Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Tri thức thanh chương trong sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm từ năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.86 KB, 125 trang )

1

bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
------- --------

Phạm thị hoài thanh

trí thức thanh chơng trong sự
nghiệp đấu tranh chống ngoại
xâmtừ năm 1858 đến năm 1945
Chuyên nghành: Lịch sử Việt Nam
MÃ số: 60.22.54

luận văn thạc sĩ khoa học lịch sư
Ngêi híng dÉn khoa häc:
TS. Ngun quang hång

Vinh – 2008

Më đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về mặt khoa học:
Trong sự nghiệp chống ngoại xâm (1858-1945), đội ngũ trí thức có
nhiều đóng góp đối với lịch sử dân tộc. Từ 1858 đến 1896, đội ngũ trí thức
Nho học tuy không bảo vệ đợc độc lập dân tộc, hay giành lại ®éc lËp d©n téc,


2

nhng đóng góp của họ cho quốc gia, dân tộc là không thể phủ nhận; giờ đây,


không ít các nhà nghiên cứu lịch sử trong và ngoài nớc đà có những nghiên
cứu về đóng góp của đội ngũ trí thức trong cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm. Đề tài giành một phần nội dung nghiên cứu về đội ngũ trí thức Nho học
ở Thanh Chơng từ 1858 đến 1896 là góp phần vào việc nghiên cứu đánh giá
lại vai trò, vị trÝ cđa ®éi ngị trÝ thøc Nho häc trong bèi cảnh lịch sử đầy biến
động đó. Đây là một mảng đề tài đang đợc quan tâm, nghiên cứu từ nhiều cấp
độ.
Sau thất bại của Phong trào Cần Vơng (1885-1896), cho đến trớc khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các thÕ hƯ trÝ thøc Nho häc, T©y häc…tiÕptiÕp
tơc cã nhiỊu đóng góp trong việc khởi xớng các phong trào yêu nớc theo nhiều
xu hớng khác nhau. Nghiên cứu về đóng góp của đội ngũ trí thức Thanh Chơng trong khoảng thời gian này chính là góp phần vào việc nghiên cøu ®ãng
gãp cđa ®é ngị trÝ thøc ViƯt Nam díi những đòi hỏi mới của Cách mạng Việt
Nam đầu thế kỉ XX.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc dới sự lÃnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam theo Cơng lĩnh Chính trị do Đảng vạch ra trong Hội nghị
thành lập Đảng, Luận cơng Chính trị tháng 10 năm 1930, một lần nữa vai trò
của đội ngũ trí thức lại đợc phát huy. Đề tài giành một phần nội dung quan
trọng để nghiên cứu, đánh giá về những đóng góp của đội ngũ trí thức Thanh
Chơng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng lÃnh đạo. Từ góc độ
đó, đề tài sẽ góp phần vào việc nghiên cứu những đóng góp to lớn của đội ngũ
trí thức mới của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc dới ngọn
cờ của Đảng.
1.2. Về mặt thực tiễn
Trí thức Thanh Chơng là một bộ phận trong đội ngũ trí thức xứ Nghệ.
Ngoài những đặc điểm chung của trí thức Việt Nam. Sau thế kỉ XIX cho đến
Cách mạng Tháng Tám bùng nổ tháng lợi, trí thức Nghệ An còn có những nét
riêng khá điển hình. Nghiên cứu trí thức Thanh Chơng từ 1858 đến 1945 tác
giả hi vọng sẽ góp phần vào việc nghiên cứu đánh gia về vị trí, vai trò của trí
thức Nghệ An trong sự nghiệp chống ngoại xâm đầy hi sinh mất mát ấy.
Cho đến nay, việc nghiên cứu về đóng góp của ngị trÝ thøc NghƯ An

nãi chung, trÝ thøc Thanh Ch¬ng nói riêng trong lịch sử dựng nớc và giữ nớc
của d©n téc cịng nh tõ nưa sau thÕ kØ XIX đến 1945 cha nhiều. Đề tài hi vọng


3

sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách cã hƯ thèng vỊ ®ãng gãp cđa ®éi
ngị trÝ thøc Thanh Chơng từ 1858 đến 1945 trên lĩnh vực chống ngoại xâm.
Đề tài tập hợp t liệu khá phong phú và hi vọng sẽ đa ra một số đề xuất
hữu Ých vỊ viƯc tiÕp tơc triĨn khai mét c¸ch cã hệ thống việc nghiên cứu về
đóng góp của đội ngũ trí thức Thanh Chơng nói riêng, Nghệ An nói chung đối
với lịch sử dân tộc trớc mắt cũng nh lâu dài. Đây là một vấn đề cấp thiết đối
với Thanh Chơng, Nghệ An và cả nớc nhất là trong thời kì công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, nguồn trí thức vốn đợc coi là tài sản quý giá cho việc dựng xây
đất nớc.
Vì những lí do trên mà chúng tôi quyết định chọn đề tài: Trí thức
Thanh Chơng (Nghệ An) trong sự nghiệp chống ngoại xâm từ 1858 đến
1945 để làm đối tợng nghiên cứu


4

2. Lịch sử vấn đề
Cùng với thời gian thì vai trò của Thanh Chơng trong công cuộc xây
dựng, bảo vệ tổ quốc cũng đợc trình bày sáng tỏ, đậm nét trong kết quả nghiên
cứu của giới sử học.
Viết về giai đoạn này phải kể đến một số cuốn sách tiêu biĨu nh: “Mét
sè vÊn ®Ị vỊ trÝ thøc ViƯt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Khánh Nhà xuất
bản lao động 2001 Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức trong sự nghiệp giải
phóng và xây dựng đất nớc tác giả Nguyễn Văn Khánh NXB Thông Tấn

2004 Danh nhân lịch sử Việt Nam của GS Vũ Khiêu chủ biªn – NXB
– TP HCM 1987). “ Ngêi trÝ thøc Việt Nam qua các chặng đờng lịch sử, của
Vũ Khiêu chủ biên. NXB TP HCM 1987 Trí thức là sức mạnh GS Nguyễn
Lân Dũng NXB Thanh niên 2000 Một số vấn đề trí thức Việt Nam tác
gia Nguyễn Thanh Lân NXB chính trị Quốc gia 1998. Hồ Chí Minh Về
vấn đề trí thức và cách mạng NXB sự thật 1976. Nguyễn Đình Tứ và Phạm
Tất Dong Trí thức và công tác trí thức của Đảng Tạp chí cộng sản số 12 16
1996). Hồ Sơn Diệp Trí thức Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp 1945 1954 NXB ĐHQG Hà Nội 2001. Hồ Hữu Nhật Trí thức
Sài Gòn Gia định, NXB chính trị quốc gia Hà nội 2001.
Hoàng Văn Đức Trí thức Việt Nam trong cuộc cách mạng dân chủ
báo độc lập 1949 số 16. Trần Huy Liệu Trí thức Việt Nam trong quá trình
đầu tranh giải phóng dân tộc Nghiên cứu lịch sử 1960 sè 2 Ph¹m TÊt Dong
“TrÝ thøc ViƯt Nam thùc tiễn và triển vọng NXB chính trị QG Hà nội
1995
Khi nghiên cứu về phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc từ 1858 đến
1945 thì có các công trình : Những ông Nghè, ông cống triều Nguyễn của
nhóm tác giả Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Loan, Lan Phơng, NXB VH TT
1995 Lợc truyện của tác giả Việt Nam do Trần Văn, Giàu chủ biên, NXB
VH Những vì sao đất nớc của Văn Tâm, NXB Thanh niên Hà nội 1989
Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ơng Văn kiện đảng 1930 1945 Hà
Nội 1977. Đại cơng lịch sử Việt Nam tập 2. GS Đinh Xuân Lâm chủ biên
NXB giáo dục 2001. Những công trình này tạo điều kiện thuận lợi để chúng
tôi so sánh với đội ngũ trí thức Thanh Chơng nhằm tìm ra những nét chung và
riêng, cũng nh học hỏi về phơng pháp ln sư häc khi tiÕp cËn nghiªn cøu vỊ


5

đội ngũ trí thức quê hơng. Đây là những nguồn tài liệu gốc dùng để khảo sát

cho đề tài.
Bên cạnh đó một số nhà nghiên cứu khoa học cũng đà ®Ị cËp ®Õn phong
trµo ®Êu tranh ë TØnh NghƯ TÜnh vào giai đoạn này thì có các tác phẩm: Lịch
sử Nghệ Tĩnh (tập 1) xuất bản 1984, Danh nhân Nghệ Tĩnh (tập 4) Văn
phòng UBND Nghệ Tĩnh 1990 Danh nhân Nghệ An (tập 1) NXB Nghệ
An 1998.
Lịch sử Nghệ Tĩnh Tập 1, NXB Nghệ Tĩnh năm 1984, Lịch sử Đảng
bộ Nghệ An Tập 1; Lịch sử Đảng bộ một số huyện, xÃtiếp
Đặc biệt Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng bộ huyện Thanh Chơng đà xuất
bản cuốn Lịch sử Đảng bộ Huyện Thanh Chơng BCHĐB HTC Nhà
xuất bản chính trị 2005 và nhiều tác phẩm đề cập đến vai trò trí thức Thanh
Chơng nh Cuốn Thanh Chơng đất và Ngời NXB 2005. Cuốn 157 nhân vật
phong trào Đông D, Cuốn Nghệ An những tấm gơng cộng sản (2 tập) UBND
Nghệ An 2005. Ráng đỏ Hồng Lam Bảo tàng cách mạng Việt Nam Bảo
tàng xô Viết Nghệ Tĩnh NXBLĐ 2005 Nhà lao Vinh Ban tuyên giáo
Tỉnh ủy Nghệ An 2005tiếp
Ngoài ra còn có những luận văn tốt nghiệp nh Khởi nghĩa Giáp Tuất
1874 ở Nghệ Tĩnh của Hoàng Thị Minh Thu và lịch sử các dòng họ ở Thanh
Chơng. Các luận văn này đà khái quát về một số khía cạnh có liên quan đến
vai trò trí thức đối với cuộc cách mạng chống thực dân Pháp ở Thanh Chơng.
Đồng thời có rất nhiều Tạp chí và bài viết nh Mảnh đất Thanh Chơng
giàu truyền thống yêu nớc và cách mạng của Trần Kim Đôn. Tạp chí văn hóa
Nghệ An số 14/9/2005 . Bài trở lại một trang của cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất
1874 của Bùi Đình Phong, Bùi Quang Hng về cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất
của Trần Tấn và Đặng Nh Mai của Đặng Huy Viên . Bài Thêm một ý kiến
về nội dung, tính chất đặc điểm của cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất 1874, nghiên
cứu lịch sử của tác giả Nguyễn Quang Hồng và Hoàng Văn Lân.
Trên cơ sở kế thừa những thành quả của những nhà nghiên cứu, đồng
thời dựa vào các nguồn tài liệu lu trữ tại các trung tâm lu trữ quốc gia, th viện
Trung ơng tỉnh, địa phơng, th viện các trờng Đại học... Đặc biệt tài liệu su tầm

tại các địa phơng tác giả đang cố gắng giải quyết những vấn đề đặt ra.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về trí thức Thanh Chơng giai đoạn 1858
1945 thì các công trình nghiên cứu chỉ tập trung ®¸nh gi¸ mét c¸ch tỉng qu¸t


6

chung chung về trí thức Thanh Chơng mà cha có công trình nào nghiên cứu về
một cách cụ thể, có hệ thống về vai trò của trí thức Thanh Chơng trong phong
trào yêu nớc và cách mạng và nhiều vấn đề lịch sử đặt ra trong giai đoạn này
vẫn cha làm sáng tỏ, cha rút ra đợc vai trò của trí thức Thanh Chơng trong giai
đoạn này. Với đề tài này tôi mong muốn có thể lấp đợc khoảng trống đó.
3. Đối tợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu các nội dung cơ bản sau đây
- Đóng góp của đội ngũ trí thức Thanh Chơng từ nửa sau thế kỷ XIX
đến phong trào Cần Vơng kết thúc (1896)
- Đóng góp của trí thức Thanh Chơng từ đầu thế kỷ XX đến trớc khi
Đảng ta ra đời
- Trí thức Thanh Chơng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc dới sự lÃnh đạo của Đảng (1930 1945)
Những nội dung khác không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài


7

4. Phơng pháp nghiên cứu
- Đọc, thống kê tài liệu, xử lý tài liệu
- Điền dÃ, khảo sát hiện trờng lịch sử, phỏng vấn, điều tra, bổ sung t
liệu
- Sử dụng phơng pháp thống kê, phơng pháp lôgic, phơng pháp lịch sử
và các phơng pháp liên ngành.

- Phơng pháp luận sư häc MacxÝt vµ t tëng Hå ChÝ Minh lµ sợi chỉ đỏ
xuyên suốt quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài.
5. Nguồn t liệu
Luận văn sử dụng các nguồn t liệu sau:
- Các nguồn t liệu đang đợc lu giữ tại Trung tâm lu trữ Quốc gia I và
các cơ quan Nhà nớc th viện Quốc gia, Th viện Tỉnh, địa phơng và kho th viện
của các trờng Đại häc. ViƯn sư häc, kho lu tr÷ UBND TØnh NghƯ An Sở văn
hóa thông tin Tỉnh Nghệ An, Ban tuyên giáo tỉnh ủy nghệ An, Bảo tàng Nghệ
An... T liệu các th viện gia đình, gia phả các dòng họtiếp
- Các cuộc điều tra gặp gỡ trao đổi với các nhân chứng, là nguồn t liệu
bổ trợ quan trọng giúp chúng tôi giám định những sự kiện đà diễn ra để đánh
giá chính xác và đầy đủ hơn.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống t liệu liên quan đến nội dung đề tài để tiện nghiên cứu so
sánh đối chiếu
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện có hệ thống
đóng góp của đội ngũ trí thức Thanh Chơng trong sự nghiệp đấu tranh chống
giặc ngoại xâm từ nửa sau thế kỷ XIX đến khởi nghĩa tháng 8/1945.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên
cứu, biên soạn lịch sử địa phơng
- Là tài liệu để giảng dạy lịch sử địa phơng trong các trờng trung học cơ
sở, THPT...
- Giáo dục tinh thần yêu nớc, lòng tự hào đối với quê hơng cho thế hệ
trẻtiếp
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của luận văn bao gồm 3 ch¬ng:


8


Chơng 1:Trí thức Thanh Chơng trong phong trào chống pháp nưa sau
thÕ kû XIX (1858 – 1896)
Ch¬ng 2: TrÝ thøc Thanh Chơng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc từ đầu thế kỉ XX đến 1929
Chơng 3: Trí thức Thanh Chơng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc dới sự lÃnh đạo của Đảng (1930 1945)


9

Nội dung
Chơng 1
Trí thức thanh chơng trong phong trào
chống pháp từ 1858 đến năm 1896
1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên xà hội
1.1.1. Vài nét về điều kiện tù nhiªn
Huyện Thanh Chương ở phía tây nam tỉnh Nghệ An, nằm trong toạ độ từ
18 34’ đến 18 55’ vĩ độ bắc,và từ 104 55’ đến 105 30’ kinh độ đơng; phía bắc
giáp huyện Đơ Lương và huyện Anh Sơn; phía nam giáp tỉnh Hà Tĩnh; phía
đơng giáp huyện Nam Đàn; phía tây tây nam giáp huyện Anh Sơn và tỉnh
Bơlykhaxay (nước cộng hồ dân chủ nhân dân Lào) với đương biên giới quốc
gia dài 53 km. Diện tích tự nhiên của Thanh Chương là 1.127,63km, xếp thứ
năm trong 19 huyện thành ,thị trong tỉnh. Địa hình Thanh Chương rất đa
dạng.Tính đa dạng này là kết quả của một quá trình kiến tạo lâu dài và phức
tạp. Núi đồi, trung du là dạng địa hình chiếm phần lớn đất đai của huyện. Núi
non hùng vĩ nhất là dãy Giăng Màn có đỉnh cao 1.026m, tạo thành ranh giới
tự nhiên với tỉnh Bôlykhăm xay(Lào), tiếp đến là các đỉnh Nác Lưa cao
838m, đỉnh Vũ Trụ cao 987m, đỉnh Mè Noi cao 509m, đỉnh Đại Can cao
528m, đỉnh Thác Muối cao 328m. Núi đồi tầng tầng lớp lớp, tạo thành những

cánh rừng trùng điệp.Phía hữu ngạn sơng Lam đồi núi xen kẽ, dãy chạy dọc,
có dãy chạy ngang, có dãy chạy ven bờ sông, cắt xẻ địa bàn Thanh Chương ra
nhiều mảng, tạo nên những cánh đồng nhỏ hẹp.Chỉ có vùng Thanh Xuân, Võ
Liệt , Thanh Liên là có những cánh đồng tương đối rộng. Phía tả ngạn sơng
Lam, suốt một giải từ chân núi Cuồi kéo xuống đến rú Dung, núi đồi liên tiếp
như bát úp, nổi lên có đỉnh Côn Vinh cao 188m, rú Nguộc ( Ngọc Sơn) cao
109m. Cũng như các vùng miền núi khác trong tỉnh, vùng đất Thanh Chương
do khai thác lâu đời , bồi trúc kém nên đất đai trở nên cằn cỗi và ong hố
nhanh, trừ vùng đất màu mỡ vên sơng Lam và sông Giăng. Về thổ nhưỡng:


10

Thanh Chương có bảy nhóm đất (xếp theo thứ tự từ nhiều đến it ), nhiều nhất
là loại đất phe ralít đỏ vùng đồi núi thấp rồi đến ph ralít đỏ vàng vùng đồi,
đất phù sa, đất phe ralít xói mòn trơ sỏi đá, đất phe ralit mùn vàng trên núi,
đất lúa vùng đồi núi và đất nâu vàng phát triển trên phù sa cổ và lũ tích.
Rừng Thanh Chương vốn có nhiều gỗ quý như: lim xanh, táu, de, dổi
vàng tâm… cùng các loại lâm sản khác như song mây, tre nứa, luồng mét …
Hệ thực vật rừng phong phú về chủng loại, trong đó, rừng lá rộng nhiệt đới là
phổ biến nhất. Rừng có độ che phủ là 42,17% (2000). Động vật rừng, từ xưa
có nhiều voi, hổ ,nai, khỉ, lợn rừng… Nay động vật cịn lại khơng nhiều; còn
hệ thực vật rừng, tuy bị chặt phá nhiều nhưng trữ lượng gỗ vẫn cịn khá lớn.
Tính đến năm 2000, trữ lượng có 2.834.780m3 (trong đó ,rừng trồng
95.337m3, rừng tự nhiên 2.739.443m3). Tre, nứa mét có hàng trăm triệu cây.
* Về khống sản:
Thanh Chương có trữ lượng đá vơi khá lớn ở Hạnh Lâm, Thanh Ngọc, Thanh
Mỹ, đá ga ra nít ở Thanh Thuỷ; đá cuội, đá sỏi ở sông Lam ,sông Giăng , đất
sét ở Thanh Lương , Thanh Khai, Thanh Dương ,Thanh Ngọc … Trong lịng
đất có thể có các loại khống sản khác nhưng ngành địa chất chưa khảo sát

thăm dị kỹ lưỡng. Về sơng ngịi: Sông Lam (tức sông cả ) bắt nguồn từ
Thượng Lào , chạy theo hướng tây bắc - đông nam qua các huyện Kỳ Sơn,
Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn , Đô Lương, chảy dọc huyện Thanh
Chương , chia huyện ra hai vùng: hữu ngạn và tả ngạn. Sông Lam là một
đường giao thơng thuỷ quan trọng. Nó bồi đắp phù sa màu mỡ ven sơng,
nhưng về mùa mưa nó trở nên hung dữ ,thường gây úng lụt ở vùng thấp. Sơng
Lam cịn có các phụ lưu trong địa bàn Thanh Chương như sông Giăng, sông
Trai , sông Rộ, sông Nậy và sơng Đa Cương(Rào Gang). Với hệ thống sơng
ngịi chằng chịt khắp huyện, ngồi tuyến đị dọc, từ lâu đời, nhân dân còn mở
hàng chục bến đò ngang, tạo điều kiện giao thông vận tải giao lưu giữa các


11

vùng trong huyện. Do địa thế sông núi hiểm trở nên Thanh Chương là một vị
trí chiến lược quan trọng về mặt quân sự .Người xưa đã đánh giá Thanh
Chương là “tứ tắc”(ngăn lấp cả bốn mặt). [55;13].
Với cảnh núi non trùng điệp, sông nước lượn quanh, tạo cho Thanh
Chương giáng vẻ thơ mộng,”sơn thuỷ hữu tình”, đẹp như những bức tranh
thuỷ mặc. Những thắng cảnh như Thác Muối, Vực Cối, Rú Nguộc,ngọn Tháp
Bút , dãy Giăng Màn…đã làm cho quang cảnh đất trời Thanh Chương thêm
bbội phần tươi đẹp. Người xưa đã từng ca ngợi: hình thế Thanh Chương đệp
nhất ở thế Hữu Kỳ (vùng đất từ Quảng Trị ra Thanh Hố). [74;36].
* Về giao thơng vận tải:
Ngồi đường thuỷ với hệ thống sơng ngịi kể trên, hội.Thanh Chương
co đường Hồ Chí Minh dài 53 km chạy dọc theo hướng tây bắc-đong nam từ
Thanh Đức tới Thanh Xuân qua 11 xã; đường quốc lộ 46 từ Thanh Khai đến
Ngọc Sơn rồi chạy ngang qua Võ Liệt, cắt đường Hồ Chí Minh, tới cửa khẩu
Thanh Thuỷ; đường 15 chạy dọc từ Ngọc Sơn lên Thânh Hưng, theo hướng
gần như song song với đường Hồ Chí Minh. Ngồi ra, Thanh Chương cịn có

nhiều đường mịn qua Lào và các đường liên xã, liên thôn, thuận lợi cho sản
xuất và giao lưu giữa các vùng nội huyện.
* Khí hậu:
Thanh Chương nằm trong vùng tiểu khí hậu Bắc Trung Bộ (nhiệt đới
gió mùa), một năm có đủ bốn mùa xn ,hạ, thu, đơng. Mùa hè có gió tây
nam(gió Lào) rất nóng nực. Mùa thu thường mưa nhiều kéo theo bão lụt. Mùa
đông và mùa xn có gió mùa đơng bắc rét buốt. Khí hậu khắc nghiệt ở
Thanh Chương có ảnh hưởng đáng kể đến sinh hoạt của con người và cây
trồng, vật nuôi. Mặc dầu thời tiết khí hậu khắc nghiệt, gây khó khăn trong sản
xuất và đời sống nhưng với tính cần cù, nhẫn nại, nhân dân Thanh Chương đã
tạo ra được những sản vật đặc trưng của từng vùng.


12

1.1.2. Vài nét về điều kiện xã hội
Ngược dòng lịch sử, từ trướ Công nguyên cho tới nay, vùng đất Thanh
chương đã trải qua nhiều thay đổi về đơn vị hành chính với nhiều tên gọi khác
nhau.
Năm 111 trước Cơng nguyên (thời thuộc Hán) vùng đất này nằm trong
huyện Hàm Hoan, quận Cửu Chân. Từ năm 602 (thời thuộc Tuỳ) ,nằm trong
huyện Cửu Đức, quận Nhật Nam. Thời Tiền Lê(980-1009), nằm trong Châu
Hoan. Thời Lý(thế kỷ 12) nằm trong châu Nghệ An. Năm Thiên ứng thứ
hai(1233), lập bản đồ, đặt vùng đất này là huyện Thanh Giang [79;24],(trước
đó gọi là huyện Thổ Du).
Đầu thế kỷ XV, nhà Minh đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, dưới quận
là phủ, châu, huyện. Phủ Nghệ An lúc đó có 16 huyện, trong đó có huyện
Thanh Giang. Năm 1469 , vua Lê Thánh Tơng định lại bản đồ cả nước để
thông thuộc các phủ huyện vào các thừa tuyên. Thừa tuyên Nghệ An bao
gồm cả đất Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay.Huyện Thanh Giang là một trong

sáu huyện của phủ Đức Quang. Năm 1729, Trịnh Giang lên ngôi chúa,huyện
Thanh Giang được đổi tên là Thanh Chương.Tên Thanh Chương bắt đầu xuất
hiện từ thời điểm đó.
Theo các nhà sử học, trên địa bàn Thanh Chương ,cách ngày nay 2 vạn
năm đến 12 ngàn năm đã có người nguyên thuỷ sinh sống. Căn cứ chủ yếu để
khẳng định điều đó là những di tích đã phát hiện tại vùng đồi gị dọc sơng
Lam như ở đồi Dùng (xã Thanh Đồng), đồi Rạng (xã Thanh Hưng). Những di
tích trên được các nhà khảo cổ xếp vào Văn hoá Sơn Vi, tức là cuối thời đại
đồ đá cũ.
Như vậy, trên đất Nghệ An, sau di chỉ Thẩm Ồm (di chỉ thuộc thời
Cánh Tân,cách ngày nay từ 3 triệu năm đến một vạn năm) rồi đến Thanh
Chương là nơi có di tích cổ xưa thứ hai đã được phát hiện. Những người


13

nguyên thuỷ thời Văn hoá Sơn Vi thường nhặt đá cuội về ghè đẽo thành công
cụ để chặt, nạo. Họ chuyên hái lượm và săn bắt. Mật độ dân cư thời kỳ này đã
đơng hơn trước. Các đồi gị có người ở thường gần nhau( có thể đó là nơi cư
trú của các thị tộc trong một bộ lạc).
Qua bao thế kỷ chống chọi với thiên tai, thú giữ và giặc giã để tồn tại
và phát triển, cư dân Thanh Chương ngày càng đông đúc và tiếp nhận nhiều
nguồn dân cư từ nơi khác về khai khẩn đất hoang, lập thêm nhiều làng xã.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, Thanh Chương là một huyện trong
thung lũng Lam Giang ,trên con đường sơn cước, có địa thế hiểm yếu, qua
các triều đại đều lấy nơi đây làm căn cứ địa. “Đất lành chim đậu”, nhiều
người đến đây trước là vì việc nước ,sau thích nghi thuỷ thổ, ở lại định cư và
sinh cơ lập nghiệp. Đọc gia phả các dịng họ ở Thanh Chương chúng ta thấy
nhiều họ có nguồn gốc từ Bắc Bộ , Thanh Hoá. Chẳng hạn, họ Nguyễn ở chợ
Cồn là di duệ của Nguyễn Trãi, hoặc họ Đậu ở An Phú, Chi Nê, họ Nguyễn

Sỹ… cũng có nguồn gốc ngồi Bắc.Họ Nguyễn Cảnh từ vùng Thiên LýĐồng Trài vào định cư ở bến đò Ngọc Sơn từ năm 1402. Chỉ kể riêng một
làng Thổ Sơn thuộc xã Cát Ngạn đã có 13 trong số 16 họ có nguồn gốc từ
ngồi Bắc.

Số

dân

Thanh

Chương

năm

1930



64.074

người[60;32],Năm 2000 có 228.603 người(trong đó,nữ: 116.972, bằng
51,17%, nam: 111.631, băng 48,83%).Mật độ dân số toàn huyện là 202,7
người/km2. Mật độ dân số cao nhất là 1.184 người /km2(Thanh Tường).Mật
độ dân số xã thấp nhất là 29 người /km2(Hạnh Lâm). Khoảng đầu thế kỷ 19
về trước, ở vùng Thanh Hương (ngày nay) có các tộc người Đan Lan, Lý Hà
(nay đượ xếp vào dân tộc Thổ). Có ý kiến cho rằng tên sơng Đan Lai có lẽ là
lấy tên tộc người Đan Lai sống ven sông .Về sau, đồng bào đã dời lên sống rải
rác trên các bờ khe suối vùng Tương Dương, Con Cuông.



14

Cũng như cư dân các vùng khác trong tỉnh, trong nước, đồng bào
thanh Chương từ xưa tới nay, nhà nhà vẫn thờ cúng tục tổ tiên và thờ cúng
bậc tiền bối có cơng với nước với dân. Ngồi những ngơi đền lớn chung cho
nhiều vùng(như đền Bạch Mã), một số làng cịn có đền thờ vị thành hồng
của địa phương(chẳng hạn, vùng thanh Giang thờ thành hoàng Phạm Kinh
Vỹ). đây là một tục lệ tốt đẹp nhằm duy trì, phát huy truyền thống gia đình,
họ hàng và cộng đồng làng xã. Giăng Culê(Jean Coulet)-một nhà sử học Pháp
đã viết: “Sự thờ phụng tổ tiên là tượng trưng cho gia đình và việc nối dõi tổ
tơng, sự thờ phụng thành hồng tượng trưng cho làng xã và sự trường tồn của
thôn dân” [1;54].
Đạo phật du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ II và phát triển vào thời Lý Trần (thế kỷ XI-XIII). Mức độ phát triển của đạo phật ở Thanh Chương
khơng mạnh nên chỉ có ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống tâm linh của một bộ
phận cư dân. Tuy nhiên, làng nào cũng có chùa, vườn chùa và sư sãi giữ chùa.
Chùa không chỉ là nơi thờ phật ,nơi cộng đồng làng xã làm lễ cầu siêu cho
đồng bào gặp nạn, mà nhiều nơi, chùa còn là nhà tạm trú chung của cả làng
mỗi khi làng bị ngập nước.
Công giáo được du nhập vào nước ta từ thế kỷ XV, vào Nghệ An
khoảng thế kỷ XVIII. Nhà chung Xã Đồi- Nghi Lộc là một trung tâm Cơng
giáo của cả ba tỉnh Nghệ An , Hà Tĩnh, Quảng Bình. Địa bàn Thanh Chương,
Nam Đàn từ trước năm 1945 trong giáo hạt Vạn Lộc với 7 giáo xứ 39 giáo
họ ,theo Chúa cứu thế.
Huyện Thanh Chương hiện nay có 20/38 xã có đồng bào Cơng giáo,
gồm 1.165 hộ với 6.584 tín đồ(bằng khoảng 3,7% tổng số dân tồn huyện).Có
nơi tỷ lệ giáo dân khá cao như Mô Vĩnh( Thanh Khê), các giáo xứ Trung Hoà,
Lương Khế (Thanh Hoà). Hiện tại Thanh Chương có 3 xứ, 17 họ, 19 nhà thờ
và 3 vị linh mục.



15

Trong tiến trình lịch sử, tuy có vài sự kiện đáng tiếc, nhưng nói chung
trước sau đồng bào lương –giáo có truyền thống đồn kết giúp đỡ tương trợ
lẫn nhau và cùng giúp sức chống thù trong giặc ngoài, xây dựng quê hương
giàu mạnh.
Là một huyện vùng núi thấp, đa số cư dân Thanh Chương Làm nghề
nông, cấy lúa nước và trồng trỉa loại màu như ngơ, khoai, sắn. Ngồi ra cịn
có nghề chăn ni, nghề khai thác lâm thổ sản và nhiều nghề thủ công khác
như trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, trồng bông dệt vải (như ở Nguyệt Bổng,
Thường Long, Rộ Xuân Lâm, Cẩm Văn, Thái Bình), nghề mộc (Ngọc Sơn),
nghề đánh cá ,chài lưới (Phúc Yên, Xuân Bảng),nghề đan lát làm tơi nón, chặt
củi, đốt than…Từ xưa, Thanh Chương đã có những đặc sản nổi tiếng như:chè
Giăng, “cơm bà lá, cá sông Giăng, măng chợ Chùa”, trầu cau La Mạc, mít
ngọt, trám bùi Cát Ngạn. Nhiều câu ca dao đã giới thiệu đặc sản đó:
Ai về Cẩm Thái mà coi
Lắm ngô, lắm sắn, lắm khoai, lắm bù.
Ai hay mít ngọt , mui bùi
Có về Cát Ngạn với tui thì về.
Ai hay tương ngọt nhút chua
Mời về Ĩ, Nại mà mua ít nhiều.
Thanh Chương ngon cá sơng Giăng
Ngon khoai La Mạc, ngon măng chợ Chùa…
Trong văn hoá ẩm thực dân dã, “nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn” là hai
món đặc sản đã nổi tiếng từ xa xưa. Nhút là món ăn thường ngày của dân
Thanh Chương. Nguyên liiêụ để làm nhút là mít xanh băm nhỏ, đem muối lẫn
với các thứ khác để ăn dần quanh năm.
Bà con Thanh Chương cịn có tục uống nước chè xanh rất đầm ấm, vui
vẻ. Trong xóm cứ luân phiên từng nhà, nấu xong ấm nước chè xanh đặc thơm



16

phức là ơi ới gọi bà con đến uống và chuyện trị rơm rả. Đó cũng là một nếp
sống văn hố được duy trì lâu đời cho đến nay và chắc là cịn mãi trong tương
lai. Tình làng nghĩa xóm của người Thanh Chương rất đậm đà, chất phác.
Tuy ngày xưa mức sống của nơng dân Thanh Chương có thấp hơn một
số vùng khác nhưng về tinh thần hiếu học không hề thua kém ai. Từ thế kỷ
XV, Thanh Chương đã có những nhà khoa bảng nổi danh như Thượng thư
Đinh Bộ Cương, được người đời ca ngợi là “Quang Thuận chiếu đầu bút
bảng”, đã từng làm giám thí khoa thi đình đời Cảnh Thống(1497-1504).
Có gia đình ở làng Quản Xá, cả ba anh em ruột cùng đậu một khoa thi
hương năm Ất Dậu(1825). Người anh cả là Nguyễn Khắc Nhượng, đậu tú tài;
người em thứ hai là Nguyễn Thành Hiến, đậu cử nhân,và người em út là
Nguyễn Huy Phiên cũng đậu cử nhân.
Nhiều làng tuy nghèo nhưng vẫn cố gắng mời thầy mở lớp dạy chữ
nho. Năm 1904 , nhân làng Võ Liệt đã xuống làng Kim Liên, Nam Đàn mời
ơng Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc về dạy học cho con em trong làng. Lúc bấy
giờ, hai anh em Tất Đạt, Tất Thành (tức Hồ Chí Minh thời niên thiếu) cũng
theo cha tới Thanh Chương. Tất Thành ở nhà ông Phan Sỹ Mâu tức là Đồ
Cẩm ở làng Võ Liệt, còn Tất Đạt (tức cả Khiêm) ở làng Nguyệt Bổng. Trong
các sách Đăng khoa lục, Liệt truyện đăng khoa bị lục, Quốc triều đăng khoa
lục… có ghi tên các làng học như Võ Liệt, Thổ Hào, Đồng Văn, Đại Định…
và nhưng vị đậu đại khoa Thanh Chương (như các tiến sĩ: Nguyễn Sĩ Giáo,
Nguyễn Đình Cổn, Phạm Kinh Vỹ, Đinh Viết Thận, Nguyễn Tiễn Tiến Tài,
Nguyễn Phùng THời, Nguyễn Bá Quýnh, Nguyễn Lâm Thái, Nguyễn Thế
Bình, Nguyễn Hữu Điển, Nguyễn Tài Tuyển, và các vị phó bảng: Đặng
Nguyên Cẩn, Nguyễn Sỹ Ẩn, Bùi Sỹ Tuyển, Lê Đình Thức, Phan Đình
Thực…).



17

(Số tiến sĩ quê Thanh Chương được khắc họ tên vào bia ở Văn MiếuQuốc Tử Giám Hà Nội chiếm tỷ lệ cao nhất so với các phủ huyện ở Nghệ
An). Có nhưng vị đậu đại khoa, làm quan to nhưng vẫn sống thanh liêm trong
cảnh nghèo, được người đời ca tụng; như tiến sĩ Phan Sĩ Thục(1822-1891)
quê ở Võ Liệt, năm Tự Đức thứ 32(1878) được thăng là Trung phụng đại phu,
Tham tri Bộ Binh, Kiêm Phó đơ ngự sử Viện Đơ sát Tuần vũ các tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị(tòng nhị phẩm) nhưng vẫn sống bần bạch. Sách Đại nam liệt
truyện có ghi:Sỹ Thục làm quan hơn 40 năm trong cái nhà tranh vách đất, hũ
gạo luôn bị rỗng khơng mà vẫn thản nhiên” [32;56].
Ngồi các bậc đại khoa Hán học, ở Thanh Chương cịn có cả một đội
ngũ đông đảo những ông tú (tú tài), ông cử (cử nhân), tuy đậu đạt rồi nhưng
chỉ đi dạy học và “dạy đạo làm người” cho lớp trẻ.Nhiều thày giáo nổi tiếng
như Tôn Đưc Tiến (Lỗ Xuyên), Tú Viên, Đinh Viết Thận, Đặng Nguyên Cẩn,
Bùi Hữu Nhẫn…Nhiều ông tú, ông cử lại làm thầy thuốc, lấy y đức “trị bệnh
cứu người “ làm lẽ sống . Ở thế kỷ XI có thầy thuốc lừng danh tên là Lê Lộ,
được người đời coi là “thần y” ,quê ở trang Trảo Nha(sau đổi Thanh Nha),
tổng Võ Liệt. Ông đã chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo ở địa phương. Ơng
cịn đi theo Lý Thái Tông đi đánh giặc Chiêm Thành. Thắng trận ông trở về
sống tại trang ấp quê nhà, tiếp tục làm nghề thầy thuốc. Khi ông mất, dân lập
đền thờ ,tôn là”Thần Lê Lộ sở tài, đức thánh Kỳ Xuyên”.
Vì trọng sự học nên các làng đều có phần ruộng”học điền”, cho nhưng
người đang đi học và phần ruộng “biếu điền” cho nhưng người đỗ đạt(ở Võ
Liệt, người đỗ phó bảng được làng biếu 9 sào ruộng…).Người có học và đậu
đạt, khi có con, khơng có ai gọi là “anh hoe”, anh cu”, “anh đĩ” nữa , mà được
gọi một cách kính trọng như”anh học”, “anh khoá”, “anh nho”…; đến tuổi 18
được vào Hội Tư Văn; đi việc làng được ngồi chiếu trên theo quy định của
làng xã(ví dụ:ai trúng tam trường được ngồi ngang hàng với lý trưởng…).



18

Trong thời đại ngày nay, Thanh Chương vẫn là đất học,. Cái nôi quê
hương với bề dày truyền thống hiếu học đã hun đúc nên những nhà trí thức
nổi tiếng như Giáo sư Đặng Thai Mai, Giáo sư Tôn Quang Phiệt, Giáo sư, bác
sỹ y khoa Hồng Đình Cầu, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, Giáo sư Trần Đìng
Hượu, Viện sĩ Nguyễn Duy Quý.
Tuy lao động vất vả nhưng sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của các tầng
lớp dân cư ở Thanh Chương vẫn duy trì được nhiều thế kỷ qua. Văn học
truyền miệng dân gian có các loại truyện cổ tích, chuyện trạng tiếu lâm, ca
dao, tục ngữ, câu đố , câu đối, đặc biệt là thể vè. Trong kho tàng vè xứ Nghệ,
[31;54], nhưng bài vè thuộc địa bàn Thanh Chương chiếm tỷ lệ khá cao.
Thanh Chương có nhiều làng có truyền thống sáng tác văn học dân gian như
Võ Liệt, Cát Ngạn, Lương Điền, Thanh Quả, Hoà Quân…Đặc biệt là dân ca
với các điệu hò, điệu hát ru, điệu ví dặm. Vượt lên mọi khó khăn trong đời
sống, kể cả những lúc bị thiên tai lụt lội, người Thanh Chương vẫn chèo đò
đến một địa điểm để hát ví phường nốc( như ở vùng Bích Hào). Bà con vùng
bán sơn địa có ví phường củi, phường măng, (Cát Ngạn); vùng làm lúa nước
có ví phường cấy(Đức Nhuận); cịn dân đị dọc sơng Lam, sơng Giăng có hát
ví đị đưa…
Nội dung các lời hát, ngồi việc thổ lộ tình u lứa đơi cịn có những
lời khun bổ ích về đạo lý làm người, về lòng yêu quê hương đất nước; lên
án kẻ xấu, nhất là bọn tham quan ô lại, bọn bán nước và cướp nước.
1.1.3. Vài nét về truyền thống yêu nước của nhân dân Thanh
Chương trước 1858.
Tõ thời đại đồ đá cũ, các tộc ngời tối cổ đà đến định c ở vùng đất Thanh
Chơng. Vợt qua bao khó khăn thử thách do thiên tai, thú dữ, các thế hệ tiếp
nối định c trên vùng đất Thanh Chơng đà đoàn kết, chung lng đấu cật để vợt
qua thiên tai khắc nghiệt, thú dữ, tạo dựng cuộc sống. Suốt trong nhiều thế kỷ,

c dân Thanh Chơng luôn có ý thức, bằng mọi khó khăn thử thách, chia ngọt sỴ


19

bùi, đồng tâm hiệp lực, góp phần cùng cộng đồng c dân xứ Nghệ và các c dân
đất Việt tạo nên nền văn hoá - văn minh bản địa phong phú, đa dạng. Có thể
khẳng định từ thời Hùng Vơng dựng nớc c dân trên vùng đất Thanh Chơng đÃ
góp phần nhỏ bé của mình trong việc hình thành quốc gia dân tộc.
Từ khi An Dơng Vơng để mất nớc (179 TCN) ®Õn khi hä Khóc dùng nỊn tù
chđ (905) cùng với cộng đồng c dân xứ Nghệ, c dân Thanh Chơng đà góp một
phần máu xơng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và giữ gìn những
giá trị văn hoá, văn minh của cha ông trớc âm mu đồng hoá của ngời Hán.
Từ thời Lý Trần Hồ, trải qua 4 thế kỷ nớc nhà dựng nền tự chủ,
các thế hệ ngời dân Thanh Chơng đà không biết bao lần góp xơng máu vào
công cuộc đánh Tống, chống Mông Nguyên. Các thế hệ c dân tiếp nối trên
vùng đất cằn khô sỏi đá này còn góp phần to lớn cùng cả dân tộc tạo dựng nên
nền văn minh Đại Việt rực rỡtiếp
Ngha quõn ó úng đại bản doanh tại thành Bình Ngơ (Bích Triều).
Được sự hưởng ứng, ủng hộ của nhân dân Thanh Chương, nghĩa quân dã
đánh tan giặc Minh tại thành Lục Niên(xã Thanh Lâm) và thừa thắng tiến về
Vinh, rồi truy kích giặc ra tận Thăng Long. Hiện chưa có nhưng tư liệu về
đóng góp sức người sức của, của nhân dân Thanh Chương đối với cuộc khởi
nghĩa Lê Lợi. Song, đền Bạch Mã là nơi lưu niệm chiến tích oanh liệt cuả
Phan Đà, người anh hùng quê Chi Long, Võ Liệt đã dũng cảm chiến đấu với
giặc Minh và hy sinh ở tuổi 18.
Sang thế kỷ XVIII, trong thời vua Lê, Chúa Trịnh, Thanh Chương là
một cứ điểm của nghĩa quân Quận He ( Nguyễn Hữu Cầu). Dưới lá cờ “Đông
đạo Tổng quốc bảo dân đại tướng quân” và khẩu hiệu” lấy của nhà giàu chia
cho người nghèo”, Quận He đã nhận được sự ủng hộ tích cực của nhân dân

Nghệ An nói chung và nhân dân Thanh Chương nói riêng.
Cũng trong thế kỷ XVIII, Thanh Chương cũng là một trong những nơi
đóng quân của nghĩa quân Lê Duy Mật với đồn Hồ Qn (xã Thanh Hương).
Lê Duy Mật thi hành chính sách đem lợi ích cho dân như xố nợ, lấy


20

ruộng đất nhà giàu chia cho nhà nghèo, đào kênh dẫn nước, lập lị rèn sản
xuất nơng cụ, bên cạnh đó là đúc vũ khí, lập chợ búa ở miền núi để trao đổi,
buôn bán. Nhờ thế, trong gần 10 năm (khoảng 1758-1768) , nhân dân các địa
phương trong tỉnh Nghệ An nói chung và trong huyện Thanh Chương nói
riêng đã giúp Lê Duy Mật chống lại triều đình có hiệu quả, lực lượng nghĩa
quân ngày càng lớn mạnh.
Mùa xuân năm Kỷ Dậu, 1789, trên đường hành quân ra bắc, vua Quang
Trung dừng chân ở Nghệ An dể tuyển thêm binh lính. Chỉ trong vịng 10
ngày, Quang Trung chiêu tập được tới 5 vạn quân. Thanh Chương có thể đã
cung ứng với một số lượng người và của đáng kể cho cuộc hành qn thần tốc
có một khơng hai của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.
Lúc bấy giờ, theo Bùi Dương Lịch viết trong “Nghệ An ký”, số dân cả
hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh chỉ vào khoảng 125.000 người(mười hai vạn
rưỡi).Thế mà, trong một thời gian rất gấp đã có khoảng 5 vạn người gia nhập
nghĩa quân. Như vậy, có thể nói, khơng có làng nào là khơng có người tịng
qn, từ những vùng gần nơi đóng quân của Quang Trung( Lam Thành, Hưng
Nguyên, ) đến Nam Đàn, Thanh Chương. Cuộc hành quân thần tốc đại phá
quân Thanh, tiêu diệt 29 vạn quân giặc của nghĩa quân Tây Sơn đã để lại âm
hưởng hùng tráng bất diệt. Đó là niềm tự hào to lớn của cả dân tộc Việt Nam
nói chung và của Xứ Nghệ, quê tổ của Nguyễn Huệ Quang Trung nói riêng.
Sau khi Quang Trung tạ thế và triều đại Tây Sơn được thay thế bằng
triều Nguyễn, trong những năm 10 và 20 của thế kỷ XIX, đời sống của nhân

dân của Nghệ An vô cùng điêu đứng, khổ cực. Trận dịch tả năm Canh Thìn,
1820, Nghệ - Tĩnh bị thiệt mạng 22.000 người. Nhiều xã thôn ở Thanh
Chương và các huyện khác, dân phải đi phiêu tán, tha phương cầu thực, ruộng



×