Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Quan hệ giữa trung quốc đại lục và đài loan trong thập niên đầu thế kỷ XXI luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.6 KB, 80 trang )

1

Lời cảm ơn
Được sự giúp đỡ của tập thể thấy cô giáo trong khoa Lịch sử, sự giúp
đỡ tận tình của thầy giáo Ths. Hắc Xuân Cảnh, cùng với sự động viên giúp đỡ
của gia đình, bạn bè và người thân tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề
tài: “Quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan trong thập niên đầu thế kỉ XXI”. Xin
được gửi lời cảm ơn chân thành tới Nhà trường Đại học Vinh, Ban Chủ nhiệm
khoa Lịch sử, cùng các thầy cô giáo trong khoa đã trang bị những kỹ năng,
kiến thức khoa học để tôi có thể thực hiện khóa luận này. Đặc biệt, tôi xin gửi
lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo ThS. Hắc Xuân Cảnh, người đã trực tiếp
hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa
luận. Kính gửi tới toàn thể thấy cô giáo, gia đình và bạn bè lời chúc sức khỏe
hạnh phúc và thành đạt.
Vinh, ngày/04/2011
Sinh viên
Trần Thị Thu Hằng


2

môc lôc
Tran
Mở đầu
Nội dung

g
1
9

Chương 1: Những nhân tố tác động đến mối quan hệ giữa Trung quốc


Đại lục và Đài Loan

9

1.1. Tình hình thế giới và khu vực những năm đầu thế kỉ XXI
1.2. Lập trường của các bên đối với vấn đề Đài Loan

9
12

1.2.1. Lập trường của Trung Quốc
1.2.2. Lập trường của Đài Loan
1.2.3. Lập trường của các nước lớn
1.3 Khái quát quan hệ hai bờ Eo biển Đài Loan trước năm 2000
Tiểu kết:

12
17
20
23
27

Chương 2: Quan hệ Trung Quốc Đại lục - Đài Loan từ năm 2000

29

đến năm 2010

29


2.1. Quan hệ trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao
2.2. Quan hệ kinh tế Trung Quốc – Đài Loan

37

2.2.1. Quan hệ đầu tư
2.2.2. Quan hệ thương mại

37
40

2.3. Những hoạt động giao lưu văn hóa - xã hội giữa hai bờ eo biển

45

2.4. Mối quan hệ hai bờ trong lĩnh vực an ninh quân sự

49

Tiểu kết:

51

Chương 3: Nhận xét về quan hệ Trung Quốc – Đài Loan từ 2000
đến 2010 và chiều hướng của quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan sau

52

năm 2010
3.1 Những tiến triển của quan hệ hai bờ Eo biển Đài Loan từ năm


52

2000 đến năm 2010
3.2. Những vấn đề còn tồn tại trong quan hệ giữa hai bờ

56

3.3. Tác động của mối quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan

58


3

3.2.1. Tác động đối với Trung Quốc

58

3.2. Tác động đối với Đài Loan

61

3.3.3. Tác động đối với khu vực và thế giới
3.4. Chiều hướng của quan hệ hai bờ Eo biển Đài Loan sau năm

64
66

2010

Tiểu kết:
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

68
69
71
76


4

BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT

ARATS:
ASEAN:
AFTA:
CHND:
DPP:
ĐCS:
ECFA:
KMT:
MAC:
TTXVN:
WTO:

Hiệp hội quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

Cộng hòa Nhân dân
Đảng Dân Tiến
Đảng Cộng sản
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế hai bờ eo biển
Quốc Dân Đảng
Hội đồng các Vấn đề Đại lục
Thông tấn xã Việt Nam
Tổ chức Thương mại thế giới

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


5

Bước sang thế kỉ XXI, Đông Á được đánh giá là khu vực có tốc độ tăng
trưởng kinh tế nhanh nhất, đồng thời cũng là khu vực tiềm ẩn những bất trắc
và biến động khó lường. Trong đó, quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan là
vấn đề phức tạp mà theo đánh giá có thể trở thành “một điểm nóng nhưng
cũng có thể là chất xúc tác cho ổn định của khu vực”[11;1]. Nếu mối quan hệ
này hòa dịu để cùng hợp tác phát triển thì sẽ là chất xúc tác gắn kết các quốc
gia trong khu vực, ngược lại bất đồng xung đột vũ trang xảy ra giữa hai bờ thì
an ninh khu vực sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Chính vì vậy, sự vận động của
quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm tìm hiểu.
Mối quan hệ hai bờ Eo biển Đài Loan không chỉ đơn thuần là quan hệ
nội bộ giữa Trung Quốc và Đài Loan mà thực tế phức tạp hơn nhiều khi nó
chịu sự tác động sâu sắc bởi những mối quan hệ giữa các nước lớn trên thế
giới. Trong những năm qua, tính chất của vấn đề Đài Loan đã thoát khỏi
phạm vi giữa Trung Quốc và Đài Loan và liên quan trực tiếp đến lợi ích của

một số nước khác. Vì vậy, việc nghiên cứu về quan hệ giữa Trung Quốc Đại
lục và Đài Loan trong thập niên đầu thế kỉ XXI không chỉ cho sự vận động
của mối quan hệ này trong thời gian gần đây mà còn góp phần làm sáng rõ về
quan hệ giữa các nước lớn ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương cũng như
trên thế giới.
Cùng với Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam nằm trong khu vực Đông
Á, hơn nữa cả Trung Quốc và Đài Loan đều là những đối tác quan trọng của
Việt Nam. Đặc biệt, những năm gần đây Đài Loan nổi lên là một đối tác quan
trọng của Việt Nam, cho nên những biến động của tình hình hai bờ eo biển
Đài Loan có tác động rất lớn đến lợi ích kinh tế cũng như chính sách đối
ngoại của Việt Nam. Thực tế đã cho thấy những chuyển biến trong mối quan
hệ hai bờ eo biển Đài Loan có tác động trực tiếp đến những dự án đầu tư hay
những hợp đồng kinh tế mà phía Đài Loan dành cho Việt Nam và sự can thiệp


6

của Trung Quốc trong mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Đài Loan đã có
lúc đặt Việt Nam vào tình thế khó xử. Bên cạnh đó, do có sự gần gũi về địa lí
với cả Trung Quốc và Đài Loan cho nên những xung đột hay hòa bình ở Eo
biển Đài Loan đều ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định và phát triển Việt Nam.
Điều đó cho thấy rằng việc nghiên cứu về sự vận động của quan hệ giữa
Trung Quốc và Đài Loan trong thập niên đầu thế kỉ XXI không chỉ là vấn đề
có ý nghĩa khoa học, mang tính thời mà còn có giá trị thực tiễn lớn lao trong
việc xây dựng giải pháp trong quan hệ với cả hai bờ eo biển.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiến nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề:
“Quan hệ giữa Trung Quốc Đại lục và Đài Loan trong thập niên đầu thế kỉ
XXI” làm đề tài khóa luận cuối khoá của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan là vấn đề mang tính thời sự nóng

bỏng. Chính vì vậy, những chuyển biến của mối quan hệ này luôn thu hút
được sự quan tâm của giới nghiên cứu. Đã có những công trình khoa học
nghiên cứu về quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan ở các phương diện chính trị,
ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã hội… Ngoài ra, các công trình nghiên cứu có
những phân tích, đánh giá về những tác động của mối quan hệ này đối với thế
giới, khu vực…
Cho đến nay, đã có rất nhiều tác phẩm nghiên cứu về những chuyển
biến về chính trị, ngoại giao của quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan. Các tác
phẩm đã đề cập đến sự tác động của tình hình thế giới, khu vực và lập trường
của các bên đối với quan hệ hai bờ eo biển như: “Quan sát tình hình hai bờ
eo biển Đài Loan, quá khứ - triển vọng của mối quan hệ giữa hai bờ eo biển,
Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (tháng 2 năm 1993); “Thay đổi trên chính
trường Đài Laon và ảnh hưởng tới quan hệ của hai bờ” của PGS. Nguyến
Huy Quý, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 5(33), năm 2000; “Cuộc đấu


7

tranh của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa nhằm thống nhất Đài Loan vào
Đại Lục” của Hắc Xuân Cảnh, Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học
Vinh, 2006; “Trung Quốc-Đài Loan xích lại gần nhau hơn” của Trần Khánh,
Báo Lao động ngày 28-8-2007; “Quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan sau thắng
lợi của Quốc Dân Đảng”, TTXVN (Cairo 22/5), Hà Nội năm 2009… Các tác
phẩm trên đã cung cấp cái nhìn tổng quát, đưa ra những nhận định, đánh giá
mối quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan từ khi hai bờ rơi vào cục diện bị
chia cắt, những chuyển biến của quan hệ hai bờ trong những năm đầu thế kỉ
XXI và công cuộc đấu tranh thống nhất Đài Loan của Trung Quốc...
Bên cạnh đó cũng đã có những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của
tình hình thế giới và khu vực đối với quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan như:
“Quan hệ quốc tế những năm đầu thế kỉ XXI: vấn đề, sự kiện và quan điểm”

của Trình Mưu – Vũ Quang Vinh, NXB Lý luận và Chính trị, Hà Nội năm
2005; “Nhật Bản can dự như thế nào vào cuộc chiến ở vùng biển Đài
Loan”,TTXVN, Hà Nội năm 2009; “Nhân tố Nga và Mỹ trong quan hệ hai
bờ eo biển Đài Loan những năm đầu thế kỉ XXI”, của tác giả Đỗ Minh Cao,
Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc Số 8(108) năm 2010;… Các tác phẩm, công
trình nghiên cứu nói trên đã có những đánh giá về sự tác động của của những
nhân tố quốc tế đối với cục diện eo biển Đài Loan cũng như tác động của mối
quan hệ này đối với cục diện chính trị trên thế giới và tình hình phát triển
chung trong khu vực.
Về mối quan hệ kinh tế giữa hai bờ eo biển Đài Loan đã có nhiều tác
phẩm công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này như: “Quan hệ thương
mại giữa hai bờ eo biển Đài Loan – thực trạng và triển vọng” của Vũ Thùy
Dương, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 2(6) năm 1996; “Vài nét về quan
hệ kinh tế Đài Loan – Trung Quốc năm 1997” của Vũ Thùy Dương, Tạp chí
Nghiên cứu Trung Quốc, số 3(19) năm 1998; “Hai mươi năm quan hệ kinh tế
Đại Lục-Đài Loan, của Phùng Thị Huệ, tạp chí Nghiên cứu Trung quốc, số


8

5(27) năm 1999… Các tác phẩm đã có những thống kê, khái quát về những
kết quả mà hai bờ đã đạt được trong lĩnh vực hợp tác kinh tế giữa hai bờ eo
biển Đài Loan. Đồng thời, các công trình cũng có những nhận xét, đánh giá
về sự tiến triển cũng như những tồn tại trong mối quan hệ này. Ngoài ra, các
công trình còn phân tích và đánh giá những tác động của sự chuyển biến quan
hệ kinh tế này đối với cả Trung quốc Đại lục và Đài Loan.
Cùng với đó, đã có những công trình khoa học nghiên cứu về mối quan
hệ hai bờ eo biển Đài Loan trong các lĩnh vực an ninh quân sự, hay văn hóa xã hội… Các tác phẩm đề cập đến vấn đề này như: “Eo biển Đài Loan trong
chiến lược quân sự mới của Trung Quốc”, Do Đại tá Nguyễn Công Nhuần
làm chủ biên, Trung tâm Thông tin khoa học - Công nghệ - Môi trường, năm

2002; Quan hệ Trung Quốc – Đài Loan”, TDB0130, TTXVN, Hà Nội năm
2008; “Đài Loan và Trung Quốc trao đổi văn hóa bất chấp căng thẳng về
chính trị”, TTK1309, TTXVN, Hà Nội năm 2009… Các công trình nghiên
cứu này đã nghiên cứu một cách khái quát về mối quan hệ hai bờ eo biển Đài
Loan trên các phương diện an ninh quân sự và các hoạt động văn hóa, văn
nghệ…
Các tác phẩm, công trình kể trên đã nghiên cứu về một số khía cạnh
liên quan đến đề tài mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu. Đồng thời, với những
cách nhìn nhận khác nhau, các nhà nhiên cứu đã phác họa nên bức tranh và
cục diện hai bờ từ năm 1949 đến những năm đầu thế kỉ XXI một cách sinh
động. Thông qua những công trình nghiên cứu này, chúng tôi đã có những tư
liệu quý báu phục vụ cho bài viết của mình. Thực hiện đề tài này, chúng tôi
mong muốn sẽ đóng góp thêm vào việc tìm hiểu và nghiên cứu về quan hệ hai
bờ eo biển Đài Loan trong những năm đầu của thế kỉ XXI.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích:


9

Thông qua việc nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi làm rõ hơn
những nhân tố có tác động đến mối quan hệ hai bờ, trong đó bao gồm nhân tố
chủ quan và nhân tố khách quan. Nhận định và đánh giá về lập trường quan
điểm của các nước lớn trong mối quan hệ này
Mục đích nghiên cứu chính của đề tài là nhằm tìm hiểu về sự chuyển
biến trong mối quan hệ hai bờ eo biển trong thập niên đầu thế kỉ XXI. Đề tài
tập trung nghiên cứu để làm rõ những động thái nỗ lực phát triển trong vấn đề
chính trị qua từng giai đoạn. Bên cạnh đó là mối quan hệ về các mặt kinh tế,
văn hóa xã hội. Đồng thời đề tài làm rõ hơn mối quan hệ hai bờ trong lĩnh vực
an ninh, quân sự, những hợp tác nhằm duy trì tìm hiểu về vấn đề an ninh quân

sự, đặc biệt là ở khu vực biển Đông.
Từ việc nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ hai bờ để đưa ra những nhận
định đánh giá về triển vọng phát triển của mối quan hệ hai bờ eo biển. Bên
cạnh đó, đề tài còn đi sâu đánh giá những tác động của mối quan hệ này đối
với thế giới mà cụ thể là tác động của nó trong mối quan hệ giữa các nước
lớn, hay tác động của mối quan hệ đối với sự phát triển và ổn định chung của
khu vực trong đó Việt Nam.
3.2 Nhiệm vụ:
Sưu tầm, tập hợp, xử lý các nguồn tư liệu, trên cơ sở tổng hợp phân tích
đánh giá các sự kiện đề tài sẽ đi sâu làm rõ những tác động của tình hình thế
giới và khu vực đến sự phát triển mối quan hệ hai bờ. Tổng hợp và phân tích
những chuyển biến trong mối quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan về các lĩnh
vực.
Phân tích, đánh giá về sự tác động của mối quan hệ hai bờ đối với sự
phát triển kinh tế cũng như ổn định của khu vực. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ đưa
ra nhận định về chiều hướng phát triển của quan hệ Trung - Đài trong những
năm tiếp theo.


10

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những chuyển biến của mối quan hệ hai
bờ eo biển Đài Loan trong thập niên đầu thế kỉ XXI, trong đó tập trung
nghiên cứu và đánh giá mối quan hệ hai bờ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội và an ninh quân sự. Đề tài đề cập đến những nhân tố thế giới
trong mối quan hệ và ngược lại, tác động của mối quan hệ đối với khu vực và
thế giới. Phạm vi nghiên cứu đề tài là tìm hiểu mối quan hệ giữa Trung Quốc
Đại Lục và Đài Loan từ năm 2000 đến năm 2010.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

5.1 Nguồn tài liệu: Nguồn tài liệu mà chúng tôi sử dụng bao gồm các
nguồn sách tham khảo từ Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia; Trung tâm thông
tin khoa học - công nghệ - môi trường, nguồn tư liệu từ Viện khoa học xã hội.
Bên cạnh đó là những bài viết, bài báo, tạp chí nghiên cứu về mối quan hệ
giữa hai bờ eo biển Đài Loan. Những công trình nghiên cứu khoa học lịch sử
như Luận văn thạc sỹ khoa học lịch sử về vấn đề có liên quan đến quan hệ
Trung Quốc – Đài Loan. Ngoài ra công trình nghiên cứu của chúng tôi còn sử
dụng tài liệu tham khảo lấy từ nguồn Thông tấn xã Việt Nam, các tác phẩm
được dịch từ các tài liệu nước ngoài. Các tài liệu mà chúng tôi sử dụng để
thực hiện đề tài của mình chủ yếu bằng Tiếng Việt.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp mà chúng tôi sử dụng để
thực hiện đề tài bao gồm: Phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử
và phương pháp lôgic nhằm phân tích, đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố
đến quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan. Bên cạnh đó, sự kết hợp với phương
pháp phân tích, tổng hợp để hệ thống và khái quát hóa quá trình phát triển của
mối quan hệ hai bờ trong thập niên đầu thế kỉ XXI. Đồng thời các phương


11

pháp còn nhằm đánh giá những tác động và chiều hướng phát triển của mối
quan hệ hai bờ trong thời gian tiếp theo.
6. Đóng góp của khóa luận
Đề tài thể hiện là một công trình nghiên cứu khoa học xây dựng cái
nhìn tổng quan về những vấn đề xung quanh mối quan hệ Trung Quốc – Đài
Loan. Công trình đã hệ thống một cách tổng quát tình hình phát triển mối
quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan trong thập niên đầu thế kỉ XXI. Đồng thời,
sự chuyển biến của quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan về các phương diện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… lần lượt được phác họa rõ nét, từ đó có
những nhận định đánh giá về chiều hướng phát triển của mối quan hệ này

trong tương lai.
Đề tài đã làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tác động đến mối quan hệ
hai bờ trong đó có các nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Phân tích lập
trường quan điểm của các nước lớn trong vấn đề Đài Loan. Bên cạnh đó, đề
tài đã nhận định một cách khách quan những tác động của mối quan hệ đôi bờ
eo biển đối với sự phát triển chung của khu vực đặc biệt là trong vấn đề an
ninh của khu vực và trong lĩnh vực hợp tác kinh tế.
Với những kết quả nghiên cứu đạt được đề tài có thể được sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho các bài viết hay những công trình khoa học nghiên cứu
về mối quan hệ Trung Quốc – Đài Loan. Đặc biệt đề tài đóng góp vào kho tài
liệu nghiên cứu về những mối quan hệ quốc tế lớn trên thế giới trong thập
niên đầu của thế kỉ XXI.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của
khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến mối quan hệ giữa Trung Quốc
Đại lục và Đài Loan


12

Chương 2: Quan hệ Trung Quốc Đại lục - Đài Loan từ năm 2000 đến
năm 2010
Chương 3: Nhận xét về quan hệ Trung Quốc Đại lục - Đài Loan từ năm
2000 đến năm 2010 và chiều hướng quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan sau năm
2010.


13


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỐI QUAN HỆ GIỮA
TRUNG QUỐC ĐẠI LỤC VÀ ĐÀI LOAN
1.1. Tình hình thế giới và khu vực những năm đầu thế kỉ XXI
Thế kỉ XX, nhân loại thường xuyên phải đối mặt với những cuộc chiến
tranh và xung đột. Từ những cuộc đấu tranh quy mô lớn với vũ khí hiện đại
đến những cuộc xung đột, đối đầu về ý thức hệ… đã để lại những hậu quả
nặng nề. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới bước vào một thời kì mới
– xu thế đối đầu dần dần được thay bằng xu thế đối thoại, hợp tác trong cùng
tồn tại hòa bình. Bên cạnh đó, khi những mâu thuẫn cũ mất đi thì những mâu
thuẫn mới nảy sinh và bùng phát. Điều đó làm cho thế giới bước vào thế kỉ
mới với những chuyển biến lớn lao.
Trong thập niên đầu thế kỉ XXI, tình hình thế giới diễn biến rất phức
tạp. Thế giới đang ở trong thời kì quá độ từ trật tự cũ sang trật tự mới. Theo
đó, cục diện chính trị quốc tế vẫn đang ở trong trạng thái: “nhất siêu – đa
cường” - một siêu cường với nhiều nước lớn. Trong cục diện này, Mỹ là nước
có sức mạnh vượt trội và mong muốn thiết lập trật tự “đơn cực” do Mỹ chi
phối còn các nước khác như Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ… lại muốn
thiết lập một trật tự thế giới “đa cực” mà mỗi nước, khu vực sẽ đóng vai trò là
“một cực”.
Bên cạnh đó, bước sang thế kỉ XXI, tình hình thế giới vẫn chưa thật sự
ổn định, chiến tranh xung đột vẫn đang diễn ra. Những cuộc chiến tranh đầu
tiên của thế kỉ XXI như chiến tranh Irac, chiến tranh Apganistan của Mỹ, hay
những cuộc xung đột giữa người Hồi giáo và phương Tây, vấn đề hạt nhân
trên bán đảo Triều Tiên, vấn đề eo biển Đài Loan, những cuộc tấn công khủng


14


bố lan khắp thế giới… vẫn đang diễn biến phức tạp và làm cho thế giới luôn ở
vào trạng thái căng thẳng, tình hình an ninh thế giới hết sức khó lường.
Những cuộc xung đột địa - chính trị hay tranh giành ảnh hưởng giữa các nước
lớn ngày một nhiều thêm và không ngừng mở rộng về phạm vi và gia tăng
mức độ căng thẳng. Có thể thấy, các khu vực Trung Đông (tâm điểm là I-rắc
và I-ran), Trung Á (tâm điểm là Áp-ga-ni-xtan và các nước cộng hòa Xô-viết
trước đây), Ban-căng (tâm điểm là Cô-xô-vô), biển Ca-xpi (tâm điểm là Grudi-a), Bắc Cực, châu Phi, Đông Bắc Á, Đông Nam Á v.v.. là những nơi thể
hiện rõ nhất sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước. Đó có thể là những mầm
mống của sự xung đột và tranh chấp khu vực cũng như trên phạm vi thế giới.
Tất cả đang những động thái cảnh báo về kỷ nguyên cạnh tranh và xung đột
mới về địa - chính trị và mô hình phát triển mà nhìn bề ngoài không quyết liệt
như kỷ nguyên đối đầu thời Chiến tranh lạnh, nhưng tiềm ẩn nhiều nguy cơ
hơn có thể dẫn đến chiến tranh.
Tuy nhiên, thập niên đầu của thế kỉ XXI đã chứng kiến những thay đổi
mạnh mẽ của thế giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa… Sự
phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ vào cuối thế kỉ
XX đã làm cho lực lượng sản xuất của thế giới lớn mạnh chưa từng thấy, từ
đó cũng làm thay đổi nhận thức cả con người về chiến tranh và hòa bình, về
tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng như việc tăng cường quan hệ quốc tế...
Quan hệ các nước đang phát triển theo hướng đa dạng hóa, đa phương hoá,
trong đó lấy hợp tác kinh tế làm cơ sở và cùng nhau giải quyết các vấn đề
song phương trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Xu thế đa cực hóa và toàn cầu
hóa kinh tế đã và đang mang lại những cơ hội cho hòa bình và phát triển của
thế giới. Mỗi một quốc gia sẽ có điều kiện tranh thủ bối cảnh hòa bình và môi
trường hợp tác để cũng nhau phát triển.
Đối với châu Á, trải qua một thời gian dài chiến tranh và xung đột,
sau chiến tranh lạnh, cùng với sự biến đổi của cục diện quốc tế, châu Á cũng


15


bước sang thời kì hoà bình ổn định và phát triển nhưng tiềm ẩn nhiều bất trắc
và rủi ro. Điều được người ta nói đến nhiều về châu Á trong thế kỉ này là sự
phát triển mạnh mẽ về kinh tế. Ngay từ đầu thế kỷ XX, Theodore Roosevelt
đã tiên đoán rằng thế kỷ 21 sẽ là “Thế kỷ Châu Á - Thái Bình Dương”[3; 2].
Sau Chiến tranh lạnh, các nước Đông Á tiếp tục giữ vững tốc độ tăng
trưởng ổn định từ 6 – 10%/năm [9;30], và đang dẫn đầu thế giới về tốc độ
phát triển kinh tế, trong đó Trung Quốc và bốn con rồng châu Á (Hàn Quốc,
Đài Loan, Singapo, Hồng Công) có tốc độ phát triển mạnh mẽ nhất. Các nước
Đông Á vừa là thị trường thu hút vốn và kĩ thuật cao của phương Tây và thế
giới vừa là những đối thủ cạnh tranh kinh tế đối với các khu vực khác. Những
năm đầu thế kỉ XXI, thế giới cũng chứng kiến sự hình thành khối kinh tế
Đông Bắc Á với sự tham gia của các nước Đông Nam Á và vành đai kinh tế
Đại Trung Hoa. Điều này sẽ tạo nên sự cạnh tranh với khối kinh tế Bắc Mỹ và
khối kinh tế châu Âu.
Cùng với sự thay đối về tình hình kinh tế, chính trị, các nước trong khu
vực châu Á – Thái Bình Dương đã có những điều chỉnh chính sách đối ngoại
của mình nhằm tranh thủ điều kiện mở rộng quan hệ và phát triển đất nước.
Sự vươn lên mạnh mẽ của các nước châu Á ở thế kỉ XXI đã làm thay đổi vị
thế của các nước ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Mỹ vẫn là siêu
cường toàn diện của thế giới và tầm ảnh hưởng của Mỹ trên chính trường
quốc tế vẫn không thay đổi. Tuy vậy tại khu vục châu Á, Mỹ đang dần có
những động thái nhẹ nhàng hơn và ngày càng phải nhân nhượng các nước này
về mậu dịch, thuế quan. Trong khi đó, Nga đang dần lấy lại vị thế của mình ở
khu vực cũng như trên trường quốc tế. Bước sang thế kỉ XXI, Nga đã có
những chính sách quan tâm đến châu Á - Thái Bình Dương. Những thay đổi
trong chính sách của các nước cho thấy tầm ảnh hưởng của khu vực châu Á Thái Bình Dương đang lan tỏa khắp thế giới. Điều này đã và đang tác động
không nhỏ đến sự biến đổi của cục diện hai bờ eo biển Đài Loan.



16

Như vậy, sự chuyển biến của tình hình thế giới trong thập niên đầu thế
kỉ XXI đã tác động sâu sắc đến quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan. Xu
hướng hợp tác hóa trên toàn cầu, giải quyết xung đột bằng đàm phán đã mở ra
cơ hội phát triển quan hệ hai bờ. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những mâu thuẫn
mới nảy sinh trong quan hệ giữa các nước, các khu vực cũng làm cho quan hệ
hai bờ eo biển Đài Loan đứng trước những khó khăn và thử thách không nhỏ.
1.2. Lập trường của các bên đối với vấn đề Đài Loan
1.2.1. Lập trường của Trung Quốc
Từ năm 1949, sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, Chính phủ
CHND Trung Hoa luôn coi Đài Loan là một bộ phận không thể tách rời của
Trung Quốc và luôn tìm cách để thống nhất Đài Loan về với Đại lục. Bên
cạnh đó, CHND Trung Hoa cũng nêu lên nguyên tắc “Một Trung Quốc”, coi
đó là lập trường cơ bản trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan.
Trong thập kỉ 50 và 60 của thế kỉ XX, Trung quốc đã nhiều lần dùng vũ
lực để giải quyết vấn đề Đài Loan nhưng không thành công. Đầu năm 1979,
trước sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, Quốc hội Trung Quốc
công bố “Thư gửi nhân dân Đài Loan” trong đó nêu rõ việc lấy phương châm
“hoà bình thống nhất” thay phương thức “giải phóng bằng vũ lực”. Năm
1982, Đặng Tiểu Bình đưa ra ý tưởng “một nước hai chế độ” thể hiện quan
điểm cơ bản về chính sách đối với Hồng Công và Đài Loan. Từ sau đó, chính
sách của Bắc Kinh đối với Đài Loan có thể chia làm ba giai đoạn: thời kỳ tiếp
xúc, bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ XX, dẫn tới “Hội nghị Cố - Uông”
năm 1993; Thời kì quan sát: Sau khi Đài Loan đưa ra chính sách ngoại giao
thực dụng có khuynh hướng chia cắt đất nước, Bắc Kinh bước vào “thời kỳ
quan sát” dưới sự chỉ đạo theo “Tám điểm” của Giang Trạch Dân. Tiếp đó,
Hồ Cẩm Đào đưa ra lý luận “hài hoà” và “bốn điểm” về vấn đề Đài Loan,



17

nhấn mạnh tính chủ động, thực hiện giao lưu chính đảng giữa hai bờ eo biển,
tăng cường hợp tác kinh tế, triển khai hiệp thương ở nhiều cấp.
Bước sang thế kỉ XXI, khi Trần Thủy Biển của Đảng Dân Tiến lên nắm
chính quyền ở Đài Loan và đề ra chủ trương “Mỗi bờ mỗi nước” thì quan hệ
hai bờ ngày ngày càng trở nên căng thẳng. Trong tình hình đó, CHND Trung
Hoa một mặt kiên trì nguyên tắc “Một Trung Quốc” và phương châm “Hòa
bình thống nhất, một nước hai chế độ”, mặt khác thực hiện nhiều biện pháp
cứng rắn nhằm ngăn chặn “Đài Loan độc lập”. Năm 2003, Chủ tịch Trung
Quốc Hồ Cẩm Đào nhấn mạnh việc chú trọng tăng cường giao lưu giữa hai bờ
eo biển và loại trừ sự can dự của Mỹ trong vấn đề Đài Loan. Hồ Cẩm Đào
tuyên bố sẽ làm theo chính sách do cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân đã đề ra về
vấn đề Đài Loan. Theo đó, Hồ Cẩm Đào nêu lên ba điểm ưu tiên: 1/Phải loại
bỏ ảnh hưởng và sự can thiệp của Mỹ “ vì nếu không có sự ủng hộ của Mỹ thì
sẽ không có chuyện Đài Loan độc lập”. Hồ Cẩm Đào yêu cầu phải có chính
sách đồng bộ đối với Đài Loan và Mỹ.,chỉ rõ Bộ Ngoại giao Trung Quốc
tham gia hoạch định chính sách về Đài Loan; 2/ Phải tăng cường giao lưu
giữa hai bờ eo biển . Hồ Cẩm Đào cho rằng trước đây Đại lục chưa coi trọng
Đài Loan nên bây giừo phải hướng tới nhân dân Đài Loan ,phải thu phục
nhân tâm và nhân ý ở Đài Loan; 3/ Tăng cường đối phó với sự chuẩn bị về
quân sự ngoài dự kiến. Hồ Cẩm Đào cho biết công cuộc Giải phóng Quân
Nhân Dân phải gắn liền với vấn đề này. Chính vì thế, Tổ lãnh đạo công tác
Đài Loan đã đưa vào danh sách của Tổ 2 thành viên là Phó Chủ tịch Quân
ủy trung ương Quách Bá Hùng và Phó Tổng tham mưu trưởng Hùng Quang
Khải”[41;1].
Tại Hội nghị mở rộng Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương tiến hành từ
ngày 13-15/11/2003, Truung Quốc đã đưa ra quyết nghị về “chính sách và lập
trường nguyên tắc đối với việc thay đổi chính trị của khu vực Đài Loan”.
Quyết nghị đã được thông qua với 71 phiếu tán thàn, 4 phiếu phản đối. Bên



18

cạnh đó, Hội nghị cũng nêu rõ Đài Loan đang đi theo hướng độc lập, chia rẽ
đất nước, đây là sự khiêu khích chiến tranh đối với nhân dân Trung Quốc,
đồng thời nêu rõ tinh thần là “không được hàm hồ, không được thỏa hiệp,
quyết không dung thứ đối với vấn đề chủ quyền và lãnh thổ quốc gia: Đài
Loan độc lập nghĩa là chiến tranh, viện trợ quân sự cho Đài Loan của nước
thực chất là xâm lược, thế lực bên ngoài can dự và giúp đỡ hành động chia rẽ
của Đài Loan chính là lời tuyên chiến với Trung Quốc”. Qua sự kiện trên có
thể thấy, quan điểm và lập trường của Bắc Kinh về mối quan hệ hai bờ vẫn
luôn là: “ chống độc lập và thúc đẩy thống nhất”.
Kể từ sau cuộc bầu cử Tổng Thống Đài Loan vào ngày 20-3-2004,
chính sách của Bắc Kinh đối với Đài Loan có sự thay đổi tương đối và công
tác với Đài Loan cũng mang tính chủ động rất lớn, trong đó tập trung dựa vào
pháp luật và tranh thủ nhân tố quốc tế để ngăn chặn “Đài Loan độc lập”.
Phương châm của Trung Quốc lúc này là kết hợp đồng thời cả hai sách lược
rắn và mềm, ngày càng chú trọng và ưu tiên việc duy trì hiện trạng quan hệ
hai bờ. Trong vấn đề giao lưu kinh tế mậu dịch giữa hai bờ ngày càng thể hiện
xu thế mở cửa.
Ngày 14-3-2005, kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa X Trung Quốc đã thông
qua “Luật chống chia cắt đất nước”. Đây là luật đầu tiên khẳng định về mặt
pháp lý lập trường của nhà nước Trung Quốc trong việc giải quyết quan hệ
giữa hai bờ eo biển Đài Loan. Với luật này Trung Quốc muốn khẳng định một
cách mạnh mẽ với Đài Loan và thế giới về lập trường không bao giờ khoan
nhượng trong vấn đề Đài Loan. Đồng thời, Trung Quốc cũng đưa ra khẳng
định sẽ tái sử dụng vũ lực nếu như Đài Loan tuyên bố độc lập và có sự can
thiệp của nước ngoài, và cả trong trường hợp đàm phán giữa hai bên bị trì
hoãn vô thời hạn. Nội dung quan trọng của Luật là ngăn chặn thế lực li khai

“Đài Loan độc lập”, chia cắt đất nước, đồng thời xúc tiến hòa bình thống nhất
Tổ quốc, bảo vệ hòa bình ổn định tại khu vực eo biển Đài Loan, bảo vệ chủ


19

quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ Trung Quốc. Điều 2 của bộ luật khẳng
định mạnh mẽ rằng: “ Trên thế giới chỉ có một nước Trung Quốc . Đại Lục và
Đài Loan cũng thuộc một nước Trung Quốc,chủ quyền và lãnh thổ Trung
Quốc không được phép chia cắt”[8;71]. Trung Quốc cũng nêu rõ lập trường
của mình trong vấn đề Đài Loan rằng, mối quan hệ này không chịu sự can
thiệp nào của các thế lực bên ngoài. Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai bờ
eo biển là công việc nội bộ của nhân dân cả nước Trung Quốc trong đó có Đài
Loan. Trong chính sách đối với Đài Loan, Trung Quốc thực hiện biện pháp
hòa bình để bảo vệ hòa bình ổn định tại khu vực eo biển Đài Loan. Trong điều
5,6,7 của “Luật chống chia cắt đất nước” Trung Quốc đã nêu ra biện pháp:
“Nhà nước chủ trương thông qua hiệp thương và đàm phán bình đẳng giữa 2
bờ eo biển Đài Loan để thực hiện hòa bình thống nhất . Hiệp thương và đàm
phán có thể tiến hành theo từng bước từng giai đoạn ,có thể linh hoạt từng
phương thức”[8;71]. Đối với thế lực ly khai “Đài Loan độc lập” Trung Quốc
kiên quyết loại bỏ. Nếu như thế lực này gây nên sự biến gì nghiêm trọng có
thể gây phương hại việc thống nhất Đài Loan của Đại lục thì Trung Quốc sẽ
sẵn sàng sử dụng vũ lực. Luật chống ly khai đã khẳng định lập trường của
Trung Quốc trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hai bờ eo biển. “Luật
chống li khai” đã mở rộng hơn không gian hòa bình thống nhất, đồng thời
cũng nhằm răn đe sự nổi dậy của thế lực “Đài Loan độc lập”. Và vì thế Trung
Quốc xem đây là bộ luật tăng cường và thúc đẩy quan hệ hai bờ.
Đến năm 2007, cùng với việc điều chỉnh không ngừng quan hệ giữa
Trung Quốc với các nước lớn, cộng thêm sự điều chỉnh thích hợp chính sách
của Đại lục đối với vấn đề Đài Loan đã tạo điều kiện để Đại lục dần dần nắm

quyền chủ động với sự phát triển của cục diện eo biển Đài Loan. Trên cơ sở
nguyên tắc “Một Trung Quốc” và thực hiện mục tiêu cuối cùng là thống nhất
đất nước, việc điều chỉnh chính sách của Đại lục đối với Đài Loan ngày càng
phát riển theo chiều hướng lý tính, thực dụng và hiệu quả. Đại lục thực hiện


20

các biện pháp cứng rắn làm suy yếu các cuộc tranh luận về “Đài Loan độc
lập”, tích cực chủ động giành lấy quyền phát ngôn và quyền chế định các
nguyên tắc trong quan hệ hai bờ. Xây dựng cơ sở giao lưu giữa các chính
đảng hai bờ, mở ra cục diện mới giao lưu hai bờ, đồng thời Đại lục thực hiện
chính sách lợi dụng Mỹ trong việc kiềm chế thế lực “Đài Loan độc lập”.
Năm 2010, Trung Quốc Đại lục và Đài Loan đã ký kết Hiệp định khung
về hợp tác kinh tế (ECFA). Đây là sự kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng,
mang tính bước ngoặt đối với sự phát triển quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan.
Sau Hiệp định, Trung Quốc Đại lục đã thể hiện quan điểm của mình đối với
mối quan hệ hai bờ eo biển. Sau khi kí kết bản Hiệp định, Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã đặt ra yêu cầu đối với sự phát triển
quan hệ hai bờ là tăng cường lòng tin chính trị và nhận thức chung dân tộc
giữa hai bên. Điều này đã một lần nữa thể hiện, trên cơ sở chính trị chung
phản đối “Đài Loan độc lập”, kiên trì “nhận thức chung 2/9” để từng bước
giải quyết những khó khăn đang hạn chế sự phát triển quan hệ hai bờ eo biển
Đài Loan. Có thể thấy sự nhất quán của Trung Quốc trong vấn đề thống nhất
Đài Loan thông qua những khẳng định của các nhà lãnh đạo của nước này.
Khi nói về quan điểm lập trường của Trung Quốc trong việc giải quyết vấn đề
Đài Loan, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo nhấn mạnh: “Chúng ta sẽ
không cho phép ai tách Đài Loan ra khỏi đất mẹ dưới bất kì vỏ bọc nào, bằng
bất kì giá nào”, “Thống nhất hai bên là điều tất yếu trong sự nghiệp đổi mới
đất nước Trung Hoa vĩ đại”[30;3]. Thực tế đã cho thấy rằng lập trường của

Trung Quốc trong vấn đề Đài Loan luôn không đổi. Đại Lục sẽ không đồng ý
để Đài Loan thực hiện “thừa nhận kép” trên chính trường quốc tế, để tránh tạo
nên cục diện “Hai Trung Quốc” hoặc “Một Trung Quốc, một Đài Loan”. Và
quan trọng, đường lối hòa bình thống nhất đất nước do Đại hội lần thứ XVII
Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra “Hiệp thương chính thức chấm dứt tình
trạng thù địch giữa hai bờ, đạt được hiệp định hòa bình…”[30;2] là phù hợp


21

nguyện vọng của nhân dân hai bờ, có lợi cho an ninh khu vực Đông Bắc Á và
thế giới.
Có thể nói, CHND Trung Hoa luôn kiên định về quan điểm cho rằng
Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Quốc và không bao giờ được phép
tách khỏi Trung Hoa Đại Lục. Nước CHND Trung Hoa là chính phủ hợp
pháp duy nhất đại diện cho Trung Quốc. Trung Quốc quyết không vì bất cứ
sự thay đổi nào của quan hệ hai bờ mà thay đổi chính sách đối ngoại của Đại
lục, sẽ không vì thế mà ngừng mở rộng ảnh hưởng và vai trò của Đại lục
trong cộng đồng quốc tế, càng không cho phép Đài Loan củng cố và phát triển
quan hệ bang giao với các nước khác.
1.2.2. Lập trường của Đài Loan
Trong lập trường của mình, Trung Hoa Đại lục luôn thể hiện kiên định
về “Một Trung Quốc”, luôn xem Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung
Quốc và cố gắng củng cố và phát triển mối quan hệ với Đài Loan nhằm kéo
Đài Loan gần hơn với Đại Lục. Còn lập trường của Đài Loan trong vấn đề
này như thế nào? Chính thái độ và quan điểm của Đài Loan trong vấn đề này
sẽ có ảnh hưởng quan trọng đối với hòa bình an ninh và sự phát triển quan hệ
hai bờ eo biển Đài Loan.
Trước hết, lập trường quan điểm của Đài Loan trong mối quan hệ chính
trị với Trung Hoa Đại lục. Có thể thấy, ở Đài Loan luôn tồn tại hai xu hướng

khác nhau, ủng hộ Đài Loan độc lập và một bên là ủng hộ thống nhất Trung
Quốc. Hai xu hướng này tồn tại trong nhân dân cũng như chính giới Đài
Loan. Lập trường của những người ủng hộ khuynh hướng thống nhất Trung
Quốc ở Đài Loan cho rằng Đài Loan là một phần của Trung Quốc, nhưng
CHND Trung Hoa không phải là chính phủ hợp pháp duy nhất tại Trung
Quốc và rằng việc thống nhất không nhất thiết phải xảy ra dưới chế độ Cộng
sản. Trong khi đó, lập trường của những người ủng hộ Đài Loan độc lập cho


22

rằng Đài Loan không phải là một phần của Trung Quốc và Cộng hòa Trung
Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Đài Loan. Năm 1999, Tổng Thống
Lý Đăng Huy đề xuất lý thuyết nhà nước hay lý thuyết quan hệ nhà nước nhà nước mà Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đều
được coi là những nhà nước riêng biệt với quan hệ ngoại giao, văn hóa, lịch
sử đặc biệt. Lý thuyết này đã được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân và chính
giới Đài Loan.
Năm 2000, Trần Thủy Biển - ứng cử viên của Đảng Dân chủ tiến bộ
trúng cử và tuyên bố: “Đài Loan là một nước độc lập, có chủ quyền” nhưng
với quan niệm “Đài Loan là Trung Hoa Dân Quốc”. Điều này được các học
giả đánh giá là có ngụ ý về quan hệ đối với Trung Hoa Đại Lục khi sử dụng
thuật ngữ Trung Hoa. Tháng 7 năm 2002, sau khi trở thành Chủ tịch Đảng
Dân chủ tiến bộ, Trần Thủy Biển có xu hướng ngả theo lý thuyết “hai nhà
nước”. Tiếp đó vào đầu tháng 8 năm 2002 ông đã bình luận rằng Đài Loan có
thể “đi trên con đường riêng của Đài Loan”, và “ rõ ràng rằng hai bên bờ eo
biển là các quốc gia riêng biệt” .
Trong một động thái mà một số người coi là phản ứng trước việc Trần
Thủy Biển được tái cử năm 2004, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa ra một
dự luật “Luật chống ly khai” cho phép sử dụng vũ lực với Đài Loan và chính
phủ Trung Hoa Dân Quốc nếu họ chính thức tuyên bố độc lập. Tuy nhiên, luật

này gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ hầu như mọi đảng phái chính trị và
những nhân vật nổi tiếng tại Trung Hoa Dân Quốc cũng như từ các nước
phương Tây. Trong một loạt những sự kiện có tính đột phá, Tổng thống Trần
Thủy Biển và Chủ tịch Đảng Thân Dân Tống Sở Du đã có cuộc gặp gỡ với
nhau và vị Tổng thống đi theo chiều hướng độc lập đã nói rằng việc thống
nhất với Đại lục cũng có thể là một ý kiến xem xét. Phản đối lại dự luật chống
ly khai của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Tổng thống Trần Thủy Biển đã
tham gia một cuộc hội thảo qua truyền hình với Nghị Viện châu Âu và thúc


23

giục Liên minh châu Âu không dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí với Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa.
Năm 2008, Đài Loan bầu cử Tống Thống và một lần nữa cách hành xử
với Bắc Kinh được coi là những điểm chính yếu trong cuộc vận động tranh
cử. Ứng cử viên đối lập thuộc Quốc Dân Đảng là Mã Anh Cửu giành chiến
thắng trong cuộc bầu cử Tống thống ở Đài Loan, đem lại nhiều hy vọng về
một mối quan hệ chính trị và kinh tế tốt đẹp hơn với Đại Lục. Phát biểu sau
khi kết quả bầu cử Tổng thống được công bố, tân Tổng Thống Mã Anh Cửu
cho biết là ông muốn hướng đến “một hiệp ước hòa bình với Bắc Kinh,
nhưng chỉ làm điều đó một khi Trung Quốc dỡ bỏ các hỏa tiến hướng về phía
Đài Loan”[30;1]. Mã Anh Cửu chủ trương cải cách kinh tế và cải thiện quan
hệ với Trung Quốc. Theo đó, việc cải thiện quan hệ là ưu tiên hàng đầu trong
chính sách với Trung Quốc. Có thể nói, những chính sách của Mã Anh Cửu
đã và đang đem lại cơ hội sáng sủa cho cả hai bờ trong việc tìm ra một giải
pháp hòa bình để giải quyết những bất đồng.
Trong việc giải quyết mối quan hệ với Trung Hoa Đại lục, Đài Loan
luôn chú ý đến ý kiến của nhân dân. Vậy nhưng ý kiến của nhân dân Đài Loan
trong mối quan hệ với CHND Trung Hoa lại rất khó ước định. Khi đưa ra sự

lựa chọn giữa ba luồng ý kiến về “độc lập”, “thống nhất”, hay “nguyên trạng”,
các kết quả từ những cuộc khảo sát cho thấy: 10% ý kiến ủng hộ độc lập, 55%
ủng hộ thống nhất và 35% là giữ nguyên trạng [60;7]. Tuy nhiên, có khoảng
70 đến 80%[60;7] ủng hộ quan niệm rằng Đài Loan là một quốc gia độc lập
dưới cái tên Trung Hoa Dân Quốc với một mối quan hệ đặc biệt với CHND
Trung Hoa, như cựu Tổng Thống Lý Đăng Huy từng đề xuất. Bên cạnh đó,
khi được hỏi về sự chống trả nếu như CHND Trung Hoa mở một cuộc tấn
công nhằm sát nhập Đài Loan với Đại lục thì có tơi 70 % ý kiến [60;7] sẽ
không đấu tranh chống lại cuộc sát nhập đó.


24

Như vậy, chính giới Đài Loan luôn có những ý kiến trái chiều trong vấn
đề “thống nhất” hay “độc lập”. Điều này đã phần nào làm ảnh hưởng tới tình
hình chính trị trong nội bộ Đài Loan và ảnh hưởng tới công cuộc thống nhất
Đài Laon của Trung Hoa Đại lục. Tuy nhiên, lãnh đạo và doanh nghiệp, nhân
dân Đài Loan lại khá đồng nhất về ý kiến tăng cường hợp tác về kinh tế và
các lĩnh vực khác.
1.2.3. Lập trường của các nước lớn
Có thể nói, việc giải quyết vấn đề Đài Loan là công việc nội bộ của
Trung Quốc. Tuy nhiên, dưới tác động của Chiến tranh lạnh, vấn đề Đài Loan
đã trở thành vấn đề quốc tế và là nơi đan xen lợi ích của các nước lớn như
Mỹ, Nga, Nhật Bản… Chính sự tham gia của các nước lớn này mà cục diện
hai bờ eo biển Đài Loan luôn diễn biến hết sức phức tạp.
Nước Mỹ với thế lực mạnh, ngay từ đầu dã trở thành nhân tố không thể
thiếu trong quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan và đặc biệt là lập trường của Mỹ
trong vấn đề Đài Loan đã tác động rất lớn đến tình hình Eo biển. Có thể thấy,
sau khi nước CHND Trung Hoa thành lập năm 1949, chính sách của Mỹ ở
Đài Loan đã trải qua ba giai đoạn.

Từ thập kỉ 50 của thế kỉ XX, khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, dưới
áp lực của quân đội và Quốc hội, Truman đã bắt đầu thực hiện chính sách
dùng Đài Loan làm “con bài” để kiềm chế Trung Quốc mới. Sau thập niên 50,
lập trường của Mỹ trải qua 2 biến động lớn, từ chỗ công khai ủng hộ Đài
Loan trở về với Trung Quốc đến chỗ công khai đưa ra thuyết “Địa vị Đài
Loan chưa được định đoạt”, từ chỗ “không can thiệp” vấn đến chỗ xâm chiếm
eo biển Đài Loan bằng vũ lực. Cả hai biến động lớn đều tuân theo một nguyên
tắc, đó là đưa Đài Loan vào quỹ đạo chiến lược châu Á của Mỹ và phù hợp
với lợi ích chiến lược toàn cầu của Mỹ.


25

Từ đầu thập niên 70 đến đầu thập niên 90 của thế kỉ XX Mỹ đã có
những điều chỉnh trong chính sách đối với Đài Loan. Đầu thập niên 70, xuất
phát từ nhu cầu chiến lược chung chống Liên Xô, quan hệ Trung - Mỹ được
cải thiện. Tuy nhiên, đến tháng 4/1979 Quốc hội Mỹ lại thông qua “ Luật
quan hệ với Đài Loan”, nêu lên rằng những nỗ lực của Trung Quốc nhằm
“quyết định số phận tương lai của Đài Loan bằng bất cứ hình thức phi hòa
bình nào” sẽ bị Mỹ coi là “mối đe dọa hòa bình và an ninh khu vực Tây Thái
Bình Dương”. Năm 1982 một lần nữa Mỹ lại điều chỉnh chính sách của mình
đối với quan hệ Trung Quốc – Đài Loan. Mỹ cam kết với Trung Quốc sẽ
không thực thi chính sách bán vũ khí lâu dài cho Đài Loan. Như vậy, trong
thời kì này Mỹ đã thể hiện tính hai mặt trong chính sách của mình, một mặt
công khai giữ chính sách “một nước Trung Quốc”, không ủng hộ “Hai nước
Trung Quốc” hoặc “Một Trung Quốc một Đài Loan”, nhưng mặt khác Mỹ
không từ bỏ ý đồ can thiệp Đài Loan, tiếp tục tìm kiếm lợi ích chính trị, kinh
tế, quân sự tại Đài Loan.
Từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, chính sách của Mỹ trong Vấn
đề Đài Loan được thể hiện chủ yếu qua hai nhiệm kì Tổng thống của

B.Clinton và G.Bush. Đối sách của Mỹ trong vấn đề này đó là Mỹ muốn thực
hiện ý đồ “mượn Đài Loan kiềm chế Trung Quốc” từng bước tăng lên nhất là
bán vũ khí cho Đài Loan. Để giữ được lượi ích chiến lược toàn cầu cũng như
lợi ích tối đa của Mỹ tại Eo biển Đài Loan, Mỹ đã ra sức duy trì hiện trạng
chia rẽ “không thống nhất, không độc lập, không chiến tranh”. Mỹ không
muốn vướng bận vào một cuộc xung đột mà Mỹ chắc rằng nếu nó xảy ra sẽ
gây tổn hại tới lợi ích quốc gia Mỹ.
Trong những năm gần đây, xu hướng giữ trạng thái hòa bình tương đối
ở Eo biển Đài Loan trở thành một trong những nội dung chủ yếu trong chiến
lược của Mỹ đối với Trung Quốc. Mỹ đủ thông minh để nhận ra rằng giữ cho
quan hệ Trung - Mỹ ổn định tương đối và hợp tác rộng rãi hơn sẽ phù hợp với


×