Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của ấn độ từ 1991 đến 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.97 KB, 108 trang )

LỜI CẢM ƠN.

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô trong tổ
Lịch sử thế giới, Khoa Lịch sử- Trường Đại học Vinh. Đặc biệt là Thầy Ths.
Lê Thế Cường- người đã nhiệt tâm hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài.
Tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn tới các cô, chú ở Thông tấn xã Việt Nam,
Viện Thông tin khoa học xã hội, Thư viện trường Học viện Quan hệ quốc tế,
Thư viện Nghệ An đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập nguồn tài liệu.
Nhân dịp này, tôi cũng gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và những
người thân luôn ở bên, động viên, giúp đỡ, khuyến khích tôi trong quá trình
học tập và nghiên cứu. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện luận văn sẽ
không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự giúp đỡ từ thầy
cô và bạn bè.
Vinh, tháng 5 năm 2010.
Tác giả
Lê Thị Kim Tuyến

MỤC LỤC
Trang
Më ®Çu

1

1


Néi dung
Chương 1:NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ ĐIỀU
1.1.


1.2.

CHỈNHCHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ẤN ĐỘ SAU NĂM 1991
Tình hình thế giới sau năm 1991.

6
6

1.1.1. Sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta

6

1.1.2. Sự tác động của xu thế toàn cầu hóa

7

Khái quát dường lối đối ngoại của Ấn Độ trước năm 1991.

10

1.2.1. Khái quát chính sách đối ngoại của Ấn Độ trước năm 1991.

10

1.2.2. Vai trò của Ấn Độ trong Phong trào Không liên kết.

12

1.2.3. Tổng quan về quan hệ của Ấn Độ với Mỹ, Liên Xô, Trung
1.3.


6

Quốc trong chiến tranh lạnh
Tình hình kinh tế, chính trị và xã hội Ấn Độ sau năm 1991.

16
23

1.3.1. Sự khủng hoảng toàn diện ở Ấn Độ.

23

1.3.2. Sự phát triển của nền kinh tế Ấn Độ từ năm 1991 đến 2008.

25

Tiểu kết

26

Chương 2:SỰ ĐIỀU CHỈNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA
2.1

ẤN ĐỘ TỪ 1991 ĐẾN 2008
Sự điều chỉnh mục tiêu, đường lối đối ngoại của Ấn Độ sau

2.2.

1991.

Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ với một số nước
và khu vực trên thế giới từ năm 1991- 2008.
2.2.1. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ với Mỹ
(1991- 2008).
2.2.2. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ với Liên
bang Nga (1991- 2008)
2.2.3. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ với Trung
Quốc (1991- 2008)
2.2.4. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ với một số
quốc gia, khu vực khác (1991- 2008).
Tiểu kết
Chương 3:MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ VAI TRÒ, VỊ TRÍ

2

28
28
34
34
44
54
64
78
79


3.1.
3.2.

QUỐC TẾ CỦA ẤN ĐỘ SAU CHIẾN TRANH LẠNH

Vai trò, vị trí quốc tế của Ấn Độ sau chiến tranh lạnh.
Triển vọng về quan hệ của Ấn Độ với một số nước và khu vực
KÕt luËn
Tµi liÖu tham kh¶o
Phô lôc

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới bước vào thế thời kỳ mới xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển đã trở thành xu thế khách quan và chi phối
mối quan hệ giữa các nước, buộc tất cả các nước, đặc biệt là các nước lớn
phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại để phù hợp với tình hình mới. Trong
bối cảnh đó, Ấn Độ đã điều chỉnh chính sách ngoại giao linh hoạt và thực
dụng hơn với các nước lớn trên thế giới như Mỹ, Nga, Trung Quốc và một số
quốc gia, khu vực khác trên thế giới.

3

79
86
96
99


Mối quan hệ Ấn - Nga đã được kế thừa từ mối quan hệ truyền thống
Ấn- Xô trước đây. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên
Xô thì mối quan hệ Ấn - Xô bị đứt quãng trong một thời gian dài. Sau khi
điều chỉnh chiến lược ngoại giao, Ấn Độ đã nối lại quan hệ ngoại giao truyền
thống với Liên bang Nga - người kế thừa hợp pháp địa vị của Liên Xô trên
trường quốc tế. Quan hệ Ấn - Nga sau chiến tranh lạnh có tác động lớn đến
mối quan hệ giữa các nước lớn, góp phần vào việc hình thành thế giới đa cực.

Ấn Độ và Mỹ là hai nước lớn đúng nghĩa của nó cả về phương diện
lãnh thổ cũng như vai trò của hai quốc gia này trên thế giới. Sự điều chỉnh
chính sách ngoại giao của cả hai nước tạo nên những tác động lớn trong quan
hệ quốc tế. Sự hợp tác Ấn Độ - Mỹ sẽ tạo ra những tiềm năng to lớn để cho cả
hai quốc gia này có điều kiện để phát triển đất nước.
Trong mối quan hệ với Trung Quốc, đây là hai nước láng giềng nên
quan hệ giữa hai nước đã gây sự chú ý của dư luận, sau mấy thập niên quan
hệ giữa hai nước căng thẳng. Sau chiến tranh lạnh, tình hình quốc tế và khu
vực có nhiều thay đổi, Ấn Độ đã có những điều chỉnh trong mối quan hệ với
Trung Quốc. Quan hệ giữa hai nước trở nên "nồng ấm" và sự cải thiện đó
không chỉ có lợi cho hai nước mà còn tác động tích cực đến hoà bình, ổn định
trong khu vực và trên toàn thế giới.
Đối với một số quốc gia, khu vực khác như Pakixtan, Đông Nam Á, Ấn
Độ cũng đã có những điều chỉnh linh hoạt, mềm dẻo trong chính sách đối
ngoại của mình để tiếp tục xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp, góp phần ổn
định và tiếp tục phát triển đất nước. Với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ,
rộng mở, “là bạn đối tác tin cậy với tất cả các nước” Việt Nam đang mở rộng
quan hệ với các nước, đặc biệt là các nước láng giềng, các nước lớn trong đó
có Ấn Độ. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ không chỉ ảnh
hưởng đến khu vực và thế giới mà còn ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam.
Việc nghiên cứu sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ do vậy
có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao. Với những lý do trên, chúng tôi quyết
định lựa chọn vấn đề: "Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ
1991 - 2008" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.

4


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Vấn đề quan hệ của các nước từ lâu đã được giới nghiên cứu quan tâm

tìm hiểu, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu quan hệ của nước Cộng hoà
Ấn Độ với các quốc gia khu vực ở trên thế giới bằng cả tiếng nước ngoài và
tiếng Việt. Tuy nhiên do trình độ ngoại ngữ còn hạn chế, bản thân chỉ mới
tiếp cận được các công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt đăng trên các sách,
báo, tạp chí với dung lượng lớn nhỏ khác nhau, có thể kể tên một số công
trình sau:
Cuốn Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hoà Ấn Độ từ 1991 đến 2000
của tác giả Trần Thị Lý, Nguyễn Huy Hoàng, Bùi Minh Sơn, Đỗ Đức Định,
Nguyễn Công Khanh, NXB KHXH, Hà Nội, 2002. Trong đó, các tác giả đã đề
cập đến nguyên nhân điều chỉnh chính sách của Ấn Độ cũng như mối quan hệ
cụ thể với các quốc gia, khu vực trên thế giới.
Cuốn Lịch sử Ấn Độ (1995) do GS. Vũ Dương Ninh chủ biên là công
trình có giá trị nhất, toàn diện nhất về lịch sử Ấn Độ cho đến nay, trong đó
quan hệ của Ấn Độ với các nước lớn được đề cập tương đối khái quát.
Cuốn Jawaharlal Nehru- Tiểu sử và sự nghiệp (2001) của PGS.TS
Nguyễn Công Khanh giới thiệu về tiểu sử của Jawaharlal Nehru, nghiên cứu
vai trò của ông trong Phong trào đấu tranh giành độc lập, xây dựng đường lối
đối nội, đối ngoại của quốc gia Ấn Độ. Vai trò của J.Nehru trong việc hoạch
định chính sách đối ngoại với Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc bước đầu cũng được
tác giả đề cập đến.
Cuốn Vị trí và vai trò của quốc tế của Ấn Độ ở châu Á – Thái Bình
Dương trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI của tác giả Nguyễn Quốc Khánh
đã giới thiệu về vai trò và vị trí của Ấn Độ ở châu Á – Thái Bình Dương trên
cơ sở khái quát về chính sách đối ngoại và mối quan hệ giữa Ấn Độ với một
số quốc gia và khu vực trên thế giới.
Bài viết Thử nhìn lại quan hệ Mỹ - Ấn Độ trong năm mươi năm qua in
trong cuốn Tuyển tập các công trình nghiên cứu lịch sử từ 1990 đến 1999,
Khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm Vinh, NXB Nghệ An, 1999. Tác giả PGS.TS

5



Nguyễn Công Khanh đã trình một số nét về cơ bản về chính sách đối ngoại
của nước cộng hoà Ấn Độ với Mỹ từ 1950 cho đến 1999.
Quan hệ của Ấn Độ với các quốc gia lớn và một số quốc gia khu vực
còn được đề cập đến trong các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành của các
tác giả như Trần Thị Lý, 10 năm điều chỉnh chính sách đối ngoại của Cộng
hoà Ấn Độ (1991- 2000): Những thành tựu, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6,
2001; Ngô Minh Oanh, Tư tưởng không liên kết từ J.Nehru đến I.Gandhi,
Nghiên cứu lịch sử, số 2, 2005; Phạm Minh Tuấn, Quan hệ Ấn Độ- ASEAN:
Tiến tới mối quan hệ lâu dài và bền vững, Nghiên cứu quốc tế, số (1) 64,
2006; Nguyễn Thu Hương, Về vị trí của Ấn Độ trên trường quốc tế (thời kỳ
1947- 1997), Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, 2001; Lê Viết Duyên, Quan hệ
Ấn- Nga và nét mới trong chính sách của Nga với Nam Á, Nghiên cứu quốc
tế, số 36, 2000…
Như vậy, vấn đề về sự điều chỉnh mối quan hệ của Ấn Độ với một số
quốc gia, khu vực thực tế đã được đề cập phân tán trong một số công trình.
Các cuốn sách và các bài viết khi trình bày về sự điều chỉnh chính sách đối
ngoại của Ấn Độ chỉ đề cập đến những giai đoạn hay khía cạnh cụ thể của các
mối quan hệ với Nga, Trung Quốc, Mỹ và một số khu vực. Trên cơ sở các tài
liệu trên cũng như một số tài liệu mới, đề tài sẽ tập trung làm rõ về sự điều
chỉnh những mối quan hệ này của Ấn Độ từ 1991 đến 2009.

6


3. Phạm vi nghiên cứu.
Tiếp xúc với các nguồn tư liệu trong điều kiện có thể, chúng tôi xác
định phạm vi nghiên cứu như sau:
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về sự điều chỉnh chính sách

đối ngoại của Ấn Độ từ 1991 đến 2008, trong đó chú trọng đến sự điều chỉnh
chính sách với Nga, Trung Quốc, Mỹ, Pakixtan và các nước Đông Nam Á;
qua đó bước đầu đánh giá vai trò, vị trí của Ấn Độ trên trường quốc tế sau
chiến tranh lạnh. Để làm sáng rõ vấn đề này, đề tài có xem xét những yếu tố
tác động đến sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ trước và sau năm
1991.
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu sự điều chỉnh chính sách
đối ngoại của Ấn Độ giai đoạn 1991 đến 2008, nghĩa là từ khi Ấn Độ thực
hiện công cuộc cải cách toàn diện của thủ tướng Narasimha Rao đến năm
2008.
Những vấn đề nằm ngoài giới hạn trên không thuộc phạm vi nghiên
cứu của đề tài.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Nguồn tài liệu.
Đề tài tiến hành nghiên cứu trên cơ sở các nguồn tài liệu tin cậy đã
được công bố trong và ngoài nước.
- Các diễn văn, bài phát biểu, văn kiện ký kết nhân các chuyến thăm lẫn
nhau giữa lãnh đạo cấp cao các nước; các tài liệu hồi ký đã được dịch ra tiếng
Việt của các nhà lãnh đạo cấp cao Ấn Độ; các văn kiện về đường lối đối ngoại
của Ấn Độ.
- Các công trình nghiên cứu, các bài viết đã được công bố trên các tạp
chí chuyên ngành ở Việt Nam như Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu Đông
Nam Á, Nghiên cứu Quốc tế, Nghiên cứu Trung Quốc….; tài liệu tham khảo
đặc biệt, tài liệu dịch ở Vụ Nam Á - Bộ Ngoại giao, Thông tấn xã Việt Nam,
Trung tâm nghiên cứu Ấn Độ.v.v..
- Những công trình nghiên cứu khoa học, khoá luận tốt nghiệp đại học,
đề tài đề cập đến chính sách kinh tế, chính trị đối ngoại của Ấn Độ

7



4.2.Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở nguồn tài liệu thu thập được, khóa luận sử dụng phương pháp
luận Mác – Lênin và các phương pháp nghiên cứu lịch sử nhằm tái hiện khách
quan và khoa học quan hệ về sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ.
Trong đó, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương
pháp lôgic và các phương pháp bộ môn nhằm giải quyết căn bản những vấn đề
đặt ra.
Bên cạnh đó, quan điểm của Đảng về các vấn đề quốc tế, đường lối đối
ngoại cũng được chúng tôi quán triệt trong quá trình nghiên cứu. Khóa luận
còn sử dụng các phương pháp chuyên ngành và liên ngành như tổng hợp,
thống kê, phân tích, đối chiếu, so sánh và suy luận logic … để giải quyết
những vấn đề khoa học đặt ra.
5. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở các nguồn tư liệu tiếp cận được, luận văn cố gắng khái quát
một cách hệ thống về sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ thời kỳ
từ 1991 đến 2008.
Luận văn đi vào tìm hiểu sự điều chỉnh chính sách chung và chính sách
cụ thể của Ấn Độ đối với các nước lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc…. Qua đó
bước đầu đánh giá vai trò, vị trí và triển vọng của chính sách đối ngoại của
Ấn Độ.

Luận văn được thực hiện sẽ giúp ích cho bản thân sau này trong

việc nghiên cứu và giảng dạy ở trường phổ thông, đồng thời là tài liệu tham
khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Ấn Độ.
6. Bố cục của khoá luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của khoá luận được trình bày trong 3 chương sau:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến sự đièu chỉnh chính sách đối

ngoại của Ấn Độ sau năm 1991.
Chương 2: Sự điều chỉnh đường lối đối ngoại của Ấn Độ từ 1991- 2008
Chương 3: Một số đánh giá về vai trò, vị trí quốc tế của Ấn Độ sau chiến
tranh lạnh.

8


Chương 1:
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ ĐIỀU CHỈNH
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ẤN ĐỘ SAU NĂM 1991
1.1. Tình hình thế giới sau năm 1991.
1.1.1. Sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta.
Trật tự hai cực Ianta được thiết lập trên cơ sở những thỏa thuận của ba
cường quốc Liên Xô, Mỹ và Anh tại Hội nghị Ianta đã chi phối toàn bộ đời
sống kinh tế, chính trị cũng như quan hệ quốc tế suốt những năm 1945 đến
1991. Cuộc đối đầu giữa hai khối Đông - Tây đã cuốn hút nhiều quốc gia,
nhiều khu vực vào vòng xoáy của nó. Sau hơn 40 năm tồn tại, đến năm 1991
trật tự hai cực Ianta đã chính thức bị phá vỡ do sự sụp đổ của “cực Liên Xô”.
Nhân cơ hội trật tự hai cực bị phá vỡ, Mỹ liền ra sức vươn lên “thế một cực”
trong trật tự thế giới mới, còn các cường quốc khác cố gắng duy trì thế đa
cực. Chính sự tan rã của trật tự thế giới hai cực đã dẫn tới sự giảm sút vai trò
quốc tế của Ấn Độ với tư cách là trụ cột của Phong trào Không liên kết và
nước có vị trí đứng đầu của thế giới thứ ba.
Chiến tranh lạnh kết thúc, sự tan rã của trật tự thế giới hai cực đã khiến
cho Phong trào Không liên kết, lực lượng chính trị giữa hai phe TBCN và
XHCN không còn vai trò quan trọng như thời kì trước nữa. Vị thế của Ấn Độ
với tư cách là một trong những nước lãnh đạo của Phong trào Không liên kết
do đó cũng bị suy giảm trên trường quốc tế. Một số vấn đề quốc tế nổi cộm
trước đây và cũng là những lĩnh vực mà Ấn Độ đã từng phát huy được vai trò

như: ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, chống đế quốc xâm
lược, giải trừ quân bị, bảo vệ hòa bình, chống chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc… đã không còn nhiều ý nghĩa trong một thế giới mà yếu tố kinh tế trở
thành yếu tố nổi trội trong quan hệ quốc tế như giai đoạn sau chiến tranh lạnh.
Đây chính là yếu tố quan trọng khiến Ấn Độ phải có những thay đổi về đối
ngoại để xác lập cho mình vị trí quốc tế xứng đáng trong một trật tự thế giới
mới đang hình thành.

9


Đồng thời với sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta là sự sụp đổ của Liên
Xô đã khiến Ấn Độ mất đi một chỗ dựa vững chắc về mọi mặt. Tuy là một
nước không liên kết nhưng Ấn Độ lại có nhiều quan điểm gần gũi với Liên
Xô như: chống chủ nghĩa đế quốc, ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc, bảo vệ sự nghiệp hòa bình thế giới… Trong thời kì chiến tranh lạnh,
sự gắn bó giữa Liên Xô và Ấn Độ đã làm nghiêng hẳn cán cân có lợi cho lực
lượng hòa bình, dân chủ và cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Đặc
biệt sau khi quan hệ Xô- Trung căng thẳng và cuộc chiến tranh Trung - Ấn
(1962), quan hệ Xô- Ấn ngày càng trở nên mật thiết với bằng chứng là Hiệp
ước Hòa bình, Hữu nghị và Hợp tác mà hai bên đã kí vào năm 1971. Nếu về
mặt chính trị, quan hệ Ấn - Xô là quan hệ đồng minh chiến lược dựa trên cơ
sở những lợi ích trùng hợp thì về mặt kinh tế Liên Xô cũng là một chỗ dựa vô
cùng vững chắc cho Ấn Độ. Các nhà máy của Ấn Độ do Liên Xô giúp đã sản
xuất ra 80% tổng sản lượng thiết bị luyện kim, 60% sản lượng thiết bị điện,
35% sản lượng thép, 70% sản lượng khai thác dầu, 20% sản lượng điện [15;
14]. Về thương mại, hai bên là thị trường lớn của nhau. Liên Xô là bạn hàng
lớn thứ hai của Ấn Độ và là bạn hàng “dễ tính” của Ấn Độ. Chính mối quan
hệ mật thiết dựa trên những lợi ích chính trị là chính, nhiều lúc bất chấp quan
hệ hàng hóa, tiền tệ theo cơ chế thị trường đã khiến Ấn Độ hụt hẫng nghiêm

trọng khi Liên Xô sụp đổ.
Như vậy, sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta đã tác động sâu sắc vào vị
thế của Ấn Độ, đồng thời với sự sụp đổ của Liên Xô, Ấn Độ đã mất đi chỗ
dựa tin cậy và là đối tác chiến lược trong suốt hơn 40 năm. Yêu cầu tìm kiếm,
điều chỉnh chính sách đối ngoại trong tình hình mới đặt ra cấp thiết.
1.1.2. Sự tác động của xu thế toàn cầu hóa.
Chiến tranh lạnh chấm dứt đã làm thay đổi căn bản, bản chất các mối
quan hệ giữa các nước. Các quốc gia bước ra khỏi cuộc chiến đều đứng trước
một thực tế, thế giới của thời kì sau chiến tranh lạnh là một thế giới tập hợp
các quốc gia độc lập, ít ràng buộc nhau hơn về mặt tư tưởng, vừa phụ thuộc
nhưng vừa cạnh nhau gay gắt. Cho nên có thể thấy trong chiến lược của tất cả

10


các quốc gia nhất là các nước lớn, vấn đề phát triển kinh tế đều được coi
trọng. Quá trình toàn cầu hóa có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Quá trình tự do hóa thương mại, mở rộng thị trường về chiều
sâu, tự do hóa lưu chuyển vốn, sự hòa nhập của cơ cấu tài chính, sự phân
công chuyên môn hóa sản xuất. Toàn cầu hóa đang diễn ra một cách sôi động,
lôi cuốn các quốc gia lớn nhỏ, từ trung tâm đến ngoại vi vào vòng xoáy của
nó tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn. Từ đó, sự đan xen về lợi ích
cũng như thống nhất, mâu thuẫn luôn diễn ra trên phạm vi quốc gia, liên quốc
gia, khu vực và toàn cầu.
Thứ hai: Sự liên kết giữa các nước diễn ra theo mối liên hệ từ một
ngành đến nhiều ngành, từ kinh tế đến khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao,
chính trị, ngoại giao. Sự liên kết và tương tác như vậy đã lan tỏa từ trung tâm
đến ngoại vi, vượt qua mọi biên giới quốc gia và thể chế chính trị khác nhau
với mức độ không giống nhau.
Thứ ba: Quá trình toàn cầu hóa vận động có xu hướng đối lập nhau.

Bên cạnh việc hợp tác liên kết hình thành cộng đồng thế giới thì lại diễn ra xu
hướng co cụm theo khu vực địa lý. Chẳng hạn sự hình thành NAFTA giữa
Mỹ, Mêhicô và Canađa, sự thống nhất các quốc gia trong EU, ASEAN…
Đồng thời với xu hướng liên kết là xu hướng phân rã, chia rẽ các liên bang,
các khu vực liên kết thành các quốc gia độc lập, vùng tự chủ theo sắc tộc, tôn
giáo, địa lý…
Thứ tư: Về cơ bản, quá trình toàn cầu hoá đang diễn trong khung cảnh
hòa bình, đối thoại thay cho đối đầu. Song không phải chiến tranh đã hoàn
toàn kết thúc, máu đã ngừng đổ mà các thế lực phản động quốc tế vẫn đang
tìm mọi cách để áp đặt hệ tưởng chính trị của mình lên toàn nhân loại và khi
bị phản ứng chúng sẵn sàng dùng vũ lực để chống đối. Do vậy, nền hòa bình
thế giới vẫn đang bị đe dọa, mọi quốc gia dân tộc đều có trách nhiệm quét
sạch các thế lực chống đối, bảo vệ vững chắc nền hòa bình cho nhân loại.
Thứ năm: Sự hình thành về mặt tổ chức các thiết chế liên quốc gia và
quốc tế tiếp tục đẩy mạnh. Song bình đẳng của các nước trong các thể chế đó

11


luôn là vấn đề nổi cộm. Các tổ chức này tuy đã góp phần không nhỏ vào việc
giải quyết nhiều vấn đề quốc tế mà thành quả của nó mang lại lợi ích chung
cho cả cộng đồng thế giới, song trên thực tế nó đã bị Mỹ và một số cường
quốc phương Tây khống chế. Trong việc giải quyết những vấn đề hệ trọng,
thường các tổ chức này lại trở thành bình phong che đậy cho việc thực hiện ý
đồ của Mỹ và một số nước phương Tây.
Như vậy, với những đặc trưng cơ bản của quá trình toàn cầu hóa là tự
do hóa mà trước hết là tự do hóa về kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật và mở
rộng sự giao lưu quốc tế về các vấn đề chính trị- xã hội, toàn cầu hóa đang
đưa lại một khả năng to lớn đối với các quốc gia trong việc hợp tác nhằm khai
thác các nguồn lực quốc tế để phát triển. Xu thế tập trung phát triển kinh tế để

tránh tụt hậu khiến tất cả các nước phải hợp tác với nhau, từng nước đều thi
hành chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình này càng làm
cho toàn cầu hóa diễn ra nhanh hơn, đồng thời thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn
nhau, đan xen lợi ích quốc gia của các nước với nhau; do đó giảm thiểu nguy
cơ chiến tranh và xung đột, khuyến khích xu hướng vừa hợp tác vừa đấu tranh
hòa bình. Tiến trình này mở ra thời kì mới với vai trò ngày càng quan trọng
trong quan hệ quốc tế nói chung và trong quan hệ kinh tế quốc tế nói riêng
của các chủ thể phi nhà nước như các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế và đa
phương APEC, WTO, IMF… Trong quá trình đó, Ấn Độ cũng không tránh
khỏi sức ép, chính sách áp đặt của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế khi
gia nhập với tư cách thành viên.
Tóm lại, trước xu thế toàn cầu nói trên, tất cả các nước phải điều chỉnh
chính sách để thích hợp với hoàn cảnh mới. Quá trình toàn cầu hóa đã tác
động sâu sắc đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của cộng hòa Ấn Độ, đặt
ra cho Ấn Độ những thách thức, trong đó có việc điều chỉnh chính sách đối
ngoại một cách phù hợp và hiệu quả.

12


1.2. Khái quát đường lối đối ngoại của Ấn Độ trước năm 1991.
1.2.1. Khái quát chính sách đối ngoại của Ấn Độ trước năm 1991.
Ngay từ khi mới giành được quyền tự trị, Thủ tướng đầu tiên của Ấn
Độ Nêru đã đề ra những phương hướng chính trong chính sách đối ngoại là
“chung sống hoà bình, tự lực tự cường và hợp tác, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, không liên kết, ủng hộ phi thực dân hoá, giải trừ vũ khí,
xây dựng trật tự kinh tế quốc tế công bằng và đấu tranh trên toàn cầu chống
phân biệt chủng tộc”[10; 18].
Từ ngày 23/3- 2/4/1947, theo sáng kiến của J.Nêru, tại Đêli đã diễn ra
Hội nghị Liên Á lần thứ nhất có đại diện của 28 nước châu Á tham gia. Hai

năm sau, chính phủ Ấn Độ lại có sang kiến triệu tập Hội nghị châu Á lần thứ
hai (từ 20 đến 23/1/1949). Tại hội nghị, J.Nêru nghiêm khắc lên án việc liên
minh phương Tây ủng hộ Hà Lan xâm lược Inđônêxia. Uy tín quốc tế của Ấn
Độ được đề cao, đến đầu năm 1950 đã có 39 nước thiết lập quan hệ ngoại
giao. Ngoài việc thiết lập quan hệ với Liên Xô và các nước XHCN khác, Ấn
Độ là nước đầu tiên công nhận Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Ấn Độ còn
đóng vai trò nòng cốt trong việc thành lập Mặt trận các nước châu Á chống
chủ nghĩa đế quốc thực dân, tạo thành lực lượng mới trỗi dậy tại diễn đàn
Liên Hợp Quốc. Tháng 6/1954, Thủ tướng Ấn Độ J.Nêru đã cùng Thủ tướng
Trung Quốc Chu Ân Lai đề ra “Năm nguyên tắc chung sống hoà bình” (Panch
Sheel) nổi tiếng:
1.

Tôn trọng toàn bộ lãnh thổ và chủ quyền của nhau.

2.

Không tấn công nhau.

3.

Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

4.

Bình đẳng và cùng có lợi.

5.

Cùng tồn tại hoà bình


Năm nguyên tắc này không chỉ đặt cơ sở cho quan hệ Ấn - Trung mà
còn cho quan hệ quốc tế của các nước châu Á- Phi và trỏ thành nền tảng của
chính sách đối ngoại Ấn Độ. “Năm nguyên tắc” đã được phát triển thành
“Mười nguyên tắc Băng Đung” tại Hội nghị Á- Phi ở Inđônêxia tháng 4/1955.

13


Tại đây, đại diện Ấn Độ đã khẳng định lập trường chống chủ nghĩa thực dân
và góp phần gìn giữ Hội nghị không đi chệch khỏi vấn đề cốt tử đó. Những
nguyên tắc Băng Đung đã trở thành cơ sở cho tư tưởng không liên kết. Với ý
nghĩa đó, Hội nghị Băng Đung được coi là tiền thân của Phong trào Không
liên kết.
Ấn Độ cùng Inđônêxia, Nam Tư, Ai Cập và Gana sáng lập Phong trào
Không liên kết trong cuộc gặp gỡ của 5 nguyên thủ: J.Nêru, B.Titô, A.Natxe,
N.Cơruma và Xucacnô tại khoá họp XV Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm
1960. Hoạt động này đã dẫn đến việc triệu tập hội nghị cấp cao các nước
không liên kết lần thứ nhất ở Bengrat (Nam Tư) vào năm sau. Tiêu chuẩn cơ
bản của một nước không liên kết, theo Ấn Độ là thực hiện chính sách độc lập
trên những nguyên tắc chung sống hoà bình và không liên kết, luôn ủng hộ
phong trào độc lập dân tộc, không tham gia liên minh quân sự. Sau khi J.Nêru
qua đời, các nhà lãnh đạo Ấn Độ vẫn tiếp tục thực hiện đường lối không liên
kết đó. Ấn Độ luôn đóng vai trò quan trọng trong Phong trào Không liên kết.
Vào đầu những năm 80, khi tình hình thế giới và khu vực gặp phải những thử
thách phức tạp, Ấn Độ sẵn sàng nhận trách nhiệm đăng cai Hội nghị cấp cao
Phong trào Không liên kết thứ bảy ở Niu Đêli. Từ diễn đàn này, với tư cách là
Chủ tịch mới của phong trào, I.Gandhi xác định rõ ràng nội dung tư tưởng
không liên kết: “không liên kết không có nghĩa là mơ hồ, trung lập; không
liên kết có nghĩa là độc lập dân tộc và tự do. Chúng ta chủ trương hoà bình,

bình đẳng giữa các dân tộc, đòi dân chủ hoá các quan hệ kinh tế về kinh tế
cũng như chính trị” [18; 166]. Có thể nói, trong hơn 30 năm tồn tại của Phong
trào Không liên kết, Ấn Độ có những hoạt động không mệt mỏi vào sự phát
triển mạnh mẽ và đúng hướng của phong trào. Biểu hiện rõ nhất điều đó là
thời kì Ấn Độ làm Chủ tịch phong trào (1983- 1986) và tại Hội nghị cấp cao
lần thứ X của tổ chức này họp ở Giacacta vào tháng 9/1992.
Trong những thập kỉ 50 - 60, Cộng hoà Ấn Độ hoàn toàn ủng hộ cuộc
đấu tranh ở hàng loạt thuộc địa ở Anh, Pháp cũng như đối với các thuộc địa
Bồ Đào Nha vào những năm 70. Ngay từ khi cuộc đấu tranh lâu dài của nhân

14


dân Palextin bắt đầu, Ấn Độ đã tích cực ủng hộ, sớm công nhận và duy trì
quan hệ với tổ chức giải phóng PLO. Chính phủ Ấn Độ ngày càng kiên quyết
ủng hộ mạnh mẽ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Đông
Dương, góp phần quan trọng trong việc chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình
ở vùng này. Khi các nước Đông Dương bị đe doạ xâm lược, hoặc trước hoạ
tiệt chủng ở Campuchia, Ấn Độ luôn luôn đứng bên cạnh. Năm 1980, ngay
sau khi trở lại cầm quyền, Thủ tướng I.Gandhi đã công nhận và đặt quan hệ
ngoại giao với chính phủ cách mạng Campuchia do Hiêng Xomrin đứng đầu
bất chấp mọi trở lực.
1.2.2. Vai trò của Ấn Độ trong Phong trào Không liên kết.
Người đầu tiên đưa ra khái niệm “Không liên kết” và coi đó là chính
sách là Thủ tướng Ấn Độ J.Nêru. Ngay từ ngày 7/9/1946 tức là trước ngày
Ấn Độ giành được độc lập (5/8/1947), Nêru trong một bài phát biểu trên đài
phát thanh đã nói: “Chúng ta chủ trương hết sức tránh xa khối quyền lực,
cách làm mà một khối này chống lại một khối khác đã từng dẫn đến đại
chiến thế giới, rất có thể một lần nữa nó sẽ đem lại tai hoạ với qui mô lớn
hơn” [28; 13].Trong một bức thư mà Nêru đã gửi cho Gen- Cariappa - người

lãnh đạo quân đội Ấn Độ, ngày 5/5/1950 có nói: “Tôi và Chính phủ của
mình đã thể hiện rất rõ ràng chính sách đối ngoại của chúng ta, đó là không
liên kết với bất cứ một khối quyền lực (Power bloc) nước lớn nào” [28; 12].
Ngày hôm sau, Nêru đã gửi thư cho Ngoại trưởng Ấn Độ V.K.Krishna
Menon để nói với ông ta về những vấn đề quan trọng của văn kiện trên để
cho giới lãnh đạo quân sự biết về “chính sách không liên kết của chúng ta”
[16; 35].
Tháng 3/1947, Thủ tướng Nêru triệu tập Hội nghị về Liên Á lần thứ
nhất tại Niu Đêli với sự tham dự của đại biểu 26 nước châu Á (có tài liệu nói
là 32 nước). Mục đích Hội nghị là thảo luận về hợp tác chính trị kinh tế và
văn hoá giữa các nước châu Á. Trong diễn văn đọc tại hội nghị, Thủ tướng
Nêru tuyên bố: “Lòng mong muốn to lớn của chúng ta là xúc tiến hoà bình
và tiến bộ trên toàn thế giới… đã kéo dài thời kì mà người châu Á chúng ta

15


là kẻ đệ đơn thỉnh cầu tại các toà án và các văn phòng của phương Tây. Giờ
đây tình trạng đó phải thuộc về quá khứ. Chúng tôi đề nghị chúng ta phải
đứng vững trên hai chân của mình và hợp tác với những ai sẵn sàng hợp tác
với chúng ta. Chúng ta không muốn trở thành đồ chơi của những kẻ
khác”[28; 13].
Tháng 1/1949, theo đề nghị của Miến Điện, Thủ tướng J.Nêru tổ chức
Hội nghị châu Á lần thứ hai tại Niu Đêli với đại diện chính phủ 15 nước nhằm
mục đích ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa,
đặc biệt là lên án chiến tranh xâm lược của thực dân Hà Lan ở Inđônêxia.
Cuối những năm 40 đầu những năm 50, trước sự thắng lợi giòn giã của
phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Á,
Phi, Mỹ latinh, các nước đế quốc thực dân tăng cường cấu kết, tập hợp đồng
minh hòng “ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản” và đối phó với phong trào giải

phóng dân tộc. Mỹ đã thành lập một loạt các khối quân sự như NATO,
SEATO, ANZUS, CENTO… Trước nguy cơ độc lập chủ quyền của mình bị
đe doạ, các nước mới độc lập thấy cần thiết và cấp bách phải tìm ra những
nguyên tắc chỉ đạo mối quan hệ giữa các nước châu Á và châu Phi với nhau
và với các nước lớn.
Tháng 4/1954, Nguyên thủ 5 nước Ấn Độ, Miến Điện, Xây Lan (nay là
Sri Lanka), Pakixtan và Inđônêxia họp tại Colombo (Sri Lanka) để thảo luận
các vấn đề quan tâm chung như: chống thực dân và phân biệt chủng tộc, chiến
tranh lạnh, vấn đề thử vũ khí hạt nhân và hợp tác kinh tế. Tại đây, Thủ tướng
Nêru đã tuyên bố rằng đa số các nước tham dự hội nghị theo đuổi chính sách
đối ngoại không liên kết. Theo đề nghị của Inđônêxia, 5 nước này đã triệu tập
một hội nghị các quốc gia độc lập như châu Á và châu Phi trong năm 1955.
Sau đó 5 nước lại gặp nhau tại Bogor (Inđônêxia) vào tháng 12/1954 và quyết
định Hội nghị Á- Phi sẽ họp tại thành phố Băng Đung của Inđônêxia từ ngày
18 đến 24/4/1955.
Ngày 18/4/1955, hội nghị đoàn kết của nhân dân Á, Phi đã diễn ra tại
Băng Đung. Tại hội nghị những nguyên tắc của phong trào Không liên kết đã

16


được xác định và về sau trở thành đường lối, chính sách đối ngoại của đa số
các quốc gia độc lập trẻ tuổi. Các nước tham gia hội nghị đã nhất trí đề ra
mười nguyên tắc Băng Đung chỉ đạo quan hệ và an ninh quốc tế. Mười
nguyên tắc đó là:
1. Tôn trọng quyền cơ bản của con người và tôn trọng tôn chỉ và nguyên
tắc Hiến chương Liên Hợp Quốc.
2. Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia.
3. Thừa nhận sự bình đẳng của các chủng tộc và sự bình đẳng của tất cả
các quốc gia lớn và nhỏ.

4. Không can thiệp và không xen vào công việc nội bộ của các nước
khác.
5. Tôn trọng quyền của mỗi dân tộc được tự vệ riêng lẻ hoặc tập thể phù
hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc.
6. Không dùng những thoả thuận về phòng thủ tập thể nhằm phục vụ lợi
ích riêng của bất cứ cường quốc nào và không nước nào được gây sức
ép đối với các nước khác.
7. Tự kiềm chế, không hành động hoặc đe doạ xâm lược hoặc sử dụng sức
mạnh vi phạm toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của bất cứ nước
nào.
8. Giải quyết các xung đột quốc tế bằng biện pháp hoà bình do các bên
lựa chọn, phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc.
9. Khuyến khích lợi ích chung và hợp tác.
10.Tôn trọng công lý và nghĩa vụ quốc tế.
Mười nguyên tắc được dùng làm cơ sở cho chính sách đối ngoại của
các nước Á, Phi mới độc lập, đồng thời được dùng làm cơ sở cho những
nguyên tắc của Phong trào Không liên kết. Không liên kết trên cơ sở chống
chủ nghĩa đế quốc, thực dân, vì hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển kinh tế,
là chính sách cơ bản của Ấn Độ. J.Nêru nhiều lần nhấn mạnh rằng: “Không
kiên kết” không phải là tập trung một cách thụ động, mà cần phải có thái độ

17


rõ ràng trong các vấn đề như chạy đua vũ trang, chính sách xâm lược của đế
quốc.
Mặc dù trong trong thời kì 1962 - 1971 vai trò của Ấn Độ suy giảm
mạnh mẽ sau một loạt các biến cố đối nội và đối ngoại, song về cơ bản Ấn Độ
vẫn duy trì chính sách không liên kết và chống lại âm mưu của Mỹ dùng viện
trợ kinh tế và lợi dụng những khó khăn của Ấn Độ để lôi kéo Ấn Độ vào quỹ

đạo chống các nước XHCN. Ấn Độ vẫn tiếp tục cố gắng duy trì vai trò của
mình tại Phong trào Không liên kết qua các kỳ họp ở Cairo (1964) và Lusaka
(1970).
Đến thời kỳ 1971- 1980, Ấn Độ vẫn tiếp tục phát huy vai trò quan trọng
của mình trong Phong trào Không liên kết. Ấn Độ cũng có lập trường ủng hộ
Việt Nam, lên án mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và
tích cực ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ.
Thời kỳ giữa những năm 1980 - 1991, những biến động vô cùng to lớn
trên thế giới đã tác động mạnh mẽ Phong trào Không liên kết. Sự sụp đổ của
chế độ chủ nghĩa XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã có ảnh hưởng to
lớn đến sự hoạt động của phong trào. Vị thế của Ấn Độ với tư cách là một
trong những nước lãnh đạo của Phong trào Không liên kết cũng bị suy giảm
trên trường quốc tế.
Có thể nói, đóng góp lớn nhất của Ấn Độ cho lịch sử quan hệ quốc tế
thời kì chiến tranh lạnh là đã sáng tạo nên một con đường đi mới - con đường
không liên kết trong trật tự thế giới hai cực và chiến tranh lạnh. Với những
hoạt động tích cực, năng động, trong thời kì chiến tranh lạnh Ấn Độ đã nổi
lên với tư cách là lãnh tụ của các nước thế giới thứ ba, có một tiếng nói có
trọng lượng và một vị trí được nể trọng trên trường quốc tế.
Nhận xét sau đây về vị trí quốc tế của Nêru, vị Thủ tướng đầu tiên và
cũng là người sáng lập nên nước Cộng hoà Ấn Độ có thể coi là đại diện cho vị
thế quốc tế của Ấn Độ thời kì này: “Với vai trò là trụ cột của ông trong
Phong trào Không liên kết, với tư cách là người đại diện cho lợi ích quốc gia
của Ấn Độ, Nehru đã được đón tiếp tại Matxcơva, Oasinhtơn và châu Âu như

18


một đồng minh bình đẳng, được đánh giá cao và được công nhận ngay cả khi
những luận điểm của ông không thể chấp nhận được. Như vậy ông đã góp

phần vào việc khẳng định và mở rộng không những chính sách của quốc gia
Ấn Độ mà cả chính sách không liên kết nói chung” [12; 34].
1.2.3. Tổng quan về quan hệ của Ấn Độ với Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc
trong chiến tranh lạnh
* Đối với Mỹ: Sự không tương hợp về chiến lược toàn cầu của Mỹ quy
định mâu thuẫn sâu sắc giữa nước này với Ấn Độ, một quốc gia vừa mới
giành được độc lập và đi theo con đường không liên kết. Mâu thuẫn đó biểu
hiện trong sự khác nhau căn bản về quan điểm đối với những vấn đề phát
triển quốc tế quan trọng nhất, mà cụ thể là vấn đề chiến tranh và hoà bình,
giải trừ quân bị, giải quyết xung đột trên thế giới, cùng tồn tại hoà bình giữa
các quốc gia có chế độ xã hội khác nhau, chủ nghĩa thực dân cũ, trật tự kinh tế
thế giới mới.
Do vậy, trong suốt bốn thập kỉ của thời kì chiến tranh lạnh, mối quan
hệ Ấn - Mỹ hầu như luôn trong tình trạng hoặc lạnh lẽo hoặc căng thẳng,
những thời điểm cải thiện hầu như không đáng kể. Tuy quan hệ chính trị
không suôn sẻ, nhưng về kinh tế, Ấn Độ vẫn coi Mỹ là đối tác số một, một thị
trường lớn không bỏ qua. Vì vậy chính sách của Ấn Độ với Mỹ là vừa đấu
tranh vừa hợp tác, giữ mối quan hệ lâu dài.
Ngay từ ngày đầu độc lập, Ấn Độ rất cần đến tài chính, kỹ thuật để phát
triển công, nông nghiệp. Mỹ là nước duy nhất có thể giúp Ấn Độ về kinh tế vì
lúc này nhiều người ở Ấn Độ cho rằng, Liên Xô sẽ không viện trợ cho một
nước không cộng sản. Về phía Mỹ, trong những năm đầu tiên sau chiến tranh,
Mỹ đã theo đuổi mục đích thâm nhập kinh tế vào Ấn Độ và nắm chặt thị
trường nước này. Ngoài ra, Mỹ còn bắt đầu nghiên cứu khả năng sử dụng Ấn
Độ như một điểm ngăn chặn sự thức tỉnh của châu Á do thất bại không thể
tránh khỏi của Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc. Đi xa hơn, Tổng thống Mỹ
H.Tơruman mời Thủ tướng J.Nêru thăm Mỹ. Ngày 11/10/1949, Thủ tướng
Nêru đã đi thăm Mỹ. Trong thời gian ở Mỹ, Nêru đã hội đàm với Tổng thống

19



Tơruman, cố vấn quốc gia Acheson… song không đạt được kết quả đáng kể.
Lý do là Mỹ còn thiếu tin tưởng về sự ổn định nội bộ ở Ấn Độ và bởi Nêru
không muốn nhận bất cứ một trách nhiệm chính trị, quân sự cụ thể nào trước
Hoa Kỳ.
Từ những năm 50 trở đi, xu hướng thân Liên Xô của Ấn Độ cũng như
vai trò ngày càng tăng của Ấn Độ trong các nước thế giới thứ ba với tư cách
là trụ cột của Phong trào Không liên kết đã làm cho quan hệ Ấn - Mỹ ngày
càng trở nên băng giá. Sau chiến tranh biên giới Ấn - Trung (1962), Ấn Độ
tìm đến sự hợp tác quân sự hạn chế với Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ đã không đạt
được việc dùng quân sự trói buộc nước này vào một liên minh quân sự, không
đặt được một căn cứ quân sự nào trên đất Ấn Độ.
Từ giữa thập kỉ 60, Ấn Độ lên án cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam,
không chấp nhận chính sách “dùng người châu Á đánh người châu Á” của Mỹ
và kí với Liên Xô Hiệp định Hoà bình, Hữu nghị và Hợp tác (tháng 8/1971).
Những hành động này của Ấn Độ được coi là những thách thức đối với chiến
lược toàn cầu của Mỹ. Năm 1971 được coi là năm quan hệ Ấn - Mỹ xuống tới
mức thấp nhất. Tình trạng căng thẳng này kéo dài trong suốt thời kì cầm
quyền của Đảng Quốc Đại I do bà I.Gandhi đứng đầu (đầu năm 1977).
Trong khoảng hai năm từ tháng 3/1977 đến cuối năm 1979, Đảng
Janata lên cầm quyền thay thế Đảng Quốc Đại I. Với khuynh hướng thân hữu
của những người lãnh đạo mới, chính quyền Janata đã ra sức thực hiện chính
sách không liên kết “thực sự” tức là điều chỉnh lại thế đứng của Ấn Độ trong
quan hệ với Liên Xô và Mỹ cho “cân bằng” hơn vì họ cho rằng chính quyền
trước đó đã quá nghiêng về phía Liên Xô. Bằng cách này, chính quyền Janata
muốn gây một ấn tượng đối với Mỹ và Trung Quốc trong cách nhìn nhận của
họ về Ấn Độ, hạn chế chính sách của Mỹ và Trung Quốc kiềm chế Ấn Độ
bằng cách lấy Pakixtan làm đối trọng đối với Ấn Độ trong khu vực này.
Từ tháng 1/1980, Đảng Quốc Đại I trở lại cầm quyền, tiếp tục phát huy

chính sách đối ngoại tích cực của mình. Chính phủ của bà I.Gandhi đã giữ
vững lập trường nguyên tắc trong vấn đề Campuchia và Apganistan, tỏ thái

20


độ dứt khoát đối với những vấn đề liên quan đến an ninh và ổn định trong khu
vực (Nam Á, Ấn Độ Dương). Đặc biệt, việc Ấn Độ công nhận chính quyền
cách mạng ở Campuchia đã làm cho Mỹ khó chịu và có những hành động trả
đũa: đánh thuế từ 15% - 20% các mặt hàng xuất khẩu của Ấn Độ sang Mỹ,
đơn phương ngừng thực hiện hiệp định cung cấp nhiên liệu hạt nhân cho nhà
máy Tarapurr của Ấn Độ nhằm ép Ấn Độ kí vào hiệp ước cầm phổ biến vũ
khí hạt nhân mà Ấn Độ coi là “không công bằng và phân biệt đối xử”, cản trở
việc Ấn Độ vay tiền các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới. Vì vậy, năm
1981 được coi là năm quan hệ Ấn - Mỹ xuống đến mức thấp nhất kể từ năm
1971.
Tuy nhiên, cả Ấn Độ và Mỹ đều thấy rằng không thể để tình trạng này
kéo dài mà phải có những bước cần thiết để cải thiện quan hệ. Đó là lí do
khiến Thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi đã có nhiều hoạt động nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho việc cải thiện quan hệ Ấn - Mỹ mà bà I.Gandhi đã khởi
đầu: bãi bỏ một loạt hạn chế trong lĩnh vực kinh tế, mở rộng khu vực kinh tế
tư nhân. R.Gandhi có chuyến thăm Mỹ vào tháng 6/1985. Tuy còn nhiều bất
đồng về chính trị, chuyến đi thăm của R.Gandhi đã làm bầu không khí quan
hệ Ấn - Mỹ trở nên tốt hơn.
Từ giữa những năm 80, Mỹ trở thành bạn hàng thứ hai của Ấn Độ (sau
Liên Xô), nhưng lại đứng đầu về khối lượng viện trợ, là nguồn vay chủ yếu
thông qua ngân hàng thế giới (WB), đứng đầu thứ hai sau Anh về khối lượng
đầu tư tư nhân cho các công ty ở Ấn Độ. Đến năm 1988- 1989, Mỹ đã vượt
Liên Xô và trở thành bạn hàng chính của Ấn Độ.
Có thể nói, quan hệ Ấn - Mỹ trong chiến tranh lạnh không phải là kẻ

thù nhưng cũng chưa bao giờ là phát triển đến mức thân thiện và tin cậy lẫn
nhau.
* Đối với Liên Xô: Ấn Độ và Liên Xô là hai nước tuy không có chung
về lịch sử, văn hoá nhưng lại có nhiều điểm gần gũi về mục tiêu và tư tưởng
với nhau như: chống chủ nghĩa đế quốc, ủng hộ phong trào giải phóng dân
tộc, bảo vệ hoà bình trên thế giới. Xuất phát từ mục tiêu và tư tưởng này đã

21


đưa hai nước đến gần nhau hơn. Liên Xô và Ấn Độ chính thức thiết lập quan
hệ ngoại giao vào tháng 4/1947. Tuy nhiên mối quan hệ giữa hai nước ban
đầu có những hạn chế, do Liên Xô từng coi Ấn Độ là “công cụ của chủ nghĩa
Anh - Mỹ”.
Sau khi Stalin qua đời vào năm 1953, Liên Xô bày tỏ mong muốn thiết
lập quan hệ hữu nghị với Ấn Độ. Mong muốn này càng được thúc đẩy sau khi
Liên Xô quyết định mở rộng ảnh hưởng quốc tế của mình cũng như kết giao
với những quốc gia mới độc lập và không liên kết ở châu Á, châu Phi. Ấn Độ
muốn kết giao với Liên Xô để kiềm chế Trung Quốc và Pakixtan, nhất là
trong vấn đề tranh chấp biên giới. Hơn nữa, Ấn Độ đang rất cần sự giúp đỡ
của Liên Xô để phát triển các ngành công nghiệp, cũng như mua vũ khí với
giá ưu đãi của Liên Xô.
Sau hội nghị Băng Đung (1955), sự thành lập Phong trào Không liên
kết (1961) mà Ấn Độ là một trong những nước sáng lập và đóng vai trò to lớn
trong quá trình phát triển. Từ đây, mối quan hệ Xô- Ấn ngày càng được củng
cố, tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô để đối phó sức ép của chủ nghĩa đế quốc
và giải quyết những vấn đề còn tồn đọng trong nước. Liên Xô thường hậu
thuẫn Ấn Độ về lập trường của nước này đối với vùng đất Casơmia (khu vực
tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakixtan). Năm 1955, Thủ tướng J.Nêru thăm Liên
Xô và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Khơrusôp cũng chính thức sang thăm Ấn

Độ.
Các nhà lãnh đạo Liên Xô đã tán thành chính sách đối ngoại của Ấn Độ
và ủng hộ quan điểm chống Pakixtan của Ấn Độ đối với vấn đề Casơmia.
Liên Xô cũng ủng hộ quan điểm chống Bồ Đào Nha của Ấn Độ về vấn đề đảo
Goa, khu vực từng được hợp nhất về mặt lãnh thổ vào Ấn Độ tháng 2/1961
sau khi Ấn Độ sử dụng vũ lực (Goa đã trở thành quốc gia độc lập vào tháng
5/1987).
Ngoài ra, Nêru đã thuyết phục được Liên Xô có thái độ trung lập với
những tranh chấp biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc vào năm 1962. Trong
cuộc chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakixtan vào năm 1965, Liên Xô và Mỹ với

22


tư cách là thành viên thường trực tại Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc góp
phần mang lại một hiệp định ngừng bắn cho hai nước. Ngày 10/1/1966, Chủ
tịch HĐBT Liên Xô A.N.Kosygin đã chủ trì các cuộc đàm phán ở Tashkent
nhằm tìm ra giải pháp ổn định tình hình trong cuộc chiến giữa Ấn Độ và
Pakixtan.
Giai đoạn nồng ấm nhất trong quan hệ Ấn - Xô là khoảng thời gian
1971- 1976, đỉnh cao là Hiệp ước Hoà bình, Hữu nghị và Hợp tác 20 năm
được kí kết vào thánh 8/1971. Theo các điều khoản 8, 9 và 10 của Hiệp ước
này, hai bên cam kết “tránh cung cấp hỗ trợ cho một bên thứ ba mà đang
chống đối bên còn lại” và “trong trường hợp Liên Xô và Ấn Độ bị đe doạ hay
tấn công… thì ngay lập tức hai bên sẽ tiến hành các cuộc tham vấn chung”.
Rajiv Gandhi đã công du tới Liên Xô vào những năm 1985, 1986, 1987
và 1989. Còn Chủ tịch M.Gorbachev cũng đã thăm Ấn Độ vào các năm 1986
và 1988. Các chuyến thăm này và những chuyến thăm của những quan chức
cấp cao khác đã khẳng định quan hệ hữu nghị nồng ấm giữa hai nước và cũng
đã đạt được các hiệp định về tăng cường hợp tác kinh tế, văn hoá và khoa học

kỹ thuật. Trong năm 1985 và 1986, cả hai nước đã kí các hiệp ước nhằm đẩy
mạnh thương mại song phương cũng như thúc đẩy đầu tư và hỗ trợ kĩ thuật
của Liên Xô cho các dự án giao thông vận tảỉ và công nghiệp của Ấn Độ.
Trong năm 1985 và 1988, Liên Xô đã cho Ấn Độ vay thêm 1 tỷ rúp và 3 tỷ
rúp (tổng số khoảng 2,4 tỷ USD) để giúp Ấn Độ mua hàng hoá và máy móc
của Liên Xô. Các nghị định thư về hợp tác khoa học kỹ thuật được kí kết vào
năm 1985 và 1987, cung cấp khung pháp lý để hai nước tiến hành những dự
án nghiên cứu chung trong khoa học vũ trụ và trong các lĩnh vực công nghệ
cao khác như máy tính và kỹ thuật lade.
Đối với Liên Xô, họ không những bán được số lượng lớn vũ khí cho
Ấn Độ mà còn lôi kéo được Ấn Độ về phía mình, không để Ấn Độ trở thành
sân sau của Mỹ. Sau khi Liên Xô can thiệp vào Apganixtan, các nhà ngoại giao
Ấn Độ tránh dùng những ngôn từ chỉ trích hay đưa ra bất cứ nghị quyết nào
trực tiếp phê phán Liên Xô, bởi Ấn Độ không muốn gây bất hoà với Liên Xô.

23


Tóm lại, Liên Xô và Ấn Độ đã duy trì quan hệ chiến lược thời kỳ chiến
tranh lạnh. Quan hệ chiến lược gần gũi là lựa chọn đúng đắn của lãnh đạo hai
nước dựa trên tình hình quốc tế và yêu cầu về mặt an ninh của hai nước khi
đó. Tuy nhiên, chiến tranh lạnh kết thúc cùng với nó là sự sụp đổ của Liên Xô
đã gây lên những biến động lớn tới Ấn Độ, một nước dù chủ trương không
liên kết nhưng trên thực tế lại có quan hệ gắn bó và chịu nhiều ảnh hưởng của
Liên Xô. Tương lai của mối quan hệ Ấn - Nga sẽ diễn biến như thế nào? Đây
là một câu hỏi đặt ra cho cả hai nước.
* Đối với Trung Quốc: Quan hệ ngoại giao Ấn Độ - Trung Quốc được
chính thức thiết lập từ năm 1950, đến nay đã gần 60 năm. Hơn nửa thế kỉ qua,
hai quốc gia khổng lồ ở châu Á đồng tác giả của 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà
bình nổi tiếng đã trải qua những thăng trầm trong mối quan hệ giữa hai nước.

Kể từ khi Ấn Độ giành được độc lập cho tới năm 1958, tức là trong
khoảng 10 năm, quan hệ Ấn - Trung là khá tốt đẹp. Ấn Độ là một trong những
nước đầu tiên trong số các nước không phải là XHCN công nhận nước Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa (30/12/1949) và thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ
với Trung Quốc. Sau khi công nhận nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Ấn
Độ đã kiên định ủng hộ Trung Quốc trên trường quốc tế: ủng hộ Trung Quốc
được có đại diện trong các tổ chức quốc tế, trước hết là Liên Hợp Quốc, thay
thế vị trí của Đài Loan, ủng hộ việc trả lại Đài Loan cho Trung Quốc, công
nhận quyền của Trung Quốc đối với Tây Tạng. Sự kiện quan trọng nhất đối
với mối quan hệ giữa hai nước cũng như đối với mối quan hệ quốc tế vào
những năm 50 là Ấn Độ đã cùng với Trung Quốc đưa ra 5 nguyên tắc chung
sống hoà bình nổi tiếng vào năm 1954.
Quan hệ tốt đẹp giữa hai nước chưa được bao lâu, ngày 10/3/1959, ở
thủ phủ Lasha (Tây Tạng) đã xảy ra biến loạn của một số phần tử quá khích,
Trung Quốc bị Ấn Độ phê phán là có hành động “can thiệp vũ trang” vào khu
vực này. Ngày 31/3, Đạt Lai Lạt Ma trốn sang Ấn Độ, được Nêru tiếp đón.
Trung Quốc có phản ứng kịch liệt với việc này, làm cho quan hệ hai nước trở
nên căng thẳng. Những mâu thuẫn biên giới giữa hai nước do vậy cũng bùng

24


nổ, đỉnh điểm là xung đột vũ trang ác liệt lại xảy ra trên biên giới hai nước
vào tháng 10/1962.
Trong suốt 10 năm (1959 - 1968), quan hệ Trung - Ấn trở nên trì trệ,
băng giá. Tiến trình tìm kiếm bình thường hoá cũng tiến triển rất chậm chạp
có nguyên nhân chủ quan của hai nước, đồng thời còn chịu ảnh hưởng bối
cảnh quốc tế cũng như ở khu vực Nam Á tác động, như chiến tranh Ấn Độ Pakixtan, vấn đề Campuchia, Hiệp ước Hợp tác- Hoà bình- Hữu nghị ẤnXô...
Từ đầu thập kỉ 70, sau khi kí Hiệp định Hoà bình, Hữu nghị và Hợp tác
với Liên Xô, để tránh ấn tượng “quá ngả vào Liên Xô” [14; 169] và với mong

muốn có một môi trường ổn định ở châu Á, Ấn Độ đã bày tỏ mong muốn cải
thiện mối quan hệ với Trung Quốc và Mỹ. Về phía Trung Quốc, trước xu
hướng hoà dịu phần nào trên thế giới cũng như ở khu vực Nam Á, nhất là sau
khi Trung Quốc cùng với Mỹ ra Thông cáo Thượng Hải 1972 cũng có một số
động thái đáp lại mong muốn bình thường hoá quan hệ của Ấn Độ. Với những
nỗ lực từ hai phía, đặc biệt là từ phía Ấn Độ, cho nên mặc dù còn nhiều vấn
đề còn chưa được giải quyết nhưng đến tháng 4/1976 cả hai nước đã cùng
thoả thụân được vấn đề khôi phục đại diện ngoại giao ở cấp đại sứ sau 15 năm
gián đoạn.
Sau khi khôi phục quan hệ ngoại giao, quan hệ hai nước tiếp tục có
những bước cải thiện: hai bên tăng cường trao đổi các đoàn ngoại giao, báo
chí, nối lại quan hệ kinh tế, thương mại. Năm 1985, Ấn Độ đã có một bước
tiến có tính chất đột phá trong mối quan hệ với Trung Quốc. Đó là chuyến
viếng thăm Trung Quốc của Thủ tướng Rajiv Gandhi từ ngày 19 đến
23/12/1988. Năm ngày ở Bắc Kinh, Thủ tướng R.Gandhi đã 4 lần hội đàm với
Thủ tướng Lý Bằng và gặp gỡ Đặng Tiểu Bình. Hai bên nhất trí cho rằng 5
nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình cần được coi là cơ sở quan trọng trong quan
hệ quốc tế và xây dựng một trật tự chính trị- kinh tế quốc tế mới. Trên cơ sở
đó khôi phục, cải thiện và phát triển quan hệ láng giềng Trung - Ấn, hai bên
còn quyết định thành lập nhóm cộng tác liên hợp về biên giới để từng bước
giải quyết những vấn đề do lịch sử để lại.

25


×