Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Từ xưng hô trong một số truyện ngắn của nguyễn ngọc tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 90 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN

LƯƠNG THỊ HƯỜNG
MSSV: 6075426

TỪ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ văn – Khóa: 2007 – 2011

Cán bộ hướng dẫn: Th.S. BÙI THỊ TÂM

Cần Thơ, tháng 05/2011


LỜI CẢM ƠN
Thông qua khóa luận này, tôi xin nói lên lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến
Th.S Bùi Thị Tâm, cảm ơn cô đã tin tưởng giao cho tôi đề tài này và luôn quan tâm,
giúp đỡ, động viên, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian qua.
Tôi xin cảm ơn tất cả những người thân, bạn bè – những người luôn bên cạnh giúp
đỡ và động viên tôi trong thời gian thực hiện khóa luận.
Mặc dù tôi đã cố gắng hoàn thành khóa luận trong phạm vi và khả năng cho phép
nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của quý thầy cô và bạn bè để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.

Cần Thơ, ngày 25 tháng 04 năm 2011


Lương Thị Hường


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
2.Lịch sử vấn đề
3.Phạm vi nghiên cứu
4.Mục đích nghiên cứu
5.Phương pháp nghiên cứu

B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ
VÀ TỪ XƯNG HÔ TRONG TIẾNG VIỆT
1.1. Khái niệm từ xưng hô trong tiếng việt
1.1.1. Các khái niệm khác nhau về từ tiếng việt
1.1.2. Đặc điểm của từ tiếng viết
1.1.3. Các kiểu cấu tạo Từ Tiếng Việt
1.1.3.1. Từ đơn
1.1.3.2. Từ ghép
1.1.3.3. Từ láy
1.1.3.4. Từ ngẫu hợp
1.2. TỪ XƯNG HÔ
1.2.1. Khái niệm về từ xưng hô
1.2.2. Các từ để xưng hô trong tiếng Việt
1.2.2.1. Đại từ nhân xưng
1.2.2.2. Các từ chỉ tên riêng của người
1.2.2.3. Các từ chỉ chức danh, nghề nghiệp
1.2.2.4. Các từ chỉ quan hệ thân tộc

1.2.2.5. Từ xưng hô dùng trong quan hệ xã hội


Chương 2
KHẢO SÁT TỪ XƯNG HÔ
TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
2.1. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
2.1.1. Vài nét về tác giả
2.1.2. Một số đặc điểm về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.1.2.1. Về nội dung
2.1.2.2. Về nghệ thuật
2.2.KHẢO SÁT TỪ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA
NGUYỄN NGỌC TƯ
2.2.1.Từ xưng hô trong gia đình
2.2.1.1.Từ xưng hô trong mối quan hệ với ông bà – cháu
2.2.1.2. Từ xưng hô dùng trong mối quan hệ giữa cha mẹ đối với con cái
trong gia đình
2.2.1.3. Xưng hô trong mối quan hệ vợ chồng
2.2.1.4. Xưng hô trong mối quan hệ anh chị - em
2.2.2 Xưng hô trong mối quan hệ với xã hội
2.2.3. Xưng hô trong mối quan hệ tình yêu

Chương 3
HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG TỪ XƯNG HÔ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
3.1. Dùng từ xưng hô thể hiện tình cảm, cảm xúc, tâm trạng của mỗi nhân vật
3.1.1. Dùng từ xưng hô thể hiện tình cảm yêu thương
3.1.2. Dùng từ xưng hô thể hiện sự giận dỗi
3.1.3. Dùng từ xưng hô thể hiện sự khinh miệt
3.1.4. Dùng từ xưng hô thể hiện tâm trạng

3.2. Dùng từ xưng hô thể hiện văn hóa Nam Bộ
3.2.1. Văn hóa ứng xử
3.2.2. Văn hóa vay mượn
3.2.3. Văn hóa xã giao


3.3. Dùng từ xưng hô thể hiện bản chất của con người Nam Bộ
3.3.1. Dùng từ xưng hô thể hiện tính cách hiền lành, chất phác
3.3.2. Dùng từ xưng hô thể hiện tâm hồn cao đẹp

C. PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÁC PHẨM
TÀI LIỆU THAM KHẢO


A. PHẦN MỞ ĐẦU


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn chương Đồng Bằng Sông Cửu Long được khởi sắc và hòa mình trong sự
phát triển chung của đất nước ngay từ những năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
Với một số cây bút xuất sắc như: Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Quang Sáng… Họ đã để lại
diện mạo văn học Đồng Bằng Sông Cửu Long một dấu ấn riêng. Tiếp nối dấu chân của
những người đi trước với lối viết văn đặc trưng của vùng đất Nam Bộ, thì đội ngũ nhà
văn sau 1975 cũng không kém phần sắc sảo và sâu sắc. Đó là những cây bút như Dạ
Ngân, Lê Đình Bích, Hồ Tĩnh Tâm… và đặc biệt là Nguyễn Ngọc Tư là một trong
những nhà văn trẻ đã khẳng định được tài năng của mình trên văn đàn nghệ thuật. Với
lối viết văn hồn nhiên, tự tin, đầy bản lĩnh và mạnh dạn, Nguyễn Ngọc Tư đã chiếm
được tình cảm của độc giả ngay từ những trang viết đầu tay của chị. Đọc tác phẩm của

Nguyễn Ngọc Tư, người đọc cảm nhận được nhà văn đang tái hiện lại cuộc sống của
người dân Nam bộ với những vấn đề hiện thực còn nhiều bất cập vướng mắc.
Với lối viết văn giản dị, mộc mạc, trơn tuột, … Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện
được phong cách riêng của văn chương Nam Bộ. Từng câu, từng chữ trong tác phẩm
của chị như chính là lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân Nam Bộ. Đó chính là
nỗi lòng khát vọng của những con người nông dân hiền hòa, chất phác. Sự thành công
của Nguyễn Ngọc Tư không chỉ về phương diện nội dung, mà cả về phương diện nghệ
thuật. Trong đó đáng chú ý là từ xưng hô chị đã sử dụng trong những trang viết của
mình. Qua việc sử dụng từ xưng hô người đọc có thể thấy được tính cách, tình cảm,
văn hóa… của từng nhân vật trong tác phẩm của chị. Bởi vì trong sinh hoạt hàng ngày
con người luôn trao đổi, tâm sự với nhau dù bất cứ nơi đâu, môi trường nào thì giao
tiếp vẫn diễn ra và đóng vai trò quan trọng.
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, xưng hô là yếu tố đầu tiên mà các vai giao tiếp
cần phải lựa chọn để xác nhập vị trí của mình. Dựa vào xưng hô mà quan hệ giữa các
vai giao tiếp được thiết lập. Do đó, sử dụng từ xưng hô không chỉ giúp cuộc đối thoại
có thể tiến hành mà còn ảnh hưởng lớn đến chiến lược và hiệu quả giao tiếp. Xưng hô
đúng, hay sẽ góp phần thúc đẩy giao tiếp phát triển. Ngược lại, xưng hô không hợp lý
gây ra hậu quả không mong muốn trong giao tiếp. Và từ xưng hô là gì? Nó được thể
hiện ra sao? Nét đặc trưng của nó như thế nào trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư?


Đó là vấn đề đặt ra cho người đọc khi tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn
Ngọc Tư. Vì vậy mà người viết chọn đề tài: “ Từ xưng hô trong một số truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Lịch sử vấn đề
Có nhiều yếu tố tạo nên tính khác biệt giữa đất nước Việt Nam so với các quốc
gia khác như về vị trí địa lý, về lịch sử, về văn hóa, dân tộc…Trong rất nhiều yếu tố
đó, ngôn ngữ cũng được xem là một nhân tố tạo nên sự khác biệt. Bằng chứng dễ dàng
nhận thấy đó là biểu hiện của lớp từ xưng hô trong hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt. Hệ

thống từ xưng hô trong tiếng Việt đa dạng, phong phú và phức tạp nhiều hơn so với
tiếng Anh, Tiếng Pháp…
Chính vì thế đã thu hút sự chú ý, quan tâm của các nhà ngôn ngữ học. Họ nghiên
cứu từ xưng hô ở nhiều góc độ khác nhau. Nổi bật là các quan điểm Ngữ pháp học,
quan điểm Phong cách học, quan điểm Ngữ dụng học.
Đầu tiên phải kể đến công trình nghiên cứu của tác giả Đỗ Hữu Châu.
Trong quyển “Đại cương ngôn ngữ học”, Đỗ Hữu Châu đã có những nghiên cứu
khá sâu về từ xưng hô. Tác giả đề cặp đến vấn đề chiếu vật và chỉ xuất. Theo tác giả
“bằng việc lựa chọn từ dùng để tự xưng và để hô người giao tiếp, người nói định một
khung quan hệ liên cá nhân cho mình và cho người đối thoại với mình”[5;75]. Ông đã
nghiên cứu từ xưng hô trên các bình diện: hệ thống từ xưng hô, những nhân tố chi phối
việc dùng từ xưng hô trong giao tiếp và một phần của sự khác nhau trong cách dùng từ
xưng hô của tiếng Anh và tiếng Việt.
Trong “Cơ sở ngữ dụng học”Đỗ Hữu Châu đã đánh giá như sau: “xưng hô là
hành vi chiếu vật, ở đây là quy chiếu các đối ngôn trong ngữ cảnh, nó sẽ gắn diễn
ngôn với người nói, người đối thoại. Xưng hô thể hiện vai giao tiếp” [4;264]. Đỗ Hữu
Châu đã đi vào phân tích khá tỉ mĩ và sâu sắc hệ thống từ xưng hô, ông đã nêu lên
được những đặc điểm cũng như phạm vi, cách thức sử dụng các từ xưng hô trong tiếng
Việt.
Bên cạnh đó, các nhà ngữ pháp học nhìn nhận, xem xét từ xưng hô về mặt từ loại
chủ yếu là về mặt đại từ. Vì vậy mà có nhiều tác giả đồng nhất từ xưng hô với đại từ
nhân xưng, hay còn gọi là đại từ xưng hô. Đó là các tác giả như: Diệp Quang Ban, Lê
Biên, Nguyễn Hữu Quỳnh, Đinh Văn Đức…


Trong “Ngữ pháp tiếng Việt” Diệp Quang Ban đã nhận xét: “Đại từ xưng hô dùng
thay thế và biểu thị các đối tượng tham gia quá trình giao tiếp”[1;111]. Ông đã chia
đại từ xưng hô ra thành đại từ xưng hô dùng ở một ngôi xác định và đại từ xưng hô
dùng ở nhiều ngôi linh hoạt.
Trong quyển “Ngữ pháp tiếng Việt” của Nguyễn Hữu Quỳnh. Tác giả đã đặt các

danh từ thân tộc vào nhóm các đại từ xưng hô lâm thời “đại từ xưng hô trong tiếng
Việt gồm các đại từ chuyên dùng để xưng hô và các đại từ xưng hô lâm
thời”…[19;151]. Các đại từ xưng hô lâm thời được hiểu là các danh từ thân tộc.
Lê Biên trong “ Từ loại tiếng việt hiện đại” đã nhận định: “Xưng hô trong giao
tiếp là một vấn đề lớn, liên quan đến nhiều nhân tố”[2;123]. Trong quyển này, tác giả
đã có nghiên cứu khá sâu về đại từ xưng hô. Theo ông đại từ xưng hô có thể chia thành
hai lớp: đại từ xưng hô gốc đích thực và các yếu tố đã được đại từ hóa dùng để xưng
hô như: những danh từ lâm thời đảm nhiệm chức năng đại từ, các từ chỉ chức danh,
nghề nghiệp, các tên riêng của người… Ngoài ra ông còn chia từ xưng hô trong tiếng
Việt thành hai lớp có phạm vi sử dụng khác nhau gồm: Từ xưng hô dùng trong gia tộc
và từ xưng hô ngoài xã hội.
Tác giả Đinh Văn Đức trong “Ngữ pháp tiếng Việt” ngoài quan điểm khá giống
với các tác giả trên ông còn cho rằng các đại từ chỉ định như: “ đây, đấy, đó, kia, kìa,
vậy, thế…nhiều khi cũng được dùng để chỉ người”[8;204]
Nhìn chung điểm đồng nhất giữa các tác giả trên là đã xem xét từ xưng hô ở góc
độ là đại từ xưng hô, với chức năng là giao tiếp.
Tác giả Đinh Trọng Lạc đã phát biểu như sau: “phong cách học quan tâm chủ yếu
đến các giá trị biểu đạt, biểu cảm-cảm xúc, cái giá trị phong cách của các phương tiện
giao tiếp nhất định trong quá trình giao tiếp”[11;10]. Lời phát biểu này cũng có thể
được xem là quan điểm tiêu biểu trong việc nghiên cứu từ xưng hô của các nhà phong
cách học. Theo quan điểm trên thì từ xưng hô cũng như các phương tiện ngôn ngữ
khác, được phong cách học nhìn nhận và xem xét dưới những phương diện: phong
cách chức năng ngôn ngữ và đặc điểm tu từ.
Tác giả Cù Đình Tú trong “ Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt” cho
rằng: “ ngoài các đại từ nhân xưng và các đại từ chỉ quan hệ họ hàng thân tộc thì còn
lấy cả tiếng đệm giữa họ và tên của nữ giới (thị) để làm từ xưng hô, thậm chí còn dùng
cả cách nói trống không để xưng hô” cuối cùng ông nhận xét: “trong tiếng Việt, từ


xưng hô, cách xưng hô, mô hình xưng hô là phương tiện biểu cảm, là phương tiện

phong cách” [27;168]
Qua đó, có thể thấy quan điểm của các nhà Phong cách học khá giống với các nhà
Ngữ dụng học, nhưng phạm vi nghiên cứu về các từ loại khác nhau dùng để xưng hô
thì ít so với các nhà Ngữ dụng học.
Quan điểm của các nhà Ngữ dụng học và Phong cách học lại khác so với các nhà
Ngữ pháp học vì họ không đồng nhất từ xưng hô với đại từ xưng hô như các nhà Ngữ
pháp học đã từng làm.
Với nhiều hướng tiếp nhận khác nhau, các công trình nghiên cứu về từ xưng hô
của các nhà ngôn ngữ học, dù sâu hay sơ lược thì cũng phần nào đã làm rõ vấn đề từ
xưng hô trong tiếng Việt. Hơn thế nữa, đó còn là nguồn tư liệu quý báu của phần lí
thuyết cho luận văn này, giúp chúng tôi nhìn rộng hơn về từ xưng hô trong tiếng Việt.
Nghiên cứu “Từ xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư” là khá mới mẽ
hầu như chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu.Tuy nhiên có nhiều bài viết về
Nguyễn Ngọc Tư của các tác giả:
Từ khi xuất hiện trên văn đàn cho tới nay, Nguyễn Ngọc Tư đã gây sự chú ý của
đông đảo bạn đọc. Trong bài viết nhan đề “ Còn nhiều người cầm bút có tư cách”,
Nguyên Ngọc đặt ra một vấn đề tồn tại trong đời sống văn học Việt Nam gần đây, đó
là văn học đã phản ánh được gì từ hiện thực cuộc sống. Tác giả chỉ rõ: “Mấy năm
trước đây, thú thật, đã có đôi lúc tôi hơi bi quan. Tôi sợ tình trạng làng nhàng kéo dài,
và trong văn học không gì chán bằng sự làng nhàng. Và dòng chỉ đạo chính thống thì
dường như muốn duy trì sự làng nhàng đó, bởi nó đồng nghĩa với yên ổn. Song hóa ra
những người cầm bút đã không chịu “yên ổn”, làng nhàng. Họ cố gắng làm cái văn
học cần làm (và chính vì vậy mà xã hội cần có văn học): lên tiếng nói rằng cuộc sống
không hề đơn giản như ta tưởng và như ta được giải thích hằng ngày. Họ soi mói
những góc lẫn khuất bất ngờ của cuộc sống, phơi nó ra ánh sáng, buộc ta nhìn thấy và
suy nghĩ, lay chuyển sự suy nghĩ của chúng ta”[15;2]
Văn học như chức năng của nó là đưa ra một cái nhìn về thế thái, nhân tình để soi
rọi cuộc sống dưới mọi góc độ và tác giả dẫn chứng trường hợp của Nguyễn Ngọc Tư
để thấy rõ văn học ngày nay có sự thay đổi tích cực tránh đi lối mòn của sự đơn điệu:
“Mấy năm nay chúng ta đều rất thích Nguyễn Ngọc Tư. Cô ấy như một cái cây tự

nhiên mọc lên giữa rừng tràm hay rừng đước Nam Bộ vậy, tươi tắn lạ thường, đem


đến cho văn học một luồng gió mát rượi, tinh tế mà chân chất, chân chất mà tinh tế,
đặc biệt “Nam Bộ” một cách như không, chẳng cần chút cố gắng nào cả như các tác
giả Nam Bộ đi trước… Tuy nhiên, cơ bản thuộc một cái gì đó đã cũ, một thế giới tinh
thần và giá trị ổn định. Văn cô ấy thật trẻ, nhưng có lẽ nếu muốn xếp loại thì cũng
không phải khó lắm. Đã có một thứ thang bậc tương đối ổn định để xếp cây bút này
vào đó…Nhưng đến Cánh đồng bất tận gần đây của Nguyễn Ngọc Tư thì bỗng là một
cây bút khác hẳn. Bỗng nhiên không thể xếp loại vào đâu nữa cả. Đặt vào ô nào cũng
thấy khiên cưỡng. Nghe nói tác phẩm vừa ra đời, lập tức đã có mấy anh đạo diễn
nhanh chân tìm xuống tận Cà Mau mua bản quyền làm phim ngay: Tác phẩm quá đậm
chất tiểu thuyết! Nó trình bày ra đó một thế giới kì lạ, trong đó ai còn lẩn thẩn đi tìm,
đi nói chuyện chuẩn mực giá trị gọi là “đạo đức”, “đạo lý” này nọ, trở thành ngớ
ngẩn vô duyên, thậm chí ngu độn”
Nguyên Ngọc với tư cách là nhà văn nói về văn nên ông có lời nhận xét chân
tình, đúng mực về nguyễn Ngọc Tư. Tuy nhiên, bài viết của tác giả thiên về tính chất lí
luận, đọc một lần chưa chắc đã nắm được trọn vẹn vấn đề mà ông muốn chuyển tải,
nhưng có một vấn đề có thể khẳng định rằng, tác giả đánh giá cao sự mạnh dạn vượt
mình của Nguyễn Ngọc Tư thông qua Cánh đồng bất tận, điều đó góp phần đưa văn
của chị lên một tầm cao mới, một chỗ đứng mới. Theo Nguyên Ngọc, đó là “những
người cầm bút rất có tư cách”
Trong bài viết: “ May mà có Nguyễn Ngọc Tư” đăng trên báo tuổi trẻ, số ra ngày
26.4.2006. Nhà văn Dạ Ngân cũng đưa ra nhận xét về cách viết của Nguyễn Ngọc Tư
như sau: “ Chính cái truyện lấy tên tập lại không thấy thích bằng những truyện về
những cảnh ngộ, những thân phận, những mảnh người thường nhật, nó cho thấy tác
giả có thể dài hơi về kiểu nhân vật này, tất cả được diễn tả bằng thứ ngôn ngữ Nam Bộ
lấp lánh và một giọng văn dung dị, đặc biệt ấm áp. Cảm giác của người trong nghề,
lại là dân biên tập, tôi nghĩ hình như mình đang tiếp cận một ngôi sao chưa biết nó sẽ
tỏa sáng đến đâu. Lại còn những tạp bút trên tờ Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, già dặn,

thâm thúy, nhiều bài rất hàn lâm mà vẫn nhuần nhụy Nam Bộ. Tạp bút là thể loại mà
nhà văn không thể giấu giếm kiến văn, chủ kiến và cái tầm ưu thời mẫn thế của mình.
Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục làm cho làng viết và độc giả ngạc nhiên”. [Báo tuổi trẻ,
26.4.2006 ]. Tuy nhiên, trong bài viết này Dạ Ngân chưa quan tâm đến từ xưng hô mà
Nguyễn Ngọc Tư sử dụng trong truyện ngắn của mình. Dạ Ngân chỉ quan tâm nhiều


đến truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư từ khả năng quan sát, xây dựng cốt truyện cho
đến kiểu nhân vật, giọng văn,…
Thoạt tiên là giọng văn không lẫn vào ai giữa rất nhiều tác giả cũng như số lượng
tác phẩm xuất bản. Văn chương Nguyễn Ngọc Tư tự nhiên, gần gũi đến mức ta có thể
nghĩ cái gì nhà văn cũng viết được và viết rất hay. Đọc truyện của chị, người đọc sẽ
bắt gặp những nhân vật, số phận, mảnh đời của những người dân Nam Bộ bình dị, dễ
mến. Chính vì thế, văn của chị có thể xem như một sứ giả khiến người đi xa da diết
nhớ quê. Trong kí sự “Nhớ nhà” Huỳnh Kim viết: “Đến một chừng mực nào đó, ai
cũng là xa quê hương làng xóm của mình, dù là chỉ từ Mỹ Tho lên Sài Gòn. Ai cũng
thấy lòng dịu lại khi hồi tưởng tới thời thơ ấu của mình, nhất là những người tỉnh nhỏ
hay thôn quê. Ai cũng thích nghe câu chuyện hay, đọc những nhận xét tinh tế. Trong
văn chương Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta ở khắp mọi phương trời tìm lại được cái quê
hương đích thực trong tâm tưởng, những tình tự ngủ quên trong lòng mình, những kỉ
niệm mà mình tưởng như không ai chia sẻ”.
Trần Hữu Dũng cũng nhận định: “Trước hết, cô là một nhà văn có biệt tài trong
văn phong cũng như trong nhận xét vô cùng tinh tế của cô, ai đọc cũng thấy điều đó.
Thứ nữa là sự chân thật, đôn hậu trong sáng tỏa ra từ những gì cô viết. Nhưng có thể
điều làm người miền Nam như tôi xúc động nhất là những phương ngữ, phương ngôn
mà cô dùng. Tôi chưa bao giờ sống gần trọn vẹn lại thời thơ ấu, ở quê tôi như khi đọc
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư [www.Viet-studies.org]. Có thể thấy cũng như các
tác giả khác, Trần Hữu Dũng chưa thật sự quan tâm đến từ xưng hô trong các tác phẩm
của Nguyễn Ngọc Tư mà tác giả chỉ đề cập đến phương ngữ, phương ngôn mà Nguyễn
Ngọc Tư đã sử dụng trong tác phẩm của mình.

Nguyễn Ngọc Tư mới bước vào văn đàn chưa lâu và chỉ mới dừng lại ở địa hạt
truyện ngắn, nhưng vấn đề mà chị đặt ra thường là những vấn đề gia đình xã hội
đương thời, nhưng không cũ mòn, không nhàm chán bởi mạch văn liên kết chặt chẽ
với vô số chi tiết thú vị. Nói về phương diện nghệ thuật trong tác phẩm của Nguyễn
Ngọc Tư, Huỳnh Công Tín chỉ rõ: “Nhìn từ phương diện nghệ thuật, chị đã sử dụng
ngôn từ của ngôn ngữ Nam bộ khá thành công trong sáng tác của mình. Điều này góp
phần làm nên một văn phong riêng ở chị. Tất nhiên có thể có người không đồng tình
với nhận định này vì cho rằng trong tác phẩm văn chương mà sử dụng quá nhiều từ
địa phương thì sẽ gây trở ngại cho người đọc, hạn chế độc giả. Nhưng để có được


những sáng tác phản ánh sinh động thực tại, không gì tốt hơn là phải dùng chất liệu
ngôn từ của thực tại cần phản ánh”[24;4].
Tiểu Hằng Ngôn cũng cho rằng: “Nhiều người nghĩ rằng, nói chung văn chương
miền Nam không thể so được với sự chỉnh chu truyền thống của văn chương miền
Trung, miền Bắc. Nguyễn Ngọc Tư đã làm những người đó phải nghĩ lại. Đọc truyện
của Nguyễn Ngọc Tư, họ sẽ khám phá ra rằng nếu dùng đúng chỗ, trong tay một tác
giả cẩn trọng, phương ngữ mộc mạc miền Nam, giọng điệu dân dã miền nam hoàn
toàn có khả năng cấu tạo một nhánh văn chương đặc biệt nhưng chuẩn mực không
kém những miền khác. Mỗi truyện viết của Nguyễn Ngọc Tư là một bữa ăn văn chương
thịnh soạn, dọn bày chu đáo, gồm toàn đặc sản miệt vườn, với những vật liệu hảo
hạng, tươi sống”[16;2]. Nhìn chung, Tiểu Hằng Ngôn quan tâm nhiều về mặt nghệ
thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ góc độ ngôn ngữ học hơn, Tiểu
Hằng Ngôn đặc biệt chú ý đến phương ngữ miền Nam mộc mạc, dân dã trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Song, Tiểu Hằng Ngôn không đi vào tìm hiểu từ xưng hô
trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
Về sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư có rất nhiều ý kiến về phía độc giả và các nhà
phê bình. Song đó chỉ là nhận xét, đánh giá trên phương diện tổng quát chưa đi sâu vào
nghiên cứu từng khía cạnh của từng vấn đề. Do vậy, vấn đề từ xưng hô trong truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư hầu như chưa có một bài viết hay công trình nào đề cập tới.

Chính vì thế, trong quá trình nghiên cứu, người viết gặp không ít những khó khăn. Tuy
nhiên, người viết sẽ cố gắng tìm hiểu và làm rõ vấn đề đặt ra với hy vọng góp một
phần nhỏ trong việc tiếp cận, nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư trên phương
diện nội dung và nghệ thuật. Từ đó có cái nhìn, sự đánh giá tác phẩm của Nguyễn
Ngọc Tư nói riêng và văn chương Đồng Bằng Sông Cửu Long nói chung trong nền
văn học của dân tộc.

3. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi tập chung nghiên cứu tìm hiểu các phương tiện
dùng để xưng hô trong một số truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
Nguyễn Ngọc Tư có khá nhiều truyện ngắn và có nhiều vấn đề đặt ra trong tác
phẩm của chị. Song, do những điều biện chủ quan và khách quan, người viết chỉ thể
hiện từ xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thông qua tập bốn tập truyện:
Cánh đồng bất tận, gió lẻ, khói trời lộng lẫy, giao thừa. Thông qua việc tìm hiểu và


thống kê các lớp từ xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta thấy
được sự vận dụng tài tình của tác giả đối với một ngôn ngữ dân dã, mộc mạc và trong
tác phẩm văn chương vốn mang phong cách gọt giũa, hoa mĩ. Từ đó chúng ta sẽ có ý
thức học hỏi và phát huy ngôn ngữ dân tộc.

4. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài: “Từ xưng hô trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, bởi vì đây là
cơ hội để người viết làm quen và thử sức mình với phong cách tác phong làm việc
khoa học, độc lập và sáng tạo trong việc nghiên cứu văn học. Bên cạnh đó, người viết
muốn tìm hiểu sâu hơn về sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư trên phương diện nội dung và
nghệ thuật trong tác phẩm của chị. Và đặc biệt người viết khảo sát từ xưng hô trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư tìm hiểu thêm về cái nhìn của tác giả qua cuộc sống
thực của con người Nam Bộ từ cách xưng hô trong gia đình, bạn bè và xã hội.


5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Từ xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư”.Trên
phương diện khảo sát và tìm hiểu chúng tôi sử dụng khá nhiều phương pháp nghiên
cứu về ngôn ngữ:
Trước hết chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống, tổng hợp nhằm tìm các tư
liệu có liên quan đến đề tài mà chúng tôi thực hiện và tổng hợp nó cho phù hợp với
mục đích sử dụng của mình.
Tiếp đến chúng tôi sử dụng biện pháp phân tích để phân tích tư liệu đã tổng hợp
nhằm làm sáng tỏa nội dung đề tài yêu cầu.
Trong quá trình phân tích, chúng tôi cũng vận dụng phương pháp thống kê và
phân loại để dễ dàng hơn trong việc phân tích tư liệu, ngữ liệu.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh – đối chiếu giữa các tư
liệu, ngữ liệu nhằm tìm ra đặc điểm chung, khái quát và những điều cốt yếu nhất của
vấn đề mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu.
Từ việc sử dụng các phương pháp nêu trên, tôi cũng đưa ra một vài ý kiến chủ
quan của mình nhằm làm cụ thể, sáng tỏ nội dung của bài nghiên cứu.


B. PHẦN NỘI DUNG


B. PHẦN NỘI DUNG

Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ
VÀ TỪ XƯNG HÔ TRONG TIẾNG VIỆT
1.1. Khái niệm từ tiếng Việt
Từ tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định bất biến, mang những đặc điểm
ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với những
kiểu nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu.

Từ là những đơn vị mà với chúng, ngôn ngữ thực hiện chức năng giao tiếp và tư
duy thông qua thao tác kết hợp chúng với nhau. Những đơn vị như vậy là “từ” và có
thể tạm thời đưa ra các quan niệm về từ như sau:

1.1.1. Các khái niệm khác nhau về từ tiếng Việt
Khái niệm về từ tiếng Việt khác nhau ở mỗi tác giả:
Nguyễn Thiện Giáp: “Từ của tiếng việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa để
tạo ra câu nói; nó có hình thức, có một âm tiết, một khối viết liền [9;168].
Nguyễn Văn Tu: “Từ là đơn vị nhỏ nhất và độc lập, có hình thức vật chất (vỏ âm
thanh là hình thức) và có ý nghĩa, có tính biện chứng và lịch sử ”[26;20].
Đỗ Hữu Châu: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định bất biến, có
ý nghĩa nhất định, nằm trong một phương thức (hoặc kiểu cấu tạo) cấu tạo nhất định,
tuân theo những kiểu đặc điểm ngữ pháp nhất định, lớn nhất trong từ vựng và nhỏ
nhất để tạo câu”[3;14]
Nguyễn Hữu Chỉnh – Nguyễn Thị Thu Thủy: “Từ là một đơn vị cơ bản và quan
trọng nhất của ngôn ngữ, là đơn vị có sẵn có tính hiện thực cao nhất của ngôn
ngữ”[6;192]
Nguyễn Thị Thu Thủy: “Từ là một đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, mang tính có
sẵn, cố định bắt buộc, nhỏ nhất trực tiếp tạo câu”[21;6]
Lưu Văn Lăng: “Những đơn vị dùng tách biệt nhỏ nhất mới là từ. Có thể nói từ
là đơn vị tách biệt nhỏ nhất. Nói cách khác, từ là ngữ đoạn nhỏ nhất”[12;213] và từ có
thể gồm nhiều tiếng không tự do hoặc chỉ một tiếng chỉ tự do hay nhiều tiếng tự do kết
hợp lại không theo quan hệ thuần cú pháp tiếng Việt [12;214].


Hồ Lê: “Từ là ngôn ngữ có chức năng định danh phi liên kết thực hiện, hoặc có
khả năng mô phỏng tiếng động, có khả năng kết hợp tự do có tính vững chắc về cấu
tạo và tính nhất thể về ý nghĩa”[13;104]
Đái Xuân Ninh thì cho rằng: “Từ là đơn vị cơ bản của cấu trúc ngôn ngữ ở
những hành vị và cụm từ. Nó được cấu tạo bằng một hay nhiều đơn vị hay hàng ngay

sau nó từ là hành vị và lập thành một khối hoàn chỉnh”[17;24]
Dựa vào các quan hệ về từ đã khái quát lên phần nào về sự phức tạp tình hình
nghiên cứu về từ trong tiếng Việt. Do đứng từ góc độ đồng đại hay lịch đại khác nhau,
do cách hiểu về khái niệm hành vị trong ngôn ngữ học đại cương khác nhau, dẫn đến
cách chọn đơn vị cấu tạo từ tiếng Việt của các tác giả khác nhau.

1.1.2. Đặc điểm của từ tiếng Việt
Qua các quan điểm về từ cho thấy đặc điểm chung của từ là: đơn vị nhỏ nhất của
ngôn ngữ có nghĩa, mang tính cố định, sẵn có, bắt buộc, đơn vị nhỏ nhất tạo câu, được
thể hiện ở các đặc điểm:
Từ tiếng Việt có thể đơn tiết hay đa tiết
Ví dụ: bàn, ghế, sách vở, đi, đứng…
Quốc gia, sơn hà, dễ dàng, cà phê, a xít… là những tiếng được vay mượn từ tiếng
Hán. Trong nguyên ngữ, chúng được sử dụng như từ, nhưng khi được tiếp nhận vào
tiếng Việt, với tinh thần độc lập dân tộc, với sự sáng tạo của người Việt, với đơn vị cấu
tạo từ. Có nghĩa là chúng kết hợp với một yếu tố khác mới hoạt động được tự do trong
câu như quốc gia, sơn thủy…những yếu tố như dàng, dãi, phê, xit…cũng vậy. Như
vậy, bên cạnh những từ đơn âm tiết như nhà, xe, tập,… trong tiếng Việt cũng còn
những từ đa âm tiết như dễ dãi, dễ dàng, quốc gia, tổ quốc…
Từ tiếng Việt có thể có biến thể ngữ âm hoặc ngữ nghĩa nhưng không có biến thể
hình thái học. Trong ngôn ngữ tiếng Anh, từ có biến thể về mặt hình thái.
Ví dụ: to go có thể biến đổi thành goes, going, gone, went theo các quan hệ ngữ
pháp khác nhau trong câu. Nhưng trong tiếng Việt không có biến thể hình thái học.
Khi người miền Bắc nói trăng, trời uốn lưỡi, trong khi người miền Nam nói giăng,
giời, nhưng đó không phải là biến thể hình thái học mà chỉ là sự biến âm do thói quen
phát âm của địa phương.


Nghĩa ngữ pháp của từ không được biểu hiện trong nội bộ từ, mà được thể hiện
trong quan hệ giữa các từ trong câu. Trong các ngôn ngữ biến hình, nhìn vào hình thái

của từ, người ta xác định được nghĩa ngữ pháp của chúng.
Trong tiếng Anh danh từ dựa vào hậu tố như -ion, -er, -or,…tính từ dựa vào –ive,
-fid, -al,…còn trong tiếng Việt phải dựa vào các loại từ hay phó từ như con, cái,
chiếc… (đối với danh từ), đã, đang, sẽ,… (đối với động từ và tính từ)

1.1.3. Các kiểu cấu tạo Từ Tiếng Việt
1.1.3.1.Từ đơn: là những từ được cấu tạo bằng một tiếng độc lập. Thí dụ: Nhà,
xe, tập, viết, xanh, đỏ, vàng, tím.
- Xét về mặt lịch sử, hầu hết từ đơn là những từ đã có từ lâu đời. Một số từ có
nguồn gốc thuần Việt, một số từ vay mượn từ các ngôn ngữ nước ngoài như tiếng
Hán, tiếng Pháp, Anh, Nga,...
- Xét về mặt ý nghĩa, từ đơn biểu thị những khái niệm cơ bản trong sinh hoạt của
đời sống hàng ngày của người Việt, biểu thị các hiện tượng thiên nhiên, các quan hệ
gia đình, xã hội, các số đếm,...
- Xét về mặt số lượng, tuy không nhiều bằng từ ghép và từ láy (Theo thống kê
của A.Derode, từ đơn chiếm khoảng 25% trong tổng số từ tiếng Việt) nhưng là những
từ cơ bản nhất, giữ vai trò quan trọng nhất trong việc biểu thị các khái niệm có liên
quan đến đời sống và cấu tạo từ mới cho tiếng Việt.

1.1.3.2. Từ ghép: là những từ có hai hoặc hơn hai tiếng được ghép lại với nhau
dựa trên quan hệ ý nghĩa.
Dựa vào quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố, phân từ ghép ra làm 2 loại chính:
1.1.3.2.1.Từ ghép đẳng lập:
Từ ghép đẳng lập có những đặc trưng chung là:
- Quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong từ là quan hệ bình đẳng
- Xét về mặt quan hệ ý nghĩa giữa các thành tố có thể thấy:
+ Hoặc các thành tố đồng nghĩa nhau, trong đó:
* Có thể có một yếu tố thuần Việt và một yếu tố Hán Việt. Ví dụ: bạn hữu, bụng
dạ, máu huyết,...
* Có thể cả hai yếu tố đều là Hán Việt. Ví dụ: tư duy, thổ địa, tiện lợi, cốt nhục,...

* Có thể cả hai yếu tố đều là thuần Việt. Ví dụ: đợi chờ, máu mủ, xinh đẹp,...


* Có thể có một yếu tố toàn dân và một yếu tố vốn là từ địa phương. Ví dụ: Chân
cẳng, bát đọi, chợ búa,...
+ Hoặc các thành tố gần nghĩa nhau. Thí dụ: thương nhớ, nhà cửa, áo quần, ăn
uống, đi đứng,...
+ Hoặc các thành tố trái nghĩa nhau. Thí dụ: đầu đuôi, sống chết, già trẻ, gần xa,
trong ngoài,...
- Xét về mặt nội dung, nói chung, từ ghép đẳng lập thường gợi lên những phạm vi
sự vật mang ý nghĩa phi cá thể hay tổng hợp (tức biểu thị sự vật, tính chất hay hành
động chung, mang tính chất khái quát).
- Tuy có quan hệ bình đẳng về mặt ngữ pháp, nhưng không đưa đến hệ quả là ý
nghĩa từ vựng của các thành tố trong từ đều có giá trị ngang nhau trong mọi trường
hợp. Như ta sẽ thấy, những trường hợp một trong hai thành tố phai mờ nghĩa xảy ra
phổ biến trong từ ghép đẳng lập.
- Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa và phạm vi biểu đạt của
từ ghép, có thể phân từ ghép đẳng lập thành ba loại nhỏ là từ ghép đẳng lập gộp nghĩa,
từ ghép đẳng lập đơn nghĩa và từ ghép đẳng lập hợp nghĩa.
+ Từ ghép đẳng lập gộp nghĩa: bao gồm những từ ghép thuộc mô hình ngữ nghĩa
AB = A+B. Tức là loại mà nghĩa của từng thành tố cùng nhau gộp lại để biểu thị ý
nghĩa khái quát chung của cả từ ghép, trong ý nghĩa chung đó có ý nghĩa riêng của
từng thành tố. Ví dụ, từ quần áo chỉ đồ mặc nói chung, trong đó có cả quần lẫn áo.
Một số ví dụ về từ ghép gộp nghĩa: điện nước, xăng dầu, tàu xe, chạy nhảy, học
tập, nghe nhìn, thu phát, ăn uống, tốt đẹp, may rủi, hèn mọn, thầy trò, vợ con...
+ Từ ghép đẳng lập đơn nghĩa: bao gồm từ ghép thuộc mô hình ngữ nghĩa AB = A
hoặc B. Tức là loại mà nghĩa khái quát chung của cả từ ghép tương ứng với ý nghĩa
của một thành tố có mặt trong từ. Ví dụ: núi non, binh lính, thay đổi, tìm kiếm,...
Do nghĩa của cả từ ghép tương đương với nghĩa của một thành tố nên thành tố
còn lại có xu hướng bị mờ nghĩa hoặc bị mất nghĩa. Yếu tố này sẽ làm chỗ dựa cho ý

nghĩa của cả từ ghép. Có thể nói sự mờ nghĩa của núc (bếp núc), búa (chợ búa), pheo
(tre pheo)... chính là kết quả cực đoan của mô hình đơn nghĩa này.
Một số ví dụ về từ ghép đẳng lập đơn nghĩa: bếp núc, chợ búa, đường sá, heo cúi, áo
xống, ăn mặc, ăn nói, viết lách,...


+ Từ ghép đẳng lập hợp nghĩa: bao gồm những từ ghép nằm trong mô hình ngữ
nghĩa AB > A+B. Tức là loại mà ở đó nghĩa của cả từ không phải chỉ là phép cộng đơn
thuần nghĩa của các thành tố, mà nó là sự tổng hợp nghĩa của các thành tố kèm theo sự
trừu tượng hóa dựa trên cơ sở liên tưởng ẩn dụ hay hoán dụ. Do đó nghĩa của cả từ
mới hơn so với nghĩa của từng thành tố. Thí dụ, đất nước không phải chỉ đất và nước
nói chung hay chỉ đất hoặc nước, mà hai yếu tố được hợp lại để chỉ lãnh thổ của một
quốc gia trong đó có những nét tiêu biểu là đất và nước. Trường hợp non sông, sông
núi, sơn hà cũng vậy. Một ví dụ khác, ruột thịt không phải chỉ ruột hay thịt nói chung
mà cả hai hợp lại hợp lại để chỉ quan hệ máu mủ, huyết thống. Hay gan dạ để chỉ sự
mạnh mẽ, không lùi bước trước nguy hiểm cũng là một trường hợp tương tự.
Chú ý về trật tự các thành tố trong từ ghép đẳng lập.
Bàn về từ ghép đẳng lập, người ta thường bàn đến khả năng hoán vị giữa các
thành tố. Tuy nhiên cần chú ý là khả năng ấy không xảy ra phổ biến đối với toàn bộ
lớp từ ghép đẳng lập, và không phải xảy ra vô điều kiện trong mọi trường hợp. Về hiện
tượng này có thể nêu mấy nhận xét chung như sau:
+ Có thể hoán vị được đối với một số từ ghép gộp nghĩa trường hợp không có yếu
tố Hán - Việt. Thí dụ: quần áo - áo quần, rủi may - may rủi, tươi tốt - tốt tươi,...
+ Khả năng hoán vị ít xảy ra giữa các thành tố trong từ ghép đơn nghĩa, đặc biệt
đối với trường hợp từ ghép có yếu tố mờ nghĩa, mất nghĩa.
+ Khả năng hoán vị bị sự khống chế của một số yêu cầu:
* Không được phép làm thay đổi ý nghĩa của từ ghép ban đầu. Ví dụ: đi lại - lại
đi; cơm nước - nước cơm khác nghĩa.
* Không đi ngược lại tập quán cổ truyền của dân tộc. Ví dụ: nam nữ - nữ nam;
ông bà - bà ông, anh em - em anh, vua quan - quan vua,... không hoán vị được.

* Không tạo nên những trật tự khó đọc. Ví dụ: sửa chữa dễ đọc hơn chữa sửa.
1.1.3.2.2. Từ ghép chính phụ:
Là những từ ghép mà ở đó có ít nhất một thành tố cấu tạo nằm ở vị trí phụ thuộc
vào một thành tố cấu tạo khác, tức trong kiểu từ ghép này thường có một yếu tố chính
và một yếu tố phụ về mặt ngữ pháp. Loại này có những đặc điểm sau:
- Xét về mặt ý nghĩa, nếu từ ghép đẳng lập có khuynh hướng gợi lên các sự vật,
tính chất có ý nghĩa khái quát, tổng hợp, thì kiểu cấu tạo từ này có khuynh hướng nêu
lên các sự vật theo mang ý nghĩa cụ thể.


- Trong từ ghép chính phụ, yếu tố chính thường giữ vai trò chỉ loại sự vật, đặc
trưng hoặc hoạt động lớn, yếu tố phụ thường được dùng để cụ thể hóa loại sự vật, hoạt
động hoặc đặc trưng đó.
- Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa, có thể chia từ ghép
chính phụ thành hai tiểu loại:
+ Từ ghép chính phụ dị biệt: là từ ghép trong đó yếu tố phụ có tác dụng phân chia
loại sự vật, hoạt động, đặc trưng lớn thành những loại sự vật, hoạt động, đặc trưng, cụ
thể. Vì vậy có thể nói tác dụng của yếu tố phụ ở hiện tượng này là tác dụng phân loại.
Thí dụ:
• Máy may, máy bay, máy bơm, máy nổ, máy tiện,...
• Làm việc, làm thợ, làm duyên, làm ruộng, làm dâu,...
• Vui tính, vui tai, vui mắt, vui miệng,...
Ở kiểu từ ghép này trật tự của các yếu tố trong từ ghép thuần Việt, hoặc Hán Việt, Việt hoá khác từ ghép Hán - Việt. Ở hai trường hợp đầu, yếu tố chính thường
đứng trước, ở trường hợp cuối, yếu tố phụ thường đứng trước. Ví dụ:
• Vùng biển, vùng trời, xe lửa, nhà thơ,...
• Hải phận, không phận, hỏa xa, thi sĩ,...
+ Từ ghép chính phụ sắc thái hóa: là những từ ghép trong đó thành tố phụ có tác
dụng bổ sung một sắc thái ý nghĩa nào đó khiến cho cả từ ghép này khác với thành tố
chính khi nó đứng một mình như một từ rời, hoặc khiến cho từ ghép sắc thái hóa này
khác với từ ghép sắc thái hóa khác về ý nghĩa. Thí dụ, so sánh xanh lè với xanh và

xanh biếc,...

1.1.3.3. Từ láy:
Cho đến nay, nhiều vấn đề của từ láy vẫn là những vấn đề còn để ngỏ.Về phương
thức cấu tạo của từ láy, tồn tại hai ý kiến khác nhau: Từ láy là từ được hình thành do
sự lặp lại của tiếng gốc có nghĩa ; Từ láy là từ được hình thành bằng cách ghép các
tiếng dựa trên quan hệ ngữ âm giữa các thành tố. Theo ý kiến thứ nhất chỉ mới có thể lí
giải được một số từ láy xác định được tiếng gốc, bên cạnh những từ ấy còn rất nhiều từ
hiện không xác định được tiếng gốc (ví dụ: bâng khuâng, lẩm cẩm, bủn rủn, lã chã,...),
hoặc những từ có dạng láy nhưng thực ra chúng vốn được tạo ra từ phương thức ghép
(ví dụ: hỏi han, chùa chiền, dông dài, tang tóc,...). Nhìn nhận từ láy theo ý kiến thứ hai
lại không có tác dụng giúp ta thấy được những nét độc đáo về mặt ngữ nghĩa của kiểu


cấu tạo từ này, không thấy được nét riêng của dân tộc ta trong việc sáng tạo những từ
ngữ mới nhằm định danh sự vật mới một cách tiết kiệm mà lại có khả năng miêu tả
sinh động, biểu cảm nhất. Có thể nói ý kiến thứ nhất đã nêu ra được những từ láy chân
chính trong tiếng Việt. Tuy nhiên cần nhận thức được rằng ngôn ngữ không đứng yên
mà luôn vận động, thay đổi theo sự phát triển của xã hội. Trong quá trình đó, những từ
ghép có dạng láy và những từ láy chân chính đã hòa lẫn vào nhau mà ngay cả những
nhà ngôn ngữ học cũng khó phát hiện và phân biệt được chúng trong nhiều trường
hợp. Gần đây trong nhiều bài viết, các tác giả đã khôi phục được nghĩa của nhiều từ
ghép có dạng láy bị mất nghĩa. Dẫu sao những từ này hiện nay cũng đã mang nhiều
đặc điểm của từ láy. Trong khi chờ đợi những cứ liệu lịch sử đầy đủ hơn nữa, có thể
xem chúng là từ láy. Do vậy, đứng trên quan điểm đồng đại có thể nói từ láy là những
từ gồm nhiều tiếng, giữa các tiếng có quan hệ ngữ âm có tác dụng tạo nghĩa.

1.1.3.4.Từ ngẫu hợp
Ngoại trừ các trường hợp trên, còn lại là các từ ngẫu hợp. Ðấy là trường hợp mà
giữa các tiếng không có quan hệ ngữ âm hay ngữ nghĩa. Thí dụ: cà phê, a xít, a pa

tít,...cổ hũ, mè nheo, ba láp, ba hoa, bồ hóng,...
1. Hiện tượng chuyển di kiểu cẩu tạo từ trong tiếng Việt:
Không kể từ đơn và từ ngẫu hợp, tiếng Việt có 3 kiểu cấu tạo từ cơ bản cùng với
các kiểu nhỏ là:
- Từ ghép đẳng lập: gộp nghĩa, hợp nghĩa, đơn nghĩa.
- Từ ghép chính phụ: dị biệt, sắc thái hoá.
- Từ láy: phỏng thanh, sắc thái hóa, cách điệu.
Xét các đơn vị trên trục đồng đại hay lịch đại, ở bình diện ngôn ngữ hay lời nói,
việc nhận thức về kiểu cấu tạo lớn nhỏ của chúng có thể di chuyển khá phức tạp, làm
cho con đường phân giới giữa chúng có thể bị nhòe đi. Trong những trường hợp đó,
nếu thiên về mặt này thì từ đang xét được xếp vào kiểu cấu tạo này, nhưng nếu thiên
về mặt khác thì nó thuộc kiểu cấu tạo khác.
Chẳng hạn từ chùa chiền, đất đai, hỏi han, xét về mặt lịch sử chúng là từ ghép
đẳng lập, tuy nhiên do sự tác động của phương thức cấu tạo từ và mô hình ngữ nghĩa
(nghĩa khái quát của A+B = A hoặc B) đã làm cho nghĩa của một trong hai yếu tố bị
mờ nghĩa. Ngoài ra do sự trùng hợp ngẫu nghiên về mặt ngữ âm đã làm cho người bản
ngữ hiện đại nhận diện chúng như là những từ láy. Xuất phát từ đặc điểm vừa nêu,


trong tiếng Việt ngày nay tồn tại nhiều từ có thể có hai hướng nhìn nhận như học hành,
hình hài, nhăn nheo, chăm chú, đền đài,...Như vậy, để biện luận kiểu cấu tạo của một
từ, cần dựa vào một tiêu chí rõ ràng, dứt khoát. Trong khi chờ đợi những phát hiện mới
mẻ hơn nữa của ngôn ngữ học lịch sử, ta có thể dựa vào tiêu chí đồng đại để xác định
kiểu cấu tạo của từ.
Việc nhận thức các tiểu loại trong từ ghép đẳng lập cũng không nhất thành bất
biến nếu xét từ ở bình diện ngôn ngữ hay lời nói. Trong sử dụng có thể xảy ra hiện
tượng chuyển di từ tiểu loại này sang tiểu loại khác đối với những từ cụ thể. Ví dụ:
- Cửa hàng ăn uống (gộp nghĩa); ở đây ăn uống khá thật (rất có thể là đơn nghĩa,
chỉ nói về ăn đối với các nhà ăn tập thể).
- Cơm nước đã sẵn sàng (gộp nghĩa); cơm nước chán quá.

- Ăn ở dơ dáy (gộp nghĩa); ăn ở với nhau được hai mụn con (chỉ sự chung sống
với nhau), ăn ở chí tình (chỉ sự cư xử với nhau trong xã hội). Hai trường hợp sau này
chúng được chuyển nghĩa trên cơ sở nghĩa thứ nhất. Do đó muốn xác định được kiểu
cấu tạo của chúng ta phải dựa vào ngữ cảnh cụ thể và biện luận rõ ràng.
2. Các tiêu chí xác định các kiểu cấu tạo từ trong tiếng Việt.
Như ta đã biết, vốn từ tiếng Việt vô cùng phong phú, mỗi từ đều được cấu tạo
theo một phương thức nhất định và mang một ý nghĩa nhất định. Các kiểu cấu tạo từ
giữ vai trò quan trọng trong việc tạo nên nội dung ý nghĩa của từ. Chính vì vậy, trong
chương trình tiếng Việt ở bậc phổ thông cơ sở và trung học, nội dung xác định các
kiểu cấu tạo từ rất được những nhà giáo dục quan tâm. Tuy nhiên ở các cấp học này
vấn đề tiêu chí xác định các kiểu cấu tạo từ không phải đã sáng rõ, đặc biệt là ranh giới
giữa từ láy và từ ghép. Ðể có thể xác định các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt một cách nhất
quán, cần dựa trên những tiêu chí rõ ràng. Dựa vào những vấn đề có tính chất lí thuyết
về các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt đã nêu, ta có thể nêu lên và áp dụng một cách tuần tự
các tiêu chí xác định các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt sau dây:
- Về góc nhìn, trong khi chờ đợi những cứ liệu lịch sử đủ rõ, ta có thể xét từ tiếng
Việt dựa trên quan điểm đồng đại, tức dựa vào sự nhận thức chung của người bản ngữ
đương đại về nghĩa của các yếu tố cấu tạo từ.
- Dựa vào số lượng tiếng trong từ. Nếu từ có một tiếng (dĩ nhiên là tiếng độc lập)
thì đó là từ đơn. Nếu từ có hơn một tiếng thì đó là từ phức.


- Ở những từ phức, để xác định cụ thể các kiểu cấu tạo từ, ta lại tiếp tục dựa vào
quan hệ giữa các thành tố.
+ Nếu giữa các thành tố trong từ phức có quan hệ với nhau về mặt ngữ âm, đồng
thời trong đó có yếu tố không độc lập và không mang nghĩa thực thì đó là từ láy (Ví
dụ: vắng vẻ, dễ dàng, sạch sẽ,...). Tiêu chí này sẽ loại trừ các trường hợp các từ ghép
có quan hệ ngẫu nhiên về mặt ngữ âm (như hầm hố, máu mủ, tốt tươi,...). Ở những từ
láy ta lại tiếp tục dựa vào số lượng tiếng, dựa vào các bộ phận giống nhau trong từ để
xác định các từ láy đôi, láy ba, các từ láy bộ phận hay hoàn toàn, láy âm hay láy vần.

+ Nếu giữa các thành tố trong từ phức có quan hệ với nhau về mặt ngữ nghĩa thì
đó là từ ghép. Ở từ ghép, ta lại tiếp tục dựa vào các mô hình ngữ nghĩa cụ thể của từng
từ để xác định các kiểu cấu tạo cụ thể. Nếu một tổ hợp tiếng gợi lên các sự vật mang ý
nghĩa khái quát, tổng loại thì đó là từ ghép đẳng lập. Còn nếu một tổ hợp nêu lên một
phạm vi sự vật mang ý nghĩa cụ thể thì đó là từ ghép chính- phụ.
+ Nếu giữa các thành tố không có quan hệ ngữ âm hoặc ngữ nghĩa thì đó là từ
ngẫu hợp.

1.2. TỪ XƯNG HÔ
1.2.1 Khái niệm về từ xưng hô
“Đại từ điển Tiếng Việt” định nghĩa từ xưng hô là: “Tự xưng mình và gọi người
khác trong giao tiếp hoặc trong thư từ” [28; 1880]. Còn “Từ điển tiếng việt 1997” thì
định nghĩa từ xưng hô là: “Tự xưng mình và gọi người khác là gì đó khi nói với nhau
để biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau”[20;1124]. Trong khi đó, “Từ điển
Tiếng Việt 1999 – 2000” cho rằng từ xưng hô là: “Biểu thị bằng lời bậc của mình
(xưng) và bậc của người khác (hô) trong trật tự xã hội, gia đình, họ hàng” [7; 95]
Trong “Ngữ pháp tiếng Việt” Diệp Quang Ban đã đồng nhất từ xưng hô với đại từ
xưng hô và ông cho rằng: “Đại từ xưng hô dùng thay thế và biểu thị các đối tượng
tham gia quá trình giao tiếp”[1;111].
Với các định nghĩa khác nhau, tác giả Đỗ Hữu Châu trong “Cơ sở ngữ dụng học” đã
viết “Xưng hô là hành vi chiếu vật, ở đây là quy chiếu các đối ngôn trong ngữ cảnh,
nó sẽ gắn diễn ngôn của người nói, người tiếp thoại. Xưng hô thể hiện vai giao
tiếp”[4;264]
Từ những định nghĩa, ta nhận thấy có sự phong phú trong cách định nghĩa khái
niệm xưng hô.


Để thực hiện một hành động xưng hô thì người nói phải có phương tiện, và
phương tiện ở đây chính là từ xưng hô. Khác với các định nghĩa khác, định nghĩa về từ
xưng hô đều chỉ xoay quanh ở những khía cạnh như: các nhân tố chi phối việc sử dụng

từ xưng hô, hệ thống, cách thức,…
Trong giáo trình “Phong cách học tiếng Việt” Nguyễn Văn Nở đã định nghĩa như
sau: “Từ xưng hô là lớp từ dùng để tự xưng và gọi đối tượng khi giao tiếp”[18;.53].
Nguyễn Thị Thu Thủy và Nguyễn Thị Ngọc Điệp trong cho rằng: “Từ xưng hô là
những từ dùng để xưng hô gọi, với tư cách ngôi, một yếu có liên quan đến nhân tố giao
tiếp. Từ xưng hô dùng để chiếu vật và giao tiếp”[21; 30].
Từ những định nghĩa trên, trong luận văn này, chúng tôi quan niệm: Từ xưng hô
là những từ dùng để tự xưng và gọi đối tượng giao tiếp.

1.2.2 Các từ để xưng hô trong tiếng Việt
Các từ xưng hô trong Tiếng Việt rất phong phú đa dạng và không kém phần phức
tạp. Xét trong tổng thể từ xưng hô là một bộ phận khá quan trọng trong hệ thống từ
loại Tiếng Việt. Tuy đã có sự đồng nhất với nhau trong việc phân chia từ xưng hô theo
từ loại, nhưng do tính chất đặc thù của từng phân môn nên các tác giả đã có sự nghiên
cứu ở nhiều góc độ và nhiều khía cạnh khác nhau. Nổi bật là theo ba quan điểm của
ngôn dụng học. Quan điểm nào cũng có những điểm nổi bật riêng, giúp ít nhiều cho
luận văn của chúng tôi. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu có giới hạn nên chúng tôi
chỉ đi vào một số quan điểm cụ thể. Vì thế chúng tôi chọn quan điểm Ngữ dụng học.
Theo quan điểm này, từ xưng hô là hành vi chiếu vật.
Đại diện tiêu biểu cho quan điểm này là tác giả Đỗ Hữu Châu. Theo ông, để xưng
hô ngoài các đại từ, các ngôn ngữ còn có thể dùng các từ thuộc từ loại khác nhau như
tên riêng, tên chức danh, tên nghề nghiệp, các từ chỉ thân tộc, các từ chỉ không gian
như đây, đấy, ấy, đàng này, thậm chí có sự trống vắng từ xưng hô [4;265] cụ thể:

1.2.2.1 Đại từ nhân xưng
Đỗ Hữu Châu nhận định: “Các đại từ nhân xưng tiếng Việt không có sự phân
chia rạch ròi về ngôi như trong tiếng Anh, gồm các đại từ: tôi, tớ, tao, tui, mày, mi,
mình, choa, chúng tôi, chúng ta, chúng mình, chúng tớ, bầy(bi), chúng mày, bay, hắn,
nó, y, thị, va, chúng, nó, nhau” [4;266].
Theo quan điểm của Đỗ Hữu Châu nhóm đại từ này có những đặc điểm sau:



×