mới các lĩnh vực kinh tế - xã hội với những thành
tựu bớc đầu đạt đợc, con đờng phát triển của Lào trên tinh thần đổi mới đầy
triển vọng và cũng không ít khó khăn thử thách.
Ngoài ra còn có một số luận án Tiến Sỹ, khóa luận tốt nghiệp mà trong
đó có thể kể đến luận án Tiến Sỹ của Trần Cao Thành: " Quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào từ 1975 đến nay" (trờng
Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội 1996). Luận án đã đi sâu
nghiên cứu sự phát triển kinh tế - xã hội của Lào từ 1976-1996 , từ khởi điểm
về kinh tế xã hội, công cuộc xây dựng và phát triển đất nớc sau chiến tranh,
Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào phải trải qua nhiều bớc đi và hình thức quá
độ, song nhờ giữ vững đợc sự ổn định chính trị, từng bớc phá vỡ thế bị cô lập,
phát huy tiềm năng bên trong, kết hợp với các nhân tố thuận lợi quốc tế, Lào
đã đạt đợc nhiều thành tựu trên con đờng xây dựng và phát triển đặc biệt là từ
1986-1996.
Nhìn chung những công trình nghiên cứu, những bài viết đã đề cập đến
sự phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào từ năm
1975 đến nay, trong đó cũng đã đề cập đến công cuộc đổi mới của Lào, song
sự đề cập đó còn đứt đoạn, rời rạc ở từng lĩnh vực mà cha đi sâu, xem xét công

5


cuộc đổi mới ở Lào một cách có hệ thống từ những nhân tố tác động đến sự

hình thành đờng lối đổi mới, quá trình hình thành và hoàn thiện nội dung đổi
mới, những thành tựu đạt đợc trong quá trình đổi mới đó của Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào. Chính vì lẽ đó cho nên, nghiên cứu công cuộc đổi mới của
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào bằng một công trình khoa học đầy đủ là
điều cần thiết.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu:
3. 1. Đối tợng nghiên cứu:
Đối tợng nghiên cứu của luận văn là: Công cuộc đổi mới của Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào (từ 1986 - 2005) những nội dung sẽ đợc đề cập ở đây
gồm: những nhân tố tác động đến sự hình thành đờng lối đổi mới, quá trình
hình thành và phát triển của đờng lối đổi mớ,i những thành tựu đạt đợc trong
quá trình đổi mới Lào trong gần 20 năm (1986 - 2005).
Qua các nội dung đó, luận văn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào đối với quá trình lãnh đạo đất nớc, đặc biệt là từ
năm 1986 đến nay nhằm đa nớc Lào tránh khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng
và phát triển đi lên.
3. 2. Phạm vi nghiên cứu.
- Giới hạn không gian:Đề tài đi sâu nghiên cứu công cuộc đổi mới của
một chủ thể chính trị ở khu vực Đông Nam á là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào.
- Giới hạn thời gian: Luận văn dành trọng tâm nghiên cứu một cách
tổng thể về quá trình đổi mới của Lào từ năm 1986 đến 2005. Đồng thời luận
văn có khái quát tình hình của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào giai đoạn trớc
năm 1986, nhằm đảm bảo liên tục, logic và thống nhất của đề tài nghiên cứu.
4. Nguồn t liệu sử dụng trong luận văn:
Ngoài việc sử dụng một số tài liệu lý luận của Mác - Lê nin làm cơ sở
lý luận, tài liệu chủ yếu của đề tài đợc khai thác ở các nguồn sau.

6



- Các văn kiện của Đảng Nhân dân cách mạng Lào , Nhà nớc Lào, các
báo cáo Chính trị qua các kỳ Đại hội, các Nghị quyết của Ban chấp hành
Trung ơng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
- Các tài liệu dới dạng cáo cáo, biên bản, đợc lu giữ ở vụ Châu á Thái
bình Dơng thuộc Bộ thơng mại và một số tài liệu của Bộ kế hoạch đầu t.
- Các tài liệu dới dạng báo cáo, biên bản, đợc lu giữ ở vụ Châu á Thái
Bình Dơng thuộc Bộ thơng mại và một số tài liệu của Bộ kế hoạch đầu t.
- Các sách đã đợc xuất bản của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn
quốc gia.
- Các bài đợc công bố trên tạp chí Nghiên cứu Đông nam á, nghiên
cứu lịch sử, Tạp chí Kinh tế thế giới, các thông tin trên báo Nhân dân.
- Một số luận án Tiến Sỹ, luận văn Thạc sỹ
5. Phơng pháp nghiên cứu.
5. 1. Về phơng pháp luận: Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở vận dụng
một cách tổng hợp các phơng pháp nghiên cứu, trong đó phơng pháp lịch sử
kết hợp với phơng pháp logíc là phơng pháp chủ yếu. Vận dụng t duy biện
chứng và những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin để xem xét, phân tích
tài liệu liên quan đến luận văn, nhìn nhận đối tợng nghiên cứu trong một chỉnh
thể thống nhất, và đặt chúng trong những điều kiện lịch sử cụ thể và trong sự
vận động phát triển.
5. 2. Về phơng pháp cụ thể:
Để nghiên cứu, đánh giá một cách khoa học về công cuộc đổi mới của
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào luận văn sử dụng các phơng pháp cụ thể nh
sau:
- Phơng pháp thống kê: Kế thừa các tài liệu đã đợc công bố liên quan
đến nội dung đề tài.
- Phơng pháp phân tích những t liệu văn bản, nghị quyết từng thời kỳ
trong công cuộc đổi mới của Lào.


7


- Phơng pháp so sánh, đối chiếu đặt chủ thể nghiên cứu trong xu thế
phát triển của thời đại để thấy đợc công cuộc đổi mới đó là đúng đắn, hợp quy
luật phát triển.
6. Đóng góp của luận văn.
Trên cơ sở su tầm và hệ thống hóa tài liệu, luận văn giới thiệu về quá
trình đổi mới đang diễn ra ở Lào. Qua đó góp phần vào việc nghiên cứu về
con đờng phát triển của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, khẳng định những
kết quả đạt đợc, những nỗ lực của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong
công cuộc đổi mới cũng nh đóng góp của Lào trong việc xây dựng Đông Nam
á hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Luận văn còn khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong sự nghiệp phát triển đất nớc.
7. Bố cục của luận văn:
- Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn đợc bố
cục thành 3 chơng.
Chơng 1:

Những nhân tố tác động đến sự hình thành đờng lối đổi mới của Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào.

Chơng 2:

Đờng lối đổi mới của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

Chơng 3:

Thành tựu trong công cuộc đổi mới (1986-2005)


B. nội dung
Chơng 1:
Những nhân tố tác động đến sự hình thành đờng lối
đổi mới của cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào.

8


1. 1. Thực trạng kinh tế - xã hội của Lào trớc đổi mới.
1. 1. 1 Những thuận lợi cơ bản
Ngày 2/12/1975, Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Lào giành thắng lợi
trọn vẹn. Nhà nớc Dân chủ Nhân dân ra đời. Nớc Lào bớc vào thời kỳ mới
trong tiến trình lịch sử dân tộc : thời kỳ xây dựng và bảo vệ chế độ Dân chủ
Nhân dân.
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào ra đời và trởng thành trong chiến tranh
cách mạng là lực lợng duy nhất lãnh đạo toàn dân tiếp tục sự nghiệp cách
mạng trong điều kiện và hoàn cảnh mới. Nhà nớc Dân chủ Nhân dân đợc sự
ủng hộ của toàn thể nhân dân các bộ tộc Lào, có vai trò và uy tín ngày càng
lớn. Hệ thống chính trị nớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào mang tính
thống nhất cao, thể hiện quyền lực nhân dân, phát huy vai trò và quyền lợi của
quần chúng lao động. Nhân dân các bộ tộc dù sắc tộc và trình độ phát triển
khác nhau đều có tinh thần yêu nớc, đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống
nhất. Chiến tranh kết thúc, đất nớc thống nhất, mọi tiềm năng, nguồn lực và
thế mạnh của các vùng lãnh thổ đợc tập trung do Nhà nớc Cách mạng và
nhân dân lao động làm chủ. Sự nghiệp xây dựng đất nớc theo mục tiêu hòa
bình, độc lập, dân chủ, thống nhất, phồn vinh và tiến bộ xã hội, đợc sự ủng hộ
của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là sự giúp đỡ có hiệu quả của Liên Xô, Việt
Nam và nhiều nớc xã hội chủ nghĩa, của mối quan hệ hữu nghị và đoàn kết
đặc biệt Lào - Việt.
Ngay trong những năm đầu xây dựng chế độ xã hội mới, Cách mạng đã

giành đợc nhiều thành tựu. Chính quyền các cấp đợc củng cố vững mạnh.
Công tác an ninh chính trị và quốc phòng đợc đặc biệt chú ý, nhằm bảo vệ và
phát triển những thành quả cách mạng. Sản xuất công nông nghiệp phục hồi
và có bớc phát triển. Quan hệ đối ngoại tiếp tục đợc duy trì và mở rộng. Đời
sống nhân dân từng bớc ổn định, có chiều hớng cải thiện. Cơ cấu xã hội có
nhiều biến đổi sâu sắc.
1. 1. 2 Những khó khăn thách thức.

9


Tuy đã giành đợc độc lập trọn vẹn, chính quyền thuộc về nhân dân, nhng đất nớc phải đối phó vớí một loạt khó khăn: Tình trạng kinh tế - xã hội ở
vùng giải phóng cũ và vùng giải phòng mới không đồng nhất. Cơ sở kinh tế là
sản xuất nông nghiệp. Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất rất lạc hậu, yếu
kém, tồn tại nhiều loại hình sản xuất mang tính chất tự nhiên, tự cấp tự túc.
Sau chiến tranh, Lào thiếu hụt 35% nhu cầu lơng thực, phải nhập khẩu 80 100 nghìn tấn gạo. Công nghiệp Lào rất nhỏ bé, phiến diện, chủ yếu thuộc sở
hữu t nhân, bị chiến tranh kìm hãm. Hệ thống giao thông vận tải, thông tin
liên lạc yếu kém, không thống nhất. Sản xuất đình trệ, lơng thực, hàng tiêu
dùng thiết yếu, thuốc men v. v thiếu nghiêm trọng. Các cửa khẩu thông thơng với thế giới bên ngoài qua Thái Lan bị đóng. Thu nhập quốc dân theo đầu
ngời đạt 70 - 80 USD. Tình trạng mù chữ còn phổ biến, chiếm 60% dân số.
Hậu quả cuả chiến tranh và chế độ cũ về kinh tế quân sự, văn hóa, xã hội rất
nặng nề. Cạnh đó, tình hình chính trị và quân sự trong khu vực cha vào thế ổn
định. Đất nớc trong tình trạng vừa có hòa bình vừa phải lo đối phó với âm mu
và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
Thực trạng kinh tế- xã hội đặt ra vấn đề là phải nhanh chóng khắc phục
hậu quả chiến tranh, khôi phục và cải tạo nền kinh tế, tạo lập ra những cơ sở
kinh tế - xã hội của chế độ xã hội mới thống nhất trong cả nớc.
Trong những năm sau giải phóng, xuất phát từ đặc điểm, bối cảnh tình
hình trong nớc và thế giới, Đảng và Nhà nớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào đã lãnh đạo nhân dân các bộ tộc phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn,

xây dựng và phát triển đất nớc theo đờng lối tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa. Từ năm 1976 đến năm 1985,
Lào đã trải qua 2 năm khôi phục và cải tạo sau chiến tranh (1976 - 1977), 3
năm thực hiện kế hoạch khôi phục, cải tạo và xây dựng phát triển văn hóa
(1978 - 1980)và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ nhất (1981
- 1985). Sự phát triển trong giai đoạn này là kết quả của quá trình khôi phục,
cải tạo và xây dựng kinh tế sau chiến tranh, giữ vững độc lập dân chủ và chính
quyền cách mạng, thiết lập những nhân tố mới của chế độ mới với sự ủng hộ

10


giúp đỡ tích cực của Liên Xô, Việt Nam và nhiều nớc trong cộng đồng thế
giới.
Những cải biến nhằm khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh, cải tạo và
phát triển kinh tế - xã hội theo định hớng xã hội chủ nghĩa đợc tiến hành. Việc
chuyển biến chế độ sở hữu về t liệu sản xuất đợc coi là điểm xuất phát cho sự
chuyển biến chung của toàn bộ nền kinh tế trong nhiệm vụ thống nhất kinh tế
ở phạm vi cả nớc và cải tạo nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc. Vì vậy,
quốc hữu hóa công nghiệp thơng nghiệp và tập thể hóa nông nghiệp ở những
năm 1976 - 1979 đợc coi là biện pháp cải tạo kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên,
xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế xã hội chủ nghĩa dới hai hình thức toàn dân
và tập thể.
Nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội đợc xây dựng và tổ
chức thực hiện theo cơ chế kế hoạch hóa, tập trung hành chính, bao cấp.
Trong xây dựng kinh tế sau chiến tranh việc quản lý theo kiểu động viên, cấp
phát, giao nộp đã không thích ứng với hoàn cảnh đất nớc. Dân số ít, chiến
tranh làm xáo trộn phân bố dân c một cách phi tự nhiên. Nguồn nhân lực đợc
đào tạo trong chế độ cũ rất hạn chế. Một bộ phận lớn trí thức của chính quyền
Viêng Chăn đã bỏ chạy ra nớc ngoài. Vì thế, nguồn nhân lực, nhất là nhân lực

có trình độ kỹ thuật và quản lý thiếu nghiêm trọng. Cơ sở hạ tầng về giao
thông và thông tin liên lạc rất yếu kém. Cơ cấu kinh tế cha hoàn chỉnh, còn
tách rời nhau. Kinh tế nông nghiệp còn trong trạng thái tự cấp tự túc, lệ thuộc
vào thiên nhiên. Hạn hán, lũ lụt liên tiếp xảy ra gây thiệt hại nghiêm trọng đến
sản xuất. Công nghiệp thiếu nhiều ngành quan trọng thiết yếu, tập trung ở
khu vực Viêng Chăn. Vì vậy việc quản lý kinh tế tập trung hành chính đối với
một nền kinh tế tự cung tự cấp đã làm cho các sức sản xuất không đợc giải
phóng. Tiềm năng của các thành phần kinh tế không đợc phát huy. Kinh tế
chậm phát triển. Mâu thuẫn giữa cung và cầu gay gắt. Nhập siêu và nợ nớc
ngoài tăng. Đời sống nhân dân chậm đợc cải thiện. Nông dân một số nơi
phản ứng lại chính sách hợp tác hóa, nhiều ngời bỏ đất nớc chạy ra nớc ngoài.
Trong khi đó, Thái Lan lại bao vây kinh tế, đóng cửa biên giới với Lào. Xung

11


đột khu vực giữa Việt Nam, Cămpuchia và Trung Quốc xảy ra trầm trọng.
Tình hình chính trị, an ninh ở nhiều nơi có diễn biến phức tạp.
Trớc những thách thức kể trên, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào kịp thời
khắc phục chủ trơng nóng vội tập trung cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Tại Hội nghị trung ơng Đảng lần thứ VII (khóa II) năm
1979, Tổng bí th của Đảng Cay Xỏn Phôm -Vi Hãn đã đề xuất đờng lối
chuyển nền kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên sang kinh tế sản xuất hàng hóa
thông qua việc sử dụng hình thức của chủ nghĩa t bản - Nhà nớc . Vận dụng t
tởng chính sách kinh tế mới (NEP) của Lê nin vào thực tiễn, nhiều chủ trơng,
chính sách kinh tế đợc sửa đổi. Thơng nghiệp đợc coi là " mắt xích chính".
Các hoạt động nội ngoại thơng của mọi thành phần kinh tế đợc mở rộng hơn
nhằm khắc phục sự khan hiếm hàng hóa. Nhiều chỉ thị, chính sách mới coi
trọng lợi ích của ngời lao động, khuyến khích sản xuất, đẩy mạnh năng lực
xuất khẩu, trong đó có chính sách giá mới, phát triển kinh tế gia đình, hợp tác

nông dân trên tinh thần tự nguyện v. v
Sự lựa chọn bớc đi và phơng pháp thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội quá độ lên chủ nghĩa xã hội gặp hai trở lực cơ bản. Một là nền kinh tế
tự nhiên và nửa tự nhiên, và hai là chính sách thù địch của các lực lợng phản
cách mạng ở bên ngoài cấu kết với bọn phản động ngầm trong nớc.
Thực tiễn cách mạng chỉ ra rằng muốn vợt qua những trở lực trên trớc
hết cần phải củng cố sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân, xây dựng cơ cấu
kinh tế mới phát huy mọi tiềm năng về nhân lực và vật lực của đất nớc, thay
đổi cơ chế quản lý kinh tế, phát huy sự chủ động, sáng tạo và tự chủ của các
đơn vị kinh tế cơ sở, mở rộng thị trờng, đa phơng hóa và đa dạng hóa quan hệ
hợp tác đối ngoại, tranh thủ những điều kiện thuận lợi của quốc tế, nhất là sự
giúp đỡ của cộng đồng các nớc xã hội chủ nghĩa.
Những vấn đề thực tiễn đặt ra đó đã đợc Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào, Chính phủ và nhân dân các bộ tộc Lào bắt đầu giải quyết sau năm 1979.
Ngày 16/2/1979, Mặt trận Lào yêu nớc đổi tên thành Mặt trận Lào xây dựng
đất nớc (Neo Lào Xong Vạt). Mặt trận tiếp tục củng cố và và mở rộng khối
12


đại đoàn kết dân tộc bao gồm cả các thành phần khác nhau nh nhân sĩ, trí
thức, tù trởng, tộc trởng và Hội Phật giáo, phát huy chiến lợc hòa hợp dân tộc,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền và tăng cờng nền quốc phòng toàn dân, chính
quyền cách mạng và chủ quyền quốc gia đợc giữ vững từ cấp cơ sở. Các biện
pháp cho phép t thơng tự do buôn bán hàng Thái Lan, các tỉnh tự do lu thông
hàng hóa nội địa và một phần ngoại thơng, cải cách tiền tệ, nâng giá mua
nông sản, giảm thu thuế nông nghiệp, t nhân hóa một số xí nghiệp đã quốc
hữu hóa v. v
Trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1981-1985),
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã thực hiện quyết tâm tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa và xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên
do môi trờng quốc tế, khu vực cha ổn định , khả năng và điều kiện kinh tế - xã

hội của chế độ mới còn thấp kém đã ảnh hởng không nhỏ đến việc hoạch định
đờng lối chính sách, đến cuộc đấu tranh giữa hai con đờng chủ nghĩa xã hội
hay chủ nghĩa t bản trong t tởng và thực tiễn. Phơng hớng thực hiện cách
mạng xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa của Đại hội
Đảng lần thứ II năm 1972 là cơ sở của những cải biến cách mạng về kinh tế xã hội. Tháng 12 năm 1980 Hội nghị BCH Trung ơng Đảng lần thứ 8 khóa II
đã đề ra các mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội (từ năm 1981 1985) và Hội đồng bộ trởng phê chuẩn, Đại hội Đảng Nhân dân cách mạng
Lào lần thứ III (năm 1982) đã thông qua.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ nhất đợc Đại hội III
của Đảng thông qua là tiếp tục tăng cờng xây dựng quan hệ sản xuất mới. Vì
thế, đến năm 1985, trong cơ cấu thu nhập quốc dân, kinh tế khu vực Nhà nớc
đã tăng lên, chiếm 34,3 %, kinh tế khu vực t nhân giảm, còn 64,7%. Năm
1980, chỉ số đó là 19,8 % của khu vực kinh tế Nhà nớc và 80,2 % khu vực
kinh tế t nhân. Rõ ràng, hiệu quả của kinh tế quốc doanh và tập thể rất thấp.
Tuy Nhà nớc nắm vai trò chủ đạo trong công nghiệp song tỷ trọng công
nghiệp chỉ chiếm 8 - 10% GDP. Sản phẩm công nghiệp không đáp ứng đủ yêu
cầu tiêu dùng tối thiểu. Phạm vi của hợp tác xã chỉ đóng góp 27% tổng sản

13


phẩm nông nghiệp. Khu vực t nhân cá thể còn nắm giữ 77% diện tích đất
trồng trọt và 81,3% số cơ sở kinh doanh.
Những năm 1981 - 1985, cùng với những biến đổi của tình hình thế
giới, nền kinh tế Lào mới phục hồi và bớc đầu phát triển đã bắt đầu suy giảm.
Tốc độ tăng trởng kinh tế thấp và không ổn định. Nếu nh trong những năm
1978 - 1980 tỷ lệ tăng trởng GDP đạt trung bình 7% năm, thì trong các năm
1981 - 1985 tỷ lệ tăng trởng GDP chỉ đạt 5,3%. Nhiều lĩnh vực nh tài chính,
ngân sách,v. vmất cân đối lớn. Lạm phát gia tăng tới 115% vào năm 1985.
Mặc dù đã có những cải tiến bớc đầu, nhng mục tiêu và biện pháp thực
hiện các chính sách kinh tế và chính sách xã hội còn nhiều vấn đề cha phù hợp

với thực tiễn. Đất nớc còn nghèo nàn lạc hậu do thiếu động lực kinh tế và xã
hội thúc đẩy - kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên còn chiếm vị trí chủ yếu trong
đời sống kinh tế - xã hội, cơ chế quản lý tập trung bao cấp mặc dù bớc đầu đã
giúp Lào thực hiện các mục tiêu phát triển bằng kế hoạch hóa và còn thô sơ,
cha có hiệu ứng sâu sắc trong thực tiễn ở cơ sở, song cơ chế đó đã kìm hãm sự
phát triển của các thành phần kinh tế, của lực lợng sản xuất trong xã hội.
Kinh tế khu vực nhà nớc còn nhỏ bé, hiệu quả kinh tế kém, có chiều hớng
giảm sút. Sản xuất không đáp ứng đủ tiêu dùng. Cung cầu không cân đối gây
mẫu thuẫn gay gắt. Nhiều lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội còn thấp
kém, giá cả biến động làm cho đời sống xã hội của các tầng lớp dân c chậm đợc cải thiện. Cuộc sống của nhiều bộ tộc miền núi cha thực sự có sự thay đổi
căn bản.
Kinh tế quốc dân thiếu động lực kinh tế và động lực xã hội nên kém
phát triển cơ chế giá bao cấp gây bế tắc trong quan hệ tài chính. Cơ cấu kinh
tế đợc xây dựng tập trung cân đối theo ngành và lãnh thổ không phù hợp với
điều kiện tự nhiên - xã hội và tâm lý dân tộc. Khu vực kinh tế nhà nớc và tập
thể đợc coi trọng cha phát huy hiệu quả. Đầu t trọng điểm thiếu tập trung.
Đầu t vào lĩnh vực xã hội còn thấp và mất cân đối
Tình hình đó làm cho kinh tế hàng hóa chậm phát triển. Sức sản xuất
không đợc giải phóng. Tiềm năng của tất cả các thành phần kinh tế không đợc

14


khai thác và phát huy. Cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
các thành phần kinh tế và quan hệ kinh tế đối ngoại còn tách rời nhau. Kinh
tế tài chính còn yếu kém và không thống nhất. Các công cụ quản lý kinh tế
vận hành kém hiệu quả. Tình trạng nhập siêu và nợ nớc ngoài tăng. Đời sống
Nhân dân, nhất là các bộ tộc miền núi chậm đợc cải thiện.
Mâu thuẫn giữa thợng tầng kiến trúc tiên tiến với hạ tầng cơ sở lạc hâu,
giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất. giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa

chính sách và thực tiễn vẫn còn nhiều tồn tại cơ bản. Mặc dù đất nớc đã đợc
giải phóng song thực trạng nói trên đã làm giảm lòng tin của quần chúng đối
với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của các cơ quan Nhà nớc . Nhìn
chung Lào cha thực hiện đợc mục tiêu do Đại hội lần thứ III đề ra là về cơ bản
ổn định tình hình kinh tế xã hội, ổn định đời sống của Nhân dân. Tại Đại hội
lần thứ IV (năm 1986) Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã phân tích những kết
quả đạt đợc và những mặt tồn tại đó trớc hết là do sai lầm, khuyết điểm trong
hoạt động của Đảng và Nhà nớc trong hoạt động t tởng, tổ chức và công tác
cán bộ của Đảng do cha nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một quá trình lịch sử tơng đối dài, phải trải qua nhiều chặng đờng, do
t tởng chủ quan nóng vội, muốn bỏ qua những bớc đi cần thiết, trong quá trình
thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất mới có những
biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế t bản t nhân thành quốc doanh, về nội dung
cải tạo thờng nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất mà
không coi trọng giải quyết vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối, mặc
dù từ Hội nghị Ban chất hành TW lần 7 (khoá II) năm 1979 cho đến trớc năm
1986, nhiều Nghị Quyết của TW, nhiều quyết định của Đảng và Nhà nuớc về
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã đợc ban hành, song cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp về căn bản cha bị xoá bỏ, cơ chế mới cha đợc thiết lập đồng bộ.
Đại hội nhấn mạnh: ''Khuynh hớng t tởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc
biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối
suy nghĩ hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là
khuynh hớng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hàng
15


nghiêm chỉnh đờng lối và nguyên tắc của Đảng''[12; 24]. Thực tế trên đã đợc
Đảng và Nhà nớc sớm tháo gỡ. chủ trơng mở rộng quy mô sở hữu toàn dân và
tập thể đã đợc kịp thời chấn chỉnh. Lợi ích của ngời lao động, đặc biệt là của

nông dân đợc chú trọng quan tâm.
Trong khi đó, tình hình khu vực và thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp,
vừa căng thẳng, vừa hòa dịu, vừa đối đầu, vừa đối thoại.
ở Đông Nam á, một số bọn phản động trong khu vực và ở Trung Quốc
đang ra sức cấu kết với đế quốc Mỹ và thế lực phản động khác đẩy mạnh
chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống 3 nớc Đông Dơng, chúng ngoan cố phá
hoại cuộc hồi sinh của Nhân dân Cămpuchia, trắng trợn lấn chiếm biên giới
Việt nam và thúc đẩy bọn phản động cực hữu trong giới cầm quyền Thái Lan
gây tình hình căng thẳng, lấn chiếm biên giới phá hoại sự nghiệp xây dựng đất
nớc của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Hệ thống các nớc xã hội chủ nghĩ Đông Âu lâm vào khủng hoảng nhịp
độ phát triển kinh tế của các nớc xã hội chủ nghĩa chậm lại. Nhiều nớc xã hội
chủ nghĩa tiến hành cải tổ, cải cách kinh tế thích nghi với xu thế kinh tế toàn
cầu mới là yêu cầu khách quan tùy đặc điểm và điều kiện cụ thể, mỗi nớc đều
có chính sách, biện pháp thay đổi cơ cấu sản xuất, cải cách cơ chế quản lý,
xác định lại chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại.
1. 2. Những nhân tố bên ngoài.
1. 2. 1. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại.
Cách mạng khoa học - công nghệ là một bớc tiến lớn trên nấc thang tiến
tới các giá trị văn minh của nhân loại. Theo luận điểm của Mác - ăng ghen
lao động, cụ thể là việc cải tiến công cụ sản xuất là yếu tố thúc đẩy xã hội loài
ngời phát triển, là tiêu chí để phân biệt loài ngời với thế giới động vật.
Trong những bớc đi lên của loài ngời đều có dấu ấn đậm nét, nếu nh
không muốn nói là một trong những yếu tố quyết định, là những thành tựu
sáng tạo trong sản xuất. Cuộc Cách mạng Công nghiệp ở thế kỷ XVIII đã
chuyển từ hình thức lao động bằng chân tay sang lao động bằng máy móc, đa
16


loài ngời từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp thì cuộc cách

mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ 2, đợc bắt đầu từ thập kỷ 40 của thế kỷ XX
đã thực sự đa nhân loại vào thời kỳ "Văn minh trí tuệ" với phơng thức lao
động tự động hóa. Những cờng quốc nh Mỹ, Nhật, hay các nớc Tây Âu hùng
mạnh đều xuất phát từ cơ sở này. Đến thập kỷ 70 của thế kỷ XX, cách mạng
khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ đã chứng thực sức mạnh của nó,
khoa học - kỹ thuật - công nghệ trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp và các nớc đều đã nhận thức ra, đầu từ vào khoa học - kỹ thuật - công nghệ là đầu t có
lợi nhất, là yếu tố then chốt để đi lên cùng thời đại.
Những thành tựu của cách mạng Khoa học - công nghệ là những thành
tựu chung của nhân loại. Nó không thuộc sở hữu riêng của một quốc gia nào.
Đó vừa là tiêu chí để các quốc gia đạt tới nhằm hiện đại hóa chính mình, đồng
thời, cũng là con đờng mà các nớc cần phải đi qua nếu muốn vơn lên. Với
những nhận thức nh thế, Cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ trở thành
một bộ phận quan trọng trong chiến lợc phát triển của mỗi quốc gia. Nó
không còn là một hiện tợng thuần túy về khoa học và kỹ thuật mà còn là một
bộ phận tất yếu của sự phát triển xã hội.
Cách mạng Dân chủ Nhân dân Lào sau khi chiến tranh kết thúc (1975),
cũng ở vào tình trạng lạc hậu, kém phát triển nh các nớc thuộc địa, phụ thuộc
ở á - Phi - Mỹ La tinh nói chung. Nền kinh tế vốn đã yếu ớt lại cộng với sự
tàn phá của chiến tranh nên nhìn chung, tình trạng lạc hậu, nền sản xuất nhỏ
lẻ, trình độ thấp là phổ biến. Mời năm (1975 - 1985), Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào tuy đã cố gắng, đã làm đợc nhiều việc song mới chỉ dừng lại ở
thành công của thời kỳ khôi phục sau chiến tranh. Những dấu hiệu của các
giá trị "văn minh hậu công nghiệp" cha thấy xuất hiện. Thực tiễn cho thấy, với
thực trạng kinh tế và trình độ phát triển của Lào lúc này cha cho phép và họ
không thể có đủ điều kiện để sáng tạo. Nếu đi tuần tự, không có những bớc "
đi tắt đón đầu", những bớc chuyển mình tiếp cận thì còn rất lâu, Lào mới đi
kịp cùng thời đại. Mọi sức mạnh của một quốc gia ở thời kỳ hiện đại đều phải
dựa trên một nền tảng kinh tế khoa học - kỹ thuật nhất định. Bất kỳ một nớc

17



nào muốn đi lên đều phải cần đến những thành tựu này. Cộng hòa Dân chủ
Nhân nhân Lào không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, tiềm lực cha cho phép, điều
kiện - kinh tế xã hội cha tạo dựng đợc những nền tảng ban đầu đó, do vậy,
không còn con đờng nào khác là Lào phải cải cách, phải mở cửa, phải đổi mới
để tiếp cận với các giá trị văn minh của nhân loại. Những thành tựu của Khoa
học - kỹ thuật - công nghệ hiện đại đã tạo ra những cơ hội lớn cho các nớc đi
sau, những nớc đang phát triển. Vấn đề còn lại là chính sách phát triển của
Chính phủ các nớc. Trong tác phẩm "Hng thịnh và suy vong của các cờng
quốc" xuất bản năm 1988, Paul Kennedy, nhà sử học Mỹ đã nghiên cứu
nguyên nhân quy luật hng thịnh và suy vong của các nớc lớn trên thế giới
trong 500 năm gần đây. Tác giả nhấn mạnh, các nguồn lực kinh tế, sự phát
triển khoa học - kỹ thuật, sức mạnh quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của
đất nớc, quyết định vị trí quyền lực của đất nớc trong cục diện thế giới. Sự
phát triển hay suy thoái của các yếu tố này tạo nên sự hng thịnh hay suy vong
không chỉ của các cờng quốc mà là nền tảng chung của mọi qiốc gia, chính
điều này đã cho thấy trong t duy phát triển của nhân loại, khoa học - kỹ thuật
luôn là yếu tố nền tảng, then chốt. Với các quốc gia định hớng phát triển Chủ
nghĩa xã hội, khoa học - kỹ thuật đã thực sự mang lại cho con ngời những giá
trị hạnh phúc mới theo đúng, đầy đủ ý nghĩa cao cả của nó. Khoa học - kỹ
thuật đang giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong công cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa. Nó là đòn bẩy then chốt trong việc xây dựng cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy hình thành các quan hệ sản xuất mới, từng bớc xóa
bỏ sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa công nhân và nông dân. Sự
phát triển không đồng đều về kinh tế và văn hóa giữa các khu vực, giữa các
dân tộc trong một quốc gia. Đối với các nớc chậm phát triển, khi tiến lên chủ
nghĩa xã hội, cách mạng khoa học - kỹ thuật đợc coi là một trong ba cuộc
cách mạng (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng văn hóa - t tởng, cách
mạng khoa học - kỹ thuật) quán xuyến suốt cả thời kỳ quá độ, và trong ba

cuộc cách mạng này, nó giữ vai trò then chốt.

18


Cách mạng khoa học - kỹ thuật thúc đẩy công cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa tiến triển nhanh chóng về mọi mặt và ngợc lại, chủ nghĩa xã hội
cũng tạo ra nhiều tiền đề thuận lợi, đầy đủ để khoa học - kỹ thuật phát triển.
Nớc Lào đi ra khỏi chiến tranh trên một nền tảng cơ sở, vật chất kỹ
thuật còn hết sức lạc hậu. Những sự cố gắng của chính phủ Lào và Nhân dân
các bộ tộc Lào trong 10 năm (1975 - 1985) chỉ có thể giữ cho Lào không rơi
vào tình trạng tụt hậu xa hơn mà thôi. Những thành tựu khoa học - kỹ thuật công nghệ hiện đại mà nhân loại đạt đợc, dù là thành tựu chung của loài ngời
song không phải tự nó đến mà phải có những cơ chế đón nhận nó. Cải cách,
mở cửa chính là con đờng đó và cũng chỉ với con đờng này, Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào phải đặt mình vào trong sự vận động chung của thời đại, mới có
cơ hội đón nhận những giá trị văn minh mà nhân loại tạo ra trong quá trình
phát triển của mình để hiện đại hóa đất nớc.
1. 2. 2. Tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ 2 diễn ra
từ thập kỷ 40 của thế kỷ XX đã đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hóa và đa toàn
cầu hoá trở thành một xu thế khách quan, nó đang vận động và phát triển lôi
kéo toàn bộ thế giới vào những quy luật của nó. Cơ hội rất nhiều, thách thức
cũng không nhỏ là thực tế mà xu thế này đang đặt ra cho toàn bộ thế giới nói
chung, đặc biệt là các nớc đang phát triển, bứt phá đi lên hay tụt hậu tùy thuộc
vào đờng lối chính sách của mỗi quốc gia trong việc lực chọn cho mình một
con đờng đi trong trào lu chung đó.
Trớc hết, toàn cầu hóa có tác dụng khơi dậy mạnh mẽ lực lợng sản xuất
phát triển, đa đến sự tăng trởng nhanh, tính chất xã hội hóa cao, làm thay đổi
cơ cấu kinh tế. Nhập cuộc vào xu thế này, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
trớc hết sẽ thay đổi đợc t duy về chiến lợc phát triển. Những t tởng của thời

kỳ nền kinh tế bao cấp, đóng kín sẽ bị phá bỏ, thay thế vào đó là tính năng
động, sự thích ứng của một cơ cấu kinh tế phù hợp với nền kinh tế thế giới.
Sức sản xuất sẽ đợc giải phóng, sự cạnh tranh sẽ tạo đà cho sự phát triển, thực

19


tế đó sẽ mang đến một sức sống mới cho một nền kinh tế lâu nay đang bị bó
buộc trong những t duy của thời kỳ kế hoạch tập trung.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế sản xuất thế giới đã đa đến một
thực tế là: Thị trờng các nớc phát triển ngày càng nhỏ hẹp, nguồn nguyên liệu
ngày càng vơi cạn trong lúc nguồn vốn và công nghệ lại rất dồi dào điều mà
các nớc đang phát triển trong đó có Lào đang khao khát. Do đó, tham gia toàn
cầu hóa, các nớc đang phát triển cũng có cơ hội thu hút ngày càng nhiều vốn
đầu t nớc ngoài. Việc tiếp cận này không chỉ đơn thuần là t bản mà còn là
công nghệ, phơng thức quản lý, t duy. Sự gặp gỡ của hai nhu cầu càng làm cho
dòng chảy về vốn, công nghệ, dịch vụ từ các nớc phát triển và các nớc đang
phát triển ngày càng tăng. Tính theo GDP từ 1986 - 1996, các nớc đang phát
triển đã nhận một nguồn vốn tăng gấp 2 lần. Nếu có một chính sách thông
thoáng trong việc thu hút vốn đầu t nớc ngoài thì cơ hội các nớc đang phát
triển tiếp cận, thu hút FDI là rất lớn và quan trọng. Với các nớc đang phát
triển hoặc kém phát triển nh Lào thì số vốn tích lũy trong nớc là không đáng
kể, do đó, FDI hay ODA là những nguồn cần thiết để tăng cờng nguồn lực đầu
t, đồng thời, đi đôi với các nguồn vốn đó là dịch vụ tiên tiến, hiện đại cùng với
những cam kết có lợi từ bên ngoài mang lại.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng là cơ hội để những quốc gia nh Lào khai
thác mọi nguồn lực trong và ngoài nớc, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp, rút ngắn dần khoảng cách phát triển so
với các nớc tiên tiến.
Toàn cầu hóa làm cho thị trờng mỗi quốc gia đợc mở rộng ra phạm vi

quốc tế, nhờ đó, quan hệ mua bán hàng hóa và dịch vụ tăng lên nhanh chóng.
Thông qua thị trờng mở cửa, các quốc gia có thể trao đổi những thành tựu mới
của khoa học - kỹ thuật hiện đại, làm cho nền khoa học - kỹ thuật và sản xuất
trong nớc phát triển mạnh mẽ, những nớc nh Lào có thể " đi tắt đón đầu" để
tiếp cận những giá trị mới nhất. Các nớc đang phát triển cũng có điều kiện để
khai thác tối đa những thế mạnh của đất nớc, tham gia vào quá trình phân
công lao động quốc tế theo hớng chuyên môn hóa để thu lợi nhuận cao, hình

20


thành cơ cấu kinh tế hiện đại, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nớc,
đồng thời, thu hút những gì cần thiết và có lợi từ bên ngoài phục vụ cho sự
phát triển đất nớc.
Hiện thực thế giới cho thấy, không một quốc gia nào tách ra riêng lẻ mà
có thể phát triển độc lập đợc. Tất cả đều phải nhập cuộc và chung tay giải
quyết những vấn đề mang tính toàn cầu. Trong thời đại lợi ích các nớc đan
xen, dung hợp xâm nhập vào nhau, chỉ có sự liên kết song phơng, đa phơng
mới có thể bảo vệ đợc lợi ích quốc gia và những lợi ích chung toàn nhân loại.
Những nớc có trình độ phát triển thấp nh Lào cần phải lợi dụng xu thế này để
khai thác những tiềm lực bên ngoài, phát huy nội lực để tự làm mạnh chính
mình, đồng thời, cũng từ xu thế này, Lào có thể kết nối với các quốc gia có
trình độ phát triển tơng ứng để hình thành những diễn đàn bảo vệ các lợi ích tơng đồng trớc sự cạnh tranh gay gắt và những mặt trái mà toàn cầu hóa mang
lại bởi một điều dễ thấy là không có một quốc gia đang phát triển đơn lẻ nào
đứng riêng rẽ mà đủ sức chống lại những bất lợi mà các định chế quốc tế có
thể tạo ra.
Toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế còn là điều kiện để tạo ra một môi trờng an ninh ổn định tạo cơ sở cho đẩy mạnh hợp tác kinh tế. Sự gắn bó chặt
chẽ về lợi ích giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia đã hình thành những
quan điểm thiện chí trong việc giải quyết mọi tranh chấp. Bởi rất đơn giản,
không có ổn định chính trị thì không thể có tăng trởng kinh tế, một sự bất ổn

không chỉ gây ra những hậu quả xấu cho một quốc gia mà còn có thể tạo ra
một hiệu ứng "đôminô". Thiện chí để hợp tác phát triển là rất quan trọng, nhất
là, đối với những quốc gia nh Lào, vốn đi lên từ điểm xuất phát thấp, đi sau t
bản phơng Tây nên cần một không gian hòa bình để không những tồn tại mà
còn nhanh chóng bắt kịp các cờng quốc.
Dù vẫn biết rằng, toàn cầu hóa là xu thế có hai mặt song những lợi ích
do nó mang lại là không thể phủ nhận. Hơn nữa, đây lại là một xu thế tất yếu
trong sự phát triển khách quan của văn minh nhân loại. Do vậy, các quốc gia
dù lớn, nhỏ đều phải thích ứng và đón nhận. Nớc Lào không nằm ngoài qui

21


luật đó. Nếu không mở cửa, cải cách, không những Lào không có đợc những
lợi thế từ tiến trình này mang lại, không tiếp cận đợc những giá trị văn minh
mới mà hơn thế, Lào đã tự đặt chính mình ra ngoài sự vận động chung của
nhân loại. Xét ở góc độ chính trị, những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, xu thế
hòa hõan, đối thoại đã xuất hiện trên cục diện chính trị thế giới. Các quốc gia
đã nhận thức một điều, chỉ có hội nhập, đồng thuận mới có thể cùng nhau tồn
tại, phát triển, cùng nhau khai thác những lợi thế của mình, của đối tác trên cơ
sở tôn trọng, bình đẳng với nhau, cùng nhau có lợi. Sự vận động chung của xu
thế toàn cầu đã tác động mạnh mẽ lên nền kinh tế - chính trị Lào. Dù rằng,
lúc đầu nó cha phá vỡ đợc những ràng buộc của cơ chế cũ song trong lòng nó
đã ấp ủ những định hớng phát triển mới. Các nhà hoạch định chính sách ở
Lào cũng đã nhận ra sức mạnh và sự tất yếu của toàn cầu hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế nên đã có sự thay đổi trong t duy. T tởng đổi mới, mở cửa đang bắt
đầu hình thành ở Lào, trớc hết là do chính thực tiễn phát triển ở Lào đòi hỏi và
đồng thời, nó cũng bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi những lợi ích của xu thế phát triển
mới toàn cầu.
1. 2. 3. Sự thay đổi trong t duy về xây dựng xã hội chủ nghĩa ở thời đại mới.

Thế kỷ XX đầy biến động, chứa đựng cả những sự kiện bi thảm lẫn
hùng tráng . Trong một bức tranh đầy màu sắc ấy, xét trong chỉnh thể, toàn bộ
cũng nh trong cái cốt lõi, căn bản và chủ đạo của nó là sự hình thành, vận
động của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới,
các nớc xã hội chủ nghĩa đã giành đợc những thành tựu to lớn. Trong đó, có
cả những thành tựu kỳ diệu về phát triển khoa học - kỹ thuật, giáo dục, chính
sách xã hội và phúc lợi công cộng. Thành tựu ấy, một mặt chứng minh tính u
việt của chế độ, là niềm tin và hy vọng cho cả loài ngời tiến bộ, đồng thời,
khẳng định định hớng xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hớng đi của thời đại.
Những thành tựu đó, dĩ nhiên còn xa mới tơng xứng với quy mô, tầm vóc lịch
sử của chủ nghĩa xã hội trong trình độ phát triển thuần thục, hiện đại của nó
song những gì mà các nớc xã hội chủ nghĩa đã làm đợc, Nhân dân các nớc xã
hội chủ nghĩa đã đợc hởng thụ và cảm nhận là không thể phủ nhận. Do nhiều

22


nguyên nhân sâu xa cũng nh trực tiếp, chủ nghĩa xã hội hiện thực với mô hình
Xô Viết từ nửa sau những năm 70 đã phát sinh những dấu hiệu trì trệ khủng
hoảng và có xu thế tụt hậu không chỉ so với chủ nghĩa t bản, mà còn là cả xu
thế vận động chung của thời đại. Thực trạng đó đòi hỏi phải có một nhận thức
mới về xây dựng xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới - thời đại mà xu thế
chính trị thế giới đang chuyển sang đối thoại, hòa bình hợp tác, xu thế toàn
cầu hóa ngày càng mạnh mẽ dới sự phát triển, nhanh chóng sự tác động mạnh
mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Chủ nghĩa xã hội hiện thực
trên cả hai bình diện lịch sử và lôgíc vẫn tồn tại những giá trị cơ bản của nó
song những giá trị ấy cần không ngừng đợc đổi mới và hiện đại hóa để hớng
tới một sự phát triển bền vững. T duy về xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa
cần đợc thay đổi và Trung Quốc là nớc vận động đầu tiên trong hệ thống bằng
một nghị quyết của ban chấp hành Trung ơng Đảng ở Hội nghị tháng 12/1978.

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào cũng nh Việt Nam và các quốc gia xã hội chủ
nghĩa khác cũng đang đứng trớc những vận hội ấy.
Thứ nhất, cần phải cải cách và đổi mới để khắc phục khủng hoảng, kém
phát triển, xác lập sự ổn định để phát triển.
Thứ hai, hình thành nhận thức lý luận mới về chủ nghĩa xã hội , một
chủ nghĩa xã hội với kinh tế thị trờng, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, chấm
dứt thời kỳ phát triển khép kín, tình trạng "ốc đảo" bịêt lập để mở cửa, hội
nhập quốc tế, hợp tác song phơng và đa phơng trong một thế giới toàn cầu hóa
với sự hối thúc giải phóng lực lợng sản xuất và chất lợng các nguồn lực đang
phát triển. Các quan niệm về xây dựng xã hội chủ nghĩa trong truyền thống
cần đợc xem xét để đổi mới cả trong nhận thức lý luận lẫn giải pháp và chính
sách thực tiễn. Tất cả những gì thuộc về giá trị của chủ nghĩa xã hội trong
thời đại mới đều tất yếu phải đợc nhận thức và đánh giá bởi thực tiễn đời sống
thế giới đơng đại ngày nay. Theo đó, kế thừa di sản là một sự kế thừa sáng
tạo, có chọn lọc để làm sống động và phát triển di sản. T duy nh vậy là phù
hợp với chính bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
bởi di sản mà các nhà kinh điển để lại cho hậu thế chứa đựng cái tinh hoa, cốt

23


lõi là phép biện chứng. Đó là biện chứng của phát triển, biện chứng về phát
triển, nó gợi ý về phơng pháp chứ không áp đặt những khuôn mẫu cứng nhắc,
giáo điều. Nh thế, kế thừa và trung thành với di sản không giống nh ngời giữ
ngân khố, theo cách nói của Lênin, nó đòi hỏi có những ngời kế thừa một sự
nỗ lực vợt bậc về t duy khoa học phân tích và phê phán để không biến di sản
thành giáo điều, không giáo điều hóa di sản, làm nghèo di sản và suy yếu hoặc
kìm hãm năng lực sáng tạo của những con ngời hành động. Sáng tạo đảm bảo
cho kinh tế tăng trởng, phồn vinh nhờ không ngừng dựa trên tiến bộ khoa học
- công nghệ, nhờ cải cách quản lý, điều chỉnh chính sách, chủ động hợp tác và

cạnh tranh quốc tế. Nếu giáo điều làm hỏng hoặc giam hãm phát triển, dẫn tới
ngõ cụt thì sáng tạo là chất kích thích và đảm bảo cho phát triển.
Kế thừa di sản còn là tự nhận thức, tự đánh giá, phê phán chính mình để
lọc bỏ khỏi mình những nhận thức không đúng hoặc giờ đây không còn đúng
nữa do nhận thức cũ đã bị thực tiễn ở trình độ mới vợt qua. Tự phê phán cũng
đồng thời đòi hỏi nhu cầu phê phán với tất cả ý nghĩa lành mạnh, khoa học
của nó hớng tới đối tợng đợc nhận thức, bởi cho dù đó là học thuyết, chủ
nghĩa đỉnh cao thì cũng là cái phản ánh thời đại, bị chế ớc bởi những điều
kiện, những giới hạn của thời đại. Tôn trọng lý luận khoa học thì phải đối xử
với nó nh là những chân lý tơng đối, không tuyệt đối hóa nó thành một cái bất
biến. Nhận thức con đờng đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa không phải là
thay đổi mục tiêu mà là đổi mới về phơng pháp t duy, hành động để phù hợp
với thời đại mới và để đạt mục tiêu.
Nh vậy, thực tiễn cuộc sống đòi hỏi phải đổi mới về t duy lý luận.
Những nớc nh Lào, Việt Namđều đã nhận thức đợc một vấn đề là: Xây dựng
xã hội chủ nghĩa không trải qua chủ nghĩa t bản không có nghĩa là phủ nhận
toàn bộ chế độ kinh tế - xã hội t bản chủ nghĩa. Chỉ bỏ qua những quan hệ
bóc lột, kiến trúc thợng tầng của nó, còn những giá trị mà nhân loại sáng tạo
ra dới thời kỳ t bản chủ nghĩa cần phải đợc kế thừa, thậm chí, còn phải vận
dụng một số thành tựu của chủ nghĩa t bản , không chỉ về khoa học công nghệ
mà còn cả t duy nữa để tạo dựng những nền tảng vật chất, kỹ thuật cho chủ

24


nghĩa xã hội . Năm 1921, Lênin đã đa ra chính sách kinh tế mới (NEP), chấp
nhận một nền kinh tế hàng hóa có sự điều tiết của Nhà nớc , công nhận sự
cùng tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác nhauđã nhanh chóng mang
lại những kết quả. T duy đó, cơ chế đó là những định hớng đúng cho việc xây
dựng một nền kinh tế - xã hội ở thời kỳ quá độ. ở Trung Quốc, công cuộc cải

cách đợc bắt đầu từ 1978 cho đến 1986 (trớc khi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào tiến hành đổi mới) cũng đã cho những kết quả ban đầu quan trọng, khẳng
định tính đúng đắn và cần thiết phải đổi mới về t duy và hành động trong xây
dựng XNCN ở thời kỳ mới. ở Liên Xô, năm 1985, Goocbachôp lên cầm
quyền , với "t duy chính trị mới" cũng tiến hành cải tổ, dù rằng, nội dung phơng pháp của nó là sai lầm dẫn tới sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết song việc
cải tổ là điều cần thiết. ở Việt Nam, Đại hội Đảng cộng sản toàn quốc lần thứ
VI (1986) cũng xác định đờng lối đổi mới, hội nhập
Nh vậy, cả hệ thống xã hội chủ nghĩa đều đã chuyển động trớc những
thời cơ và thách thức mà thời đại mới đặt ra. Mỗi nớc đều đã nhận thâý cần
phải xây dựng một t tởng mới trên con đờng mà mình đã chọn, phải đặt con đờng đi của mỗi quốc gia - dân tộc mình vào sự vận động chung của xu thế thời
đại. Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào cũng nằm trong thực trạng ấy và sự đổi
mới của Lào là phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đất nớc, phù hợp với t duy
mới về xây dựng xã hội chủ nghĩa và sự phát triển chung của nền kinh tế toàn
cầu.

25


×