Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp ở nam định hiện nay luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VĂN HẬU

THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
Ở NAM ĐỊNH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS - TS. LÊ DANH TỐN

Hà Nội – 2011
cv 2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

DA

Dự án

DDI


Đầu tư trong nước

DN

Doanh nghiệp

DNLD

Doanh nghiệp liên doanh

ĐTNN

Đầu tư nước ngoài

FDI

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài

KCN

Khu công nghiệp

KCX

Khu chế xuất

KT - XH

Kinh tế - xã hội


Nxb

Nhà xuất bản

QMBQ

Quy mô bình quân

Stt

Số thứ tự

TLGN

Tỷ lệ giải ngân

UBND

Uỷ ban nhân dân

VĐK

Vốn đăng ký

VTH

Vốn thực hiện

iv



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu kinh tế của Nam Định thời kỳ 2000 - 2009 …………. ...... 43
Bảng 2.2. Cơ cấu sử dụng đất trong KCN Hoà Xá .................................................... 54
Bảng 2.3. Cơ cấu sử dụng đất trong KCN Mỹ Trung ................................................ 55
Bảng 2.4. Cơ cấu sử dụng đất trong KCN Bảo Minh ................................................ 56
Bảng 2.5. Dự án FDI được cấp mới vào các KCN của Nam Định, giai đoạn 2003 2009 ................................................................................................................. 58
Bảng 2.6. Cơ cấu dự án thu hút FDI theo các KCN Nam Định, giai đoạn 2003 - 2009 ...... 59
Bảng 2.7. Cơ cấu dự án FDI theo hình thức đầu tư trong các KCN của Nam Định, giai
đoạn 2003 - 2009 ................................................................................................ 60
Bảng 2.8. Cơ cấu dự án FDI phân theo quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào các KCN của
Nam Định, giai đoạn 2003 - 2009......................................................................... 61
Bảng 2.9. Cơ cấu VTH phân theo hình thức đầu tư trong các KCN tập trung của Nam
Định, giai đoạn 2003 - 2009 ………………………………… ...................................63
Bảng 2.10. Cơ cấu VTH theo KCN tập trung của Nam Định, giai đoạn 2003 -

2009 ................................................................................................................. 64
Bảng 2.11. Tình hình sản xuất kinh doanh của các DN FDI trong KCN ................ 66

v


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khu công nghiệp là một mô hình kinh tế hiện đại để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, mô hình kinh tế này đã được nhiều
nước áp dụng và thực sự được coi là một trong những công cụ có hiệu quả để
thực hiện chiến lược công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Thành công
của một số nước công nghiệp mới châu Á và Trung Quốc trong phát triển các

KCN cho thấy các KCN đã trở thành những thực thể kinh tế năng động nhất
trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo nguồn lực xuất khẩu, đẩy mạnh
tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, nhiều KCN đã được xây dựng và
phát triển, phát huy tác dụng tích cực trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đẩy mạnh xuất khẩu, giải quyết việc làm...
Cùng với sự phát triển các KCN của cả nước, các KCN ở Nam Định ra đời
đã trở thành một trong những địa điểm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước,
tạo động lực cho quá trình phát triển KT - XH của tỉnh. Tuy nhiên, các dự án
đầu tư vào KCN triển khai chậm; hầu hết các dự án đầu tư có quy mô nhỏ,
nguồn vốn đầu tư chủ yếu là nguồn vốn trong nước, vốn FDI rất hạn chế; nhu
cầu đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển dịch vụ, các ngành phụ trợ ở
các KCN rất lớn nhưng vốn huy động được quá ít. Mặc dù trong những năm
vừa qua tỉnh Nam Định đã có nhiều cố gắng song do nhiều yếu tố tác động nên
số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Nam Định còn hạn chế. Thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Nam Định nói chung và vào các KCN của tỉnh nói
riêng chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh.

1


Thu hút được nhiều FDI vào các KCN ở Nam Định trong thời gian tới là
một vấn đề cấp bách. Xuất phát từ thực tế đó, tác giả chọn vấn đề "Thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp ở Nam Định hiện nay" làm
đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về KCN nói chung và thu hút FDI vào
các KCN nói riêng, có thể nêu lên một số công trình chủ yếu sau:

- Nguyễn Khắc Thanh (2005), “Xây dựng và phát triển KCN Đồng Nai,
những thành tựu và kinh nghiệm bước đầu”, Tạp chí KCN Việt Nam số 62. Tác
giả đã phân tích một số thành tựu và kinh nghiệm của quá trình xây dựng và phát
triển các KCN của Đồng Nai.
- Lê Phương Hiếu (2006), “Phát triển các KCN, KCX đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí tài chính DN số 8. Tác giả đã phân
tích vai trò của các KCN, KCX đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước
- Nguyễn Hữu Dũng (2006), “Phát triển các KCN với vấn đề lao động và
việc làm ở Việt Nam”, Tạp chí lao động và xã hội số 291. Tác giả đã phân tích
và đưa ra những đánh giá về sự hình thành và phát triển các KCN đã tác động
tới tình hình lao động và việc làm ở Việt Nam.
- Mai Ngọc Cường (1993): “Các KCX châu Á – Thái Bình Dương”, Nxb
Thống kê. Tác giả đã phân tích những vấn đề cơ bản về tổ chức KCX, kinh
nghiệm thành bại của một số KCX châu Á Thái Bình Dương và đề xuất một số
giải pháp nhằm phát triển các KCX ở Việt Nam.
- Trương Thị Minh Tâm (2004): “Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và
hiệu lực pháp lý quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở các KCN, KCX”,
Nxb Khoa học Xã hội.

2


- Nguyễn Chơn Trung, Trương Giang Long (2004), “Phát triển các KCN,
KCX trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
- Luận án Tiến sĩ của tác giả Chế Đình Hoành (1996): “cải tạo và hoàn
thiện các KCN Hà Nội theo định hướng phát triển đến năm 2010”. Luận án đưa
ra những cơ sở khoa học của việc cải tạo và phát triển các KCN ở Hà Nội trên
cơ sở đó đề xuất giải pháp phát triển các KCN ở Hà Nội trong thời gian tới.

- Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Xuân Hinh (2003), “ quy hoạch và phát
triển KCN Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”. Luận án đã phân tích thực trạng
quy hoạch và phát triển các KCN ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp
phát triển các KCN ở Việt Nam.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Tuyển Cử (2004), “Những biện pháp phát
triển và hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với KCN ở Việt Nam”. Luận
án đã phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với các KCN ở Việt
Nam, trên cơ sở đó luận án đã đưa ra những biện pháp nhằm phát triển và hoàn
thiện công tác quản lý nhà nước đối với các KCN ở Việt Nam.
- Luận án Tiến sĩ của tác giả Trần Văn Hân (2006): “Giải pháp mở rộng tín
dụng ngân hàng đối với DN trong các KCN tại thủ đô Hà Nội”. Luận án phân
tích, đánh giá thực trạng về tín dụng ngân hàng trong các KCN Hà Nội, đồng
thời đưa ra những kiến nghị và giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với
các DN tại các KCN ở Hà Nội.
Các công trình trên đã nghiên cứu nhiều vấn đề liên quan trực tiếp và gián
tiếp đến thu hút FDI vào các KCN ở Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
công trình nào nghiên cứu về thu hút FDI vào các KCN ở tỉnh Nam Định một
cách hệ thống và dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì vậy, việc nghiên
cứu thực trạng và đưa ra giải pháp đồng bộ nhằm thu hút FDI vào các KCN ở
Nam Định hiện nay là vấn đề rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3


3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng, đề xuất hệ thống các giải pháp đẩy mạnh thu hút FDI
vào các KCN ở Nam Định.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hút FDI vào các KCN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút FDI vào các KCN ở Nam Định
trong những năm qua.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh thu hút FDI vào các
KCN ở Nam Định trong trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động thu hút
FDI vào các KCN tập trung ở Nam Định.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút FDI
vào các KCN ở Nam Định từ năm 2003 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước ta về phát triển các KCN và thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Kế thừa những kết quả nghiên cứu liên quan đến thu hút FDI vào các
KCN của các công trình khoa học trong nước và ngoài nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp
hệ thống, thống kê, phân tích - tổng hợp, kết hợp lôgic - lịch sử, khảo sát thực tế,
tổng kết thực tiễn...
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào các KCN, bước đầu tổng kết kinh nghiệm của một số tỉnh trong nước
về thu hút FDI vào các KCN.

4


- Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút FDI vào các KCN ở tỉnh Nam Định.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm đẩy mạnh thu hút
FDI vào các KCN ở Nam Định thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 10 tiết.

5


Chương 1
CƠ CỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
THU HÚT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của KCN
1.1.1. Khái niệm KCN
Thuật ngữ KCN xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX - khi các KCN bắt đầu được
hình thành và phát triển. Có nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về KCN.
Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc
(UNIDO) trong tài liệu KCX tại các nước đang phát triển (Export processing
Zone in Developing Countries) công bố năm 1990 thì KCN là khu vực tương đối
nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào
các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công
nghiệp này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần
lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà.
Theo quan điểm của Hiệp hội Thế giới về KCX (World Export Processing Zone
Association - WEPZA), KCX là tất cả khu vực được Chính phủ các nước cho
phép thành lập và hoạt động như Cảng tự do, Khu mậu dịch tự do, KCN tự do
hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được tổ chức này công
nhận. Cũng từ quan điểm này, do nhu cầu phát triển của các mối quan hệ thương
mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng, xuất phát từ yêu cầu bức thiết
của quá trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của các nước đang phát triển,
khái niệm này đã được bổ sung bằng những quan niệm mới như: Khu kinh tế

mở, Thành phố mở, Đặc khu kinh tế...
Các nước như Thái Lan, Philippin quan niệm KCN như một thành phố công
nghiệp, vì thực tế KCN là một cộng đồng tự túc và độc lập. Ngoài việc cung cấp cơ
sở hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải, KCN còn

6


bao gồm khu thương mại, dịch vụ ngân hàng, trường học, bệnh viện, các khu vui
chơi giải trí, nhà ở cho công nhân...Các KCN ở Indonesia và Thái Lan thường gồm
ba bộ phận chủ yếu: khu sản xuất hàng tiêu thụ nội địa, khu sản xuất hàng xuất khẩu
và khu thương mại và dịch vụ [18, tr.30,31,33].
Tuy nhiên, cũng có những quan niệm cho rằng KCN là một khu vực phụ
(Subregion), không nhất thiết phải có sự ngăn cách, biệt lập.
Ở Việt Nam, quy chế KCN (Ban hành kèm theo Nghị định số 192-CP ngày
28/12/1994 của Chính phủ) đã đưa ra quan niệm: "KCN quy định trong quy chế
này là KCN tập trung do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác
định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công
nghiệp, không có dân cư sống" [3, tr.1].
Trong mục 1, điều 2 tại Nghị định 36-CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ về
quy chế KCN, KCX và khu công nghệ cao: “KCN là khu tập trung các DN KCN
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ
hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, trong KCN có thể có DN chế
xuất” [4, tr.1].
Nhìn chung, các tiêu chí để hình thành một KCN bao gồm:
- KCN phải do Chính phủ hoặc do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành
lập.
- KCN là nơi tập trung các DN có đủ cơ sở pháp lý, chuyên sản xuất hàng
công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.

- KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống.
- Trong KCN có thể có DN chế xuất, đó là các DN chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt
động xuất khẩu.

7


Trên cơ sở 4 tiêu chí trên, tác giả luận văn thống nhất với khái niệm về
KCN đã được nêu ra Theo luật đầu tư được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005
có hiệu lực thi hành từ 01/7/2006:
- “KCN là khu sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản
xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của
Chính phủ” [21].
- “Khu chế xuất là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, có ranh giới địa lý
xác định được thành lập theo quy định của Chính phủ” [21].
- “Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công
nghệ cao, ươm tạo DN công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất
và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có ranh giới địa lý xác định, được thành
lập theo quy định của Chính phủ” [21].
Với khái niệm như vậy, KCN của Việt Nam được hiểu là KCN tập trung,
không có dân cư sinh sống nhằm giải quyết tốt hơn vấn đề hạ tầng và ô nhiễm
môi trường, có phân biệt với các vùng công nghiệp (bao gồm nhiều KCN), với
các đặc khu kinh tế (có bộ máy quản lý hành chính độc lập). Theo quan niệm của
Việt Nam, các KCX (chuyên sản xuất hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ cho sản
xuất hàng hoá xuất khẩu), khu công nghệ cao (tập trung các DN có công nghệ
cao hoặc DN dịch vụ cho các DN có công nghệ cao) chỉ là hình thái đặc thù của
KCN tập trung (dưới đây gọi chung là KCN).
1.1.2. Đặc điểm đặc trƣng của KCN
Theo quan niệm của Việt Nam, KCN có một số đặc điểm đặc trưng chủ yếu

sau:
- Tập trung tương đối nhiều xí nghiệp trong một khu vực có ranh giới quy
định rõ ràng, cùng chung sử dụng kết cấu hạ tầng sản xuất. Vì vậy, các xí nghiệp
này có điều kiện thuận lợi để tiết kiệm chi phí sản xuất, nhờ vậy hạ giá thành sản
phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm của công ty mình.
- Các xí nghiệp trong KCN thường được hưởng một quy chế riêng của Nhà

8


nước và địa phương sở tại. Các quy chế này thể hiện sự quan tâm, ưu đãi, có
chính sách kinh tế đặc thù, tạo môi trường đầu tư thuận lợi hấp dẫn cho phép các
nhà đầu tư nước ngoài sử dụng phạm vi đất đai nhất định trong KCN để tạo lập
thành các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với những ưu đãi về thủ
tục xin phép và miễn hoặc giảm phí thuê đất, tạo điều kiện thuận lợi cho các xí
nghiệp này phát triển.
- KCN có Ban quản lý chung thống nhất, thực hiện quy chế quản lý thích
hợp, tạo điều kiện thuận lợi và hiệu suất tối đa cho các xí nghiệp công nghiệp và
các DN hoạt động.
- KCN thường có giới hạn địa lý hẹp, khoảng vài chục đến vài trăm ha và
có thể được ngăn cách với xung quanh bởi hàng rào cứng. Không có dân cư sinh
sống trong KCN.
- Hoạt động chính trong KCN là hoạt động sản xuất công nghiệp, sản phẩm
của các nhà máy, DN trong KCN chủ yếu giành cho xuất khẩu, hướng ra thị
trường thế giới. Tuy nhiên, để tăng thu ngoại tệ bằng cách giảm tối đa việc nhập
khẩu các loại máy móc, thiết bị và hàng hoá tiêu dùng, các nhà máy trong KCN
cũng rất quan tâm đến việc sản xuất hàng hoá có chất lượng cao nhằm thay thế
hàng nhập khẩu.
Tuy nhiên, có thể coi khái niệm KCN mà chúng ta sử dụng là khái niệm
hẹp bởi chúng ta chỉ quan tâm chủ yếu đến phần diện tích dành cho việc xây

dựng cơ sở hạ tầng để cho thuê, còn việc xây dựng các công trình phúc lợi xã hội
không nằm trong phạm vi quy định. Quan niệm này dẫn đến một thực tế là khi
xây dựng KCN, người ta không quan tâm đến tính đồng bộ của nó theo nghĩa
rộng, dẫn đến yếu tố bất cập, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả KT - XH của KCN.
1.1.3. Vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế - xã hội
1.1.3.1. Thu hút các nguồn vốn đầu tư
Thực tế trong những năm qua ở nước ta, KCN đã đóng vai trò tích cực vào
việc thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là FDI. Số dự án đầu tư (cả trong nước và ngoài

9


nước) vào các KCN chiếm tỷ trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tư vào các KCN
góp phần quan trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tư của toàn xã hội và sự phát
triển của các DN này còn tạo sức lan toả tới các DN ngoài KCN. Tính đến hết
năm 2009, các KCN của Việt Nam đã thu hút được trên 3.600 dự án đầu tư nước
ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 46,9 tỷ USD (chiếm 30% về số dự án và
25% về vốn đầu tư so với cả nước) và 3.200 dự án đầu tư trong nước với tổng
vốn đầu tư đăng ký 254.000 tỷ đồng [31]. Trong điều kiện nền kinh tế tích lũy
nội bộ còn thấp thì thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng.
KCN là một giải pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn của các DN có vốn đầu tư
nước ngoài. Thực tế từ khi xây dựng KCN cho đến nay, số dự án và tổng số vốn
đầu tư nước ngoài vào KCN không ngừng gia tăng và chiếm tỉ lệ lớn trong tổng
số vốn FDI đầu tư trên cả nước.
Bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, việc tập trung
các DN công nghiệp vào một khu vực địa lý, hình thành KCN tập trung là một
vấn đề không kém phần quan trọng, bởi trong KCN tập trung, các DN dùng
chung các công trình hạ tầng nên giảm được chi phí trên một đơn vị diện tích và
đơn vị sản phẩm, thực hiện phát triển công nghiệp theo một quy hoạch thống
nhất, kết hợp giữa quy hoạch phát triển ngành với quy hoạch lãnh thổ.

1.1.3.2. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
KCN phát triển kéo theo sự phát triển mạnh của các ngành công nghiệp,
những vùng đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả thấp sẽ được chuyển sang xây
dựng KCN để sản xuất công nghiệp có hiệu quả cao hơn nhiều. Sự phát triển của
các KCN góp phần to lớn vào sự hình thành các khu đô thị mới với hàng loạt các
ngành dịch vụ phát triển như thông tin liên lạc, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải và
thương mại. Từ đó, kinh tế của cả nước được tăng trưởng, cơ cấu GDP của nền
kinh tế quốc dân có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị ngành
công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp. Đi theo sự

10


dịch chuyển này, lao động từ nông nghiệp sẽ được di chuyển vào công nghiệp và
dịch vụ sẽ làm giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động
trong công nghiệp và dịch vụ trong tổng số lao động của cả nước.
Trong những năm qua, doanh thu và giá trị kim ngạch xuất khẩu của các
DN trong các KCN, KCX liên tục tăng nhanh đều qua các năm. Doanh thu trung
bình của các DN trong KCN, KCX tăng trưởng trung bình gần 48%/năm, gấp 6,3
lần tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của cả nước. Năm 2005, các DN trong
KCN, KCX đã nộp ngân sách đạt 650 triệu USD, đến năm 2008, các DN này
đóng góp vào ngân sách nhà nước đạt 2.620 triệu USD, cao gấp 4 lần so với
năm 2005. Các KCN, KCX đã góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam, từ năm 2001 – 2010 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt
khoảng 7,2%/năm.
Giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu của các KCN, KCX tăng trưởng
mạnh đã góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam theo hướng tăng
nhanh tỷ trọng công nghiệp trong GDP, từ 23,79% năm 1991 lên 40,24% năm
2009. Trong khi đó, tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp giảm tương ứng từ

40,49% năm 1991 xuống còn 20,66% năm 2009 [27].
Sự chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế này chủ yếu là do tốc độ tăng
trưởng nhanh của những ngành công nghiệp chế biến, hiện nay các ngành công
nghiệp chế biến chiếm tới 80% giá trị sản lượng công nghiệp (trừ ngành khai
thác mỏ) của các DN trong các KCN, KCX.
1.1.3.3. Mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu
Hàng hoá được sản xuất tại các KCN không chỉ đáp ứng được nhu cầu
trong nước mà sẽ thâm nhập vào thị trường thế giới, do đó KCN sẽ góp phần
phát triển mặt hàng, mở rộng thị trường, phục vụ cho chiến lược kinh tế hướng
về xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của các DN KCN, KCX giai đoạn từ
năm 2005 - 2008 là 38,1%. Tính đến ngày 30/12/2009, các KCN trong cả nước
đã xuất khẩu đạt 12,3 tỷ USD và 2,6 nghìn tỷ đồng [31].

11


Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng và cân bằng cán cân thương
mại của mỗi nước cũng như của từng địa phương, thông qua xuất khẩu, lợi thế so
sánh của từng địa phương sẽ được khai thác có hiệu quả hơn. Trong quá trình
toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, dù DN có khả năng sản xuất với mức chi phí thấp
cũng vẫn gặp khó khăn trong việc thâm nhập thị trường, nhất là thị trường thế
giới. Thông qua liên doanh, liên kết đầu tư, nhất là với các công ty xuyên quốc
gia nắm được thị phần lớn là điều kiện tốt nhất để phát huy những lợi thế so sánh
của mỗi quốc gia và của mỗi địa phương, nhanh chóng khẳng định được thương
hiệu, vì các công ty xuyên quốc gia có vị thế và uy tín lớn trong hệ thống sản xuất
và thương mại quốc tế.
Thực tế cho thấy, nhiều KCN ở các nước, đặc biệt ở các quốc gia khu vực
châu Á đã thành công trong mục tiêu này. Theo thống kê của WEPZA (Hiệp hội
KCX thế giới), một KCX diện tích khoảng 100 ha, cần đầu tư 50 triệu USD cho
kết cấu hạ tầng, trong vòng 10 năm sẽ tạo ra hàng xuất khẩu trị giá 100 triệu

USD/năm [25,tr.35].
1.1.3.4. Tiếp thu công nghệ mới, kỹ năng quản lý tiên tiến
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi tắt đón đầu tiếp thu
những công nghệ mới là một đòi hỏi bức thiết của các nước đang phát triển cũng
như của từng địa phương.
KCN tạo điều kiện cho việc tiếp nhận, chuyển giao và áp dụng có hiệu quả
những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. Hình thành các KCN sẽ tạo ra
những tiền đề cho phép tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại
nhất của thế giới để vận dụng vào sản xuất những sản phẩm có chất lượng. Tiếp
nhận những thành tựu khoa học công nghệ trong các KCN có một sự thuận lợi
hơn hẳn so với các DN sản xuất kinh doanh phân tán, rải rác ở các khu vực dân
cư.
Mặc dù, ở các KCN, đầu tư nước ngoài chủ yếu thực hiện các hoạt động sản
xuất hàng tiêu dùng, dệt may, gia công giày da, lắp ráp điện tử... sau đó là sản

12


xuất cơ khí, linh kiện điện tử... song, quá trình chuyển giao công nghệ vẫn diễn
ra thông qua nhiều hình thức như: đào tạo công nhân nước chủ nhà để sử dụng
máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất, đưa máy móc hiện đại sang để tiến hành
sản xuất nhằm mục đích tạo năng suất lao động cao... Các công ty ở các KCN có
thể chuyển giao một số các công nghệ mới vào giúp đỡ kỹ thuật cho các nhà
cung cấp địa phương hoặc các công ty sản xuất các chi tiết sản phẩm vào các DN
trong KCN...
1.1.3.5. Giải quyết việc làm và đào tạo nguồn nhân lực
Sự hình thành và phát triển các KCN không chỉ thu hút lao động vào các
DN bên trong KCN mà còn kích thích các hoạt động dịch vụ phát triển, do đó
thu hút vào các hoạt động này một số lớn lao động khác. Các KCN cũng như các
dịch vụ hỗ trợ bên ngoài KCN đã giải quyết được một số lượng lao động khá

lớn. Theo con số thống kê, đến năm 2009, các DN trong KCN, KCX ở Việt Nam
đã tạo việc làm cho khoảng 750 nghìn người lao động trực tiếp, và hơn 1 triệu
lao động gián tiếp. Phần lớn những lao động này là lao động trẻ, có khả năng
nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật mới. Trong tổng số lượng lao động trong các
KCN, có đến 90% lao động có độ tuổi từ 18 đến 35 [31]. Nếu so sánh với khả
năng tạo việc làm của các KCN, KCX thì con số 750 nghìn lao động trực tiếp và
hơn 1 triệu lao động gián tiếp chưa phải là lớn, chưa tương xứng với tiềm năng.
Nhưng điều quan trọng là số lao động này được tiếp cận với công nghệ sản xuất
hiện đại, phương thức quản lý tiên tiến. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để
xây dựng đội ngũ lao động mới có kỷ luật, có chuyên môn, kỹ thuật và có năng
suất lao động cao đáp ứng nhu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Mặt
khác, để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của các DN, nhiều KCN, KCX đã
mở các cơ sở đào tạo nghề. Việc thành lập các trung tâm dạy nghề và đào tạo
trong các KCN, KCX đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các
DN trong KCN nói riêng, cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung.
Thực tế cho thấy, tại các địa phương có KCN, tỷ lệ thất nghiệp giảm rõ rệt,

13


điều đó tác động khá tích cực đến việc xóa đói giảm nghèo, đồng thời góp phần
làm giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây nên.
1.1.3.6. KCN góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường
Bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Các nước
đang phát triển thực hiện CNH, HĐH cần chú ý sự phát triển cân bằng cả kinh tế,
xã hội và môi trường. Vấn đề môi trường là một yếu tố quan trọng mà bất cứ một
DN sản xuất nào đều phải giải quyết và xử lý. Với mục tiêu chỉnh trang các đô
thị theo hướng hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trường, phải di dời nhà máy, xí
nghiệp sản xuất công nghiệp trong các đô thị ra các vùng ngoại thành. Nếu các
DN phân bố phân tán, việc xử lý chất thải do từng DN thực hiện riêng rẽ sẽ rất

tốn kém và không đồng bộ. Việc tập trung nhiều DN trên cùng một địa bàn sẽ
cho phép xây dựng các trung tâm xử lý chất thải với chi phí ít tốn kém hơn, đồng
bộ hơn. Mặt khác, với sự tập trung của các DN sản xuất công nghiệp vào một địa
điểm xác định, Ban quản lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm
của các DN để có giải pháp thích hợp.
Ô nhiễm môi trường được hạn chế do có hệ thống xử lý chung và được
kiểm soát chặt chẽ. Những cơ sở công nghiệp khác không có khả năng xử lý ô
nhiễm môi trường sẽ được di dời vào KCN, như vậy chúng ta hạn chế được việc
xây dựng các cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư. KCN tập trung
giảm sự tiếp xúc trực tiếp của các khu đô thị với tác động bất lợi của sản xuất
công nghiệp (như tiếng ồn, khói bụi, bức xạ...).
1.1.4. Những tác động tiêu cực có thể xảy ra khi thành lập và đưa vào hoạt
động các KCN
- Do theo đuổi phong trào xây dựng KCN mà các nhà quản lý thiếu tính
toán việc thu hút các DN sản xuất nhằm “lấp đầy” KCN, nên có thể dẫn đến tình
trạng lãng phí các nguồn lực.
Sự hình thành ồ ạt các KCN mà chưa xét đến nhu cầu thực tế, khiến cho
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế không theo kịp; thiếu sự tính toán chặt chẽ

14


dẫn đến tình trạng lãng phí lớn các nguồn lực. Mặt khác, việc phân bố các KCN
giữa các vùng còn bất hợp lý. Thành lập quá nhiều KCN trong cùng một vùng
trong khi khả năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả vốn
đầu tư hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho KCN. Điều này vô hình chung đã hình
thành nên các KCN có chức năng tương tự nhau ở các địa phương, dẫn đến tình
trạng cạnh tranh gay gắt, tự phát, chạy đua theo phong trào thành lập, thu hút
đầu tư vào KCN không phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH
của vùng, quy hoạch phát triển KCN cả nước.

- Việc xây dựng các KCN cần phải có mặt bằng xây dựng. Nếu chính sách
đền bù giải phóng mặt bằng cho các KCN không phù hợp, không được người
dân đồng tình thì có thể gây ra tình trạng trì trệ trong phát triển KCN.
Chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng cho các KCN nếu không phù hợp
có thể dẫn đến tình trạng bần cùng hóa một bộ phận nông dân. Trong thời gian
qua, việc đền bù, giải phóng mặt bằng có nhiều bất cập, hạn chế, vừa phức tạp,
vừa tốn nhiều thời gian, tiền bạc. Nhiều KCN phải mất từ 2 đến 3 năm mới đền
bù, giải tỏa xong. Điều này đã đẩy chi phí xây dựng tăng lên, dẫn đến giá cho
thuê đất tăng cao, làm giảm tính hấp dẫn của KCN.
- Mặc dù KCN tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý và kiểm soát ô nhiễm
môi trường sinh thái, nhưng nếu không có chính sách và cơ chế quản lý chặt chẽ,
có hiệu quả thì sẽ gây tác động ngược lại, mức độ ô nhiễm môi trường sẽ tăng
lên nhanh.
Các KCN vì mục tiêu kinh doanh, vì cố gắng thu hút các dự án đầu tư bất
kể ở trình độ nào, vì tiết kiệm chi phí đầu tư nên các KCN không quan tâm thỏa
đáng đến việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải. Điều đó dẫn đến tình trạng ô
nhiễm môi trường hết sức nghiêm trọng ở một số KCN.
- Hơn nữa, việc tập trung nhiều DN sản xuất trên một địa bàn, thu hút một
lượng đông đảo lao động từ các địa phương khác đến có thể dẫn tới sự quá tải của
hệ thống kết cấu hạ tầng và mất an ninh trong khu vực.

15


Tình trạng thiếu nhà ở, trường học, chợ, trung tâm giải trí, cơ sở y tế... cho
người lao động là phổ biến tại các KCN. Người công nhân tự bươn trải lấy cuộc
sống. Từ đó có những tác động lớn đến trật tự an ninh, an toàn xã hội; vấn đề vệ
sinh môi trường; những tác động đến sức khỏe; phát sinh tệ nạn xã hội; ảnh
hưởng đến đời sống tinh thần của người lao động.
Vấn đề bảo đảm văn hóa tinh thần của công nhân KCN chưa có giải pháp

khả thi, còn thiếu thốn về tiện nghi sinh hoạt văn hóa, mức hưởng thụ văn hóa
thấp; thiếu các cơ chế chính sách đầu tư phát triển đời sống văn hóa tinh thần
cho KCN, cộng với những vấn đề bức xúc về mặt xã hội như lương thấp, bảo
hiểm xã hội không đầy đủ, mất cân bằng giới trong lực lượng lao động... đã và
đang là vấn đề nổi bật của các KCN không dễ gì giải quyết.
Từ những tác động tiêu cực, những hạn chế nêu trên, chúng ta cần kịp thời
có những chính sách, những giải pháp hợp lý, đồng bộ để các KCN phát huy tối
đa những tác động tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu
cực, làm cho các KCN thực sự trở thành nhân tố quan trọng phát triển KT - XH
nói chung, thu hút nhiều FDI nói riêng.
1.2. FDI và các yếu tố ảnh hƣởng đến việc thu hút FDI vào các KCN
1.2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1.1. Khái niệm
Quỹ tiền tệ thế giới (Internationnal Moneytary Fund - IMF), trong báo cáo
cán cân thanh toán hàng năm đã đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài
như sau:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có lợi ích lâu dài của một DN tại một
nước khác (nước nhận đầu tư - hosting country), không phải tại nước mà DN
đang hoạt động (nước đi đầu tư - source country) với mục đích quản lý một cách
hiệu quả DN”.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic
Cooperation and development - OECD) cũng đưa ra nhận định về đầu tư trực

16


tiếp nước ngoài tương tự như IMF. Tuy vậy, OECD có quan niệm rất rộng về
nhà đầu tư nước ngoài. Theo quan điểm của OECD, nhà đầu tư nước ngoài là cá
nhân hoặc tổ chức có thể thuộc cơ quan Chính phủ hoặc không thuộc cơ quan
Chính phủ đầu tư tại nước ngoài.

Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam cũng có định nghĩa về FDI như sau:
“Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư” [21, tr.8].
“Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham
gia quản lý hoạt động đầu tư” [21, tr.8].
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
như sau: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là biểu hiện bằng tiền hoặc tài sản
do tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài mang vào nước khác (nước tiếp
nhận) để thực hiện kinh doanh theo luật pháp của nước tiếp nhận nhằm thu
được lợi ích. Các nhà đầu tư có quyền điều hành DN tuỳ theo tỷ lệ góp vốn
của mình.
1.2.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Là hình thức liên kết kinh doanh giữa
hai bên hoặc nhiều bên trên cơ sở quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết
quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành
lập một pháp nhân.
- Doanh nghiệp liên doanh: Là hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế do
hai bên hoặc các bên nước ngoài cùng hợp tác với nước chủ nhà trên cơ sở
góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ
góp vốn. DN liên doanh được thành lập theo hình thức công ty TNHH, công
ty cổ phần có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước nhận đầu tư.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là DN thuộc sở hữu của nhà đầu
tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước
ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả

17


sản xuất kinh doanh nhưng vẫn là pháp nhân của nước chủ nhà và chịu sự
kiểm soát của luật pháp nước chủ nhà.

- BOT là hình thức đầu tư được thực hiện theo hợp đồng ký kết giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh
doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định; hết thời hạn, nhà
đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam [21,
tr.11]. BTO và BT là các hình thức phái sinh của BOT, theo đó quy trình đầu tư,
khai thác, chuyển giao được đảo lộn trật tự.
- Ngoài ra còn một số hình thức đầu tư khác như hình thức đầu tư mới
(greenfield), mua lại và sáp nhập (Merger and Aquitition), cổ phần hoá DN
đầu tư nước ngoài, hợp đồng phân chia sản phẩm, hợp đồng cấp giấy phép
công nghệ,...
1.2.1.3. Đặc điểm đặc trưng của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- FDI là một dự án mang tính lâu dài. Đây là đặc điểm phân biệt giữa đầu tư
trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp (portfolio investment). Đầu tư gián tiếp
thường là các dòng vốn có thời gian hoạt động ngắn và có thu nhập thông qua
việc mua bán chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu). Đầu tư gián tiếp có tính
thanh khoản cao hơn so với đầu tư trực tiếp, dễ dàng thu lại số vốn đầu tư ban
đầu khi đem bán chứng khoán và tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ phát triển ở
những nước tiếp nhận đầu tư.
- FDI là một dự án có sự tham gia quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong khi đầu tư gián tiếp không cần sự tham gia quản lý DN, các khoản thu
nhập chủ yếu là các cổ tức từ việc mua chứng khoán tại các DN ở nước nhận đầu
tư, ngược lại nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có quyền tham gia hoạt động quản
lý trong các DN FDI.
- Đi kèm với dự án FDI là ba yếu tố: hoạt động thương mại (xuất nhập
khẩu); chuyển giao công nghệ; di cư lao động quốc tế, trong đó di cư lao động
quốc tế góp phần vào việc chuyển giao kỹ năng quản lý DN FDI.

18



- FDI là hình thức kéo dài “chu kỳ tuổi thọ sản xuất” “chu kỳ tuổi thọ kỹ
thuật”. Trên thực tế, nhất là trong nền kinh tế hiện đại có một số yếu tố liên quan
đến kỹ thuật sản xuất, kinh doanh đã buộc nhiều nhà sản xuất phải lựa chọn
phương thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như là một điều kiện cho sự tồn tại
và phát triển của mình. Ngoài ra, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ giúp DN thay
đổi được dây chuyền công nghệ lạc hậu ở nước mình nhưng dễ được chấp nhận
ở nước có trình độ phát triển thấp hơn và góp phần kéo dài chu kỳ sản xuất.
- FDI là sự gặp nhau về nhu cầu của một bên là nhà đầu tư và bên kia là
nước tiếp nhận đầu tư .
1.2.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc thu hút FDI vào các KCN
1.2.2.1. Điều kiện tự nhiên
Thực tế cho thấy, địa phương có những điều kiện như cảng biển, đường
quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt đi qua, nằm trong trung tâm kinh tế lớn hoặc ở
gần kề đều thu hút được nhiều dự án đầu tư. Ở nước ta, Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh là 2 trung tâm kinh tế lớn của đất nước, do vậy thu hút đầu tư vào
KCN ở 2 thành phố này cũng như các vùng xung quanh rất mạnh mẽ.
Qua số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các địa phương trong cả nước ta
thấy FDI tập trung chủ yếu tại 02 vùng trong cả nước là vùng kinh tế trọng điểm
miền Bắc (21%), vùng kinh tế trọng điểm miền Nam (66%). Mà tâm điểm của
02 vùng này là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Miền Trung FDI chiếm 4%
với tổng vốn đầu tư đạt 5% và cũng tập trung chủ yếu tại Đà Nẵng và một số tỉnh
trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Tài nguyên thiên nhiên là một trong những yếu tố cần thiết để tiến hành
hoạt động sản xuất. Vì nó cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp.
KCN nằm trong vùng sẵn có nguyên liệu cho sản xuất, các nhà đầu tư sẽ giảm
bớt được chi phí vận tải, tránh được gián đoạn sản xuất trong trường hợp khó
khăn về giao thông. Vùng có trữ lượng khoáng sản lớn, phong phú và có giá trị
kinh tế cao sẽ tạo điều kiện thu hút các DN đầu tư vào công nghiệp khai khoáng,

19



công nghiệp năng lượng. Như vậy, nếu vùng nào có được điều kiện trên thì KCN
trên địa bàn sẽ có thêm cơ hội thu hút đầu tư.
Khí hậu thuận lợi cho cây trồng, vật nuôi cũng như đất đai đảm bảo cho
việc xây dựng những vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp sẽ tạo điều kiện
cho phát triển công nghiệp chế biến những sản phẩm nông nghiệp. KCN nằm
trong khu vực này sẽ thu hút các nhà đầu tư vào công nghiệp chế biến.
1.2.2.2. Tình hình chính trị và hệ thống pháp luật
- Sự ổn định về chính trị.
Sự ổn định chính trị và an ninh là yếu tố cơ bản đảm bảo cho quá trình đầu
tư lâu dài. Vì vậy, đây chính là yếu tố đầu tiên khiến các nhà đầu tư quan tâm khi
có ý định đầu tư vào một quốc gia. Đây là điều kiện ảnh hưởng đến mức độ rủi
ro của đồng vốn mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ ra. Những bất ổn về chính trị - xã
hội sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng sản xuất và tiêu thụ của các KCN. Nó làm
dòng vốn từ nước ngoài đổ vào trong nước sụt giảm và chững lại, thậm chí thúc
đẩy dòng vốn từ trong nước đổ ra nước ngoài nhằm tìm kiếm cơ hội đầu tư tốt
hơn.
Khi nước tiếp nhận đầu tư có bất kì sự xung đột nào ở trong nước hay ở
trong khu vực, nội chiến hay sự hoài nghi...đều tạo sự thiếu thiện cảm đối với
các nhà đầu tư nước ngoài về môi trường đầu tư trong nước nói chung và môi
trường đầu tư của các KCN trong nước nói riêng, bởi vì đây là những nhân tố
nhạy cảm, tác động tiêu cực đến tâm lý và hành động thực tế của các chủ đầu tư
cũng như làm chậm lại các cải cách chính sách cần thiết đối với việc thu hút FDI
của nước chủ nhà.
- Hệ thống pháp luật.
Thực tế cho thấy sự thành công hay thất bại trong việc hấp dẫn các nhà đầu
tư nước ngoài phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống luật pháp cũng như môi trường
thể chế. Tuy nhiên, tuỳ vào điều kiện KT - XH cụ thể của từng nước mà hệ thống
luật pháp của mỗi nước có sự hấp dẫn đầu tư khác nhau. Nếu hệ thống pháp luật


20


của một nước càng đồng bộ, rõ ràng, chặt chẽ, không có sự chồng chéo, phù hợp
với hệ thống luật pháp và thông lệ quốc tế thì khả năng thu hút FDI của nước đó
sẽ càng cao và ngược lại.
Hoạt động của các DN xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, Ban quản lý
KCN, các DN KCN đều phải tuân thủ theo quy định của pháp luật như: Quy chế
KCN, KCX, khu công nghệ cao, Luật đầu tư nước ngoài, Luật Lao động, Luật
Đất đai, Luật Môi trường,…Nếu các luật này được ban hành với nội dung cụ thể
đồng bộ và được sử dụng có hiệu lực thống nhất giữa các cơ quan thi hành luật
thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động trong KCN, tránh được những khiếu
kiện không cần thiết, hay những vi phạm pháp luật không đáng có.
Nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống luật pháp trong việc thu hút
FDI, nhiều nước trên thế giới đã liên tục thay đổi, bổ sung thêm các văn bản, luật
hướng dẫn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài và đây
cũng là yếu tố cạnh tranh quyết liệt giữa các nước cũng như các khu vực.
1.2.2.3. Các yếu tố kinh tế
- Trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia, thể hiện ở mức độ tăng trưởng
kinh tế, trình độ quản lý kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp các
dịch vụ cho hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp sẽ hạn chế sự phát triển của thị trường trong
nước. Từ đó, nguồn thu về cho ngân sách cũng hạn hẹp, không có vốn để đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng. Thu nhập của người lao động thấp kéo theo sức cầu thị
trường thấp… Do đó, các DN khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá. Nói chung, trình
độ kinh tế xã hội thấp ảnh hưởng xấu đến khả năng thu hút đầu tư. Trái lại, với
trình độ phát triển kinh tế xã hội cao sẽ là yếu tố thúc đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn
kinh doanh.

- Các chính sách kinh tế

21


Các chính sách kinh tế tạo nên bộ phận quan trọng trong môi trường đầu tư
quốc gia, nó bao gồm không chỉ hệ thống các văn bản pháp luật quy định về
ĐTNN mà bao gồm cả những văn bản quy định về xây dựng và phát triển các
KCN, về thương mại, chính sách xuất nhập khẩu, thuế suất…tất cả tạo thành
hành lang pháp lý đồng bộ và thuận lợi cho thu hút và triển khai các dự án FDI.
Các văn bản này phải ban hành đồng bộ, thống nhất và chặt chẽ, không chồng
chéo, đảm bảo tính bình đẳng giữa các DN trong nước và nước ngoài, phù hợp
với thông lệ quốc tế.
Chính sách kinh tế ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư, một khi các nhà
đầu tư thấy không an toàn, thì họ sẽ không đầu tư, ví dụ như chính sách tiền tệ
không ổn định, lạm phát cao sẽ làm các nhà đầu tư rút vốn hoặc thôi đầu tư để
tránh thua lỗ trong kinh doanh. Những hạn chế trong chính sách phát triển nguồn
nhân lực là một trở ngại lớn đối với thu hút FDI, chẳng hạn trình độ tay nghề
thấp của đa số người lao động buộc các DN tốn kém chi phí đầu tư cho đào tạo.
Mặc dù chi phí này được bù đắp một phần bởi mức lương thấp nhưng kết hợp
với năng suất lao động thấp, chi phí này có xu hướng làm tăng đơn giá tiền
lương trong sản phẩm. Hoặc các dịch vụ ngân hàng, viễn thông với giá cao hơn
mức khu vực và thế giới làm tăng chi phí của các nhà đầu tư. Những trở ngại ấy
sẽ làm hạn chế thu hút đầu tư.
Ngoài hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, mỗi quốc gia còn ban
hành hệ thống các chính sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư, như các chính sách về
thương mại, tiền tệ, thuế suất…Các chính sách cần rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng
và thông thoáng theo hướng tự do hoá. Chính sách ưu đãi phù hợp sẽ góp phần
tạo dựng môi trường kinh doanh bình đẳng và năng động, tạo điều kiện cho mọi
thành phần kinh tế phát huy được khả năng của mình.

- Hệ thống thị trường
Hệ thống thị trường có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút FDI, nó kìm
hãm hoặc kích thích quá trình sản xuất của các DN, chính vì vậy trước khi tìm

22


×