Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Vai trò của công tác xã hội trong việc hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa tại xã đồng lạc – thị xã chí linh – tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.22 KB, 116 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội
LỜI CẢM ƠN

Trải qua thời gian 3 tháng thực tập tại Uỷ Ban Nhân Dân xã Đồng Lạc –
thị xã Chí Linh – tỉnh Hải Dương với đề tài nghiên cứu “ Vai trò của công
tác xã hội trong việc hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi cô đơn không nơi nương
tựa tại xã Đồng Lạc – thị xã Chí Linh – tỉnh Hải Dương” em đã nhận được
nhiều sự giúp đỡ từ giảng viên hướng dẫn và cán bộ ủy ban nhân dân xã.
Trước hết em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Lê Thị Thúy Ngà. Cô đã
tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập và viết bài khóa luận. Những lời
khuyên của cô đã giúp em có hướng đi đúng trong triển khai kế hoạch thực
tập cũng như hoàn thành bài viết của mình.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô trong khoa công tác xã hội đã
trang bị cho em những kiến thức cần thiết để có thể vận dụng trong quá trình
thực tập. Những lời dạy của các thầy cô qua những giờ thực hành là bài học
quý giá giúp em có kinh nghiệm hơn trong lần thực tập này.
Cuối cùng em xin chân thành cám ơn cán bộ ủy ban nhân dân xã Đồng Lạc
đặc biệt là bác phó chủ tịch Nguyễn Văn Thuận đã tạo điều kiện thuận lợi cho
em thực tập và cung cấp cho em những thông tin, tài liệu cần thiết để em hoàn
thành quá trình thực tập.
Em nhận thấy bản thân còn chưa đủ năng lực và kinh nghiệm, bài viết còn
nhiều thiếu sót em mong thầy cô thông cảm và em cũng rất mong nhận được
sự đánh giá, nhận xét của các thầy cô để bài viết khóa luận của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Nguyễn Thị Hồng



Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NCT: người cao tuổi
DS&PT: dân số và phát triển
DS-KHHGĐ: dân số - kế hoạch hóa gia đình
CTXH: công tác xã hội
NV CTXH: nhân viên công tác xã hội
DVYT: dịch vụ y tế
CSSK: chăm sóc sức khỏe

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Đặc điểm giới tính và nhóm tuổi người cao tuổi cô đơn không nơi
nương tựa tại các thôn năm 2014.
Bảng 2.2. Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa thuộc diện chính sách
năm 2014.
Bảng 2.3. Tình trạng sức khỏe, khả năng đi lại, sinh hoạt của người cao tuổi
cô đơn không nơi nương tựa trên địa bàn xã Đồng Lạc năm 2014.
Bảng 2.4. Tình hình mắc các triệu chứng/bệnh của người cao tuổi cô đơn
không nơi nương tựa.
Bảng 2.5. Tình hình khám sức khỏe định kỳ hàng tháng của người cao tuổi cô

đơn không nơi nương tựa trên địa bàn xã Đồng Lạc năm 2014.

Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

MỤC LỤC

Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới với xu thế hội nhập mới,
nhưng bên cạnh những thành tựu của sự nghiệp đổi mới thì nguy cơ một số
giá trị đạo lý, truyền thống có xu hướng bị lãng quên hoặc thiếu sự quan tâm.
Người già cô đơn không nơi nương tựa ít được tôn trọng, quan tâm về mọi

mặt đời sống vật chất, tinh thần cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp khác.
Theo số liệu tổng điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình ngày
1/4/2012 của tạp chí DS&PT tại Website Tổng cục DS-KHHGĐ/BBC thì số
người cao tuổi ngày càng tăng lên. Hiện nay cả nước có 7,5 triệu NCT, trong
đó khoảng 200 nghìn người già cô đơn không nơi nương tựa (chiếm khoảng
1,15% tổng số NCT) nhưng số người được tiếp nhận vào sống trong các cơ sở
Bảo trợ xã hội mới chỉ đạt khoảng 3.500 người (chiếm 6,4 % trong tổng số
người già không nơi nương tựa). Khoảng 70% NCT cô đơn không nơi nương
tựa có hoạt động tạo thu nhập, những hoạt động tạo thu nhập đó tập trung chủ
yếu là làm nông nghiệp, dịch vụ, buôn bán vặt… Ngoài nguồn thu nhập từ
hoạt động kinh tế, NCT cô đơn không nơi nương tựa còn có các khoản thu
nhập khác như: từ trợ giúp xã hội... Trong cơ cấu thu nhập: thu từ cộng đồng
giúp đỡ 25,84%, từ hoạt động kinh tế 23,6% và từ trợ cấp xã hội 41,08%…
Với thu nhập ít ỏi như vậy, NCT cô đơn không nơi nương tựa chi tiêu rất eo
hẹp: 1 tháng chi cho ăn hết 130.000 - 150.000 đồng, chi bình quân cho mặc 1
tháng 10.000 đồng, chi cho khám chữa bệnh hết 22.000 đồng, chỉ còn khoảng
36.000 đồng chi cho tất cả các nhu cầu khác. NCT cô đơn không nơi nương
tựa không tự lo liệu được cuộc sống (70%) và không có người chăm sóc khi
ốm đau.
Với những số liệu trên ta thấy rằng số NCT cô đơn không nơi nương tựa
chiếm khá nhiều trong tổng số dân. NCT cô đơn không nơi nương tựa có thu
nhập ít và họ sống chủ yếu dựa vào nguồn trợ cấp xã hội đặc biệt là họ không
Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

1

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

tự lo liệu được cuộc sống bởi sức khỏe yếu hay ốm đau. NCT có sức đề kháng
yếu nên họ dễ nhiễm bệnh vì vậy đối với NCT cô đơn không nơi nương tựa
khi ốm đau sẽ rất khó khăn trong các hoạt động sinh hoạt thường ngày. NCT
cô đơn không nơi nương tựa thường cảm thấy lạc lõng trong cuộc sống với
những sự thay đổi không ngờ của công nghệ thông tin,...họ không thích ứng
kịp với nhịp sống ngày nay vì vậy ở mỗi địa phương nên có một cán bộ công
tác xã hội để giúp họ tự giải quyết khó khăn hòa nhập với những sự thay đổi
trong xã hội nhưng hiện nay ít địa phương có cán bộ công tác xã hội điển hình
là xã Đồng Lạc – thị xã Chí Linh – tỉnh Hải Dương.
Mặt khác ta thấy rằng trong những năm qua Đảng và Nhà nước cũng đã
đưa ra những chính sách dành cho NCT và NCT cô đơn không nơi nương tựa
như Pháp lệnh về NCT ban hành ngày 28/04/2000, luật NCT ban hành
23/11/2009,…tuy nhiên những chính sách này đưa ra chưa hiệu quả bởi NCT
cô đơn không nơi nương tựa ít quan tâm đến các chính sách nhà nước đưa ra
mà chính quyền các địa phương ít tuyên truyền các chính sách này. Điều này
cho thấy sự cần thiết của nhân viên công tác xã hội tại các địa phương, với vai
trò là nhà giáo dục nhân viên công tác xã hội có thể cung cấp cho NCT cô đơn
không nơi nương tựa những thông tin cần thiết.
NCT cô đơn không nơi nương tựa là một trong những nhóm đối tượng yếu
thế cần được sự trợ giúp của xã hội. Họ ít được tiếp cận các dịch vụ cần thiết
và cũng ít được thể hiện vai trò của mình. Điều đó ảnh hưởng ít nhiều đến đời
sống tinh thần của họ vì vậy chúng ta cần có những biện pháp tích cực nhằm
ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống của NCT cô đơn không nơi nương
tựa. Đây cũng là một trong những chiến lược của quốc gia nhằm chăm sóc tốt
hơn cho đối tượng NCT cô đơn không nơi nương tựa nói riêng và các đối
tượng yếu thế (người nghèo, người khuyết tật,…) nói chung.

Xã Đồng Lạc – thị xã Chí Linh – tỉnh Hải Dương là một xã cũng khá phát
triển nhưng kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu việc cung ứng các dịch vụ
Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

2

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

y tế còn kém không đủ điều kiện để đáp ứng nhu cầu cho NCT đặc biệt là
NCT cô đơn không nơi nương tựa và xã cũng không có cán bộ văn hóa hay
cán bộ công tác xã hội. NCT cô đơn không nơi nương tựa ở đây mỗi tháng
nhận được tiền trợ cấp xã hội theo quy định của nhà nước và ngoài ra không
có dịch vụ nào khác. NCT cô đơn không nơi nương tựa ở trên địa bàn xã
Đồng Lạc rất cần sự giúp đỡ của nhân viên công tác xã hội để đối mặt với
những khó khăn của sự biến đổi xã hội. Hiện nay ở xã có 30 cụ là NCT cô
đơn không nơi nương tựa và họ đều là những người nghèo rất cần đến sự hỗ
trợ của cộng đồng, chính quyền và nhân viên công tác xã hội.
Chính vì những lý do trên mà em lựa chọn đề tài “Vai trò của công tác xã
hội trong việc hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa
tại xã Đồng Lạc – thị xã Chí Linh – tỉnh Hải Dương” với mục đích trước hết
là làm cho mọi người hiểu về công tác xã hội hơn sau đó là làm cho họ thấy
được vai trò của công tác xã hội và giúp cho NCT không nơi nương tựa có thể
tự giải quyết vấn đề của mình và mặt khác tìm kiếm nguồn lực hay tình
nguyện viên sẵn sàng giúp đỡ họ để họ có thể tìm thấy niềm vui trong cuộc

sống sau khi nhân viên xã hội không hỗ trợ cho họ nữa.
2. ý nghĩa lý luận và thực tiễn
2.1. ý nghĩa lý luận
Đề tài áp dụng những kiến thức chuyên nghành công tác xã hội để làm rõ
quan điểm và cách tiếp cận về công tác xã hội với NCT. Thông qua đề tài:
“Vai trò của công tác xã hội trong việc hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi cô
đơn không nơi nương tựa tại xã Đồng Lạc – thị xã Chí Linh – tỉnh Hải
Dương” cho thấy cái nhìn mới về công tác xã hội trong cộng đồng xã Đồng
Lạc, vai trò của công tác xã hội với NCT cô đơn không nơi nương tựa nói
chung và NCT cô đơn không nơi nương tựa tại xã Đồng Lạc nói riêng.

Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

3

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

2.2. ý nghĩa thực tiễn
Đảng nhà nước ta luôn quan tâm và mong muốn giúp đỡ được cho NCT và
việc tìm hiểu giải pháp, mô hình giúp đỡ NCT là điều mang ý nghĩa thực tiễn
nhất. Qua việc nghiên cứu đề tài này giúp mọi người có cái nhìn đúng hơn về
nghề công tác xã hội, thực trạng về cuộc sống NCT cô đơn không nơi nương
tựa. Đồng thời từ thực trạng về cuộc sống NCT cô đơn không nơi nương tựa
trên địa bàn xã Đồng Lạc đưa ra những khuyến nghị giúp cơ quan chức năng

điều chỉnh bổ sung hoàn thiện chính sách đối với nhóm đối tượng này.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Vai trò của công tác xã hội trong việc hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi cô
đơn không nơi nương tựa tại xã Đồng Lạc – thị xã Chí Linh – tỉnh Hải
Dương.
3.2.

khách thể nghiên cứu

Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa trên địa bàn xã Đồng Lạc –
thị xã Chí Linh – tỉnh Hải Dương và các tổ chức xã hội cùng với chính quyền
địa phương.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.

Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng cuộc sống của NCT cô đơn không nơi nương tựa và
hoạt động chăm sóc sức khỏe NCT cô đơn không nơi nương tựa trên địa bàn
xã Đồng Lạc, nhu cầu của NCT cô đơn không nơi nương tựa trên địa bàn xã
Đồng Lạc và những vấn đề mà họ cần giải quyết từ đó có cơ sở để phân tích
đánh giá và định hướng trong can thiệp trợ giúp cho người cao tuổi cô đơn
không nơi nương tựa.

Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng


4

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà
4.2.

Khoa công tác xã hội

Nhiệm vụ nghiên cứu

Tiến hành mô tả, phân tích, đánh giá thực trạng chăm sóc sức khỏe người
cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa tại xã Đồng Lạc và tìm ra những khó
khăn mà người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa ở đây hay gặp phải; tìm
hiểu nguyên nhân dẫn đến những khó khăn đó; tiến hành làm việc với nhóm
người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa cụ thể và đưa ra được hướng can
thiệp cho nhóm đối tượng này và làm rõ được vai trò của công tác xã hội
trong trợ giúp cho nhóm đối tượng trên.
5. Câu hỏi nghiên cứu
-

Thực trạng cuộc sống của người cao tuổi cô đơn không nơi nương

tựa trên địa bàn xã Đồng Lạc như thế nào?.
-

Công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi cô đơn không nơi


nương tựa tại địa bàn như thế nào? Chính quyền địa phương và các tổ chức
khác đã có hoạt động gì để trợ giúp người cao tuổi cô đơn không nơi nương
tựa tại đây ?.
-

Vai trò của công tác xã hội được thể hiện như thế nào trong việc

hỗ trợ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa trên địa
bàn xã Đồng Lạc ?.
6. giả thuyết nghiên cứu
- Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa trên địa bàn xã Đồng Lạc có
nhiều nhu cầu về tình cảm cần sự giúp đỡ của mọi người và nhân viên công
tác xã hội.
- Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa trên địa bàn xã Đồng Lạc
không nhận được nhiều sự trợ giúp từ chính quyền địa phương cũng như cộng
đồng trong xã Đồng Lạc.
- Nhân viên công tác xã hội giúp đỡ họ vượt qua khó khăn thích nghi với
hoàn cảnh và hòa nhập cộng đồng, nâng cao sức khỏe và biết cách chăm sóc
bản thân.
Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

5

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội


- Nhân viên công tác xã hội có thể giới thiệu và kết nối các dịch vụ cho
người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa trên địa bàn xã Đồng Lạc nhằm
đáp ứng một số nhu cầu cho họ.
7. phương pháp nghiên cứu
7.1.

Phương pháp thu thập thông tin

Thu thập, phân tích tài liệu:
Phương pháp thu thập và phân tích tài liệu là tổng hợp, tập trung các
nguồn tài liệu có liên quan tới nội dung đang tìm hiểu, trong nghiên cứu tài
liệu, người nghiên cứu thường phải vừa phân tích vừa tổng hợp tài liệu vì
nguồn tài liệu cho nghiên cứu rất đa dạng: Tạp chí, báo mạng, thông tin đại
chúng. Sau khi phân tích phát hiện ra những thiếu sót sai lệch nên lựa chọn
những tài liệu cần đủ để xây dựng luận cứ cho đề tài và sắp xếp tài liệu cho
phù hợp.
Trên cơ sở thu thập các nguồn tài liệu, thông tin từ sách báo, các trang
mạng, các bài viết, bài nghiên cứu em tiến hành phân tích tổng hợp từ tài liệu
theo phương pháp chọn lọc làm cơ sở để đánh giá cho bài nghiên cứu của
mình.
Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phỏng vấn là phương pháp quan trọng trong việc thu thập thông tin thực
nghiệm. Là một phương pháp thu thập thông tin thông qua việc tác động tâm
lý xã hội trực tiếp giữa người đi hỏi và người trả lời trên cơ sở đề tài và mục
tiêu của nghiên cứu. Sử dụng phương pháp này giúp ta tìm hiểu sâu hơn về
vấn đề nghiên cứu, nội dung thông tin thu được phong phú và đa dạng về
nhiều góc cạnh. Là phương pháp thu thập thông tin khách quan từ phía người
trả lời nhằm đáp ứng mục tiêu của nghiên cứu.
Phương pháp này sử dụng các thông tin định tính nhằm tìm hiểu sâu hơn

vấn đề nghiên cứu mà trong phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
không thu được, đối với nghiên cứu này tôi sử dụng để thu thập thông tin và
Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

6

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

số lượng người trong phỏng vấn là 10 người bao gồm những người hàng xóm
gần nhà với người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa, đại diện của tổ chức
liên quan như hội người cao tuổi.
Thảo luận nhóm tập trung:
Sử dụng phương pháp này để thu thập thông tin từ nhóm thông qua họp
nhóm. Đối với phương pháp này tôi tập trung vào 2 nhóm là nhóm người cao
tuổi cô đơn không nơi nương tựa và nhóm tình nguyện viên trợ giúp họ.
Phương pháp quan sát:
Phương pháp này được vận dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu đề
tài. Phương pháp quan sát là phương pháp thu thập thông tin xã hội được sử
dụng rộng rãi trong nghiên cứu xã hội học, đây là phương pháp rất cơ bản và
quan trọng trong nghiên cứu. Quan sát là phương pháp nghiên cứu bằng tri giác
trực tiếp và ghi chép mọi nhân tố có liên quan đến đối tượng nghiên cứu một
cách có hệ thống. Quan sát rất phù hợp với những vấn đề nghiên cứu mang tính
chất mô tả, những sự kiện, diễn biến bề mặt. Dựa vào đó khái quát cái bên trong,
cái bản chất và sự kiện và tìm ra mối quan hệ giữa chúng với nhau.

Áp dụng phương pháp này vào trong đề tài nghiên cứu giúp em có những ghi
chép đầy đủ về nhóm thân chủ.
7.2.

Phương pháp can thiệp

Đối với đề tài này tôi sẽ kết hợp cả phương pháp công tác xã hội nhóm
và công tác xã hội cá nhân.
Phương pháp công tác xã hội nhóm: là phương pháp nhằm giúp tăng
cường, củng cố chức năng xã hội của cá nhân thông qua các hoạt động nhóm
và khả năng ứng phó với các vấn đề cá nhân phát sinh, có nghĩa là: ứng dụng
những kiến thức, kỹ năng liên quan đến tâm lý nhóm (hoặc năng động nhóm),
nhóm nhỏ thân chủ có cùng vấn đề giống nhau hoặc có liên quan đến vấn đề,

Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

7

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

các mục tiêu xã hội được thiết lập bởi nhân viên xã hội trong kế hoạch hỗ trợ
thân chủ (cá nhân, nhóm, cộng đồng) thay đổi hành vi, thái độ, niềm tin nhằm
giúp thân chủ tăng cường năng lực đối phó, chức năng xã hội thông qua các
kinh nghiệm của nhóm có mục đích nhằm để giải quyết vấn đề của mình và

thỏa mãn nhu cầu.
Áp dụng phương pháp này nhằm can thiệp trực tiếp đến nhóm người cao
tuổi cô đơn không nơi nương tựa sử dụng tiến trình sinh hoạt nhóm giúp cho
các thành viên tương tác lẫn nhau, chia sẻ tâm tư với nhau tạo ra sự thay đổi
thái độ, hành vi và tăng cường khả năng giải quyết vấn đề và thỏa mãn nhu
cầu của các thành viên trong nhóm.
Phương pháp công tác xã hội cá nhân:
Là phương pháp can thiệp của công tác xã hội để giúp một cá nhân yếu
thế thoát khỏi những khó khăn trong đời sống vật chất tinh thần, chữa trị và
phục hồi sự vận hành các chức năng xã hội của họ giúp họ tự nhận thức,
mong muốn và tự giải quyết vấn đề bằng khả năng của chính mình. Đây là
phương pháp cơ bản của ngành CTXH với mục đích giúp cho thân chủ có thể
tự mình giải quyết được vấn đề khó khăn của bản thân và để thân chủ có thể
làm được như thế thì nhân viên CTXH phải có kĩ năng nghề và kiến thức thực
hành.
Áp dụng phương pháp này để can thiệp đến từng cá nhân trong nhóm để
hiểu rõ hơn từng thành viên và giải quyết vấn đề triệt để hơn. Đồng thời kết
hợp với một số kĩ năng như kĩ năng vãng gia, kĩ năng giao tiếp để có thể nắm
bắt rõ tình hình của các thành viên và duy trì làm việc nhóm tốt hơn.

Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

8

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà


Khoa công tác xã hội

PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.

Các khái niệm liên quan

1.1.1. Khái niệm Người cao tuổi
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về người cao tuổi. Trước đây, người
ta thường dùng thuật ngữ người già để chỉ những người có tuổi, hiện nay
“người cao tuổi” ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Hai thuật ngữ này tuy
không khác nhau về mặt khoa học song về tâm lý, “người cao tuổi” là thuật
ngữ mang tính tích cực và thể hiện thái độ tôn trọng.
Theo quan điểm y học: Người cao tuổi là người ở giai đoạn già hóa gắn
liền với việc suy giảm các chức năng của cơ thể (nguồn: giáo trình “công tác
xã hội với người cao tuổi” PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Hoa, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2012, tr.3).
Theo luật người cao tuổi việt nam ban hành vào 23/11/2009 tại kì họp
thứ VI của quốc hội thống nhất rằng người cao tuổi là những người công dân
Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.
Hiện nay ở Việt Nam, theo quy định chung người cao tuổi là những
người từ 60 tuổi trở lên. Pháp lệnh về người cao tuổi của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội ngày 28/04/2000 quy định: Người cao tuổi theo quy định của Pháp
lệnh này là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 60 tuổi trở
lên.
Theo WHO: Người cao tuổi phải từ 70 tuổi trở lên (nguồn: giáo trình
“công tác xã hội với người cao tuổi” PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Hoa, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2012, tr.3).
Một số nước phát triển như Đức, Hoa Kỳ… lại quy định người cao tuổi

là những người từ 65 tuổi trở lên. Quy định ở mỗi nước có sự khác biệt là do
sự khác nhau về lứa tuổi có các biểu hiện về già của người dân ở các nước đó
khác nhau. Những nước có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ
Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

9

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

và sức khỏe của người dân cũng được nâng cao. Do đó, các biểu hiện của tuổi
già thường đến muộn hơn. Vì vậy, quy định về tuổi của các nước đó cũng
khác nhau (nguồn: giáo trình “công tác xã hội với người cao tuổi” PGS.TS.
Nguyễn Thị Kim Hoa, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc Gia Hà Nội, 2012, tr.3).
Để đánh giá đúng được thực trạng của người cao tuổi cô đơn không nơi
nương tựa và có cái nhìn đúng đắn hơn trong nghiên cứu này thì ta phải dựa
vào quan điểm luật pháp đã ban hành năm 2009 và có thể hiểu người cao tuổi
là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.
1.1.2. Khái niệm Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa
Theo nghị định số 07/2000/NĐ - CP ngày 9/3/2000 của chính phủ về
chính sách cứu trợ xã hội quy đinh: NCT cô đơn không nơi nương tựa là
những người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân, người già còn vợ hoặc chồng
nhưng già yếu, không có con cháu, người thân thích để nương tựa, không có
nguồn thu nhập. Trường hợp là phụ nữ cô đơn không nơi nương tựa không có

nguồn thu nhập từ đủ 55 tuổi trở lên hiện nay được hưởng trợ cấp cứu trợ xã
hội vẫn tiếp tục được hưởng.
NCT cô đơn không nơi nương tựa được xác định là những người không
có gia đình, hoặc đã mất liên lạc với gia đình, người thân không còn chỗ để
nương nhờ chăm sóc, hỗ trợ mà phải tự kiếm sống để nuôi bản thân. Những
người này có thể sống bên ngoài xã hội, có hoặc không có chỗ ăn ở cố định
hay được tập trung nuôi dưỡng ở trong các trung tâm bảo trợ xã hội.
Như vậy có thể khái quát chung đặc trưng của NCT cô đơn không nơi
nương tựa được nghiên cứu trong đề tài như sau: người cao tuổi cô đơn không
nơi nương tựa là người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân, không có gia đình
hoặc đã mất liên lạc với gia đình, không có nguồn thu nhập hoặc thu nhập
thấp, có chỗ ở cố định hoặc sống ngoài xã hội hoặc trong trung tâm bảo trợ xã
hội.
1.1.3. Khái niệm vai trò
Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

10

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

Vai trò được định nghĩa trong từ điển tiếng Việt thường là tính từ chỉ
tính chất của sự vật, sự việc hiện tượng dùng để nói về vị trí chức năng,
nhiệm vụ mục đích của sự vật, sự việc, hiện tượng trong một hoàn cảnh, bối
cảnh và mối quan hệ nào đó. Ví dụ : Vai trò của Đảng đối với sự phát triển

đất nước, vai trò của tác phẩm văn học nào đó đối với sự nghiệp sáng tác văn
học của tác giả (nguồn:www.từ-điển.com).
Theo Robertsons vai trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền
lợi và nghĩa vụ được gắn liền với một vị thế xã hội nhất định. Mỗi cá nhân có
vô vàn vai trò, có bao nhiêu mối quan hệ xã hội thì có bấy nhiêu vai trò xã
hội. Vai trò của cá nhân trong xã hội bắt nguồn từ vị trí kinh tế, chính trị, xã
hội của họ, từ địa vị của các cá nhân thuộc các giai cấp và các nhóm xã hội
khác mà quy định nên. Mỗi cá nhân tuỳ theo vai trò của mình mà có cách ứng
xử, hành vi, tác phong, hành động tương ứng với vai trò mà cá nhân đảm
trách. Vai trò của cá nhân được xác định bằng cách trả lời câu hỏi: người đó
phải làm gì? (nguồn: ).
Đối với đề tài này có thể hiểu vai trò như định nghĩa ở từ điển tiếng việt
được nêu ở trên.
1.1.4. Khái niệm CTXH
Theo Joanf Robertson- chủ nhiệm khoa CTXH trường ĐH Wisconsin,
Hoa Kỳ: CTXH là một quá trình giải quyết các vấn đề hợp lý nhằm thay đổi
theo kế hoạch, hướng tới mục tiêu đã đề ra ở các cấp độ cá nhân, gia đình,
nhóm, cộng đồng và chính sách xã hội (nguồn: giáo trình “nhập môn công tác
xã hội”, Lê Văn Phú, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học
Quốc Gia Hà Nội, 3/2008, tr.28).
Theo Hiệp hội nhân viên xã hội quốc gia (NASAW): CTXH là những
hoạt động chuyên nghiệp nhằm mục đích giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng
đồng trong hoàn cảnh khó khăn, để họ tự phục hồi chức năng hoạt động trong
xã hội và để tạo ra các điều kiện thuận lợi cho họ đạt được những mục đích
của cá nhân (nguồn: giáo trình “nhập môn công tác xã hội”, Lê Văn Phú,

Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

11


Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội,
3/2008, tr.28).
Theo liên đoàn chuyên nghiệp xã hội quốc tế- IFSW (đưa ra tại Đại hội
Montreal-tháng 7/2000): CTXH chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội
việc giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ con người và sự tăng quyền
lực và giải phóng người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải
mái dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội,
CTXH can thiệp ở các điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ.
Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề (nguồn:
giáo trình “nhập môn công tác xã hội”, Lê Văn Phú, trường Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 3/2008, tr.28).
Theo Nguyễn Thị Oanh (Đại học mở bán công TP HCM): CTXH là hoạt
động thực tiễn mang tính tổng hợp cao, được thực hiện theo các nguyên tắc và
phương pháp nhất định nhằm hỗ trợ cá nhân và nhóm người trong việc giải
quyết các vấn đề đời sống của họ, qua đó CTXH theo đuổi mục tiêu vì phúc
lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội. CTXH là hoạt động thực tiễn bởi
họ luôn làm việc trực tiếp với đối tượng với nhóm người cụ thể và mang tính
tổng hợp cao, bởi người làm CTXH phải làm việc với nhiều vấn đề khác nhau
như: tệ nạn xã hội, vấn đề người nghèo, vấn đề gia đình. CTXH không giải
quyết mọi vấn đề của con người và xã hội mà chỉ nhằm vào những vấn đề
thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của con người. Đó là an sinh xã hội hay
phúc lợi xã hội đồng thời hỗ trợ con người giải quyết vấn đề đời sống cụ thể

của họ nhằm đem lại sự ổn định, hạnh phúc cho mọi người và phát triển cho
cộng đồng, xã hội (nguồn: giáo trình “nhập môn công tác xã hội”, Lê Văn
Phú, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội,
3/2008, tr.28).
Nói chung CTXH được hiểu như sau: CTXH là một ngành khoa học, một
nghề chuyên môn vận dụng những kiến thức, kĩ năng, tay nghề để hỗ trợ cho
thân chủ (cá nhân, nhóm, gia đình, cộng đồng yếu thế) nhằm khôi phục, tăng
Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

12

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

cường, phát triển các chức năng xã hội cho thân chủ thông qua các hoạt động
xã hội đặc thù tác động vào các mối quan hệ xã hội của đối tượng tạo nên sự
tương tác giữa con người và môi trường xung quanh.
Dù được hiểu theo nghĩa nào thì CTXH cũng được hiểu là một hoạt động
mang tính chất tổng hợp cao, là ngành khoa học có tính chất liên ngành với
nhiều chức năng, CTXH có phương pháp linh hoạt và tuân thủ theo những
quy điều đạo đức riêng.
1.1.5. Khái niệm NV CTXH
Nhân viên CTXH là người được đào tạo một cách chuyên nghiệp về
CTXH có bằng cấp chuyên môn. Đó là những người có khả năng phân tích
vấn đề xã hội, có khả năng làm việc độc lập hoặc theo nhóm để giúp đỡ thân

chủ của mình vượt qua khó khăn, tự mình vươn lên trong cuộc sống (nguồn:
giáo trình “nhập môn công tác xã hội”, Lê Văn Phú, trường Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội,3/2008, tr.66).
Đối với đề tài này NV CTXH cũng được hiểu theo nghĩa trên và đặc biệt là
nhân viên công tác xã hội ở đây phải biết kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và
thực tiễn, biết áp dụng các phương pháp, kĩ năng chuyên môn vào thực hành
nghiên cứu.
1.1.6. Khái niệm hỗ trợ
Hỗ trợ có thể được hiểu như là những biện pháp chuyên dụng nhằm duy
trì những điều kiện đủ để tồn tại cho các đối tượng yếu thế trong hoạt động
đời sống của mình. Trong hệ thống công tác xã hội, hỗ trợ không chỉ là hoạt
động nhất thời mà là hoạt động thường xuyên mang tính kế hoạch với ý nghĩa
đáp ứng một phần các yêu cầu của đối tượng CTXH (nguồn: giáo trình “nhập
môn công tác xã hội”, Lê Văn Phú, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 3/2008, tr.63).
Trong đề tài này khái niệm hỗ trợ cũng có thể được hiểu như trên.
1.1.7. Khái niệm chăm sóc người cao tuổi
Chăm sóc là hoạt động nhằm duy trì, điều chỉnh vào lúc cần thiết để phục
hồi khả năng hoạt động bình thường của cơ thể, tạo được trạng thái thoái mái
Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

13

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội


về vật chất và tinh thần cho cá nhân (nguồn: bài giảng: công tác xã hội với
người cao tuổi, GV. Nguyễn Thị Phương Mai, Trường Đại học Công Đoàn).
Chăm sóc người cao tuổi là hoạt động tổ chức chăm sóc sức khỏe đời
sống vật chất và tinh thần cho nhóm người cao tuổi trong xã hội đảm bảo cho
họ những quyền lợi cơ bản như quyền được nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, tiếp
cận các dịch vụ y tế, văn hóa, xã hội có môi trường sống tốt đẹp trong gia
đình và xã hội (nguồn: bài giảng: công tác xã hội với người cao tuổi, GV.
Nguyễn Thị Phương Mai, Trường Đại học Công Đoàn).
1.1.8. Khái niệm công tác xã hội với người cao tuổi.
Là một phương pháp giúp cho từng đối tượng người cao tuổi cụ thể thông
qua quan hệ tương tác giữa nhân viên xã hội với người cao tuổi từ đó trợ giúp
đối tượng trong quá trình trị liệu (nguồn: bài giảng: công tác xã hội với người
cao tuổi, GV. Nguyễn Thị Phương Mai, Trường Đại học Công Đoàn).
1.2.

Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết nhu cầu.

Nhu cầu là hiện tượng tâm lý của con người: Là đòi hỏi mong muốn,
nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển.
Tuỳ theo mức độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý,
mỗi người cũng có những nhu cầu khác nhau.
Đối với con người, để đảm bảo cho sự sống, sự phát triển cả về thể chất
và tinh thần đòi hỏi phải đủ các yếu tố cần thiết. Điều đó cũng có nghĩa là các
nhu cầu cơ bản của con người cần được đáp ứng. Theo quan niệm của Mác
“nhu cầu là đòi hỏi khách quan của mỗi con người trong những điều kiện nhất
định, đảm bảo cho sự sống và phát triển của mình ”. Nếu nhu cầu được thỏa
mãn sẽ đem lại những yếu tố tích cực cho sự phát triển con người (trích từ:
giáo trình “nhập môn công tác xã hội”, Lê Văn Phú, trường Đại học Khoa học

xã hội và nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 3/2008, tr.63).

Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

14

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận
được, nhu cầu của cá nhân là đa dạng và vô tận, nó là yếu tố thúc đẩy con
người hoạt động, nó chi phối con người. Nhu cầu của con người là không ổn
định luôn luôn biến đổi theo quy luật, nhu cầu của con người không bao giờ
được thoả mãn cùng một lúc bởi ham muốn của con người là không giới hạn.
Lý thuyết nhu cầu đáp ứng cho con người tồn tại và phát triển như: nhu
cầu muốn được tôn trọng và nhu cầu muốn thể hiện bản thân.
Maslow chia nhu cầu thành 5 loại theo thứ tự bậc thang:
- nhu cầu vật chất: thức ăn, không khí, nước uống,…
- nhu cầu được an toàn: là nhu cầu tự duy trì và chuẩn bị cho tương lai vững
chắc, ổn định về thu nhập, việc làm,…
- nhu cầu xã hội: được hội nhập, thuộc vào nhóm nào đó,…
- nhu cầu tự khẳng định chính mình: nhu cầu hoàn thiện, được thể hiện khả
năng của mình.
- được coi trọng: được chấp nhận có một vị trí trong xã hội, được đánh giá
cao.

phân biệt các loại nhu cầu xã hội của con người trong từng điều kiện, hoàn
cảnh nhất định, thấy được mối quan hệ nhu cầu xã hội của con người cũng là
mục đích của nghề CTXH.
Áp dụng lý thuyết nhu cầu vào trong đề tài nghiên cứu để nhìn nhận,
đánh giá nhu cầu của nhóm người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa trên
địa bàn xã Đồng Lạc, trong đó chủ yếu nghiên cứu về nhu cầu chăm sóc và
nâng cao sức khỏe và ngoài ra là nhu cầu vật chất và nhu cầu được an toàn,
nhu cầu được coi trọng, chấp nhận trong xã hội của nhóm người cao tuổi cô
đơn không nơi nương tựa ở xã Đồng Lạc để từ đó đưa ra hướng trợ giúp phù
hợp cho nhóm đối tượng này, phân tích xem nguyên nhân dẫn đến những nhu
cầu này không được đáp ứng, những nhu cầu đó đã được thực hiện như thế

Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

15

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

nào và cho thấy được vai trò của công tác xã hội trong việc giúp đỡ đáp ứng
nhu cầu của nhóm đối tượng.
1.2.2. Lý thuyết vai trò.
Vai trò là những khuôn mẫu ứng xử khác nhau do xã hội áp đặt cho mỗi
chức vị của con người trong xã hội đó. Có hai loại vai trò khác nhau: vai trò
hiện và vai trò ẩn. Vai trò hiện là vai trò bên ngoài mọi người đều có thể thấy

được. Vai trò ẩn là vai trò không biểu lộ ra bên ngoài mà có khi chính người
đóng vai trò đó cũng không biết. Vì một người có thể có nhiều vai trò khác
nhau, những khuôn mẫu ứng xử do xã hội áp đặt có thể mâu thuẫn với nhau
(Trích từ Tập tài liêu: Công tác xã hội-Lý thuyết và thực hành, Trần Đình
Tuấn).
Trong thực hành CTXH người ta xem xét vai trò ở những khía cạnh đó là:
Mong đợi vai trò: đây là cách xã hội quy định về vai trò, về mong đợi mà
vai trò đó thực hiện.
Thể hiện vai trò: Cách con người thể hiện vai trò của mình như thế nào.
Ý thức vai trò: đó là những suy nghĩ của bản thân về những gì mà người
khác mong đợi ở họ.
Áp lực vai trò: khi cá nhân phải thực hiện vai trò của mình và vai trò của
người khác cùng một lúc thì cá nhân đó có thể thích nghi hoặc không thể
thích nghi để có thể thực hiện được cả hai vai trò đó.
Vai trò thể hiện những mong đợi xã hội gắn với những vị thế cụ thể và
phân tích thực hiện những mong đợi. Mỗi cá nhân có một loại vai trò được
đem lại từ những hình mẫu xã hội khác nhau mà chủ thể đó tạo giữ. Trong
tiến trình cuộc đời của mỗi cá nhân thực hiện một số vai trò khác nhau lần
lượt hoặc đồng thời và tổng hợp tất cả các vai trò trong xã hội của chủ thể đó
được thực hiện từ khi chủ thể đó được sinh ra cho tới lúc chết đi, tại thành
nhân cách xã hội của chủ thể đó (theo Ralph Linton).

Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

16

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

Vai trò của nhân viên CTXH ở đây là giúp nhóm người cao tuổi cô đơn
không nơi nương tựa thấy được những vai trò khác nhau họ có thể đóng tùy
theo hoàn cảnh cá nhân và tài nguyên có thể huy động được.
Áp dụng lý thuyết này nhằm tìm hiểu vai trò của nhân viên công tác xã
hội trong trợ giúp chăm sóc nhóm người cao tuổi cô đơn không nơi nương
tựa trên địa bàn xã Đồng Lạc hay là hoạt động trợ giúp nhóm đối tượng trên
cơ sở mong đợi của nhân viên công tác xã hội và nhóm đối tượng.
1.2.3. Lý thuyết hệ thống và sinh thái
Hệ thống là tập hợp các bộ phận, các quá trình có mối quan hệ tác động qua
lại với nhau và được sắp xếp theo một trật tự nhất định. Mỗi hệ thống sẽ nằm
trong một hệ thống khác và đồng thời cũng có thể chia thành nhiều hệ thống
khác nhỏ hơn. Nó luôn có sự liên kết và mâu thuẫn với nhau.
Sinh thái có nghĩa là môi trường bao gồm môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội. Mỗi cá nhân, nhóm, cộng đồng đều gắn liền và chịu sự tác
động của môi trường này trong quá trình tồn tại và phát triển.
Hệ thống sinh thái là tổng hợp của tất cả các hệ thống tồn tại, tác động lẫn
nhau trong môi trường. Nó không chỉ là hệ thống của một người mà là của
tổng hòa tất cả các hệ thống cá nhân, nhóm, gia đình, cộng đồng.
Đây là lý thuyết cho thấy hệ thống là một tổng thể phức tạp gồm nhiều
yếu tố liên quan. Mỗi cá nhân trong xã hội thuộc vào môi trường, hoàn cảnh
sống và tạo thành một thể thống nhất, chịu sự tác động của hệ thống khác nằm
trong đại hệ thống. Trong hệ thống ấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng, chi phối
đến hành vi của con người.
Lý thuyết này cho ta thấy sự liên hệ giữa các hệ thống, vai trò của cá nhân
trong môi trường sống. Trong mỗi môi trường sinh thái các yếu tố có mối liên
hệ ràng buộc với nhau và để hiểu được một yếu tố nào đó trong môi trường

phải hiểu cả hệ thống môi trường xung quanh cá nhân đó. Vận dụng lý thuyết
Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

17

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

này để nghiên cứu tìm hiểu thân chủ không phải là yếu tố riêng biệt mà nằm
trong hệ thống có sự tương tác qua lại với nhau từ đó mới có giải pháp phù
hợp cho thân chủ, tất cả các vấn đề của thân chủ được nhìn nhận một cách
tổng thể trong mối quan hệ với các yếu tố khác. Vì vậy vận dụng lý thuyết
này trong đề tài nghiên cứu để phân tích, xem xét những khó khăn mà thân
chủ, nhóm thân chủ gặp phải trong cuộc sống hàng ngày một cách tổng thể
trong mối quan hệ với các yếu tố kinh tế xã hội của địa phương đồng thời tìm
hiểu hệ thống trợ giúp đối với nhóm đối tượng trên địa bàn xã Đồng Lạc từ đó
đánh giá hiệu quả của công tác xã hội trong trợ giúp nhóm đối tượng trên địa
bàn xã Đồng Lạc.
1.3.

Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Đề tài về người cao tuổi là đề tài mà nhiều người quan tâm tính đến

nay cũng đã có khá nhiều bài viết về người cao tuổi. Dưới đây là một số bài
tiêu biểu:

Tiến sĩ Hoàng Mộc Lan Khoa Tâm lý học Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, “Đời sống tinh thần của người cao tuổi ở Việt Nam hiện
nay”, lib.ussh.vnu.edu.vn, 2007.
Bài viết đề cập đến nhu cầu của người cao tuổi, hoạt động lao động để
kiếm sống của họ và mối quan hệ xã hội của người cao tuổi. Bài viết nêu lên
nhu cầu của người cao tuổi như sau: “Nhu cầu được làm việc, tiếp tục cống
hiến cho gia đình và xã hội phù hợp với sức khỏe và điều kiện của từng người
cao tuổi cũng là một yêu cầu của các vị cao niên. Đến hết tuổi lao động thì
hưởng chế độ nghỉ hưu song nhiều người cao tuổi vẫn có nhu cầu làm việc để
có thêm thu nhập, để được sống có ích, ngoài việc tự mỗi người phấn đấu để
có sự cống hiến, nhiều vị cao niên vẫn muốn được gia đình và xã hội quan
tâm giải quyết và tạo điều kiện thuận lợi”.
( nguồn: lib.ussh.vnu.edu.vn, [tr.1] ).

Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

18

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

Bên cạnh đó tác giả còn điều tra đưa ra số liệu về nhu cầu được chăm sóc
sức khỏe người cao tuổi như sau: “ Nhiều cuộc điều tra cho thấy, có tới 95%
các cụ cao tuổi có bệnh và có nhu cầu chữa bệnh, nhưng nhu cầu này chưa
được đáp ứng. Hiện nay chỉ có nhóm người về hưu được khám chữa bệnh tốt

hơn các nhóm khác, nhờ Nhà nước bỏ tiền để mua bảo hiểm y tế cho họ. Gần
đây nhóm người già cô đơn không nơi nương tựa, người cao tuổi nghèo ở một
số địa phương được cấp phát thẻ khám và chữa bệnh miễn phí hoặc thẻ bảo
hiểm y tế. Nhìn chung số người cao tuổi được hưởng chế độ này còn rất ít và
hiệu quả của việc khám, chữa bệnh cho người cao tuổi rất hạn chế. Tuy sức
khỏe của người cao tuổi những năm gần đây có khá hơn trước nhưng hiện tại
sức khỏe người cao tuổi vẫn còn rất kém. Số người sức khỏe khá tốt mới có
5,7% và kém còn tới 22,9%.”
( nguồn: lib.ussh.vnu.edu.vn, [tr.2] ).
Từ những nội dung mà tác giả đưa ra ở trên ta có thể áp dụng vào đề tài
nghiên cứu của mình để đi sâu nghiên cứu về nhu cầu của thân chủ dựa trên
những nhu cầu mà tác giả đã nêu như nhu cầu về thu nhập, nhu cầu về chăm
sóc sức khỏe, nhu cầu được quan tâm và tôn trọng và từ đó có thể tìm thấy
giải pháp phù hợp đáp ứng nhu cầu của thân chủ. Đối với đề tài của mình
không những nghiên cứu về nhu cầu mà tôi sẽ nghiên cứu về yếu tố tác động
đến nhu cầu của nhóm thân chủ.
Đàm Viết Cương, Trần Thị Mai Oanh, Dương Huy Lương, Khương Anh
Tuấn và cộng sự Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, “Nghiên cứu đánh giá
tình hình Chăm Sóc Sức Khỏe người cao tuổi ở Việt Nam”, www.hspi.org.vn,
Ngày 28/06/2007.
Bài viết này đi sâu đánh giá tình hình sức khỏe của người cao tuổi và
tình hình sử dụng dịch vụ y tế và chăm sóc cho người cao tuổi như: “Tỷ lệ ốm
của nhóm người cao tuổi cao hơn các nhóm tuổi khác. Phụ nữ cao tuổi có tỷ
lệ mắc bệnh cao hơn nam giới. Theo kết quả nghiên cứu điều tra tại 3 tỉnh và
Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

19

Lớp: CT8A



Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

một số nghiên cứu khác, khoảng 60% người cao tuổi bị ốm trong thời gian 4
tuần trước thời điểm điều tra. Hơn một nửa (53,5%) số người cao tuổi trên địa
bàn nghiên cứu tự đánh giá có tình trạng sức khoẻ kém và rất kém. Tuổi là
một yếu tố có mối liên quan chặt chẽ với tình trạng sức khỏe. Tình trạng
người cao tuổi tự đánh giá sức khỏe kém tăng lên rõ rệt theo tuổi và tỷ lệ ốm
tăng dần theo nhóm tuổi.
Khoảng 70% số người cao tuổi được điều tra tại 3 tỉnh cho biết có mắc
triệu chứng/bệnh mạn tính. Triệu chứng/bệnh mạn tính thường gặp ở người
cao tuổi là đau khớp (42%), tăng huyết áp (28%), đau lưng (21%) và bệnh về
mắt (25%). Bệnh không nhiễm trùng có xu hướng trở nên phổ biến ở khu vực
nông thôn. Tăng huyếp áp mạn tính là bệnh thường gặp ở người cao tuổi
(28,4%)
Về nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, số điểm trầm cảm ở người cao tuổi có
mối liên quan chặt chẽ với tình trạng sức khỏe, tình trạng sống độc thân do
góa bụa và tình trạng kinh tế. Khoảng 5% người cao tuổi trong diện điều tra
có biểu hiện của trầm cảm.
Đối với ốm cấp tính, hình thức tự điều trị và sử dụng dịch vụ y tế tư
nhân vẫn là hai hình thức phổ biến trong sử dụng dịch vụ y tế của người cao
tuổi. Chỉ khoảng 40% người cao tuổi sử dụng dịch vụ y tế nhà nước khi bị
ốm. Những người trên 85 tuổi có tỷ lệ sử dụng dịch vụ bệnh viện thấp hơn 2
lần so với nhóm tuổi từ 60-64 do khả năng đi lại hạn chế. Tại 3 tỉnh nghiên
cứu, người cao tuổi ở 2 tỉnh Hải Dương và Ninh Thuận có xu hướng tự điều
trị và sử dụng dịch vụ y tế tư nhân cao hơn tỉnh Vĩnh Long.
Đối với bệnh mạn tính, đến cơ sở y tế nhà nước để chẩn đoán bệnh là

hình thức phổ biến ở cả 3 tỉnh điều tra. Tuy nhiên, tỷ lệ người cao tuổi tự chẩn
đoán bệnh cũng tương đối cao, chiếm khoảng 27%. Sử dụng dịch vụ y tế tư
nhân trong điều trị bệnh mạn tính là hình thức phổ biến ở cả 3 tỉnh. Phụ nữ

Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

20

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

cao tuổi có xu hướng sử dụng dịch vụ y tế tư nhân với tỷ lệ cao hơn nam giới,
trong khi nam giới cao tuổi lại sử dụng dịch vụ bệnh viện với tỷ lệ cao hơn ”
( nguồn: www.hspi.org.vn, [tr.7] ).
Từ bài viết trên tác giả đã cho thấy tình hình sức khỏe hiện nay của NCT
như thế nào và qua đó ta có thể hiểu được nhiều hơn về các bệnh mà NCT
thường gặp và nguyên nhân mắc bệnh cũng như là tại sao họ không tiếp cận
được với dịch vụ y tế tốt. Đối với đề tài của mình tôi đi sâu vào nghiên cứu
thực trạng chăm sóc sức khỏe NCT cô đơn không nơi nương tựa trên địa bàn
xã Đồng Lạc.
Những bài viết trên đã cho ta thấy hiểu hơn về NCT và càng hiểu sâu sắc
về tâm lý của NCT, quan hệ gia đình sẽ tác động nhiều đến tâm lý và sức
khỏe của họ. Cuộc sống của NCT sẽ khó khăn hơn bởi vấn đề sức khỏe thể
chất.
Mới đây tổng cục dân số kế hoạch hóa gia đình đã xây dựng và triển khai

thí điểm đề án tư vấn và chăm sóc NCT dựa vào cộng đồng ở 7 tỉnh thành cho
ta thấy được để chăm sóc sức khỏe NCT được tốt thì trước tiên phải có sự tư
vấn tốt, phải giải thích được cho họ thấy những gì cần lưu ý đối với sức khỏe
của mình.
Từ những đề tài này ta có thể biết nhiều hơn về NCT từ đó học hỏi và phát
huy đối với đề tài nghiên cứu của mình đưa ra có cái nhìn mới về NCT đặc
biệt là NCT cô đơn không nơi nương tựa và thể hiện tốt hơn vai trò của nhân
viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ chăm sóc NCT cô đơn không nơi nương
tựa.
1.4.

Một số văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề nghiên cứu

a. Những chủ trương của Đảng

Đảng và nhà nước ta luôn tiếp thu quan điểm của Bác Hồ về NCT.
Trong Hiến pháp năm 1946, Điều 14 quy định: “Những công dân già cả hoặc
Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

21

Lớp: CT8A


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: NCS Lê Thị Thúy Ngà

Khoa công tác xã hội

tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ”. Điều này thể hiện tính nhân

văn nhằm giúp đỡ những NCT không còn sức lao động và họ có quyền được
giúp đỡ.
Điều 32 của Hiến pháp 1959 ghi rõ: “Giúp đỡ người già, người đau yếu và
tàn tật. Mở rộng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm sức khoẻ và cứu trợ xã hội…”.
Điều này tức là người già hay còn gọi là NCT là một trong những đối
tượng cần được giúp đỡ và cần mở rộng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm sức khỏe
và cứu trợ xã hội cho đối tượng này.
Điều 64 của Hiến pháp 1992 quy định: “…Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy
con cái. Con cái có trách nhiệm kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ… ”.
Và Điều 87 Hiến pháp ghi rõ: “Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi
nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ”.
Điều này cũng giống với điều luật trên cho rằng người cao tuổi có quyền
được trợ giúp.
Sau khi Hội NCT Việt Nam được thành lập (10/5/1995), Ban Bí thư TW
đã ban hành Chỉ thị 59/CT-TW “Về chăm sóc người cao tuổi”, quy định:
“Việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của NCT là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc, các ban đảng,
các đoàn thể nhân dân cần giúp đỡ Hội hoạt động có hiệu quả thiết thực, phối
hợp với Hội trong việc vận động gia đình và xã hội chăm sóc, bồi dưỡng, phát
huy NCT phục vụ công cuộc đổi mới. Nhà nước cần dành ngân sách để giải
quyết các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề chăm sóc NCT. Trước hết cần
quan tâm chăm sóc những NCT có công, cô đơn không nơi nương tựa,…”.
Thông báo số 12-TB/TW ngày 13 tháng 6 năm 2001 đã khẳng định Hội
NCT Việt Nam là tổ chức xã hội của NCT, có các nhiệm vụ đã được quy định
cụ thể tại Pháp lệnh NCT; Trong bài phát biểu tại cuộc gặp mặt nhân ngày
quốc tế NCT (01/10/2002) do TW Hội NCT Việt Nam tổ chức tại Hà Nội,
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nói: “…NCT thực sự là một bộ phận hợp
Sinh Viên: Nguyễn Thị Hồng

22


Lớp: CT8A


×