Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Hoàn thiện hoạt động thanh tra nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ở việt nam luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ

PHẠM ĐĂNG DŨNG

HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TRA NHÀ NƯỚC

ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIấN Lí LUẬN CHÍNH TRỊ
-------------------------

PHẠM ĐĂNG DŨNG

HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TRA NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 5.02.01

Người hướng dẫn: TS. PHAN TRUNG CHÍNH

HÀ NỘI - 2004




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………….………………..……. 1
Chương 1. MỤC ĐÍCH, VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG TT DNNN

1.1- Mục đích, vai trò của hoạt động thanh tra DNNN ………………………… 7
1.1.1. Thanh tra và vị trí vai trò của DNNN trong nền kinh tế
7
1.1.2. Mục đích của hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN
11
1.1.3. Vai trò của hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN
15
1.2. Nội dung hoạt động thanh tra DNNN ……………………………………….… 19
1.2.1. Xác định chủ thể, đối tượng và nội dung thanh tra
19
1.2.2. Lựa chọn hình thức thanh tra
23
1.2.3. Phương pháp tiến hành thanh tra
26
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng và yêu cầu hoàn thiện hoạt động TT….…. 40
1.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh tra DNNN
40
1.3.2. Những yêu cầu hoàn thiện hoạt động thanh tra DNNN
42
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA CÁC DNNN

2.1. Khái quát quá trình đổi mới tổ chức TTNN và đổi mới DNNN ….…….47
2.1.1. Quá trình đổi mới tổ chức Thanh tra Nhà nước
47

2.1.2. Quá trình đổi mới các DNNN
52
2.2. Thực trạng hoạt động thanh tra nhà nước đối với các DNNN ….…...…. 58
2.2.1. Tình hình thanh tra DNNN trong thời gian qua
58
2.2.2. Những vấn đề đang đặt ra cho ngành thanh tra
70
2.3. Đánh giá chung ………………………………………………………………………… 78
2.3.1. Thành tựu và hạn chế
78
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
80
Chương

3.

QUAN

ĐIỂM



CÁC

GIẢI

PHÁP

CHỦ


YẾU

3.1. Những quan điểm cơ bản …………………………………………………………...…83
3.2. Các giải pháp chủ yếu ………………………………………………………………..…85
3.2.1. Nâng cao nhận thức về hoạt động thanh tra
85
3.2.2. Hoàn thiện chế độ phân cấp, xác định rõ chủ thể, phạm vi và đối tượng 88
3.2.3. Tiếp tục đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động thanh tra
91
3.2.4. Củng cố, tăng cường tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ thanh tra
101
3.2.5. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra
104
3.2.6. Từng bước hiện đại hoá hoạt động thanh tra
106
3.2.7. Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động thanh tra
106
KẾT LUẬN …………………………………………..…………………………………………………….. 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………...………………………………………………….…… 112


QUY ƯỚC VIẾT TẮT

- BCHTW

Ban chấp hành Trung ương

- CN

Công nghiệp


- CNXH

Chủ nghĩa xã hội

- CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

- DN

Doanh nghiệp

- DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

- KN, TC

Khiếu nại, tố cáo

- NSNN

Ngân sách nhà nước

- QHSX

Quan hệ sản xuất

- QLNN


Quản lý nhà nước

- TCT

Tổng công ty

- TT

Thanh tra

- TTNN

Thanh tra Nhà nước

- XD

Xây dựng

- XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trên thế giới không có một quốc gia nào không có sự can thiệp
của Nhà nước vào kinh tế, song mức độ can thiệp của mỗi nước là rất khác nhau.
Căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường
lối đổi mới đất nước, xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, dưới

sự quản lý của Nhà nước. Cương lĩnh của Đảng khảng định: “Phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”[1, tr.67-68].
Sau hơn mười năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội trầm trọng, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đã đạt
được những thành tựu to lớn: tốc độ tăng trưởng khá, chính trị - xã hội ổn định,
an ninh quốc phòng được giữ vững, vị thế của chúng ta trên trường quốc tế được
nâng cao và đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên
rõ rệt. Cùng với sự phát triển của đất nước, vai trò quản lý về kinh tế của Nhà
nước cũng được đổi mới và từng bước hoàn thiện cả về mục tiêu lẫn chức năng,
nhiệm vụ và các công cụ quản lý vĩ mô, trong đó có công cụ thanh tra và thanh
tra các DNNN.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị
quyết và các văn bản pháp luật về thanh tra; củng cố, tăng cường và từng bước
hoàn thiện tổ chức bộ máy thanh tra các cấp. Chính vì vậy, trong thời gian qua
hoạt động thanh tra đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những thành
tích rất khả quan và góp phần hạn chế những mặt trái của cơ chế thị trường...
phục vụ kịp thời cho công cuộc đổi mới đất nước nói chung và công tác quản lý
về kinh tế của Nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra cũng còn
những tồn tại, hạn chế nhất định như: hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra
chưa đồng bộ; hệ thống tổ chức bộ máy cồng kềnh, dàn trải và chưa thống nhất;
chức năng nhiệm vụ chưa rõ ràng, còn chồng chéo; quyền hạn chưa tương xứng
1


với chức năng, nhiệm vụ... đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh
ta. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và công tác quản lý kinh tế
của Nhà nước trong thời gian tới đòi hỏi hoạt động thanh tra cần được khắc
phục, đổi mới và từng bước hoàn thiện.
Mặt khác, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong quá

trình đổi mới đất nước, kinh tế nhà nước nói chung và DNNN nói riêng có vị trí
rất quan trọng và cùng với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân, là lực lượng vất chất, là công cụ chủ yếu để Nhà nước định hướng và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nghị quyết TW 3 khoá IX của Đảng ta đã khảng
định: “Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt
và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước
thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng thế
và lực của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản
phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình
hợp tác đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các
chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch
vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh.”[2, tr.4]. Bên cạnh đó,
DNNN cũng còn những hạn chế, yếu kém nhất định như: quy mô nhỏ, trình độ
công nghệ lạc hậu, công tác quản lý yếu kém, hiệu quả kinh doanh thấp… Nhiều
doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán, thậm trí có doanh
nghiệp bị thua lỗ mất vốn. Tình trạng tiêu cực, tham nhũng, quan liêu đang trở
thành quốc nạn và chậm được khắc phục trong các cơ quan nhà nước nói chung
và DNNN nói riêng.
Xuất phát từ những thực tế nêu trên, đòi hỏi các DNNN phải được chấn
chỉnh, đổi mới và kiểm soát chặt chẽ hơn, nhằm bảo toàn vốn, gia tăng quy mô
đầu tư, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh để cùng
với kinh tế nhà nước giữ vững được vị trí, vai trò chủ đạo, then chốt trong nền
kinh tế quốc dân và thực sự là công cụ, lực lượng vất chất quan trọng để Nhà
nước định hướng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế có hiệu quả, giải phóng mọi nguồn
2


lực của đất nước và tạo môi trường thuận lợi, lành mạnh để mọi thành phần kinh
tế phát triển. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “Hoàn thiện hoạt động thanh
tra nhà nước đối với DNNN ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Kinh tế Chính trị.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động thanh tra đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và các DNNN
nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu, có thể nêu một số bài viết, đề tài
nghiên cứu như:
- Trần Đức Lượng: "Đổi mới tổ chức và hoạt động hệ thống Thanh tra
Nhà nước theo hướng cải cách hành chính Nhà nước". Đề tài khoa học cấp Bộ,
mã số 95-98-043/ĐT - Cơ quan Thanh tra Nhà nước - Năm 1996.
- Nguyễn Văn Liêm: "Cơ sở khoa học xác định mô hình và cơ cấu tổ chức
Thanh tra Nhà nước các cấp đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước". Đề
tài khoa học cấp Bộ, mã số 98-98-101/ĐT - Cơ quan Thanh tra Nhà nước - Năm
2001.
- Trần Đức Lượng: "Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước". Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước, mã
số 98-98-048/ĐT - Cơ quan Thanh tra Nhà nước - Năm 2002.
- Nguyễn Văn Thâm: "Một số vấn đề về thanh tra và tổ chức hoạt động
thanh tra trong tình hình hiện nay ở nước ta". Thông tin khoa học số 1-1997- Cơ
quan Thanh tra Nhà nước.
- Phạm Văn Khanh: "Bàn về định hớng đổi mới tổ chức, hoạt động thanh
tra ở nước ta". Thông tin khoa học số 1-1997- Cơ quan Thanh tra Nhà nước.
- Phạm Tuấn Khải: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề đổi mới tổ chức
và hoạt động của Thanh tra Nhà nước ở Việt Nam". Luận án tiến sĩ luật học, mã
số 5.05.01 - Năm 1996.
- Nguyễn Thanh Hải: "Vai trò của Thanh tra Nhà nước trong việc thực
hiện dự án ở nước ta hiện nay". Luận án thạc sĩ hành chính học, mã số 5.07.05 Năm 2000.
3


- Ngô Văn Khánh: "Tăng cường hiệu lực thanh tra tài chính đối với doanh
nghiệp Nhà nước". Luận án thạc sĩ kinh tế - Năm 2002 .v.v.
Nhìn chung các đề tài, các bài viết đã phản ánh nhiều vấn đề của hoạt

động thanh tra, kiểm tra trên phạm vi cả nước hoặc từng lĩnh vực cụ thể. Song
cho đến nay, việc nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ kinh tế chính trị thì chưa
có đề tài nào nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống. Để thực hiện đề tài, tác
giả có kế thừa và lựa chọn ý tưởng của các công trình đã công bố, nhằm giúp
cho việc phân tích và đánh giá thực trạng thanh tra các DNNN, đề xuất giải pháp
hoàn thiện hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN ở Việt Nam trong giai
đoạn tiếp theo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng hoạt động thanh tra của Nhà
nước đối với DNNN, nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động thanh tra
của Nhà nước đối với các DNNN; từ đó đề xuất những quan điểm cơ bản và các
giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hoạt động đó trong giai đoạn tới ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá có chọn lọc và phân tích một số vấn đề lý luận chung về
hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với các DNNN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với
các DNNN trong thời gian qua, từ đó thấy được những vấn đề bức xúc cần đặt ra
để giải quyết.
- Đề xuất và phân tích các quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu
nhằm đổi mới và hoàn thiện hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với các
DNNN trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chủ yếu về hoạt động thanh tra của Nhà nước đối
với các DNNN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4


4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động thanh tra đặt trong mối quan hệ
với cơ chế quản lý kinh tế nói chung và đi sâu phân tích hoạt động thanh tra của
Nhà nước đối với DNNN trong mối quan hệ với hoạt động thanh tra, kiểm tra
nói chung của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Luận văn thực hiện dưới góc độ kinh tế chính trị đặt trong mối quan hệ
với khoa học quản lý về quản lý kinh tế để nghiên cứu, nhằm làm rõ những vấn
đề cơ bản, chủ yếu của đề tài. Thời gian nghiên cứu khảo sát chủ yếu trong giai
đoạn từ năm 1995 đến năm 2004 và đề xuất giải pháp định hướng đến năm
2010.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa vào những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý nền kinh tế nói chung, về DNNN nói
riêng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; để luận giải sự
cần thiết khách quan phải hoàn thiện hoạt động thanh tra nhà nước đối với các
DNNN, một trong những chức năng cơ bản của quản lý kinh tế của Nhà nước.
5.2. Nguồn tài liệu
Luận văn sử dụng các nguồn tài liệu chính sau:
- Báo cáo hàng năm (1995-2004) của cơ quan Thanh tra Nhà nước (nay là
Thanh tra Chính phủ) và báo cáo hàng năm (2000-2004) của Thanh tra một số
tỉnh, thành phố và Thanh tra Bộ Tài chính;
- Lịch sử Thanh tra Việt Nam (1945-1995);
- Tài liệu khảo sát các tổ chức TTNN và DNNN (Tổng công ty 90, 91 và
DNNN ở các địa phương) của Thanh tra Nhà nước;
- Tài liệu của Ban đổi mới và phát triển DNNN…
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp truyền thống của Chủ nghĩa Mác-Lênin
về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp sử dụng phương
5



pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp,
diễn giải và quy nạp để rút ra những kết luận khoa học về những vấn đề được
xem xét.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn góp phần vào việc hoàn thiện
hoạt động thanh tra, kiểm tra nói chung và hoạt động thanh tra của Nhà nước đối
với các DNNN nói riêng, nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý kinh tế của
Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài
liệu tham khảo đối với các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý ở tầm vĩ
mô; đồng thời cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy
của Trường Cán bộ Thanh tra và cho hoạt động thanh tra của các cơ quan Thanh
tra Nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1. Mục đích, vai trò và nội dung hoạt động thanh tra Nhà nước
đối với DNNN
- Chương 2. Thực trạng hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN thời
gian qua
- Chương 3. Quan điểm và các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt
động thanh tra nhà nước đối với DNNN trong thời gian tới.

6


Chương 1
MỤC ĐÍCH, VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. Mục đích, vai trò của hoạt động thanh tra đối với DNNN

1.1.1. Khái niệm thanh tra và vị trí, vai trò của DNNN trong nền kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm thanh tra
Ngày nay, các khái niệm giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm kê và kiểm
soát được sử dụng phổ biến trong hoạt động quản lý nói chung và trong quản lý
nhà nước nói riêng. Về hình thức đây là những khái niệm khác nhau, nhưng về
nội dung lại có một sự giao thoa rất lớn. Chính vì vậy, mà cách sử dụng các khái
niệm này cũng rất phong phú và đa dạng. Việc dùng khái niệm nào là tuỳ thuộc
vào mục đích, tính chất và hoàn cảnh cụ thể để sử dụng cho phù hợp. Thanh tra
(tiếng Anh là inspect) xuất phát từ gốc La tinh (inspectare) có nghĩa là “nhìn
vào bên trong”, chỉ sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một
đối tượng nhất định” [54, tr.17]. Theo từ điển Tiếng Việt, nghĩa thứ nhất thanh
tra là điều tra, xem xét để làm rõ vụ việc; nghĩa thứ hai là chỉ người làm nhiệm
vụ thanh tra [45, tr.1034]. Theo khái niệm này, người làm nhiệm vụ thanh tra
phải điều tra, xem xét để làm rõ vụ việc. Như vậy, khái niệm này bao gồm: chủ
thể thanh tra, phương pháp thanh tra, mục đích thanh tra và nội dung thanh tra.
Nhưng chủ thể, vụ việc ở đây chưa được rõ ràng.
Theo giáo trình Nghiệp vụ thanh tra: “nghĩa thứ nhất thanh tra là kiểm
soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp; nghĩa thứ hai
chỉ nghề nghiệp, tên gọi chức danh như người làm nhiệm vụ thanh tra, Đoàn

7


thanh tra của Bộ… Thanh tra có nghĩa là sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài vào
hoạt động của một đối tượng nhất định” [41, tr.10-11].
Như vậy, nội hàm của khái niệm mà giáo trình đề cập đã được mở rộng và
rõ ràng hơn. Thanh tra là một hoạt động quản lý của nhà nước. Các cơ quan nhà
nước là chủ thể thanh tra và người được uỷ quyền trực tiếp tiến hành các cuộc
thanh tra là Đoàn thanh tra. Nội dung và đối tượng thanh tra là việc làm của địa
phương, cơ quan, xí nghiệp. Phương pháp hay cách thức tổ chức thực hiện là

kiểm soát, xem xét và thực hiện tại chỗ, trực tiếp tại đơn vị được thanh tra. Và
mục đích là nhằm phục vụ cho quản lý đạt được hiệu quả cao hơn. Ngoài ra,
khái niệm cũng đề cập đến vị trí của chủ thể thanh tra nằm ở bên ngoài đối
tượng thanh tra.
Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước "Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm
tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước" của cơ quan Thanh tra
Nhà nước, có viết: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước,
là hoạt động kiểm tra xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân;
thường được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát
huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các sai phạm, góp phần hoàn thiện cơ
chế quản lý, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân” [54, tr.23].
Theo khái niệm trên, nội dung đã được trình bày đầy đủ hơn, rõ nét hơn,
chi tiết hơn và phạm vi cũng rộng hơn. Ngoài những nội dung cơ bản mà các
khái niệm đã đề cập, khái niệm này còn đưa thêm một vấn đề mới và nhấn mạnh
thêm, đi sâu hơn và cụ thể hơn một số vấn đề sau:
Thanh tra không chỉ là một hoạt động quản lý của nhà nước mà nó “là
một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước”. Chủ thể thanh tra cũng cụ thể
hơn, nó “thường được thực hiện bởi các cơ quan chuyên trách”. Về nội dung và
đối tượng thanh tra khái niệm lại thiên về tính khái quát, tổng hợp, tức là “kiểm
tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân”. Phương pháp
8


hay cách thức tổ chức thực hiện cũng là “kiểm tra, xem xét” nhưng phạm vi thì
đã được mở rộng hơn, không chỉ “thực hiện tại chỗ, trực tiếp tại địa phương, cơ
quan hay xí nghiệp được thanh tra” mà có thể thực hiện ở cả các cơ quan, tổ
chức và cá nhân có liên quan. Khái niệm còn đưa ra một vấn đề rất mới, đó là
quy trình tổ chức thực hiện, là phải tuân theo “một trình tự, thủ tục do pháp luật

quy định”. Đặc biệt, khái niệm này còn đề cập rất cụ thể đến mục đích của hoạt
động thanh tra.
Theo Điều 4 của Luật Thanh tra (2004): “Thanh tra nhà nước là việc xem
xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo
thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này và các quy định khác
của pháp luật” [14, tr.198]. So với các khái niệm trên, khái niện này đã thể hiện
tương đối đầy về nội dung và mang tính khái quát hơn, nó đã khắc phục được
những hạn chế của các khái niệm trên.
Tóm lại: Do nội hàm của khái niệm thanh tra rộng và cách tiếp cận khác
nhau, cho nên còn có sự nhận thức khác nhau về khái niệm thanh tra là một tất
yếu khách quan. Thông qua việc phân tích các khái niệm trên, có thể rút ra một
số vấn đề chủ yếu sau:
- Thanh tra là một loại hoạt động của quản lý nhà nước, là một chức năng
thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước.
- Chủ thể thanh tra là các cơ quan nhà nước, việc tổ chức tiến hành các
cuộc thanh tra thường do các các tổ chức thanh tra thực hiện mà trực tiếp là
Đoàn thanh tra hoặc các Thanh tra viên.
- Đối tượng thanh tra là việc làm của các cơ quan, đơn vị và cá nhân.
- Nội dung thanh tra là việc chấp hành chính sách, pháp luật, việc thực
hiện nhiệm vụ và các chế độ, quy định của Nhà nước.
- Phương pháp thanh tra chủ yếu là kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát, xem xét
và có thể phải dùng cả điều tra, giám sát… và tuân theo một trình tự thủ tục
nhất định do pháp luật quy định.
9


- Mục đích của thanh tra là nhằm phục vụ cho quản lý và nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước.
Như vậy, Thanh tra là sự xem xét việc thực hiện chính sách, pháp luật,

nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, do các cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền thực hiện theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định,
nhằm phục vụ cho các cơ quan quản lý nhà nước.
1.1.2.1. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế
- Khái niệm và các loại hình doanh nghiệp nhà nước
Ơ nước ta trước đây, DNNN thường được hiểu là kinh tế nhà nước hay
còn gọi là kinh tế quốc doanh hoặc xí nghiệp quốc doanh. Ngày nay, theo Luật
Doanh nghiệp nhà nước (2003), khái niệm DNNN được định pháp như sau:
“Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức
công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn” [13, tr.2].
DNNN gồm có hai loại hình cơ bản: các DN hoạt động kinh doanh và các
DN hoạt động công ích. Ngoài ra, còn có các DN nằm giữa hai loại hình cơ bản
này. Tuy nhiên, tuỳ theo từng loại DN mà Nhà nước cung cấp toàn bộ hoặc góp
vốn hoặc góp cổ phần… Nếu Nhà nước có số cổ phần trong các DN này lớn hơn
các thành phần kinh tế khác, thì Nhà nước sẽ nắm số cổ phần chi phối hay cổ
phần đặc biệt của các DN này.
- Vị trí của doanh nghiệp nhà nước
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX xác định: Kinh tế nhà nước là một
trong sáu thành phần kinh tế cơ bản của nền kinh tế quốc dân, “Kinh tế nhà
nước, theo nghĩa đầy đủ bao gồm toàn bộ đất đai, tài nguyên, ngân sách nhà
nước, ngân hàng nhà nước, dự trữ quốc gia, các quỹ của Nhà nước và DNNN”
[6, 146]. Như vậy, DNNN là một bộ phận quan trọng, cơ bản của kinh tế nhà
nước, được Nhà nước giao nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu trong nền
kinh tế quốc dân, là lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện những chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn.
10


- Vai trò của doanh nghiệp nhà nước

DNNN có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là một
bộ phận chủ yếu của kinh tế nhà nước và cùng với kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế. Ơ nước ta, các DNNN đang chiếm giữ những vị trí
then chốt, những ngành kinh tế mũi nhọn và những ngành kinh tế chủ yếu của
đất nước. Nó là lực lượng chủ lực trong hội nhập quốc tế, trong liên doanh, liên
kết với các thành phần kinh tế khác. Cho nên, thông qua việc liên doanh, liên kết
Nhà nước sẽ kiểm soát và định hướng hoạt động của các DN này theo quỹ đạo
chung của nhà nước.
Với sức mạnh về cơ sở vật chất kỹ thuật, đi đầu trong ứng dụng khoa học
công nghệ tiên tiến, đội ngũ lao động và quản lý được đạo đào tạo chính quy;
cho nên các DNNN đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ trong xã hội, hướng
dẫn, hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng
XHCN.
Với tư cách là công cụ, là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý vĩ mô nền kinh tế, DNNN đã sản xuất ra một khối lượng lớn của
cải vật chất cho xã hội, góp phần tích cực vào việc ổn định và tăng trưởng kinh
tế, hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường như: chống độc quyền, ổn định
giá cả các mặt hàng thiết yếu, ổn định thị trường tiền tệ… kích thích cung cầu
nhằm lập lại những cân đối lớn trong nền kinh tế để thị trường phát triển lành
mạnh và có hiệu quả.
Sau một thời gian sắp xếp, đổi mới và phát triển, các DNNN đang thích
ứng dần với những đòi hỏi của cơ chế thị trường, đã chiếm ưu thế về một số loại
hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, là lực lượng đảm bảo và giải quyết các vấn đề chính
sách xã hội, là lực lượng chủ yếu trong đóng góp vào ngân sách nhà nước… góp
phần cân đối thu chi ngân sách nhà nước, làm cho xã hội ổn định, phát triển và
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết TW 3 khoá IX của Đảng đã
khảng định rõ: “DNNN là lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà

11



nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế…” [8, tr.6].
1.1.2. Mục đích của hoạt động thanh tra DNNN
“Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước”
[25, tr.3], cho nên mục đích của quản lý nhà nước cũng chính là mục đích mà
hoạt động thanh tra phải hướng tới và phục vụ cho các cơ quan quản lý nhà
nước. Theo Luật Thanh tra năm 2004, mục đích của hoạt động thanh tra là
“nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện
những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích
cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước;
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và
cá nhân” [14, tr.198]. Vì vậy, hoạt động thanh tra các DNNN cũng phải tuân
theo và phục vụ cho mục đích trên.
Mặt khác, quản lý của Nhà nước đối với DNNN được thể hiện dưới hai
giác độ: thứ nhất, Nhà nước là người quản lý toàn bộ nền kinh tế nên Nhà nước
quản lý nó như các DN khác, tức quản lý về mặt vĩ mô; thứ hai, Nhà nước là
người bỏ toàn bộ vốn hay giữ một số cổ phần chi phối, nên Nhà nước quản lý,
kiểm soát nó với tư cách là chủ sở hữu của DN. Do vậy, mục đích của hoạt động
thanh tra các DNNN không chỉ nhằm vào việc thực hiện mục đích chung của
hoạt động thanh tra, mà còn phải thực hiện các mục đích cụ thể sau:
- Đảm bảo cho DNNN phát triển đúng phương hướng và mục tiêu đã chọn
DNNN có một vị trí rất quan trọng, giữ những vị trí then chốt, chủ yếu
trong nền kinh tế quốc dân, là lực lượng vất chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Với tư cách là người quản lý toàn bộ đất
nước, Nhà nước nào cũng phải xác định mục tiêu và hoạch định chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội, xây dựng các chính sách kinh tế, các kế hoạch phát triển nền
kinh tế nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng mục tiêu, định hướng đã
đề ra, để phát huy hết mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng mọi nămg lực sản

12


xuất của các thành phần kinh tế, trong đó có DNNN. Với tư cách là chủ sở hữu
của DNNN, Nhà nước xác định mục tiêu của DN, hoạch định chiến lược phát
triển DN, xây dựng các chính sách tài chính của DN, các kế hoạch phát triển của
DN, nhằm đảm bảo cho DN phát triển đúng mục tiêu, định hướng đã lựa chọn…
Trong quá trình thanh tra các DNNN, Đoàn thanh tra hoặc các Thanh tra viên
xem xét việc tổ chức thực hiện các mục tiêu và chiến lược phát triển của DN.
Nếu phát hiện DN thực hiện không đúng, chệch hướng thì thanh tra phải điều
chỉnh, uốn nắn nhằm đảm bảo cho DN phát triển đúng mục tiêu, định hướng đã
đề ra.
- Giúp cho DNNN đạt được những sản phẩm dịch vụ chủ yếu
Hiện nay, DNNN đang giữ những vị trí then chốt, những ngành kinh tế
mũi nhọn hay những ngành kinh tế chủ yếu và chiếm một tỷ trọng lớn trong nền
kinh tế quốc dân. Do vậy, số lượng hàng hoá dịch vụ của các DNNN sản xuất ra
có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống xã hội nói chung và nền kinh tế nói
riêng. Nó là công cụ, là lực lượng vất chất quan trọng để Nhà nước định hướng
và điều tiết nền kinh tế. Nó như một “cái van an toàn” của nền kinh tế, để Nhà
nước điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Chính vì vậy mà thanh tra không thể
không kiểm tra, xem xét việc thực hiện số lượng hàng hoá dịch vụ chủ yếu mà
Nhà nước giao cho DN. Trong quá trình thanh tra, nếu phát hiện DN không thực
hiện hoặc không bảo đảm đủ chỉ tiêu, thanh tra phải làm rõ nguyên nhân, báo
cáo kịp thời với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và tìm biện pháp
khắc phục, nhằm bảo đảm cân đối cung cầu về loại hàng hoá dịch vụ đó. Đối với
các trường hợp cố tình làm sai hoặc vì mục đích cá nhân mà DN không thực
hiện các chỉ tiêu được giao, thanh tra sẽ kiến nghị với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xử lý hoặc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để truy tố trước pháp
luật. Nhìn chung, mọi vi phạm về chỉ tiêu này đều phải xử lý nghiêm minh,
nhằm làm cho các DN phải chấp hành nghiêm, vì đây là một trong những chỉ

tiêu rất quan trọng đối với việc bảo đảm và cân đối các quan hệ cung cầu của
nền kinh tế. Do đó, việc kiểm tra thực hiện các sản phẩm hàng hoá dịch vụ chủ
13


yếu mà Nhà nước giao cho các DNNN là một nội dung quan trọng và là một
trong những mục đích chủ yếu của hoạt động thanh tra các DNNN.
- Bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Với tư cách là người chủ sở hữu DN, Nhà nước phải kiểm tra, xem xét
tiền vốn mà mình bỏ ra được DN sử dụng như thế nào? Trước hết xem DN có sử
dụng vốn đúng mục đích không, có nhằm vào việc thực hiện mục tiêu, phương
hướng kinh doanh mà cơ quan có thẩm quyền đã phê duyệt không? Sau mỗi chu
kỳ kinh doanh số vốn đó như thế nào, tăng hay giảm hoặc giữ nguyên và hiệu
quả sử dụng vốn ra sao? Trong quá trình kiểm tra, xem xét việc sử dụng vốn của
DN, nếu phát hiện việc sử dụng vốn không đúng mục đích phải điều chỉnh, uốn
nắn kịp thời. Nếu DN có khó khăn về vốn, thanh tra có thể bàn với DN tìm
hướng khắc phục hoặc kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tìm cách giải quyết.
Nếu việc sử dụng vốn kém hiệu quả hoặc gây thất thoát vốn, thanh tra phải làm
rõ nguyên nhân, báo cáo kịp thời với các cơ quan có thẩm quyền để tìm cách xử
lý…
Thông qua việc thanh tra, xem xét việc sử dụng vốn của DN, nhằm giúp
cho DN bảo toàn vốn, sử dụng vốn đúng mục đích, từng bước nâng cao hiệu quả
sử dụng và phát triển vốn.
Mặt khác, DNNN là một bộ phận chủ yếu của kinh tế nhà nước, là công
cụ rất quan trọng để Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế. Cho nên, ngoài việc
Nhà nước quản lý nó như những DN khác, Nhà nước còn có những chính sách,
quy định riêng cho DNNN. Thông qua hoạt động thanh tra, để thấy được những
khó khăn, bất lợi của các DNNN để Nhà nước hỗ trợ, giúp đỡ DN như: cấp vốn
bổ xung, cho vay với lãi suất ưu đãi, bao mua sản phẩm, đầu tư công nghệ…
nhằm tạo ra những điều kiện, môi trường thuận lợi cho DNNN phát triển, nâng

cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của DNNN, góp phần cùng
kinh tế nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo và định hướng pháp triển nền kinh tế.
- Góp phần loại trừ tiêu cực, tham nhũng trong các DNNN

14


Cơ chế thị trường, về cơ bản có rất nhiều ưu điểm và tác dụng mà không
không thể phủ nhận, song bên cạch đó nó cũng có những mặt trái, những khuyết
tật cần phải có sự can thiệp của Nhà nước để hạn chế những khuyết tật ấy và
“sửa chữa những thất bại của thị trường”. Do chạy theo lợi nhuận, nên các DN
dễ dẫn đến cạnh tranh không hoàn hảo, làm ô nhiễm môi trường, khủng hoảng,
suy thoái, thất nghiệp… Hiện tượng chốn lậu thuế, gian lận thương mại, vi phạm
bản quyền, làm hàng giả đang diễn ra phổ biến ở nước ta. Bên cạnh đó, tình
trạng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, mất vốn cũng không
phải là ít trong các DNNN. Đặc biệt, “Tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu
nhân dân tiếp tục diễn ra nghiêm trọng” [2, tr.3], trong các cơ quan nhà nước
nói chung và trong các DNNN nói riêng. Do đó, thanh tra phải có trách nhiệm
phát hiện, tìm ra những tiêu cực, tham nhũng để xử lý, truy tố trước pháp luật.
Đồng thời, qua thanh tra cũng thấy được sự sơ hở của chính sách, pháp luật, của
cơ chế quản lý để sửa đổi, bổ xung nhằm hạn chế, đẩy lùi tham nhũng tiêu cực.
Vì vậy, chống tham nhũng, tiêu cực cũng là một trong những mục đích của hoạt
động thanh tra các DNNN.
Trên đây là những mục đích kinh tế cụ thể của hoạt động thanh tra
DNNN, các mục đích này được xuất phát từ yêu cầu của công tác quản lý nói
chung và yêu cầu của hoạt động thanh tra nói riêng. Đồng thời các mục đích này
phải nhằm phục vụ cho mục đích chung của hoạt động thanh tra và mục đích
quản lý của Nhà nước về kinh tế.
Tuỳ theo yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác quản
lý của các cấp, các ngành trong từng thời điểm cụ thể, mỗi cuộc thanh tra có một

số nội dung nhất định. Cho nên, mục đích của các cuộc thanh tra nói chung và
thanh tra DNNN nói riêng không phải lúc nào cũng giống nhau. Mục đích của
mỗi cuộc thanh tra DNNN là tuỳ thuộc vào nội dung của cuộc thanh tra, yêu cầu
của công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước và tuỳ thuộc
vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của cuộc thanh tra đó. Do vậy, mục đích của mỗi
cuộc thanh tra DNNN là để góp phần thực hiện mục đích chung của hoạt động
15


thanh tra và phục vụ cho mục đích của quản lý kinh tế nói riêng và quản lý nhà
nước nói chung.
Tóm lại, mục đích của hoạt động thanh tra các DNNN nói riêng và của
hoạt động thanh tra nói chung là phụ thuộc vào mục đích của quản lý nhà nước
và phục vụ cho mục đích quản lý của Nhà nước. Vì vậy, muốn hoàn thành tốt
nhiệm vụ thanh tra các DNNN, phục vụ tốt cho công tác quản lý về kinh tế của
Nhà nước thì các cơ quan Thanh tra Nhà nước phải thực hiện tốt các mục đích
nêu trên.
1.1.3. Vai trò của hoạt động thanh tra đối với DNNN
- Với tư cách là một chức năng thiết yếu, một công cụ quan trọng để nhà
nước quản lý, kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế nói chung và các DNNN nói riêng,
vai trò của hoạt động thanh tra các DNNN được thể hiện trên các mặt sau:
Thông qua việc kiểm tra, xem xét, các tổ chức Thanh tra Nhà nước yêu
cầu các DN nói chung và các DNNN nói riêng phải đi theo định hướng chung
của nền kinh tế, thực hiện đúng chính sách pháp luật, các quy định của Nhà
nước, nghĩa vụ của DN đối với Nhà nước… Nếu phát hiện DN nào thực hiện
chưa đúng, thực hiện chưa đầy đủ hoặc đi chệch hướng thì phải uốn nắn, điều
chỉnh kịp thời… để DN có thể hoàn thành tốt trách nhiệm của mình đối với Nhà
nước và xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu, là mục
tiêu tối cao của các DN nói chung và cả các DNNN nói riêng. Vì vậy, trong quá

trình hoạt động các DN thường muốn vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước,
tìm kiếm cho mình những điều kiện kinh doanh thuận lợi, kể cả việc lách luật
hoặc cố tình làm sai như: trốn lậu thuế, gian lận thương mại, không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy nghĩa vụ với Nhà nước và người lao động, thậm trí có
hành vi hối lộ, tham nhũng, tiêu cực... Vì vậy, thanh tra phải ngăn ngừa, hạn chế
và xử lý nghiêm khắc những hành vi này.
Mặt khác, thanh tra không chỉ có kiểm tra, xem xét các DNNN có thực
hiện đúng chính sách pháp luật hay không, có làm tròn trách nhiệm đối với nhà
16


nước hay không mà thanh tra còn là để ngăn chặn, xử lý các hành vi sai phạm
của DN. Hơn nữa, thanh tra còn phải xem ngay cơ chế chính sách, pháp luật, các
quy định của nhà nước hay mục tiêu, phương hướng phát triển của DN đã đúng
chưa, đã phù hợp với thực tế chưa, để kiến nghị với Nhà nước sửa đổi, điều
chỉnh, bổ xung kịp thời, nhằm thiết lập được mục tiêu, định hướng đúng, một
hành lang pháp lý thông thoáng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các DN phát
triển; phát huy tối đa những ưu thế của cơ chế thị trường và hạn chế đến mức
thấp nhất những mặt trái của nó.
- Với tư cách là chủ sở hữu của các DNNN, Nhà nước là người chủ quản
lý và chi phối toàn bộ các hoạt động của DN như: Quyết định việc thành lập,
chia tách, sát nhập hoặc giải thể DN; Quyết định các chức danh quản lý chủ chốt
của DN; Quyết định mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược phát triển của DN; Quy
định các nguyên tắc cơ bản hoạt động của DN và kiểm soát toàn bộ hoạt động
của DNNN… nhằm đảm bảo cho DN phát triển đúng hướng và mang lại hiệu
cao trong kinh doanh.
Để thực hiện quyền kiểm tra, kiểm soát của nhà nước đối với DN, Nhà
nước uỷ quyền cho các cơ quan thanh tra thực hiện việc kiểm tra, giám sát toàn
bộ các hoạt động của DN, yêu cầu các DN phải thực hiện đúng mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ và các quy định của Nhà nước. Khi phát hiện DN có

những dấu hiệu phát triển không lành mạnh hay chệch hướng, thanh tra phải
nhắc nhở, điều chỉnh kịp thời. Nếu thực hiện chưa đúng, chưa tốt thanh tra phải
giúp đỡ, động viên để DN hoàn thành nhiệm vụ. Nếu DN cố tình vi phạm thì
cũng phải xử lý nghiêm khắc như các DN khác.
Tuy nhiên, với tư cách là đại diện của chủ sở hữu, thanh tra cũng phải
xem xét việc thiết lập mục tiêu, phương hướng kinh doanh, xem xét các quy
định của nhà nước đã đúng và phù hợp với thực tế không, để kiến nghị với Nhà
nước sửa đổi, điều chỉnh, bổ xung kịp thời, nhằm hoàn chỉnh mục tiêu, định
hướng và các quy định của Nhà nước đối với DNNN, đặc biệt là việc phân định

17


rõ giữa chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước với chức năng kinh doanh của
DN, tạo ra một cơ chế, môi trường thuận lợi cho các DN phát triển.
- Thanh tra là một phương thức thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở và bảo
đảm công bằng xã hội. Nhà nước ta là nhà nước “của dân, do dân và vì dân”,
mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, cho nên “dân biết, dân bàn, dân làm và
dân kiểm tra” mọi công việc của nhà nước và xã hội. Hiến pháp nước ta đã ghi
nhận những quyền cơ bản của công dân và được cụ thể hoá trong các chính sách
của Đảng và các văn bản pháp luật của nhà nước, trong đó công dân được quyền
tham gia quản lý nhà nước, giám sát và kiểm tra các hoạt động của các cơ quan
nhà nước. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước Đảng ta cũng khẳng định rõ:
“Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và
lắng nghe ý kiến của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và
trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền
dân chủ của nhân dân”.
Trong quy chế dân chủ cơ sở, đã quy định rõ những điều dân biết, dân
bàn, dân kiểm tra… các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có trách
nhiệm tổ chức để nhân dân thực hiện dân chủ đó. Theo quy định của pháp luật,

quyền dân chủ của nhân dân được thực hiện dưới hai hình thức: dân chủ trực
tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là nhân dân tự mình thảo luận, quyết
định những công việc liên quan đến lợi ích của cộng đồng hay của DN như: xây
dựng nếp sống văn hoá, xây dựng cơ sở hạ tầng, sử dụng các loại quỹ tự đóng
góp hay quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi của DN… Thông qua lá phiếu, nhân dân
trực tiếp lựa chọn những người có đủ tài, đức vào các cơ quan quyền lực nhà
nước như: Quốc hội, Hội đồng nhân dân hay Ban lãnh đạo của DN… để thay
mặt nhân dân quản lý đất nước, quản lý DN.
Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền dân chủ của mình thông qua việc
trực tiếp theo dõi, kiểm tra, giám sát, nhận xét, đánh giá các cơ quan nhà nước,
các cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực hiện chức trách, nhiện vụ mà
nhà nước và nhân dân giao cho.
18


Để bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân trở thành hiện thực, Nhà nước
yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tôn trọng quyền dân chủ của nhân
dân, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ, chống mọi hành vi quan liêu, cửa
quyền, hách dịch đối với nhân dân. Đồng thời, Nhà nước cũng tổ chức ra các cơ
quan để giám sát, kiểm tra, kiểm soát và xem xét việc thực hiện quyền dân chủ
của nhân dân, trong đó có các cơ quan Thanh tra Nhà nước. Thông qua các cuộc
thanh tra và giải quyết KN,TC tại DN, cán bộ, công nhân viên thấy được thực
trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của DN và trình độ năng lực, phẩm chất
đạo đức của đội ngũ cán bộ quản lý. Từ đó, họ có cơ sở để tham gia vào các hoạt
động của DN như: bàn về phương hướng sản xuất kinh doanh, công tác quản lý
của DN, phát hiện và lựa chọn những cán bộ, công chức có đủ trình độ năng lực,
phẩm chất đạo đức tham gia vào bộ máy quản lý của doanh nghiệp và là nguồn
bổ xung cán bộ cho các cơ quan của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, cũng tạo
những điều kiện thuận lợi cho quần chúng tham gia vào việc phát hiện, đấu tranh
với các hành vi quan liêu, cửa quyền, hách dịch, tiêu cực, tham nhũng… để loại

trừ những phần tử thái hoá biến chất, làm trong sạch bộ máy quản lý của DN,
lập lại công bằng xã hội và kỷ cương pháp luật.
Như vậy, thông qua các hình thức, biện pháp nêu trên hoạt động thanh tra
đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm
quyền để quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện, bảo đảm quyền tự do, dân
chủ, bảo đảm các quyền và ích hợp pháp của công dân nói chung và của cán bộ,
công nhân viên trong DNNN nói riêng.
Tóm lại:
- Nhà nước tổ chức ra các cơ quan thanh tra để thực hiện chức năng thanh
tra, kiểm soát toàn bộ đất nước và nền kinh tế là một tất yếu khách quan.
- DNNN là một bộ phận cơ bản, chủ yếu của kinh tế nhà nước, là lực
lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết, quản lý và định hướng phát
triển các thành phần kinh tế theo định hướng XHCN. Do vậy, Nhà nước phải
quản lý, thanh tra, kiểm soát toàn bộ các hoạt động của DNNN, nhằm tạo những
19


điều kiện thuận lợi cho DN phát triển đúng hướng và có hiệu quả cao, góp phần
cùng kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo và định hướng trong nền
kinh tế quốc dân.
1.2. Nội dung hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN
1.2.1. Xác định chủ thể, đối tượng và nội dung thanh tra
1.2.1.1. Chủ thể thanh tra
Ở nước ta quyền thanh tra hay chủ thể thanh tra là thuộc về Nhà nước.
Nhà nước uỷ quyền cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện chức năng
này, đó là Chính phủ, các Bộ, Sở ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp và chủ yếu là
do các các cơ quan Thanh tra Nhà nước thực hiện và trực tiếp là các Đoàn thanh
tra và các Thanh tra viên.
Một vấn đề đặt ra là, trên một địa bàn với một đối tượng cụ thể như
DNNN chẳng hạn, có nhiều cơ quan có thẩm quyền thanh tra và sẽ có thể có

nhiều đoàn thanh tra cùng đến hoặc cùng thanh tra một nội dung trong một
năm… Như thế, việc tiến hành các cuộc thanh tra rất dễ sinh ra chồng chéo,
không những gây khó khăn cho đối tượng thanh tra mà chính ngay các đoàn
thanh tra cũng khó xử lý trong các tình huống này. Ngược lại, nếu nhiều chủ thể
cùng có thẩm quyền thanh tra một DN thì cũng rất dễ dẫn đến tình trạng, cơ
quan này tưởng cơ quan kia làm, như thế cũng sẽ dẫn tới có DN bị bỏ sót, không
ai xem xét DN… Vì vậy, việc tổ chức hệ thống thanh tra và sự phân cấp quyền
thanh tra phải rất khoa học và cụ thể thì mới khắc phục được tình trạng trên. Dù
tổ chức hệ thống thanh tra theo ngành dọc hay theo kiểu song trùng lãnh đạo
(vừa theo cấp, vừa theo ngành) thì mỗi cơ quan thanh tra chỉ thanh ra một hoặc
một số cơ quan, đơn vị hay DN nhất định và tổ chức phúc tra dưới một cấp, tức
là phải hạn chế đến mức thấp nhất các cơ quan có thẩm quyền thanh tra vào một
cơ quan, đơn vị hay một DN. Theo luật Thanh tra, mô hình của cơ quan Thanh
tra Nhà nước hiện nay là:
“1. Các cơ quan Thanh tra Nhà nước bao gồm:
a. Cơ quan Thanh tra được thành lập theo cấp hành chính;
20


b. Cơ quan Thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực.
2. Cơ quan Thanh tra Nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng
cùng cấp; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức và nghiệp
vụ của Thanh tra Chính phủ; chịu sự hướng dẫn của cơ quan thanh tra cấp
trên” [14, tr.200].
1.2.1.2. Đối tượng thanh tra
Trong Điều 2 của Luật Thanh tra ghi rõ: “Phạm vi thanh tra: Cơ quan
Thanh tra nhà nước tiến hành Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý của cơ
quan quản lý nhà nước cùng cấp” [14, tr.197]. Như vậy, đối tượng, phạm vi
thanh tra của các cơ quan Thanh tra Nhà nước là các cơ quan, tổ chức và cá

nhân trong việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ được giao.
Các DNNN là một bộ phận quan trọng của kinh tế Nhà nước, nó có trách
nhiệm thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ của Nhà nước giao. Cho nên,
việc thanh tra các DN này là một trong những nội dung cơ bản của các cơ quan
Thanh tra Nhà nước. Xét về mối quan hệ giữa Nhà nước với DNNN thì Nhà
nước có hai tư cách: với tư cách là Nhà nước, là người quản lý xã hội và với tư
cách là người chủ sở hữu của DN. Với tư cách là Nhà nước thì Nhà nước quản
lý DNNN như mọi DN khác, cho nên đối tượng thanh tra ở đây chủ yếu là xem
xét việc chấp hành chính sách, pháp luật của các DN này. Với tư cách là chủ sở
hữu của DN thì Nhà nước là người tổ chức, quản lý toàn bộ mọi hoạt động của
DN, cho nên đối tượng thanh tra ở đây là toàn bộ các hoạt động của DNNN, từ
việc thực hiện chính sách, pháp luật đến việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch nhà
nước giao cho DN như: mục tiêu, phương hướng sản xuất kinh doanh, kế hoạch
thực hiện các sản phẩm dịch vụ chủ yếu, hoạt động tài chính của DN, nghĩa vụ
của DN đối với Nhà nước và người lao động…
Mặt khác, trong quá trình thanh tra các DNNN, để kiểm tra, xem xét làm
rõ các nội dung thanh tra, thường có những vấn đề liên quan đến việc thực hiện
chức trách, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân nằm ngoài đối tượng
21


×