Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh lớp 9 trong giở đọc hiểu văn bản ở trung học cơ sở tại quận 2 TP hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VĂN TÁM

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NHÓM
CHO HỌC SINH LỚP 9 TRONG GIỜ ĐỌC - HIỂU
VĂN BẢN Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ
TẠI QUẬN 2 - TP.HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VĂN TÁM

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NHÓM
CHO HỌC SINH LỚP 9 TRONG GIỜ ĐỌC - HIỂU
VĂN BẢN Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ
TẠI QUẬN 2 - TP.HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ môn Văn và Tiếng Việt
Mã số: 60. 14. 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


TS. LÊ THỊ HỒ QUANG

NGHỆ AN - 2013


0

BẢNG QUY ƢỚC VIẾT TẮT

GV: Giáo viên
HS: Học sinh
Nxb: Nhà xuất bản
SGK: Sách giáo khoa
SGV: Sách giáo viên
THCS: Trung học cơ sở
PPDH: Phương pháp dạy học
STT: Số thứ tự
CB: Cơ bản
NC: Nâng cao
TN: Thực nghiệm
ĐC: Đối chứng
GD: giáo dục
Cách chú thích tài liệu trích dẫn: số thứ tự tài liệu đứng trước, số
trang đứng sau. Ví dụ: [57, 14] nghĩa là số thứ tự của tài liệu trong mục Tài
liệu tham khảo là 57, nhận định trích dẫn nằm ở trang 14 của tài liệu này.


0

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1

1. Lí do chọn đề tài

1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

2

3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu

3

4. Phạm vi nghiên cứu, khảo sát

3

5. Phương pháp nghiên cứu

3

6. Đóng góp của đề tài

3

7. Cấu trúc của luận văn


3

Chương 1: Cơ sở khoa học của việc Tổ chức hoạt động nhóm cho
học sinh lớp 9 trong giờ Đọc – hiểu văn bản ở trường Trung học cơ
sở tại Quận 2 - Tp. Hồ Chí Minh

5

1.1. Giới thuyết khái niệm

5

1.1.1. Khái niệm nhóm và hoạt động nhóm

5

1.1.2. Ý nghĩa, vai trò của hoạt động nhóm

6

1.1.3. Các nguyên tắc và đặc điểm hoạt động nhóm

9

1.1.4 Các đặc trưng của việc giao nhiệm vụ

10

1.1.5. Kỹ năng thành lập và quản lí nhóm


11

1.2. Cơ sở lí luận của việc tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh
trong giờ Đọc – hiểu văn bản ở ngữ văn 9 tại Q.2 Tp.HCM

14


1

1.2.1. Cơ sở giáo dục học

14

1.2.2. Cơ sở tâm lí học

16

1.2.3. Cơ sở lí luận dạy học

18

1.3. Cơ sở thực tiễn của việc Tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh

20

lớp 9 trong giờ Đọc – hiểu văn bản ở trường Trung học cơ sở tại Q.2
Tp.HCM
1.3.1. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của Q.2, Tp.HCM


20

1.3.2. Thực trạng dạy đọc – hiểu văn bản trong chương trình Ngữ

21

văn 9 ở các trường THCS tại Quận 2 – Tp Hồ Chí Minh
1.3.3. Việc tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh trong giờ dạy

23

học Đọc – hiểu văn bản Ngữ văn 9 ở các trường THCS tại Q.2
Kết luận chương 1

25

Chương 2: Nguyên tắc và quy trình tổ chức hoạt động nhóm cho học
sinh lớp 9 trong giờ dạy học Đọc – hiểu văn bản ở trường THCS

26

2.1. Tổng quan về chương trình Đọc – hiểu văn bản trong chương
trình Ngữ văn lớp 9

26

2.2. Những định hướng tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh trong

29


giờ Đọc - hiểu văn bản Ngữ văn 9 ở trường THCS tại Q.2
2.2.1. Phải xác định rõ mục tiêu của hoạt động nhóm trong giờ
Đọc - hiểu văn bản

29

2.2.2. Vấn đề thảo luận phải phù hợp đặc trưng của bài Đọc –
hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn 9

33

2.2.3. Cần linh hoạt và sáng tạo khi sử dụng hình thức tổ chức
nhóm trong giờ dạy đọc - hiểu văn bản Ngữ văn 9

39


2

2.2.4. Phải kết hợp tổ chức nhóm với nhiều phương pháp, biện
pháp dạy học khác để nâng cao hiệu quả dạy Đọc – hiểu văn bản

42

2.3. Một số biện pháp, cách thức tổ chức hoạt động nhóm cho học
sinh trong giờ dạy đọc – hiểu văn bản ở trường THCS tại Q.2

46


2.3.1. Hoạt động nhóm trong giờ dạy đọc – hiểu văn bản thơ

46

2.3.2. Hoạt động nhóm trong giờ dạy đọc – hiểu văn bản truyện

51

2.3.3. Hoạt động nhóm trong giờ dạy đọc – hiểu văn bản kịch

62

2.3.4. Hoạt động nhóm trong giờ dạy đọc – hiểu văn bản nghị luận

66

2.3.5. Hoạt động nhóm trong giờ dạy đọc – hiểu văn bản nhật

70

dụng
Kết luận chương 2

74

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

75

3.1. Mục đích, yêu cầu của hoạt động thực nghiệm


75

3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm

75

3.3. Nội dung thực nghiệm

75

3.4. Giáo án thực nghiệm

76

3.4.1. Hoạt động nhóm trong bài đọc - hiểu văn bản thơ

76

3.4.2. Hoạt động nhóm trong bài đọc - hiểu văn bản truyện

77

Giáo án 1

78

Giáo án 2

82


Giáo án 3

90

3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm

97


3

Kết luận chương 3

100

KẾT LUẬN

101

TÀI LIỆU THAM KHẢO

104

PHỤ LỤC

107


1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Chúng tôi mở đầu luận văn này bằng cách dẫn câu chuyện ngụ
ngôn “Rùa và Thỏ” được phát triển thêm trên trang hieuhoc.com. Câu chuyện
được phát triển thêm phỏng theo truyện ngụ ngôn của LaPhontain. Câu
chuyện được diễn ra với 4 cuộc đua, cuộc đua đầu rùa thắng, cuộc đua thứ 2
thỏ thắng. Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó, cuộc đua thứ 3 diễn ra lần
này đường đua do rùa chọn và dĩ nhiên rùa thắng do đích đến cách một con
sông (thỏ không bơi qua được). Ít lâu sau, rùa và thỏ đã trở thành đôi bạn
thân, một ngày chúng rủ nhau cùng làm thành một đội và đua trên đường đua
cũ. Cuộc đua bắt đầu thỏ cõng rùa chạy đến bờ sông, đến bờ sông rùa cõng
thỏ bơi qua sông. Kết quả cả rùa và thỏ đều nhận ra là lần chạy này cả hai
cùng về đích khi vượt qua được những chướng ngại vật với thời gian nhanh
hơn rất nhiều so với những lần đua trước.
Qua câu chuyện này chúng ta nhận thấy rằng bất cứ một cá nhân nào
cũng có điểm mạnh và điểm yếu. Mỗi người đều thông minh và đều có ưu
điểm riêng, nhưng chỉ khi họ cùng làm việc với nhau trong một đội và cùng
chia sẻ, cống hiến ưu thế của từng người thì công việc mới trở nên hoàn thiện
mỹ mãn. Nếu làm một mình, con người ta không bao giờ thực hiện công việc
được một cách hoàn hảo bởi vì luôn luôn có những trường hợp người này
không thể làm tốt hơn người kia. Và do đó, tinh thần đồng đội là yếu tố quyết
định thành công trong công việc. Và tinh thần đồng đội đó chỉ đƣợc nuôi
dƣỡng, phát triển khi con ngƣời làm việc trong một nhóm với nhau.
1.2. Ở nhiều nước có nền giáo dục phát triển hiện nay, việc tổ chức dạy
học nhóm là một hình thức hoạt động hết sức quan trọng và mang lại nhiều
hiệu quả thực sự cho nhiều môn học. Tuy nhiên, ở nước ta, từ trước đến nay
việc tổ chức hoạt động nhóm trong giờ học chỉ mới diễn ra ở một mức độ nào



2

đó, chủ yếu để đối phó với việc kiểm tra, thanh tra đổi mới phương pháp dạy
học. Nó chưa được giáo viên xem là một phương pháp dạy học hiệu quả ở
Việt Nam, nhất là trong môn Ngữ văn, mà cụ thể là trong phần Đọc – hiểu
văn bản. Điều này đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu sâu hơn về
vấn đề này.
1.3. Quận 2 là một quận ven thành phố Hồ Chí Minh, đến nay thực
trạng giáo dục vẫn còn gặp nhiều khó khăn chủ quan cũng như khách quan.
Theo tìm hiểu của chúng tôi thì hiện nay chưa có công trình nào tập trung đi
sâu vào nghiên cứu vấn đề hoạt động nhóm trong giờ dạy Đọc – hiểu văn bản
nhất là cho từng cấp học. Vì vậy, chúng tôi quyết định chọn Tổ chức hoạt
động nhóm cho học sinh lớp 9 trong giờ Đọc – hiểu văn bản ở trường Trung
học cơ sở tại Quận 2 - Tp. Hồ Chí Minh làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
Hy vọng luận văn này phần nào đặt nền móng cho các nghiên cứu đầy đủ về
sau cho cả cấp học THCS ở quận nhà.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Đọc – hiểu văn bản là một trong những nội dung hoạt động cơ bản nhất
của môn Ngữ văn ở trường phổ thông nói chung và cấp THCS nói riêng.
Về nghiên cứu tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh có rất nhiều tác
giả trong và ngoài nước chuyên tâm tìm hiểu. Song, việc nghiên cứu tổ chức
hoạt động nhóm cho học sinh cấp THCS thì chưa có. Và đặc biệt cho riêng
môn ngữ văn lớp 9 lại càng chưa có. Về vấn đề tổ chức hoạt động nhóm cho
học sinh lớp 9 trong giờ dạy học Đọc – hiểu văn bản ở trường THCS tại Quận
2 - Tp. Hồ Chí Minh thì chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể, toàn diện,
hệ thống mà chỉ mới có những ý kiến lướt qua trong các công trình nghiên
cứu về tổ chức hoạt động nhóm, tổ chức thảo luận, hay dạy học hợp tác trong
dạy học Ngữ văn nói chung.



3

3. Đối tƣợng, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Hoạt động nhóm của học sinh
lớp 9 trong giờ Đọc – hiểu văn bản ở trường THCS tại Quận 2, Tp.Hồ Chí
Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của việc tổ chức hoạt động
nhóm.
- Xây dựng những nguyên tắc và quy trình, cách thức tổ chức hoạt
động nhóm.
- Thực nghiệm sư phạm.
4. Phạm vi nghiên cứu, khảo sát
Tổ chức hoạt động nhóm trong giờ dạy đọc hiểu văn bản lớp 9 tại các
trường THCS tại Quận 2 – Tp Hồ Chí Minh
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phương pháp thống kê – phân loại
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp so sánh – đối chiếu
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra – phỏng vấn
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
5.3. Các phƣơng pháp khác
6. Đóng góp của đề tài
- Góp phần cụ thể hóa những cơ sở lí luận của việc tổ chức hoạt động
nhóm cho học sinh lớp 9 trong giờ Đọc – hiểu văn bản.



4

- Đề xuất những nội dung cụ thể, có tính ứng dụng về nguyên tắc,
phương pháp, quy trình của việc tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh lớp 9
trong giờ Đọc – hiểu văn bản.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần nội dung chính
của luận văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc tổ chức hoạt động nhóm cho học
sinh lớp 9 trong giờ Đọc – hiểu văn bản ở trường THCS tại Quận 2 - Tp. Hồ
Chí Minh
Chương 2: Định hướng và biện pháp tổ chức hoạt động nhóm cho học
sinh lớp 9 trong giờ Đọc – hiểu văn bản ở trường THCS tại Quận 2 - Tp.Hồ
Chí Minh
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


5

Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NHÓM
CHO HỌC SINH LỚP 9 TRONG GIỜ ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
Ở TRƢỜNG THCS TẠI QUẬN 2 - TP. HỒ CHÍ MINH

1.1. Giới thuyết khái niệm
1.1.1. Khái niệm nhóm, hoạt động nhóm
Nhóm là một số người làm việc cùng nhau vì những mục tiêu cụ thể
trong một lĩnh vực hoạt động xác định. Ông cha ta cũng đã từng khẳng định

lợi ích của tinh thần đoàn kết. Có lẽ trước đây chúng ta chưa có khái niệm làm
việc theo nhóm. Nhưng dù gì đi nữa câu tục ngữ dưới đây cũng phần nào thể
hiện được kinh nghiệm và sức mạnh của việc hợp tác trong công việc:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Làm việc theo nhóm hay là một cách gọi khác của tinh thần đoàn kết. Ở
đấy có sự cộng tác của nhiều cái đầu lại với nhau. Họ làm việc trên tinh thần
xây dựng, đoàn kết, nhất trí cao.
Thực tế là, trong đời sống xã hội thì nhóm vô cùng quan trọng. Xã hội
vốn phải tồn tại và phát triển dựa vào nhóm cộng đồng. Một cá thể không thể
duy trì được sự tồn tại lâu dài mà phải dựa vào mối liên kết giữa các cá thể
trong cộng đồng. Trong đời sống ngày nay thì nhóm lại càng thể hiện được
vai trò của nó. Loài người là một tập thể sống có tổ chức xã hội cao nhất, tuân
theo những quy tắc nhất định và vì mục tiêu, lợi ích chung của cả cộng đồng.
Mà nhóm là tập hợp những người có tổ chức, hoạt động theo những nguyên
tắc nhất định, nhằm đạt tới mục tiêu và lợi ích chung. Do đó, không ngẫu
nhiên mà trong đời sống hiện đại người ta tận dụng triệt để những ưu điểm


6

của liên kết nhóm. Trong hoạt động học tập cũng vậy, tổ chức hoạt động
nhóm là rất cần thiết và quan trọng đối với học sinh.
Như vậy, theo chúng tôi, có thể nêu khái niệm về nhóm một cách ngắn
gọn như sau: Nhóm là tập hợp người được xác định bởi các mối quan hệ
tương tác, cùng chia sẻ mục tiêu chung, cùng tuân theo một hệ thống quy tắc
nhất định và mỗi thành viên đóng những vai trò khác nhau.
Hoạt động nhóm chính là sự tương tác giữa các thành viên dưới sự chỉ
đạo của trưởng nhóm dựa vào những nguyên tắc nhất định, vì mục tiêu của
nhóm và mục đích riêng của mỗi thành viên. Sự tương tác đó phải dựa trên sự

hợp tác chặt chẽ giữa các thành viên trong nhóm. Đó chính là sự tự nguyện
của các cá nhân cùng nhau làm việc một cách bình đẳng trong một tập thể
nhóm. Các thành viên tiến hành hoạt động nhằm mục đích và lợi ích chung
đồng thời đạt được mục đích và lợi ích riêng của mỗi thành viên trên cơ sở nỗ
lực chung. Hoạt động của từng cá nhân trong quá trình tham gia công việc
phải tuân theo những nguyên tắc nhất định và sự phân công trách nhiệm,
nghĩa vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm. Trong quá trình giải quyết
nhiệm vụ chung của cá nhân có thể sẽ xảy ra một số mâu thuẫn và sự điều hòa
những mâu thuẫn đó là cần thiết để nhóm tiến đến một tầm cao hơn, các thành
viên hiểu nhau hơn, biết lắng nghe hơn và biết hành động vì người khác, vì
lợi ích chung, tự tin hơn trong môi trường cộng đồng, biết bỏ qua cái tôi và sự
ích kỉ. Hoạt động nhóm là kĩ năng rất cần thiết đối với mỗi con người, đối với
học sinh lại là kĩ năng sống vô cùng quan trọng. Do vậy mà hoạt động nhóm
sẽ đem lại những lợi ích to lớn cho người học nếu trong quá trình dạy học
chúng ta biết vận dụng một cách hợp lí.
1.1.2. Ý nghĩa, vai trò của hoạt động nhóm
Hoạt động nhóm có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân trong xã hội, với sự
phát triển xã hội. Sự gắn kết nhiều cá thể mang lại sức mạnh tổng hợp cho
nhân loại, đoàn kết đem lại trí tuệ lớn lao và sức mạnh. Bất kì sự kiện lịch sử


7

nào cũng đều được thực hiện bởi một nhóm. Bất cứ vấn đề gì chúng ta đều có
thể cùng nhau giải quyết còn nếu như chỉ có một người thì chỉ có thể giải
quyết được một vài vấn đề mà thôi. Do vậy: làm việc, học tập theo nhóm sẽ là
chìa khóa để tạo ra những thành tựu vĩ đại, rất quan trọng đối với sự phát triển
mỗi cá nhân, với từng nhóm riêng lẻ và với bất kì đất nước, dân tộc nào.
Chúng ta biết nhóm gồm nhiều người vì thế mà nguồn nhân lực, trí lực,
ý tưởng và động lực lớn hơn rất nhiều so với một cá nhân. Trong quá trình

làm việc, học tập, khi tình huống có vấn đề xảy ra cần đến sự chung sức, góp
trí của nhiều người thì hoạt động nhóm có ý nghĩa quan trọng đối với việc
giải quyết vấn đề. Dù là trong làm việc hay học tập, chúng ta thấy rằng, đứng
trước một tình huống khó khăn, mọi người cùng chung tay thì vấn đề đó sẽ
được giải quyết nhanh hơn so với việc để cho một người nát óc suy nghĩ.
Trong khi làm việc nhóm thì ưu điểm của các cá nhân thành viên sẽ
phát huy tối đa và hạn chế các thành viên sẽ giảm đến tối thiểu. Trong một
môi trường làm việc hợp tác, giao lưu lẫn nhau thì sự nhìn nhận, ảnh hưởng
của các thành viên lẫn nhau sẽ tạo ra điều đó. Khi làm việc chung, mọi người
sẽ cố gắng thể hiện ưu điểm của mình, ưu điểm của cá nhân này ảnh hưởng
đến cá nhân khác. Do đó, nghiễm nhiên nhược điểm sẽ khuất đi dành chỗ cho
những ưu điểm tốt nhất của họ. Còn khi đứng độc lập, ưu nhược điểm của cá
nhân sẽ rất rõ ràng, nó bộc lộ nhiều hơn.
Nhiều người làm việc trong một nhóm sẽ tập hợp được nhiều ý tưởng
để đáp ứng yêu cầu hoặc mục tiêu đề ra, do đó mà có nhiều phương án, giải
pháp cho tình huống. Nhóm với số đông nên họ có thể nhìn nhận vấn đề một
cách toàn diện và sâu sắc. Điều này không hề dễ dàng với một cá nhân. Một
cá nhân chỉ đem đến một vài ý tưởng, chỉ nhìn nhận vấn đề ở một số phương
diện nào đó thôi. Như vậy, trí tuệ của cả tập thể sẽ được phát huy tối đa và
hiệu quả hơn nhiều so với việc chúng ta để từng thành viên hoạt động riêng


8

lẻ. Đó là chưa kể đến sự tương trợ giữa các thành viên với nhau, nó đem lại
nguồn sức mạnh tổng hợp.
Hoạt động nhóm sẽ tạo dựng được mối quan hệ giữa các cá nhân với
nhau. Làm việc cùng nhau thì họ có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm thành công và
cả những kinh nghiệm thất bại. Và điều này giúp cho tất cả các thành viên
trưởng thành hơn. Thành công hay thất bại thì mọi người trong nhóm sẽ chia

nhau mỗi người một phần. Nhưng nếu như khi chỉ có một cá nhân thì sao?
Việc giải quyết vấn đề một mình sẽ vất vả và khó hoàn chỉnh mĩ mãn. Cũng
trong tập thể mà mọi người chia sẻ thành công, kinh nghiệm, ý tưởng và thậm
chí là cả thất bại thì mỗi thành viên sẽ xích gần lại với nhau. Điều đó sẽ tạo ra
mối quan hệ hợp tác tốt đẹp hơn là sự đối đầu hay tự mãn.
Trong quá trình hoạt động nhóm, mọi người có thể giao tiếp trực tiếp
với nhau. Đây là quá trình để mọi người hình thành kĩ năng sống thông qua
giao tiếp trong làm việc, học tập. Đồng thời mọi người có thể học được những
điều cần thiết thông qua giao tiếp, bằng giao tiếp. Đó cũng là cách học giao
tiếp hiệu quả khi mà ngày nay kĩ năng giao tiếp là rất cần thiết.
Khi đã đề ra mục tiêu hoạt động cho cả nhóm làm việc, học tập thì cả
nhóm sẽ có trách nhiệm với mục tiêu đã đề ra đó. Trong khi đó cá nhân không
bị ràng buộc do vậy họ có thể dễ dàng thay đổi mục tiêu, ý tưởng, chính kiến.
Điều này khiến cho việc đảm bảo mục tiêu công việc, học tập là rất khó khăn.
Một điều không thể phủ nhận, nhóm hoạt động có nguyên tắc, quy củ,
có mục tiêu cụ thể thì bao giờ cũng làm được nhiều việc hơn là một cá nhân.
Sự không tương xứng giữa lực lượng, trí tuệ tập thể và cá nhân đã tạo ra điều
đó. Do vậy, để đảm bảo thực hiện mục tiêu, thực hiện nhiều việc một lúc thì
hoạt động nhóm là hết sức ý nghĩa.
Dĩ nhiên để hoạt động nhóm có những ý nghĩa tích cực như trên thì
cũng cần có những yêu cầu nhất định. Ví như, hoạt động nhóm thì phải có
thời gian tương đối đồng thời đòi hỏi nhóm trưởng phải có nhiều kĩ năng như


9

kĩ năng tổng hợp thông tin, phân tích vấn đề, hướng dẫn thảo luận, ứng xử,
lãnh đạo nhóm…Vượt lên được những yêu cầu như thế này thì hoạt động
nhóm thực sự có ích rất lớn trong làm việc và học tập. Chỉ cần chúng ta
hướng đến mục tiêu đã đề ra bằng sự đoàn kết, năng lực thực sự, nhiệt huyết,

cống hiến thành thực thì hoạt động nhóm không có gì là trở ngại, khó khăn
mà nó sẽ đem đến những thành quả xứng đáng với công sức mà mỗi thành
viên đổ ra để đạt được mục tiêu của công việc, học tập.
1.1.3. Các nguyên tắc và đặc điểm của hoạt động nhóm
Khi tổ chức hoạt động học tập theo nhóm cần đảm bảo được một số
nguyên tắc quan trọng sau: tôn trọng, bình đẳng, chia sẻ, trợ giúp, chung sức.
Nguyên tắc tôn trọng: các thành viên trong một nhóm tôn trọng lẫn
nhau, lắng nghe ý kiến của các thành viên trong nhóm. Sự tôn trọng lẫn nhau
là cần thiết bởi nó duy trì được không khí đoàn kết của cả nhóm. Việc các
thành viên tôn trọng lẫn nhau cũng là việc mọi người được học tập lẫn nhau,
thu thập thông tin, ý tưởng nhiều chiều.
Nguyên tắc bình đẳng: Các thành viên đều phải góp sức lực, trí tuệ như
nhau để hướng đến mục tiêu chung của cả nhóm. Việc cùng nhau giải quyết
vấn đề sẽ là điều kiện để các thành viên hiểu nhau hơn, hướng đến mục tiêu
chung nhanh hơn, giải quyết vấn đề thấu đáo hơn đồng thời mọi người thể
hiện được sự tôn trọng lẫn nhau.
Nguyên tắc chia sẻ: Việc chia sẻ cùng nhau sẽ giúp cho các thành viên
dần bỏ đi sự ích kỉ cá nhân mà hướng đến mục tiêu chung. Để chia sẻ được
thì mọi người phải hướng đến cái chúng ta và bỏ qua cái ta của mỗi cá nhân.
Mọi người không phải ai cũng hoàn hảo vì vậy sẽ cần đến sự giúp đỡ
của người khác. Sự giúp đỡ rất quan trọng khi học tập và làm việc theo nhóm.
Đó chính là nguyên tắc trợ giúp khi học tập theo nhóm.


10

Các thành viên chung nhau công sức, trí tuệ để thực hiện mục tiêu của
nhóm. Bao giờ cũng vậy, sức mạnh tập thể sẽ mạnh hơn rất nhiều so với một
cá nhân đứng riêng lẻ. Đó chính là nguyên tắc chung sức.
Để cho nhóm hoạt động hiệu quả thì việc tuân thủ các nguyên tắc là

điều nhất thiết phải thực hiện. Và hơn tất cả giá trị của nhóm đó chính là họ
đã học được những điều tốt đẹp từ những người mà họ giao tiếp để làm cho
bản thân hoàn thiện hơn trong quá trình học tập, làm việc.
1.1.4. Các đặc trƣng của việc giao nhiệm vụ
Thứ nhất, sự tự do trong lựa chọn nhiệm vụ của người học sẽ thúc đẩy
động cơ nội tại của họ. Dẫn đến giải phóng họ hoàn toàn và thúc đẩy họ tham
gia vào nhiệm vụ một các sâu sắc hơn. Bản chất và thời điểm lựa chọn cũng
rất đa dạng: lựa chọn một nhiệm vụ riêng trong tổng thể các nhiệm vụ, lựa
chọn các bước tiến hành, các nguồn lực cần huy động,…Cuối cùng tuỳ thuộc
vào mục tiêu sau đó mà người dạy quyết định nhân sự cho nhiệm vụ đã được
lựa chọn.
Thứ hai, thách thức chính là ở mức độ khó khăn của nhiệm vụ. Một
nhiệm vụ có tính phức tạp trung bình sẽ mang tính thúc đẩy hơn bởi lẽ nếu nó
quá dễ thì sẽ dẫn đến sự nhàm chán, ngược lại nếu quá khó thì học sinh dễ
nản lòng. Thách thức đối với người dạy là ở chỗ xác định được đúng mức độ
khó khăn của nhiệm vụ.
Thứ ba, điều quan trọng là người học phải đánh giá được kết quả mong
đợi, khả năng cần huy động và cần phát triển đối với chính bản thân mình.
Việc kiểm soát là rất quan trọng để thiết lập nên mối quan hệ giữa tính tự chủ
của người học và động cơ cho các nhiệm vụ còn lại. Đối với người dạy thì
điều quan trọng là biết đưa ra các chỉ dẫn, các mục tiêu cần đạt được, khuôn
khổ hoạt động cũng như là mức độ đòi hỏi đối với người học.
Thứ tư, nhằm phát triển kỹ năng giao tiếp xã hội. Việc cộng tác sẽ làm
tăng động cơ học tập của người học. Cần chú ý rằng phương pháp học tập


11

theo nhóm được đánh giá cao hay thấp tuỳ theo vào nội dung mà ta muốn
truyền đạt. Theo một vài tác giả, phương pháp này sẽ hiệu quả hơn đối với

việc giải quyết các vấn đề, những nhiệm vụ không quá dễ đòi hỏi sự sáng tạo,
ý tưởng đa dạng. Một nhiệm vụ càng gần với kinh nghiệm cá nhân hoặc với
công việc sau này của người học sẽ có nhiều cơ hội khích lệ người học tham
gia hơn.
Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, tuỳ thuộc vào chủ đề của nhóm,
sự không đồng nhất giữa các HS cũng có thể có những nhược điểm như: quá
nặng đối với một vài thành viên dẫn đến chậm trễ trong công việc, hoặc khó
thực thi.
Trong bất kỳ trường hợp nào, GV luôn phải tổ chức tốt việc chất vấn ý
kiến vì chính việc này sẽ làm thay đổi về nhận thức của HS. Người dạy không
nên can thiệp quá sâu vào nội dung mà chỉ giữ vai trò chỉ dẫn. Chỉ cung cấp
những thông tin cần thiết, theo dõi ý kiến, quan điểm của mỗi một thành viên
và duy trì hướng đi cho các nhóm theo đúng nhiệm vụ được giao.
Như vậy, để đạt được hiệu quả cao nhất, trước hết phải có sự phân công
công việc hợp lý. Điều này phụ thuộc nhiều vào vai trò và khả năng chỉ đạo
của người nhóm trưởng. Khi công việc được phân chia rõ ràng cho từng thành
viên họ sẽ ý thức được vai trò của mình, có trách nhiệm hoàn thành công việc.
1.1.5. Kỹ năng thành lập, quản lí
nhóm
Hoạt động nhóm cũng phải có
một số kĩ năng nhất định thì mới đạt
được hiêu quả cao. Các kĩ năng hoạt
động nhóm bao gồm kĩ năng giải quyết
vấn đề, kĩ năng xử lí mâu thuẫn, kĩ năng lãnh đạo nhóm.


12

Để giải quyết được vấn đề nào đó đầu tiên người ta phải nhận ra vấn đề
cần giải quyết là gì, tức là phải hiểu đúng câu hỏi đã đặt ra cho mình, nắm

được cốt lõi yêu cầu của vấn đề và yêu cầu đạt được. Lúc đó người trưởng
nhóm sẽ phân công công việc cho từng thành viên sao cho phù hợp với năng
lực và thế mạnh của mỗi thành viên. Trong quá trình đó mọi người phải tìm ra
nguyên nhân của vấn đề, thu thập thông tin cần thiết để chắp nối thành môt
câu trả lời hoàn hảo. Để giải quyết vấn đề thấu triệt, đạt được mục tiêu đề ra
thì cả nhóm cần phải tư duy nhiều chiều, xem xét vấn đề ở nhiều mặt, nhiều
bình diện khác nhau. Mọi người tranh luận tích cực, người lãnh đạo cần
khuyến khích mọi người bàn bạc thảo luận, ngay cả những ý kiến trái chiều.
Điều quan trọng là cuối cùng mọi người chắt lọc thông tin để tạo ra một câu
trả lời, phương án, ý tưởng hoàn chỉnh nhất.
Trong quá trình làm việc nhóm, các thành viên không hoàn toàn đồng
nhất về năng lực, thái độ. Điều đó làm cho không khí trong nhóm không thoải
mái và gây ra sự bất bình giữa các thành viên trong nhóm. Do vậy mọi người
phải biết lắng nghe, tương trợ, chia sẻ, chung sức cùng nhau để hoàn thành
nhiệm vụ. Lúc này, điều quan trọng là mọi người phải tôn trọng và lắng nghe
lẫn nhau. Sau đó tổng hợp ý kiến, tập hợp và chọn ra câu trả lời, giải pháp tối
ưu nhất. Trong hoạt động nhóm thì mâu thuẫn là một việc đương nhiên nhưng
cần thấy được mâu thuẫn nào có ích, mâu thuẫn nào có hại. Nếu là mâu thuẫn
có ích thì nó sẽ thúc đẩy ý kiến, tính sáng tạo và sự ham thích của các thành
viên; nó gây ra những yêu cầu cần được giải quyết, buộc mọi người phải làm
rõ quan điểm của họ và tìm ra cách tiếp cận mới cho mọi vấn đề đồng thời tạo
cơ hội cho mọi người kiểm tra năng lực, khả năng của họ. Nếu là mâu thuẫn
có hại thì sẽ giảm hiệu suất làm việc, gây bê bối, gây ra những căng thẳng
không đáng có, mất sự đoàn kết giữa các thành viên, cả nhóm mất thời gian
sắp xếp lại công việc và mối quan hệ giữa các thành viên với nhau. Nhưng
như vậy, chúng ta cũng thấy được rằng không phải mọi mâu thuẫn đều là có


13


hại, điều quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân để giải quyết mâu thuẫn. Hãy
xem mâu thuẫn như là động lực thúc đẩy cả nhóm tiến bộ và tiến gần đến mục
tiêu hơn. Do vậy, tìm ra căn nguyên cội rễ của mâu thuẫn để cắt đứt sự tồn tại
của mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn thường là do khác biệt về
giá trị; khác biệt về sự mong đợi tức là mỗi người đưa ra ý kiến và sự chấp
nhận lại không như họ mong chờ, tưởng tượng; vai trò của các thành viên xác
định không rõ ràng, công việc phân công không cụ thể dẫn đến ỷ lại, đùn đẩy
công việc và trách nhiệm; lợi ích không công bằng cho nên dẫn đến sự ức chế
giữa các thành viên, điều này lại vi phạm nguyên tắc bình đẳng trong hoạt
động nhóm. Ngoài ra, còn một số nguyên nhân khác như sự thay đổi về môi
trường và phong cách làm việc, sự ức chế, căng thẳng, việc truyền đạt thông
tin không rõ ràng gây ra hiểu lầm,tinh thần cá nhân, sự tùy thuộc lẫn nhau
giữa các cá nhân, không thỏa mãn vai trò trong nhóm…cũng có thể gây ra
mâu thuẫn trong khi hoạt động nhóm. Điều quan trọng ở đây là các thành viên
phải biết đoàn kết, chung sức, chung lòng vì tập thể, vì mục tiêu chung của cả
nhóm mà phấn đấu, hạn chế xảy ra mâu thuân để hoạt động nhóm được hiệu
quả.
Ngoài kĩ năng giải quyết vấn đề và kĩ năng xử lí mâu thuẫn thì kĩ năng
lãnh đạo nhóm cũng rất quan trọng. Trong học tập hay làm việc thì nhóm
trưởng sẽ là người hoạch định kế hoạch, xác định yêu cầu của vấn đề, mục
tiêu, giúp cả nhóm tạo ra được không khí hào hứng và giúp cả nhóm duy trì
giá trị chung. Trưởng nhóm phải luôn là người đi tiên phong trong việc hướng
đến mục tiêu chung của cả nhóm, bỏ qua những lợi ích cá nhân vì mọi thành
viên.
Quả thực lãnh đạo được một nhóm người không thể là đơn giản. Nó
khác với việc khi làm việc độc lập. Làm việc hay học tập trong một nhóm
cũng vậy, mọi cá nhân hoạt động trong một nhóm thì phải hướng đến mục
tiêu chung. Nhưng trong nhóm đó mỗi cá nhân cũng muốn được thể hiện



14

những cá tính của mình đồng thời đạt được mục tiêu chung, đảm bảo nguyên
tắc hoạt động nhóm. Để đạt được điều này thì người lãnh đạo nhóm phải vận
dụng hết khả năng của mình để điều phối tạo ra sự hài hòa và cân bằng giữa
quyền lợi và nghĩa vụ của cả nhóm cũng như mỗi thành viên.
Trên đây là những vấn đề cơ bản nhất về khái niệm nhóm, hoạt động
nhóm, ý nghĩa của hoạt động nhóm, các nguyên tắc, đặc điểm, kĩ năng hoạt
động nhóm. Để tổ chức hoạt động nhóm trong giờ dạy học Đọc – hiểu văn
bản văn học ở lớp 9 đạt hiệu quả cao nhất thì giáo viên phải nắm chắc những
vấn đề cốt lõi này.
1.2. Cơ sở lí luận của việc tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh lớp
9 trong giờ Đọc – hiểu văn bản ở trƣờng THCS tại Quận 2 - Tp. Hồ Chí
Minh
1.2.1. Cơ sở giáo dục học
Cùng với thời gian, những cố gắng lớn lao của các nhà giáo dục nhằm
cải thiện chất lượng dạy học, thì việc học đã được tổ chức chặc chẽ hơn. Đặc
biệt với sự ra đời và trưởng thành của tâm lí thực nghiệm đã làm cơ sở cho
việc cải tiến, hoàn thiện các phương pháp trong giáo dục nói chung, trong dạy
học nói riêng.
Chính trong những giai đoạn cải tiến đó đã hình thành phương pháp
dạy học nhóm (hay gọi là phương pháp dạy học hợp tác). Đến thế kỉ XX, các
nhà giáo dục cũng như các giáo viên đã thấy rõ lợi ích ngày càng lớn lao của
phương pháp này mặc dầu đây là phương pháp không lấy gì làm mới so với
bề dày lịch sử quan niệm của nó.
Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm đã được nhiều nhà giáo dục
nghiên cứu từ lâu và được biết đến trong hệ thống các phương pháp “Dạy học
lấy học sinh làm trung tâm”. Phương pháp này được đề cập từ rất sớm thông
qua việc xác định hệ thống các biện pháp hữu hiệu để phát huy tính tích cực
nhận thức của người học.



15

Cô-men-xki - ông tổ nền giáo dục cận đại rất chú trọng đến việc phát
huy óc sáng tạo, cá tính độc lập suy nghĩ của HS. Trong suy nghĩ của ông đã
đề cập đến nhóm học tập. Theo ông “Cần phải hấp dẫn tính tò mò và sự ganh
đua sôi nổi của trẻ em bằng cách nào cho chúng được dựa vào sự sáng tạo ra
những tri thức khác nhau mà người ta luôn trao đổi cho chúng, và bằng cách
giúp cho chúng cũng được chia sẻ cái vinh dự của người phát minh về mỗi tri
thức”.
- Thế kỉ XVIII – XIX có nhiều nhà giáo dục như: Giăng-giắc-rút-xô
(Pháp), Pêxtalozi, Usinxki (Nga),… cũng đề cập giáo dục, giảng dạy hướng
vào động lực tích cực, chủ động của người học và ít nhiều cũng khái quát tới
hình thức học tập nhóm.
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu liên quan đến học tập theo
nhóm, trong đó các nhà giáo dục tiên phong tiêu biểu như J. Dewey, Roger
Cousinet, Lewin, Lippit và White…
J. Dewey, ông cho rằng ảnh hưởng của môi trường đến sự đào tạo con
người là quá rõ ràng. Từ đó, phải tạo cho HS một môi trường càng gần gũi
với đời sống càng tốt. Hơn nữa, chỉ có sự làm việc chung mới giúp cho HS có
thói quen trao đổi những kinh nghiệm thực hành, có cơ hội phát triển lý luận
và năng lực trừu tượng hóa.
Roger Cousinet phải tổ chức nhà trường sao cho trở thành một môi
trường mà trẻ em có thể sống. Sự làm việc chung thành từng nhóm tạo nên
một biện pháp phù hợp về mặt tâm lí, cũng như là về mặt giáo dục học.
Hai ông đã cố gắng phổ biến đường lối của “trường hoạt động” cũng
như phương pháp học tập nhóm. Song trong giai đoạn này phương pháp học
tập nhóm chỉ được nhìn nhận ở bình diện tổng quát, đề cập phương pháp này
trong một sinh hoạt chung của một cơ cấu mới là “nhà trường hoạt động”.

Các nhà giáo dục khác như Lewin, Lippit và White đã có những may
mắn hơn, hoàn cảnh thuận lợi để khảo sát nhóm học tập cụ thể hơn như: cách


16

thành lập nhóm, cách phân loại nhóm và với những yếu tố chi phối sinh hoạt
của nhóm,… Sau này, nhóm được khảo sát tỉ mỉ hơn trong mọi hoàn cảnh
sinh hoạt xã hội. Từ đó, nhiều vấn đề khác nhau về nhóm đã được tìm hiểu
nghiên cứu như: khái niệm nhóm, cách phân loại nhóm, vấn dề mục tiêu của
nhóm, vấn đề liên hệ giữa các thành viên trong nhóm với nhau,… Và những
năm 60 của thế kỉ trước, Mỹ đã vận dụng phương pháp học tập theo nhóm
[29, 47].
Ngày nay, với phương pháp học tập mới – lấy người học làm trung tâm
– phát huy tính tích cực chủ động của người học. Nhiều nhà giáo dục trong
nước đã nghiên cứu phương pháp học tập nhóm như là một trong những
phương pháp dạy học tích cực và đưa vào ứng dụng trong nhà trường một
cách rộng rãi [30-31].
1.2.2. Cơ sở tâm lí học
Những nghiên cứu về tâm lí học lứa tuổi cho thấy, học sinh lớp 9
THCS đang ở độ giai đoạn đầu của tuổi thanh niên, lứa tuổi từ 14, 15. Ở tuổi
này học sinh đạt được sự trưởng thành về cơ thể, sự phát triển về mặt tâm sinh
lí. Đây cũng là độ tuổi mà tâm sinh lí chuyển từ trạng thái trẻ em sang người
lớn. Ở lứa tuổi này có sự chuyển biến đặc biệt về tâm lí, thể chất, sự phát dục
và hình thành các phẩm chất mới về nhân cách. Những yếu tố mới của trạng
thái trưởng thành đã xuất hiện là kết quả của các biến đổi về mặt cơ thể, mối
quan hệ với người lớn, với bạn bè, của các hoạt động học tập và hoạt động xã
hội.
Nội dung và tính chất của hoạt động học tập ở học sinh lớp 9 THCS là
đi sâu vào những tri thức cơ bản, những quy luật của những bộ môn khoa học.

Phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng có nhiều thay đổi so với những
học sinh lớp 6,7. Do vậy, hoạt động học tập đòi hỏi phải có tính năng động,
độc lập và sáng tạo ở mức độ cao hơn, đòi hỏi các em phải phát triển tư duy lí
luận. Ở học sinh lớp 9 THCS, sự hình thành và phát triển mạnh mẽ tính tích


17

cực của xã hội sẽ ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển nhân cách của học
sinh. Vì vậy mà học sinh lĩnh hội được các giá trị, các chuẩn mực xã hội, xây
dựng được những quan hệ thỏa đáng với người lớn, bạn bè. Ngoài ra cũng
nhờ vào tính tích cực xã hội đó mà người học tự hướng vào bản thân, thiết lập
nhân cách và tương lai của mình với mục đích, nhiệm vụ, phương hướng một
cách cụ thể và mang tính độc lập.
Học sinh lớp 9 THCS cũng như học sinh mọi lứa tuổi khác đều có khao
khát được giao tiếp với mọi người xung quanh, đặc biệt là với bạn bè, vui
thích được hoạt động cùng nhau, được sống tập thể và có bạn bè thân thiết tin
cậy. Việc tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm trong giờ học Ngữ văn hay
bất kì giờ học nào đều giúp cho học sinh tự nhận thức được bản thân và
những người xung quanh, đồng thời qua đó các em phát triển một số kĩ năng,
thao tác quan trọng như phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát. Điều đó giúp
học sinh thu nhận, học tập và làm phong phú những biểu hiện về nhân cách
theo hướng tích cực, các em tự bồi đắp nhân cách cho chính bản thân thông
qua hành động hay cách học tập của bạn bè.
Quan sát kĩ càng đối với lứa tuổi học sinh lớp 9 THCS chúng ta thấy
rằng thái độ và ý thức của thanh niên đối với học tập ngày càng phát triển.
Học sinh lớp 9 đã có ý thức hiểu được rằng vốn tri thức, kĩ năng, kĩ xảo là
điều kiện hết sức cần thiết để các em bước vào tương lai. Vì vậy mà nhu cầu
học tập của các em tăng lên một cách rõ rệt, nhu cầu đó không chỉ bao gồm
những tri thức trong khuôn khổ trường học mà còn bao gồm những tri thức về

xã hội, về đời sống.
Ở học sinh lớp 9 THCS, tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các
quá trình nhận thức. Tri giác của các em có độ nhạy cảm khá cao, đồng thời
việc quan sát trở nên có hệ thống và toàn diện hơn. Quá trình quan sát cũng
chịu sự chi phối của hệ thống ngôn ngữ và không tách rời khỏi tư duy ngôn
ngữ. Với học sinh lớp 9 THCS việc ghi nhớ luôn có chủ định và giữ vai trò


18

chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Hoạt động tư duy của các em tích cực, độc
lập hơn. Khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng
tạo được phát huy. Do đó, các em thích học hỏi, tìm tòi, khám phá thế giới
xung quanh. Bên cạnh đó khả năng tự ý thức cũng phát triển mạnh mẽ, trên
cơ sở đó nhu cầu tự giáo dục của học sinh lớp 9 THCS cũng được phát triển.
Việc tự giáo dục, tự học ở độ tuổi này khá là cao do vậy mà học sinh thích
tham gia các hoạt động nhóm, thích tự mình giải quyết các vấn đề được giao
cho.
Việc tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh trong các giờ học nói chung
và giờ dạy học Đọc – hiểu văn bản nói riêng là điều cần thiết. Bởi nó làm phát
triển toàn diện nhân cách của người học. Đồng thời đáp ứng những nhu cầu
giao lưu, học hỏi, tính tự lập, độc lập, sáng tạo của học sinh lớp 9 THCS. Bên
cạnh đó nó giúp học sinh được học bằng giao tiếp, giúp hoàn chỉnh về khả
năng tư duy bằng ngôn ngữ của người học. Hoạt động nhóm cũng như là một
cộng đồng xã hội thu nhỏ, nó giúp cho người học hình thành và phát triển
những kĩ năng học tập, kĩ năng sống cần thiết để chủ động tích cực, thành
công trong học tập cũng như cuộc sống. Người dạy học cũng phải nắm được
đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh lớp 9 THCS, nắm vững bản chất và vận
dụng nó có hiệu quả các nguyên tắc, đặc điểm, phương pháp của tổ chức hoạt
động nhóm cho học sinh trong giờ Đọc – hiểu văn bản.

1.2.3. Cơ sở lí luận dạy học
Các công trình khoa học giáo dục nghiên cứu về tổ chức hoạt động
nhóm trong giờ học ở trong và ngoài nước có số lượng khá lớn. Minh chứng
cho sự tồn tại của phương pháp dạy học đã đem lại những kết quả khả quan.
Về cả mặt lí luận và thực tiễn, giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong quá
trình học tập và sự phát triển, hoàn thiện nhân cách, trí tuệ của người học.
Nhưng chính những hoạt động của cá nhân mới là yếu tố trực tiếp quyết định
sự phát triển nhân cách và trí tuệ người học. Những hoạt động của cá nhân thể


×