Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Tri thức thanh hoá trong phong trào yêu nước và cách mạng từ năm 1858 đến năm 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.53 KB, 69 trang )

Lời cảm ơn
Lời đầu tiên cho phép tôi đợc trân trọng nói lời cảm ơn chân thành của
mình tới thầy giáo Hồ Sĩ Hùy - Ngời đã hớng dẫn tận tình để tôi có thể hoàn
thành đợc khoá luận. Cho tôi đợc gửi lời cảm ơn tới các thầy giáo trong khoa
Lịch sử trờng Đại học Vinh, các phòng ban chức năng, trung tâm th viện Đại
học Vinh, Trung tâm th viện tỉnh Thanh Hoá đã giúp đỡ và tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình làm khoá luận. Đồng thời tôi cũng xin đựơc
bày tỏ lời cảm ơn của mình tới gia đình, bạn bè, đã động viên tôi trong thời
gian qua..
Khoá luận tốt nghiệp là công trình khoa học đầu tiên, là bớc đi chập
chững trên con đờng nghiên cứu khoa học bởi vậy nên khoá luận không thể
tránh khỏi những sai lầm thiếu sót. Tôi rất mong đợc đợc sự quan tâm chỉ
bảo, góp ý kiến của các thầy cô giáo, bạn bè, ngời thân để tôi có kinh nghiệm
hơn nữa trên bớc đờng nghiên cứu khoa học của mình.
Tác giả
Nguyễn Thị Lý

1


mục lục
Trang
Mở đầu ................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................3
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................5
4. Nguồn t liệu và phơng pháp nghiên cứu ............................................6
5. Bố cục của luận văn ...........................................................................6
Nội dung ..............................................................................................................7
Chơng 1. Khái quát điều kiện địa lý, lịch sử, văn hoá tác động đến việc
hình thành truyền thống yêu nớc và cách mạng của trí thức Thanh Hoá


từ 1858 1930 ....................................................................................................7
1.1. Điều kiện địa lý ...............................................................................7
1.2. Điều kiện lịch sử, văn hoá ..............................................................9
1.2.1. Điều kiện lịch sử ...............................................................9
1.2.2. Điều kiện văn hoá ............................................................14
Chơng 2. Trí thức Thanh Hoá trong phong trào yêu nớc chống Pháp nửa
sau thế kỷ xix ..............................................................................................17
2.1. Trí thức Thanh Hoá trớc khởi nghĩa Cần Vơng ...........................17
2.2. Trí thức Thanh Hoá trong phong trào Cần Vơng .........................19
2.2.1. Trí thức Thanh Hoá trong hai năm đầu Cần Vơng .........19
2.2.2. Trí thức Thanh Hoá trong khởi nghĩa Ba Đình ..............24
2.2.3. Trí thức Thanh Hoá trong khởi nghĩa Hùng Lĩnh ..........32
Chơng 3. Trí thức Thanh Hoá trong phong trào yêu nớc và cách mạng 30
năm đầu thế kỷ XX .........................................................................................38
3.1. Sự chuyển biến của Thanh Hoá trong những năm đầu
thế kỷ XX .............................................................................................39

2


3.1.1. Những chuyển biến về mặt kinh tế .................................39
3.1.2. Những chuyển biến về mặt Y tế Văn hoá .................41
3.1.3. Những chuyển biến về mặt xã hội ..................................42
3.2. Đóng góp của trí thức Thanh Hoá trong phong trào yêu nớc và
cách mạng những năm đầu thế kỷ XX ................................................44
3.2.1. Trí thức Thanh Hoá trong phong trào yêu nớc theo
khuynh hớng dân chủ t sản ........................................................44
3.2.2. Trí thức Thanh Hoá trong phong trào cách mạng theo
huynh hớng vô sản .....................................................................48
3.3. Trí thức Thanh Hóa trong quá trình vận động thành lập Đảng ...52

3.3.1. Sự hoạt động của các tổ chức cách mạng tiền thân của
Đảng ở Thanh Hóa ....................................................................53
3.3.2. Quá trình thành lập Đảng bộ cộng sản ở Thanh Hóa .....59
Kết luận ...............................................................................................62
Tài liệu tham khảo .............................................................................65

Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.

3


1.1. Trí thức là một vấn đề có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực
tiễn. Trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, trí thức là vấn đề phức tạp đã
từng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà chính trị, nhiều nhà khoa
học. Hồ Chí Minh xem trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc, sự hng thịnh
của mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào vai trò và thái độ của trí thức đối với
xã hội. Theo tiếng La Tinh, thuật ngữ trí thức đựơc viết là Intelli gen tia đợc
dùng để chỉ những ngời có hiểu biết, có trí thức bao gồm những ngời chuyên
lao động trí óc.
Những trí thức Việt Nam xuất hiện trong lịch sử nh ngời đại biểu chân
chính về t tởng và văn hoá, về tài năng và trí tuệ của dân tộc. Từ buổi bình
minh của xã hội ta, những thành tựu huy hoàng của thời đại Hùng Vơng đã
minh chứng cho sự phong phú của trí tuệ Việt Nam. Năm 1075 khoa thi Nho
học đầu tiên của nớc ta đợc tổ chức ở Thăng Long dới triều đại nhà Lý đã mở
đầu cho sự nghiệp giáo dục Nho học ở nớc ta, nền giáo dục đó kéo dài tận đến
năm 1919 dới triều Nguyễn mới kết thúc, trong suốt chiều dài lịch sử đó nó đã
tạo nên một đội ngũ quan lại trí thức Nho học đông đảo đảm nhiệm chức vụ
của bộ máy chính quyền mà tên tuổi của họ đời đời đợc lu danh sổ sách để
làm gơng cho thế hệ sau, trong đó phải kể đến các nhân vật tiêu biểu nh

Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn
Bớc sang thập niên 20 của thế kỷ XX khi giáo dục Nho học chấm dứt
vai trò của nó thì cũng đồng nghĩa với việc mất dần vai trò của trí thức Nho
học, nó nhờng chỗ cho nền giáo dục hiện đại và sự trỗi dậy của trí thức Tân
học nhằm đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của lịch sử.
1.2. Trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt, Thanh Hoá đợc xem là một
trong những nơi có nhiều đóng góp cho sự phát triển của quốc gia - dân tộc.
Nhân dân Thanh Hoá bao đời nối tiếp nhau, thế hệ này ngã xuống thế hệ kia
đứng lên không mệt mỏi về sự tồn tại và phát triển của đất nớc. Nói đến xứ
Thanh ngời ta không chỉ biết đến truyền thống yêu nớc quật cờng mà còn biết

4


đến truyền thống hiếu học của con ngời nơi đây. Ngoài việc cung cấp những
vị tớng tài giỏi kiệt xuất, Thanh Hoá còn cung cấp cho dân tộc những ông
nghè, ông cống mà tài năng của họ góp phần không nhỏ cho sự hng thịnh của
đất nớc. Chính những điều đó mà ngời ta cho rằng Thanh Hoá là đất phát Vơng, phát Tớng, là quê hơng của các vị vua, vị chúa của nớc ta. Làm nên sự
nghiệp đó có sự đóng góp to lớn của quần chúng nhân dân mà lực lợng tiên
phong làm nòng cốt là tầng lớp trí thức.
Trong lịch sử giáo dục Nho học, ngay từ rất sớm Thanh Hoá đã xuất
hiện những trí thức Nho học tên tuổi nh:
Lê Văn Hu với tác phẩm Đại Việt Sử Ký lu truyền hậu thế và là nhà sử
học đầu tiên của nớc ta. Khơng Công Phụ với tác phẩm Bạch Vân Chiều
Xuân Hải, là ngời mở đầu cho nền văn học viết nớc ta. Lê Lợi - vị lãnh tụ tối
cao của khởi nghĩa Lam Sơn với tác phẩm Lam Sơn thực lục. Lê Thánh
Tông - là nhà vua, nhà văn, nhà thơ lớn đã để lại nhiều tác phẩm kỳ tài nh
Hồng Đức quốc âm thi tập. Đào Duy Từ với tác phẩm quân sự Hổ Trớng
khu cơ và nhiều nhân vật tên tuổi khác nh Tống Duy Tân, Lơng Đắc Bằng,
Cầm Bá Thớc.. .

Khi nền giáo dục Nho học lỗi thời, khi trí thức Nho học mất dần vai trò
của mình thì Thanh Hoá lại xuất hiện tầng lớp trí thức Tân học đứng ra tiếp
nhận xu hớng phát triển mới của thời đại một cách mau lẹ, thức thời nh Lê
Hữu Lập, Đinh Chơng Dơng.. .
Điều đó để thấy đợc rằng trí thức Việt Nam nói chung, Thanh Hoá nói
riêng có vai trò to lớn đối với sự lớn mạnh của đất nớc, ngày nay với xu thế
hội nhập toàn cầu thì trí thức là nhân tố không thể thiếu trong đờng lối chính
sách của mỗi quốc gia. Vai trò của trí thức đối với lịch sử đợc thể hiện ở mọi
lĩnh vực mà trớc hết họ là lực luợng góp phần xây dựng nền văn hiến vẻ vang
lâu đời của dân tộc ta.

5


1.3. Là ngời con sinh ra, lớn lên trên mảnh đất Thanh Hoá anh hùng và
cũng là một trí thức tôi nhận thấy đuợc vai trò quan trọng của trí thức Thanh
Hoá trong chiều dài lịch sử dân tộc. Tôi muốn góp công sức của mình vào việc
tìm hiểu sự đóng góp của trí thức Thanh Hoá trong phong trào yêu nớc và
cách mạng từ năm 1858 đến năm 1930 - Một giai đoạn lịch sử đầy kỳ tích bao
gồm cả trí thức Nho học và trí thức Tân học, nó đang thu hút công sức của
nhiều nhà khoa học, nhiều đề tài tập trung nghiên cứu nhng cha có công trình
nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về sự đóng góp của trí thức
Thanh Hoá trong giai đoạn lịch sử này.
Học tập và nghiên cứu lịch sử địa phơng luôn có vị trí, ý nghĩa quan
trọng trong lịch sử dân tộc vì nó thể hiện mối quan hệ giữa lịch sử địa phơng
và và lịch sử dân tộc, nghiên cứu lịch sử địa phơng sẽ góp phần hiểu biết hơn
nữa về lịch sử dân tộc. Ngoài ra nghiên cứu đề tài này còn góp phần bổ sung
nguồn t liệu cho việc nghiên cứu lịch sử, góp phần giáo dục truyền thống yêu
nớc, lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hơng đất nớc cho nhân dân nhất là thế
hệ trẻ trong thời đại ngày nay. ở một góc độ nào đó, đề tài này còn góp phần

khơi dậy tinh thân của trí thức.
Từ những lý do nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài Trí thức Thanh
Hoá trong phong trào yêu nớc và cách mạng từ năm 1858 đến năm 1930
làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề.
Do nhận thức đợc tầm quan trọng của trí thức đối với sự phát triển của
đất nớc cũng nh việc xác định đợc vị trí chiến lợc của Thanh Hoá trong sự
nghiệp xây dựng đất nớc nên ngay từ rất sớm đã có nhiều cuốn sách, luận văn,
bài báo viết về vai trò của nhân dân Thanh Hoá nói chung và trí thức Thanh
Hoá nói riêng. Cùng với thời gian thì vai trò của Thanh Hoá trong công cuộc
xây dựng, bảo vệ tổ quốc cũng đợc trình bày sáng tỏ, đậm nét trong kết quả
nghiên cứu của giới sử học cũng nh trong nhân dân.

6


Viết về giai đoạn này phải kể đến một số cuốn sách tiêu biểu nh. Một
số vấn đề về trí thức Việt Nam của nhóm tác giả Nguyễn Văn Khánh,
Nguyễn Quốc Bảo, NXB lao động 2001. Danh nhân lịch sử Việt Nam của
Đinh Xuân Lâm, Chơng Thâu NXB. H (1998). Ngời trí thức Việt Nam qua
các chặng đờng lịch sử của Vũ Khiêm chủ biên, NXBTPHCM 1987. Những
ông nghè, ông cống Triều Nguyễn của nhóm tác giả Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn
Loan, Lan Phơng, NXBVH - TT 1995.
Lợc truyện các tác gia Việt Nam do Trần Văn Giàu chủ biên, NXB
văn học. Những vì sao đất nớccủa Văn Tấn, NXB TN HN 1989. Tác gia
Thanh Hoá thế kỷ VIII - XX của Đào Phụng, NXB Thanh Hoá 1996. Danh sĩ
Thanh Hoá với việc học thời xacủa Trần Văn Thịnh, NXB Thanh Hoá 1995.
Võ tớng Thanh Hoá trong lịch sử dân tộc của Trần Văn Thịnh NXB QĐND
1997. Ngoài ra còn có rất nhiều các bài viết chuyên sâu của của các giáo s,
phó giáo s - tiến sĩ nh Đinh Xuân Lâm, Đào Duy Anh, Chơng Thâu, Trịnh

Nhu... đăng trên các tạp chí nghiên cứu lịch sử, trong các kỷ yếu hội thảo khoa
học.
Trong quá trình đó, ban nghiên cứu lịch sử tỉnh Thanh Hoá cũng cho ra
đời nhiều tác phẩm đề cập đến vai trò của trí thức nh. Đất và ngời xứ Thanh
xuất bản năm 2002. Địa chí Thanh Hoá 1999. Niên biểu lịch sử Thanh Hoá
1998. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá 2000. Khởi nghĩa và phong trào yêu
nớc chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX 1992.
Ngoài ra dới góc độ nhân vật lịch sử còn có các công trình nh:
Cầm Bá Thớc của Lê Trung Hoàn, NXB văn hoá 1981.
Đinh Công Tráng của Đoàn Tùng và nhiều tác phẩm khác nữa. Với
nội dung khoa học có chọn lọc, các tác giả phần nào đã phác hoạ đợc vai trò
của trí thức Thanh Hoá đối với sự phát triển của đất nớc.

7


Ngoài ra còn có những luận văn tốt nghiệp sinh viên nghành sử, tập san
của khoa sử một số trờng đại học, các tác phẩm văn học có liên quan đến vai
trò của trí thức.
Nhìn chung các công trình trên đã đánh giá rất cao trí thức Thanh Hoá,
có tình thần yêu nớc, tinh thần dân tộc sâu đậm, luôn gắn bó với sự nghiệp giữ
gìn nền độc lập của quốc gia, sự thống nhất của đất nớc. Trí thức Thanh Hoá
luôn trăn trở trớc vận mệnh của dân tộc. Tuy nhiên hầu hết các công trình trên
chỉ tập trung đánh giá một cách tổng quát chung chung về trí thức Thanh Hoá
mà cha có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, có hệ thống về vai trò
của trí thức Thanh Hoá trong phong trào yêu nớc và cách mạng từ 1858 - 1930
và nhiều vấn đề lịch sử trong giai đoạn này vẫn cha đợc làm sáng tỏ, cha rút ra
đợc vai trò của trí thức Thanh Hoá trong giai đoạn này. Với đề tài này tôi
mong muốn có thể lập đợc khoảng trống đó.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu

3. 1. Đối tợng:
Với đề tài này luận văn nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản sau đây.
- Khái quát lại điều kiện địa lý, lịch sử văn hoá của Thanh Hoá để từ đó
thấy đợc sự tác động của những điều kiện đó đến việc hình thành truyền thống
yêu nớc và cách mạng của trí thức Thanh Hoá từ 1858 - 1930.
- Làm rõ đóng góp của trí thức Thanh Hoá trong phong trào yêu nớc
chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX.
- Trí thức Thanh Hoá trong phong trào cách mạng chống Pháp 30 năm
đầu thế kỷ XX.
3. 2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trí thức Thanh Hoá đối với phong trào
yêu nớc và cách mạng của lịch sử dân tộc trên mọi lĩnh vực.
Về thời gian: Đề tài tập trình bày vai trò của trí thức Thanh Hoá trong
phong trào chống Pháp từ năm 1858 đến năm 1930.

8


Về không gian: Đề tài tập trung đến phong trào đấu tranh của trí thức
trên khắp các huyện của Thanh Hoá.
4. Nguồn t liệu và phơng pháp nghiên cứu.
4. 1. Nguồn t liệu: Đề tài sử dụng
- Tài liệu lu trữ ở các trung tâm th viện nh Đại học Vinh, trung tâm th
viện Thanh Hoá.
- Các công trình nghiên cứu của giới sử học đăng trên các sách báo, tạp chí.
- Sách viết về địa lý, lịch sử truyền thống của Thanh Hoá.
4. 2. Phơng pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng các phơng pháp truyền thống phục
vụ cho việc nghiên cứu chuyên nghành nh: Đối chứng, so sánh, thống kê, xử
lý t liệu. Từ đó có cơ sở để phân tích, đánh giá vấn đề. Đồng thời sử dụng hai

phơng pháp nghiên cứu truyền thống quan trọng là phơng pháp lịch sử và phơng pháp lô gíc để mở rộng nhiều tài liệu sự kịên lịch sử với mục đích là khôi
phục lại bức tranh qua khứ đúng nh nó đã tồn tại. Sau cùng là tổng hợp, khái
quát đa ra những đánh giá chung nhất.
5. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì nội dung của đề tài đợc trình bày
trong ba chơng.
Chơng 1. Khái quát điều kiện địa lý, lịch sử văn hoá tác động đến việc
hình thành truyền thống yêu nớc và cách mạng của trí thức Thanh Hoá.
Chơng 2. Trí thức Thanh Hoá trong phong trào yêu nớc chống Pháp nửa
sau thế kỷ XIX.
Chơng 3. Trí thức Thanh Hóa trong phong trào yêu nớc và cách mạng
30 năm đầu thế kỷ XX.

9


Phần nội dung.
Chơng 1.
Khái quát điều kiện địa lý, lịch sử, văn hoá tác động
đến việc hình thành truyền thống yêu nớc và
cách mạng của trí thức Thanh Hoá từ 1858 - 1930.
Ngay từ buổi đầu dựng nớc của lịch sử dân tộc, tuy tồn tại dới nhiều tên
gọi khác nhau nhng Thanh Hoá đã đóng vai trò quan trọng, có vị trí chiến lợc
trong tiến trình của lịch sử dân tộc. Thanh Hoá là tỉnh địa đầu miền Trung, là
vùng đất Địa linh nhân kiệt nh những địa danh thân thuộc khác với chiều
dài và bề dày lịch sử chung của cả nớc, với truyền thống văn hoá Núi Đọ, Đa
Bút, Hoa Lộc, Đông Sơn.. . với truyền thống yêu nớc đấu tranh kiên cờng bất
khuất, lao động học tập cần cù thông minh sáng tạo. Thanh Hoá cũng là nơi
phát tích ra nhiều triều đại phong kiến, đồng thời là nơi sản sinh ra những tài
năng, những danh nhân mà tên tuổi, sự nghiệp của họ đợc sử sách lu danh

truyền đời. Chính điều kiện địa lý, lịch sử vă hoá đã góp phần hình thành nên
truyền thống quý báu đó của mỗi con ngời xứ Thanh.
1.1. Điều kiện địa lý.
Thanh Hoá là tỉnh nối đồng bằng Bắc Bộ rộng lớn với đất Miền Trung
dài hẹp. Là một địa phơng có vị trí quan trọng đối với vấn đề an ninh của dân
tộc, Thanh Hoá đợc trải dài từ 19033 đến 20033 vĩ độ Bắc và từ 104 0 đến
106030 kinh độ Đông. Bị bao bọc tứ phía trong đó phía Bắc giáp các tỉnh Sơn
La, Hoà Bình, Ninh Bình từ Nậm Xim Xã Tam Chung huyện Quan Hoá đến
cửa Lạch Càn xã Nga Tiến huyện Nga Sơn dài 202 km. Phía Đông giáp vịnh
Bắc bộ từ cửa Lạch Càn đến xã Đông Hồi xã Hải Thợng huyện Tỉnh Gia dài
102 km. Phía Nam giáp tỉnh Nghệ An từ núi Đông Hồi đến xã Bát Mọt huyện

10


Thờng Xuân dài 157 km, phía Tây giáp tỉnh HuaPhăn - nớc CHDCND Lào với
đờng biên giới từ Bát Mọt đến Nậm Xim dài 192 km.
Trải qua thời gian phát triển Thanh Hoá đã có nhiều tên gọi khác nhau
nh: Bộ, chấn, quận, chân, phủ, tỉnh và trong tình hình hiện nay của đất nớc thì
Thanh Hoá đợc xem là một đơn vị chiến lợc của quốc gia có vị trí hình thể tơng đối ổn định và là một đơn vị hành chính rộng lớn, ngời đông với diện tích
đất tự nhiên là 11.168km2 và 18.000 km thềm lục địa cùng với dân số là
3.450.000 ngời, cả tỉnh Thanh Hoá gồm có 27 huyện thị thành phố với 626 xã
phờng, thị trấn lớn nhỏ khác nhau.
Ngay từ thời cổ đại nơi đây đã tồn tại những nền văn hoá rực rỡ nh
Đông Sơn, Đa Bút... Điều đó chứng tỏ ngay từ rất sớm đã có con ngời sinh
sống ở nơi đây và cùng với sự lớn mạnh của đất nớc thì trên địa phơng Thanh
Hoá đã có nhiều dân tộc cùng sinh sống nh Kinh - Tày - Mờng, Thái, Dao,
Khơ Mú, HMông. Do điều kiện sống quy định nên đồng bào các dân tộc
Thanh Hóa đã chung lng đấu cật xây dựng quê hơng mình trở thành một tỉnh
có vị thế chiến lợc trọng yếu trong sự nghiệp đấu tranh dựng nớc và giữ nớc

của dân tộc Việt Nam. Vì những lý do đó mà ngời ta cho rằng Thanh Hoá hội
tụ đợc cả ba yếu tố Thiên thời, địa lợi, nhân hoà, lại bao gồm bốn vùng
Đồng bằng, Miền núi, trung du, ven biển thềm lục địa nên ngời ta xem Thanh
Hoá nh là một Việt Nam thu nhỏ.
Nền văn minh đầu tiên trong tiến trình lịch sử dân tộc ta là nền văn
minh sông Hồng với địa bàn phân bố chính là ba lu vực sông Hồng, sông Mã,
sông Cả. Nên ngay từ rất sớm đồng bào Thanh Hoá đã cùng nhau khai phá tạo
nên những cách đồng trù phú màu mỡ, xóm làng đông đúc tạo tiền đề phát
triển một nền nông nghiệp đa dạng phong phú sản vật làm cho vùng châu thổ
trở thành kho lơng thực nuôi sống các thệ hệ ngời xứ Thanh. Bên cạnh những
điều kiện về tự nhiên với tiềm năng đa dạng, phong phú về nông - lâm - ng lẫn
khoáng sản trong lòng đất. Thanh Hoá còn có rất nhiều thắng cảnh nổi tiếng

11


nh biển Sầm Sơn, Động Hồ Công, Động Từ Thức... Ngoài ra còn có những địa
danh lịch sử văn hoá và cách mạng nh Hạc Thành, Tây Đô, Lam Kinh, Ba
Đình, Ngọc Trạo, Hàm Rồng - đây là những nơi đã lu dấu các cuộc chiến đấu
ác liệt của nhân dân tỉnh Thanh Hoá với quân thù.
Bên cạnh những điều kiện tự nhiên thuận lợi nói trên, là một tỉnh của
dải đất Miền Trung nên Thanh Hóa cũng nh các tỉnh khác trong miền phải thờng xuyên đối đầu với những thách thức khắc nghiệt bởi hạn hán, lũ lụt kéo
dài nhiều ngày trong năm, khi mùa ma đến gây ra lũ lụt, khi mùa hạ thì gây ra
hạn hán. Chính thiên nhiên khắc nghiệt đã góp phần hình thành nên bản tính
bất khuất của ngời dân xứ Thanh, từ những cuộc đấu tranh chinh phục thiên
nhiên đã hình thành nên ở họ truyền thống kiên cờng chống giặc ngoại xâm để
giữ vững độc lập dân tộc. Điều đó lý giải vì sao mỗi khi đất nớc, tổ quốc lâm
nguy thì các thế hệ ngời Thanh Hoá lớp lớp nối tiếp nhau đứng dậy thể hiện ý
chí sống mãi với quân thù.
1.2. Điều kiện lịch sử - văn hoá.

1.2.1. Điều kiện lịch sử.
Là địa phơng gắn liền với sự hình thành của đất nớc nên ngời dân
Thanh Hoá luôn mang trong các nét thống nhất của dân tộc ta nh truyền thống
yêu nớc, đấu tranh bất khuất kiên cờng chống áp bức bóc lột, thiên tai... Trong
đó nổi bật hơn cả là truyền thống chống giặc ngoại xâm, đó là thứ tinh thần
độc lập tự cờng cùng đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù xâm lợc. Với truyền
thống quý báu tự hào đó mà ngời dân xứ Thanh đã không ngừng lao động
sáng tạo củng cố làng bản tạo thành những pháo đài vững chắc để bảo tồn
nhiều di sản văn hoá và truyền thống của mình đã tạo dựng nên qua hàng ngàn
năm lịch sử. Thanh Hoá còn là nơi phát tích của nhiều triều đại phong kiến,
nhiều bậc đế Vơng, nhiều đấng anh hùng hào kiệt danh Nho võ tớng, là nơi
tập hợp ngọn cờ khởi nghĩa của các cuộc kháng chiến góp phần bảo vệ lòng

12


tin và và tô điểm truyền thống dựng nớc, giữ nớc của dân tộc, Thanh Hoá còn
là một chiếc nôi hình thành dân tộc Việt Nam.
Thanh Hoá có truyền thống phát triển lâu dài và liên tục theo tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc. Từ cuộc đấu tranh chống ách nô lệ ngoại bang,
nhân dân Cửu Chân đã hăng hái tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trng chiếm thành
T Phố và nhiều vùng khác trong quận vào các năm 40 - 43. Đây đợc xem nh là
cuộc công phá đầu tiên mở màn cho thế hệ sau noi gơng giữ độc lập tự chủ,
chính cuộc khởi nghĩa của hai Bà đã châm ngòi làm bùng nổ hàng loạt các
cuộc khởi nghĩa sau đó. Dới sự lãnh đạo hai bà, nhiều trận chiến đấu ác liệt đã
diễn ra ở Thần Phù (Nga Sơn), Tam Quy (Hà Trung), Núi Thịnh (Thiệu Hoá).
Cuộc khởi nghĩa đã làm cho chính quyền đô hộ tan rã và sụp đổ nhanh chóng,
chỉ trong một thời gian ngắn nghĩa quân đã thu phục đợc 65 huyện thành
[10,7], lật đổ nền thống trị dã man của đế chế Hán lớn nhất Châu á đang
trong thời kỳ thịnh đạt. Trong hành trình tiến quân nhà Hán để tiêu diệt cuộc

khởi nghĩa thì toán nghĩa quân cuối cùng bị tiêu diệt ở quận trị Cửu Chân lúc
đó là T phố tơng đơng với làng Dơng Xá huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hoá
ngày nay. Sự đóng góp của nhân dân Cửu Chân đã góp phần đáng kể vào
thắng lợi mở đầu sau hơn 200 năm mất nớc. Điều đó để thấy đợc rằng ngay từ
buổi đầu nhân dân Thanh Hoá đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc.
Sau khi cuộc khởi nghĩa của Hai bà dập tắt, nhà Đông Hán đã lập lại
ách thống trị đối với nớc ta, chúng đẩy mạnh hơn nữa chính sách nô dịch, bóc
lột và đồng hoá trên quy mô lớn, có hệ thống hơn trớc, chế độ lạc tớng cha
truyền con nối của ngời Việt ở cấp huyện bị bãi bỏ, quan lại ngời Hán sang nớc ta cai trị đến tận cấp huyện, chúng xem nớc ta là vùng ngoại địa. Trong
bối cảnh đó, ngay từ đầu thế kỷ II phong trào khởi nghĩa của nhân dân càng
nổ ra liên tục trở nên phổ biến hơn trớc. Nhân dân huyện Cửu Chân đã nhiệt
liệt hởng ứng cuộc khởi nghĩa này, căn cứ đầu tiên của nghĩa quân đợc đóng ở

13


miền núi Na - Triệu Sơn, nơi bà Triệu hy sinh là ở núi Tùng Hậu Lộc. Cả hai
nơi đó đều cách huyện lỵ T Phố không xa, điều đó cho thấy mục tiêu tấn công
của chính quyền nghĩa quân là T Phố và chiến sự đã nổ ra ác liệt trên đôi bờ
sông Mã. Dới sự lãnh đạo của nữ anh hùng xứ Thanh, nghĩa quân đã chiến
thắng quân Ngô nhiều trận, làm cho kẻ thù kinh hồn bạt vía buộc chúng phải
thừa nhân là toàn thể Giao Châu đều chấn động [10,9].
Đến cuối thế kỷ IX nắm thời cơ chính quyền trung ơng nhà Đờng hấp
hối vì nạn cát cứ của các tập đoàn phong kiến nên phong trào nông dân khởi
nghĩa dẫ nổ ra quyết liệt làm cho chính quyền đô hộ nớc ta hoang mang giao
động, Khúc Thừa Dụ đợc nhân dân ta ủng hộ đã giành lại chính quyền từ tay
bọn phong kiến nớc ngoài, xây dựng một chính quyền tự chủ. Nhng không
chịu từ bỏ dã tâm xâm lợc, Năm 930 nhà Nam Hán phái quân sang xâm chiếm
nớc ta. Năm 930 - 931 tại quê hơng Thanh Hoá Dơng Đình Nghệ lại chiêu mộ

trai tráng tập luyện võ nghệ chuẩn bị cho một cuộc chiến chống quân Nam
Hán mà Đông Sơn là một trong những trung tâm của cả nớc. Điều đó chứng tỏ
rằng nơi đây đã sản sinh ra một lực lợng hùng hậu với những đấng anh hùng
hào kiệt, dũng cảm bậc nhất trong cả nớc, là cơ sở cho mỗi cuộc kháng chiến
chống xâm lợc.
Bớc vào thời kỳ Đại Việt, nhân dân Thanh Hoá vẫn không ngừng củng
cố và xây dựng cho quê hơng đất nớc ngày càng thêm vững mạnh, sau khi
Đinh Tiên Hoàng mất, vua mới lên ngôi còn ít tuổi, các thế lực phong kiến thù
địch bên trong xúc tiến âm mu lật đổ, trong lúc phong kiến phơng Bắc lại âm
mu thôn tính nớc ta. Trớc nạn lớn đang đe doạ vận mệnh của dân tộc thì các
quân sĩ và quan lại đã tôn Lê Hoàn - Một ngời con quang vinh của quê hơng
Thanh Hoá lên làm vua để tổ chức cuộc kháng chiến. Mùa xuân năm 981 dới
sự lãnh đạo của Lê Hoàn quân ta đã dánh bại hai đạo quân thuỷ bộ của giặc
trên sông Bạch Đằng (Quảng Ninh) và cửa ải Chi Lăng (Lạng Sơn), cuộc

14


kháng chiến chống quân xâm lợc Tống lần thứ nhất đã giành đợc thắng lợi rực
rỡ, bờ cõi nớc ta đợc giữ vững và nhà Tiền Lê đợc lập nên.
Trong lúc nhân dân cả nớc đang đẩy mạnh phục hng đất nớc, đầu thời
Trần những tàn quân viễn chinh khét tiếng tàn bạo Nguyên - Mông tràn sang
xâm lợc nớc ta. Với tinh thần của hội nghị Diên Hồng thì nhân dân Thanh Hoá
đã cùng nhân dân cả nớc bừng bừng khí thế quyết chiến, quyết thắng. Ngay từ
đầu vua tôi nhà Trần đã chọn Thanh - Nghệ làm căn cứ cho cuộc kháng chiến
này và nơi đây trở thành chỗ dựa, là niềm tin tởng của vua tôi các triều đại
phong kiến trong công cuộc chống ngoại xâm. Không những vậy mà Thanh
Hoá còn là bức tờng thành vững chắc làm thất bại âm mu vây bắt vua Trần
của quân Nguyên.
Đầu thế XV, lấy cớ diệt Hồ phù Trần, quân Minh lại kéo sang đánh

chiếm nớc ta, phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta tiếp diễn
liên tục chĩa mũi nhọn tấn công vào chính quyền đô hộ nhà Minh và dần dần
quy tụ vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ngay trên núi rừng Thanh Hoá dới sự
lãnh đạo của Lê Lợi - ngời con u tú của xứ Thanh. Sau mời năm chiến đấu bền
bỉ, gian khổ ngoan cờng (1418 - 1428) thì cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc
đã giành thắng lợi oanh liệt, toàn diện, triệt để, ách thống trị của nớc ngoài đã
bị quật ngã, ý chí xâm lợc cùng thủ đoạn của nhà Minh đã bị đập tan. Sau khi
chiến thắng quân Minh, Lê Lợi - ngời lãnh đạo tối cao của cuộc khởi nghĩa
lên ngôi sáng lập ra nhà Lê, nớc ta lúc đó thống nhất từ Lạng Sơn đến Thăng
Long đợc chia làm năm đạo, Thanh Hoá thuộc đạo Hải Tây.
Bớc vào đầu thế kỷ XVI những mâu thuẫn nội tại của chế độ phong
kiến nhà Lê về việc củng cố độ chính trị chuyên chế và tăng cờng đặc quyền,
đặc lợi cho giai cấp phong kiến đã dẫn tới sự bùng nổ của phong trào nông
dân khởi nghĩa và những cuộc xung đột triền miên giữa các phe phái phong
kiến, Mạc phế truất Lê, Mạc - Trịnh phân tranh, Trịnh - Nguyễn xung đột kéo
dài, tình hình đó đã gây nên biết bao nỗi thống khổ cho nhân dân, tàn phá

15


nặng nề đất nớc. Suốt trong thời kỳ rối loạn kéo dài này, vùng Thanh Hoá trở
thành căn cứ địa của Nam Triều, vừa là chiến trờng giao tranh của hai tập
đoàn phong kiến thù địch Bắc Triều (Mạc) và Nam Triều (Lê Trung Hng).
Trung tâm của Thanh Hoá lúc này là Yên Trờng (nay là xã Thọ Lập huyện
Thọ Xuân) nằm trên bờ trái sông Chu.
Sang thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam bớc vào giai đoạn
khủng hoảng sâu sắc và toàn diện, nớc ta lại lâm vào sự tranh chấp quyền lực
đất đai giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn, lấy cớ phù Lê thì 20
vạn quân Thanh đã ồ ạt kéo quân vào xâm lợc nớc ta, trong bối cảnh đó
Nguyễn Huệ - ngời anh hùng áo vải Tây Sơn đã chọn Thanh Hoá là một trong

những nơi tập kết lực lợng vũ trang. Nhân dân Thanh Hoá với truyền thống kiên
cờng bất khuất chống ngoại xâm đã không quản ngại gian khổ hy sinh để góp
sức lớn lao với hơn 8 vạn quân tạo nên đại thắng xuân Kỷ Dậu năm 1789.
Lợi dụng sự yếu kém của triều đình phong kiến Huế, năm 1858 thực
dân Pháp đã nổ súng xâm lợc nớc ta, các dân tộc khác bớc vào thời cận đại
bằng một cuộc cách mạng t sản hoặc bằng một cuộc cải cách thì ngợc lại Việt
Nam bớc vào thời cận đại bằng một cuộc chiến tranh xâm lợc của ngời Pháp
mà sự khác nhau giữa hai nền văn minh, hai phơng thức sản xuất là khá lớn.
Dới ách nô dịch của ngời Pháp, phong trào đấu tranh của nhân dân ta phát
triển mạnh mẽ, tiêu biểu là phong trào Cần Vơng chống Pháp. Nhân dân
Thanh Hoá sôi nổi hởng ứng chiếu Cần Vơng, dới sự lãnh đạo của các văn
thân sĩ phu họ đã tập hợp thành các đội nghĩa quân hăng hái tham gia chống
Pháp. Tại căn cứ Ba Đình - Hùng Lĩnh - Mã Cao nghĩa quân Thanh Hoá đã
giáng cho quân giặc những đòn chí tử, ghi vào lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIX
những tấm gơng sáng chói chủ nghĩa yêu nớc, tinh thần dân tộc nh Tống Duy
Tân, Phạm Bành.. ..
Những năm đầu thế kỷ XX một luồng gió mới đã thổi vào Thanh Hoá
tân th đợc truyền từ tay ngời nọ đến ngời kia. Những câu thơ nh sấm dậy

16


của Phan Bội Châu từ Nghệ An cũng lan tới đất Thanh Hoá nh một vết dầu.
Ngay lập tức trí thức Thanh Hoá đã bốc lên ngọn lửa căm thù giặc, họ hăng
hái tham gia phong trào Đông Du để chuẩn bị cho một cuộc bạo động chống
Pháp theo khuynh hớng mới. Đặc biệt từ khi có Đảng ra đời, cùng với cả nớc
thì phong trào cách mạng của Thanh Hoá lại dấy lên sôi nổi góp phần cùng
với cả nớc viết lên bản hùng ca hoành tráng trong cách mạng tháng Tám và
trong hai cuộc khánh chiến trờng kỳ của dân tộc ta.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, ngời dân xứ Thanh đã tạo

dựng cho quê hơng mình vị thế chiến lợc trọng yếu, góp phần to lớn cho sự
tồn tại và phát triển của quốc gia. Chính những giá trị truyền thống cao quý đó
ngày nay đã trở thành niềm tin cổ vũ động viên các thế hệ con cháu Xứ Thanh
vững bớc đi lên cống hiến cho quê hơng, dân tộc ngày càng nhiều.
1.2.2. Điều kiện văn hoá.
Thanh Hoá là một địa phơng xuất hiện sớm từ thời Hùng Vơng dựng nớc với tên gọi Cửu Chân quen thuộc. Lại là nơi có đủ ba vùng tự nhiên thơ
mộng, có lịch sử phát triển lâu dài và liên tục, có nhiều đồng bào các dân tộc
cùng sinh sống.. .. Điều đó đã góp phần cùng tạo nên cho nhân dân Thanh
Hoá một nền văn hiến lâu đời, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Ngay từ rất sớm Thanh Hoá đợc xem là đất học. Nhân dân nơi đây bao
đời nổi tiếng là thông minh hiếu học trí tuệ trong sáng lại sống gần gũi với
nhau, đặc điểm này của Thanh Hoá mang tính tiêu biểu của trí thức Việt Nam.
Mấy trăm năm trớc Lê Quý Đôn đã có sự tổng kết tài tình phi công bất phú,
phi thơng bất hoạt, phi nông bất ổn, phi trí bất hng, điều đó có nghĩa sự hng
thịnh của mỗi quốc gia phu thuộc lớn vào vai trò, thái độ của tầng lớp trí thức
đối với xã hội.
Trong suốt thời gian tồn tại của nền giáo dục Nho học từ năm Thái
Minh ất Mão (1075) thời Lý đến khoa thi Nho học cuối cùng năm Khải Định
Kỷ Mùi (1919) triều Nguyễn với 188 kỳ thi đại khoa, số tiến sĩ của cả nớc là

17


2989 vị, Thanh Hoá chiếm trên 204 vị, trong đó có 20 vị vào hàng Tam Khôi
(6 trạng nguyên, 8 bảng nhãn, 6 thám hoa) và cha kể nhiều vị gốc Thanh Hoá
nhng đã rời sứ sở nhiều đời nh con cháu của vua Lê, chúa TRịnh, chúa
Nguyễn. Riêng triều Nguyễn số tiến sĩ của cả nớc là 558 vị, riêng 29 vị đậu
đại khoa là ngời Thanh Hoá chiếm 5,23% tỉ lệ cả nớc, trong đó có 15 vị đậu
tiến sĩ, 14 vị đậu phó bảng. Cũng dới triều Nguyễn, Thanh Hoá có 436 ngời
đậu cử nhân.. .

Truyền thống hiếu học của Thanh Hoá đã đào tạo nên những nhân tài
xuất chúng cho lịch sử nh: Khơng Công Phụ với bài phú Bạch vân chiếu
xuân hải (Mây trắng rọi biển xuân) - là ngời mở đầu cho nền văn học viết của
nớc ta. Lê Văn Hu - nhà sử học đầu tiên của Việt Nam đã để lại cho đời bộ
quốc sử Đại Việt sử ký lu truyền từ đời này đến đời khác. Lê Lợi - vị lãnh tụ
tối của khởi nghĩa Lam Sơn đã để lại tác phẩm Lam Sơn thực lục. Lên Thánh
Tông - là nhà vua, nhà văn hoá lớn đã để lại nhiều tác phẩm kỳ tài nh, Hồng
Đức quốc âm thi tập. Đào Duy Từ để lại cho đời bộ sách Hổ trớng khu cơ.
Khi triều Nguyễn đợc lập nên, chúng ta phải thừa nhận rằng so với
nhiều triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, triều Nguyễn đã tổ chức
hàng ngũ quan lại rất có nề nếp, quan chế rất rõ ràng, chính sách rất cụ thể và
sự chỉ đạo khá chặt chẽ. Riêng đối với Thanh Hoá chế độ quan lại cũng thống
nhất nh đối với các tỉnh khác nhng cũng có sự chú ý hơn vì Thanh Hoá vừa là
một tỉnh lớn vừa là đất thang mộc (nơi phát tích của nhà Nguyễn từ thời
Nguyễn Kim - Gia Miêu đợc gọi là Quý hơng). Những năm 80 - 90 của thế kỷ
XIX, Thanh Hoá có hai vị quan to cùng vị trí, quyền lực lớn trong triều và
cùng huyện Hoằng Hoá. Ngời trớc là Hà Duy Phiên (1791 - 1852) làm đến
chức hiệp biện đại học sĩ, cơ mật viện đại thần kiêm tổng tài Quốc Sử Quán,
ông đã chủ biên bộ sách Đại Nam hội điển và nhiều bộ sách khác có giá trị
học thuật cao. Ngời thứ hai là Nguyến Hữu Độ (1813 - 1888), ông đỗ tiến sĩ,
đẫ từng làm quan kinh lợc ở Bắc Kỳ, có con gái lấy vua Đồng Khánh nên trở

18


thành phụ chánh đại thần, cần chánh điện Đại Học Sĩ, một số vị khác cũng trở
thành các đờng quan và nhiều ngời làm việc ở triều nh: Trần Lễ Hiện, Phan Hng, Phạm Thanh, Mai Anh Tuấn, Phạm Bành.. .
Có điều đáng nhận xét là các quan ở Thanh Hoá làm nhiệm vụ chính sự
không nổi lắm về tài cai trị mà đa số đều có khuynh hớng thiên về học thuật
văn chơng nh Nhữ Bá Sĩ, Lê Thế Thứ, Trịnh Thuần, Hà Duy Phiên.. . Mặt

khác không nên quên rằng số đông những quan lại nổi tiếng ở Thanh Hoá đều
là những ngời đều tinh thông văn chơng học thuật mà cũng không xa lạ với
việc binh nhung, Hà Duy Phiên đã từng ra trận cầm quân, Tống Duy Tân đã
giữ chức sơn phong sứ và là lãnh tụ khởi nghĩa Hùng Lĩnh.. .
Sự phát triển của giáo dục triều Nguyễn đã tạo nên niềm tự hào cho quê
hơng Thanh Hoá. Khi chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng trầm trọng thì
lực lợng văn thân, sĩ phu tỏ ra hoài nghi về đạo đức của chế độ đó. Họ tỏ thái
độ chỉ trích phản kháng dữ dội. Khi tổ quốc lâm nguy họ sẵn sàng tập hợp lực
lợng dựng cờ khởi nghĩa chống lại cờng quốc để bảo vệ độc lập dân tộc, vì thế
khi triều đình phong kiến đầu hàng, cam tâm bán nớc ta cho giặc thì sĩ phu lại
là lực lợng mạnh nhất tham gia phong trào kháng Pháp cứu nớc thoát khỏi ách
nô lệ với những tấm gơng tiêu biểu nh: Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt, Trần
Xuân Soạn, Tống Duy Tân.. .
Từ những khái quát nêu trên ta có thể nhận thấy rằng: Điều kiện tự
nhiên, bề dày lịch sử truyền thống và nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc đã
có tác động tích cực đến việc hình thành truyền thống yêu nớc và cách mạng
của nhân dân Thanh Hoá nói chung, trí thức Thanh Hoá nói riêng. Mỗi khi tổ
quốc bị lâm nguy, cùng với cả nớc Thanh Hoá đã tạo nên cho mình một căn
cứ kháng chiến vững chắc để chiến đấu một mất một còn cho lịch sử dân tộc.

CHƯƠNG 2.

19


Trí thức Thanh Hoá trong phong trào yêu nớc chống
Pháp nửa sau thế kỷ XIX
Từ nửa sau thế kỷ XIX trớc hoạ ngoại xâm của dân tộc, nhân dân Thanh
Hoá đã hoà mình vào dòng chảy chung, tiếp bớc cha ông đứng lên bảo vệ độc
lập dân tộc, nhất là khi triều đình phong kiến Huế phân chia thành phái chủ

chiến và phái chủ hoà, khi phái chủ chiến giành đợc u thế với việc đa ông vua
yêu nớc Hàm Nghi lên ngôi thì phong trào đấu tranh trên phạm vi cả nớc đợc
dấy lên mạnh mẽ. Từ sau khi chiếu Cần Vơng đợc hạ, khắp nơi trong tỉnh
Thanh đều dấy lên phong trào khánh Pháp mạnh mẽ. từ các huyện miền núi
xuống trung du đồng bằng và sau đó quy tụ tại căn cứ Ba Đình - Hùng Lĩnh.
Ngay từ buổi đầu hầu hết các trí thức Thanh Hoá đã có mặt trong hàng ngũ
thủ lĩnh nghĩa quân. Tinh thần dũng cảm bền bỉ và kiên cờng của họ đã tỏ rõ
khí phách hiên ngang của tầng lớp sĩ phu yêu nớc trớc vận mệnh của dân tộc.
Đồng thời còn là sự nối tiếp truyền thống đấu tranh bất khuất của tổ quốc. Sự
tham gia của họ đã làm cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân
dân Thanh Hoá giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX trở thành một thiên anh hùng ca
bất hủ.
2.1. Trí thức Thanh Hoá trớc khởi nghĩa Cần Vơng.
Sau khi đợc dựng lên, những tởng rằng triều Nguyễn sẽ đáp ứng đợc
những đòi hởi cấp bách của lịch sử, sẽ thúc đẩy lịch sử đi lên. Nhng do hoàn
cảnh lịch sử đa đẩy mà chế độ phong kiến Viêt Nam ngày càng lún sâu vào
con đờng khủng hoảng suy vong. Từ nửa sau thế kỷ XIX với chính sách cầm
quyền phản động hà khắc của triều đình đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày
càng diễn ra gay gắt, hàng loạt phong trào đấu tranh của nhân dân đã bùng nổ.
Hiện tợng này cha bao giờ diễn ra trong lịch sử trớc đó cũng nh sau này, chỉ
trong khoảng 50 năm nửa sau thế kỷ XIX đã có tới hơn 500 cuộc khởi nghĩa
của nông dân nổ ra chống lại triều đình. Trong bối cảnh lịch sử đó, thực dân

20


Pháp đã phát động cuộc chiến tranh xâm lợc Việt Nam với mục tiêu đầu tiên
là cửa biển Đà Nẵng vì chúng cho rằng đây là cổ họng của Huế, chiếm đợc Đà
Nẵng sẽ dùng nơi đây làm bàn đạp đánh thọc sâu vào kinh thành Huế, buộc
triều đình phải đầu hàng tại chỗ, kết thúc chiến tranh. Nhng cũng chính tại

chiến trờng Quảng Nam - Đà Nẵng, thực dân Pháp đã vấp phải sự kháng cự
mạnh mẽ của nhân dân ta ngay từ những phút đầu tiên trong chiến lợc đánh
nhanh thắng nhanh của chúng. Quân đội chính quy của triều đình dới sự chỉ
huy của tớng Nguyễn Tri Phơng cùng với các đội nghĩa dũng đứng lên chiến
đấu nhằm ngăn chặn bớc tiến công của địch, không cho chúng mở rộng phạm
vi ảnh hởng.
Trong bối cảnh lịch sử đó, khắp mọi miền của tổ quốc, tầng lớp văn thân
đã đứng ra phất cờ khởi nghĩa chiêu mộ quân sĩ, hăng hái chi viện cho chiến trờng Đà Nẵng - Gia Định. Với truyền thống chung của trí thức cả nớc cộng với
những đặc điểm riêng do lịch sử quy định, lại sớm nhận ra âm mu xâm lợc của
thực dân Pháp cũng nh thái độ hèn nhát đầu hàng của triều đình Huế, các sĩ phu
Thanh Hoá là những nhà khoa bảng đỗ đạt cao làm quan từ thời Tự Đức đã tỏ
thái độ bất hợp tác với bè lũ thực dân phong kiến. Họ từ bỏ chốn quan trờng trở
về quê nhà chiêu mộ binh sĩ, đem tài năng hiểu biết của mình để mu tính việc
đánh giặc cứu nớc, cứu dân. Số đông trí thức khác sống ở các làng xã gần gũi
với nhân dân, họ tiếp thu sức mạnh và lòng yêu nớc của nhân dân một cách sâu
sắc, khi có giặc ngoại xâm họ sẵn sàng sát cánh cùng nhân dân chống Pháp tạo
thành các đội nghĩa dũng. Ngời đầu tiên phải kể đến là ông nghè Tam Đăng
ứng mộ đã làm rung động d luận trí thức Nho sĩ Thanh Hoá. Trớc vận mệnh dân
tộc đang bị uy hiếp, nhiều văn thân sĩ phu yêu nớc Thanh Hoá đã dâng sớ xin đợc đánh pháp, tiêu biểu là Nhữ Bá Sĩ.
Nhữ Bá Sĩ là ngời tài cao đức trọng, ông sinh năm 1788, tên chữ là
Nguyên Lập, hiệu Đạm Trai, là ngời làng Cát huyện Hoằng Hoá tỉnh Thanh
Hoá. Năm Minh Mạng thứ hai (1821) ông đỗ hơng cống, năm sau thi hội

21


trúng Tam Trờng nên đợc bổ dụng làm quan tri huyện sau đó thăng chức viên
ngoại bộ hình, ông sống giản dị, không ham cầu danh lợi, là ngời yêu nớc
thiết tha nên khi thực dân pháp gây hấn xâm lợc, trớc thái độ cầu hoà của triều
đình, ông đã gửi lên vua hai bản điều trần Tây bất khả hoà (Không hoà với

tây) và Tĩnh dơng tam sách (Ba sách lợc dẹp giăc Tây dơng) nhng không đợc triều đình chấp thuận. Với lòng yêu nớc nồng nàn, ý chí chống giặc ngoại
xâm sâu sắc nên dù ông đã 78 tuổi nhng ông vẫn lặn lội vào Nghệ An cùng
bạn bè có tinh thần kháng Pháp chiêu mộ nghĩa sĩ chống giặc, việc cha thành
thì ông bị mất,
Năm 1822 thực dân pháp bắt đầu kế hoạch đánh ra Bắc Kỳ lần thứ 2,
khi chúng đánh vào Bắc Ninh thì tri huyện Lan Tân (Bắc Ninh) là Hoàng Bật
Đạt ngời Hậu Lộc Thanh Hoá đã đề nghị với Tổng Đốc Bố Chánh tổ chức
kháng chiến nhng đề nghị đó của ông bị khớc từ. Tuy vậy ông vẫn tự mình
chiêu binh ra chặn giặc. Bọn quan lại Bắc Ninh thấy thế sợ hãi cho điệu ông
về quê. Thời gian này nhiều sĩ phu Thanh Hoá đang làm việc cho triều đình
Huế đã bỏ về quê liên hệ với các văn thân tỉnh nhà cùng chí hớng bàn kế sách
đánh giặc. Họ khẩn trơng thành lập các đội nghĩa quân rèn sắm vũ khí, luyện
tập võ nghệ chờ ngày sống mãi với quân thù. Thái độ kiên quyết đó đã cổ vũ,
động viên nhân dân Thanh Hoá tiếp tục đấu tranh chống xâm lợc và thái độ
đầu hàng của triều đình. Họ kiên quyết đứng lên chống cả Triều lẫn Tây,
khi chiếu Cần Vơng xuất hiện càng thôi thúc ý chí quyết tâm của trí thức
Thanh Hoá.
2.2. Trí thức Thanh Hoá trong phong trào Cần Vơng.
2.2.1. Trí thức trong hai năm đầu khởi nghĩa Cần Vơng.
Cuối thế kỷ XIX khi phong trào đấu tranh chống Pháp của dân tộc đang
bùng lên mạnh mẽ thì trong nội bộ triều đình Huế có sự phân chia thành phái
chủ chiến và phái chủ hoà. Phái chủ chiến tuy số lợng không đông nhng nắm
đợc binh lực và có cơ sở vững chắc là quần chúng nhân dân. Để hành động thì

22


phái chủ chiến đã lập sẵn kế hoạch trong đó có kế hoạch tiến hành nội dậy ở
kinh thành, cuộc nổi dậy không thành buộc Tôn Thất Thuyết phải đa Hàm
Nghi xa giá rời cung mà ngời ta gọi là Hàm Nghi xuất bôn. Tại sơn phòng

Quảng Trị ngày 13/7/1885 chiếu Cần Vơng lần một đợc hạ và phát đi rộng rãi
trong nhân dân làm dấy lên một cao trào yêu nớc mạnh mẽ trên phạm vi cả nớc. Linh hồn của phong trào đã chuyển về các văn thân, sỹ phu có lòng yêu nớc thơng dân.
Là một tỉnh ở Trung Kỳ - nơi chịu sự cai trị trực tiếp của triều đình Huế,
là địa phơng có tầm chiến lợc quan trọng ở bất cứ thời kỳ lịch sử nào, nơi đây
bao đời có truyền thống chống xâm lăng, là mảnh đất sinh ra nhiều anh hùng
hào kiệt... Những yếu tố đó sớm đa Thanh Hoá trở thành một trong những
trung tâm của phòng trào chống Pháp cuối thế kỷ XIX, chính Tôn Thất Thuyết
đã có ý định xây dựng Thanh Hoá trở thành một thủ đô kháng chiến và trong
chiếu Cần Vơng đợc hạ lần thứ hai và ngày 19/9/1885 có nhắc khi nào trừ
khử đợc chúng thì đến gặp trẫm. Trẫm sẽ đóng đô tại tỉnh Thanh Hoá. Đây là
một địa điểm quý [6,146]. Đề đốc Trần Xuân Soạn là ngời phụng sự thi hành
mệnh của kế hoạch Cần Vơng chống Pháp tại Thanh Hoá.
Trần Xuân Soạn sinh năm 1849 quê ở làng Thọ Hạc xã Đông Thọ
huyện Đông Sơn trớc đây nay thuộc phờng Đông Thọ thành phố Thanh Hoá.
Ông xuất thân từ thành phần nông dân nghèo nên không đợc học hành nhiều.
Khi quốc gia hữu sự ông tự nguyện theo đờng binh nghiệp, nhờ có sức khoẻ
và mu lợc nên ông đợc thăng chức rất nhanh. Đợc giao nhiệm vụ tập hợp lực lợng và trực tiếp chỉ đạo phong trào Cần Vơng chống Pháp, tại quê nhà ông đã
tìm gặp những sĩ phu, văn thân lãnh đạo phong trào yêu nớc nh Tống Duy
Tân, Phạm Bành, Hà Văn Mao... để bàn kế sách tập hợp các cuộc khởi nghiã
thống nhất nghĩa quân hởng ứng chiếu Cần Vơng, dới sự lãnh đạo của các văn
thân sĩ phu yêu nớc, nhân dân các địa phơng Thanh Hoá đã nhất tề hăng hái
tập hợp đội ngũ, tổ chức lực lợng sẵn sàng tiêu diệt khi chúng xâm phạm tới

23


quê hơng, chính giặc Pháp phải thừa nhận rằng dới sự thúc đẩy của Đề Soạn,
cuộc phiến loạn đã tràn xuống đồng bằng và trở thành cuộc chiến tranh thực
sự [2,272-273]. Trên phạm vi toàn tỉnh, từ miền biển lên miền núi, từ đồng
bằng tới trung du đã hình thành một mạng lới các làng xã kháng chiến.

Tại Nông Cống, Tôn Thất Hàm cùng với Nguyễn Quý Yêm bỏ quan
chức phối hợp với nghĩa quân Tĩnh Gia của Nguyễn Phơng và nghĩa quân của
Lê Ngọc Toản đóng ở vùng Đồng Mời huyện Nh Xuân để đón Hàm Nghi và
Tôn Thất Thuyết.
Tại Hoằng Hoá Nguyễn Huy Vũ, Lê Trí Trực, Mai Hàm, Mai Quán rèn
luyện lực lợng sắm sửa vũ khí nhng tiêu biểu nhất trong huyện là nghĩa quân
do Nguyễn Đôn Tiết phụ trách. Ông sinh năm 1836 tại làng Thọ Vực, Tổng
Bút Sơn nay là làng Thọ Vực thuộc xã Hoàng Đức. Năm 1867 ông thi Hơng
đậu cử nhân về quê mở trờng dạy học. Năm Kỷ Mão ông dự thi Hội và trúng
phó bảng, đợc bổ nhiệm làm tri phủ Đức Thọ - Hà Tĩnh. Năm 1882 khi nghe
tin quân đội Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần hai ông đã bỏ quan về Thanh Hoá
liên hệ với văn thân tỉnh nhà bàn kế đánh giặc, ông gặp Tống Duy Tân, Hà
Văn Mao, Cầm Bá Thớc, Nguyễn Phơng, Lê Khắc Tháo.. . Cuối năm Giáp
Thân ông trở về quê Bút Sơn trực tiếp bàn việc khởi nghĩa với anh em Tú Tài
Nguyễn Duy Cơ và Nguyễn Duy Tân. Trong thời gian này Nguyễn Đôn Tiết
đã liên hệ với nghĩa dũng của Cử Xuân ở Tào Xuyên, nghĩa quân bộ đầu của
cử nhân Hoàng Bật Đạt, Lê Trí Trực, Phạm Bành. Tại cuộc họp văn thân
huyện Hoằng Hoá đã cử ông làm chủ súng, ông chỉ huy nghĩa quân của huyện
Hoằng Hóa tham gia đánh thành Thanh Hoá. Trận đánh không thành nên ông
phải kéo quân về Bút Sơn dơng cao cờ Bình Tây phục quốc. Trớc thế địch
mạnh, so sánh tơng quan lực lợng không có lợi cho ta, Nguyễn Đôn Tiết đã
cho nghĩa quân rời xa huyện lỵ và kêu gọi sự chi viện kịp thời. Giặc Pháp ra
sức đốt phá triệt hạ làng mạc nhất là làng Thọ vực quê hơng ông. Một kế
hoạch đánh huyện lỵ và đồn Pháp ở Nghè Năm Thôn đợc ông và những ngời

24


chỉ huy khởi nghĩa vạch ra. Nghĩa quân Phú Lê, Trung Hậu, Nghĩa TRang do
Lê Trí Trực chỉ huy và nghĩa quân Tào Xuyên do Nguyễn Xuân điều khiển từ

phía tây đánh xuống, nghĩa quân các xã miền biển do Cai Chánh thống lĩnh từ
phía đông kéo lên. Nghĩa quân các xã phía Nam chủ yếu là nghĩa quân Hoàng
Bột và nghĩa quân Đại Đồng do Nguyễn Huy Vũ lãnh đạo. Đêm 24 rạng ngày
25/5/1886 dới sự chỉ huy của Nguyễn Đôn Tiết cuộc tấn công bắt đầu. Nghĩa
quân Hoàng Bột và Đại Đồng đã đánh tiền đồn chợ Gồng và đang ôm rơm vào
đốt huyện đờng thì giặc Pháp nổ súng. Nghĩa quân Đằng Cao đã mai phục ở
Hoằng Lộc. Nghĩa quân của Hoằng Bật Đạt bí mật vợt qua sông Lạch Trờng
tiến vào, ba đợt xung phong đã diễn ra song do thiếu phơng tiện lại cha có kinh
nghiệm chiến đấu cũng nh cha phối hợp thật chặt chẽ nên cuộc tập kích huyện
lỵ Bắc Sơn không thành. Nguyễn Đôn Tiết bị giặc bắt và nghĩa quân phải tạm
thời giải tán, kẻ thù tìm cách mua chuộc ông nhng không đợc, chúng tra tấn hết
sức giã man và đầy ông đi Lao Bảo, ông vẫn giữ trọn khí tiết của một sỹ phu.
Năm 1886 ông đã hy sinh trong tù.
Tại Hậu Lộc, phong trào đấu tranh cũng bùng nổ sớm và phát triển
mạnh mẽ dới sự lãnh đạo của Phạm Bành và Hoàng Bật Đạt, Phạm Bành quê
làng Trơng Xá nay thuộc xã Hoà Lộc, đậu cử nhân khoa Giáp Tý (1864) ông
làm Đốc học rồi án sát ở Nghệ An. Ông nổi tiếng là thanh liêm và biết quan
tâm đến đời sống của nhân dân. Khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vơng lần
một ông nhiệt liệt hởng ứng, bỏ quan về quê cùng Hoàng Bật Đạt mộ quân
khởi nghĩa.
Hoàng Bật Đạt quê ở làng Bộ Đầu (nay thuộc xã Thuần Lộc). Năm
1868 ông đỗ cử nhân sau đó làm tri huyện Lang Tài. Khi thực dân pháp đánh
vào Bắc Ninh ông đã đề nghị với Tổng Đốc tổ chức chặn giặc nhng đề nghị đó
của ông bị khớc từ, ông bỏ quan về quê.
Tại quê nhà, hai ông bàn việc chiêu mộ binh sĩ, rèn sắm vũ khí, xây
dựng căn cứ địa để đánh giặc. Nhân dân Hậu Lộc nô nức tham gia nghĩa quân

25



×