ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ HOÀNG YẾN
ỨNG XỬ VĂN HÓA CỦA PHÓNG VIÊN THỂ THAO
VIỆT NAM TRONG TÁC NGHIỆP Ở NƯỚC NGOÀI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số: 60 32 01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Thái
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 3
Chương 1 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN BÁO CHÍ THỂ THAO VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH GIAO LƯU VĂN HOÁ............................................................... 14
1.1. Tác động của giao lưu văn hoá đối với sự hình thành và phát triển báo chí thể
thao Việt Nam. ............................................................................................................ 14
1.1.1.Vài nét về báo chí thể thao ở Việt Nam trước cách mạng ............................... 14
1.1.2.Về tờ báo thể thao đầu tiên của nước Việt Nam độc lập ................................. 18
1.1.3. Báo chí thể thao Việt Nam sau 1954 .............................................................. 24
1.2.Diện mạo hệ thống báo chí thể thao Việt Nam hiện nay ..................................... 28
1.2.1.Những bước tiến vượt bậc............................................................................... 28
1.2.2. Nền tảng văn hoá của phóng viên thể thao quốc tế trong môi trường truyền
thông đầu thế kỷ 21.................................................................................................. 35
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................... 38
Chương 2 ỨNG XỬ VĂN HÓA QUA CÁC TÁC PHẨM CỦA PHÓNG VIÊN THỂ
THAO VIỆT NAM TẠI WORLD CUP VÀ OLYMPIC ............................................. 41
2.1. World Cup và Olympic với môi trường truyền thông toàn cầu ......................... 41
2.1.1.World Cup - Ngày hội bóng đá của cả hành tinh............................................ 41
2.1.2.Olympic với công chúng thể thao thế giới ....................................................... 46
2.2. Khảo sát tác phẩm truyền thông của phóng viên thể thao Việt Nam tác nghiệp
tại World Cup ............................................................................................................. 48
2.2.1.World Cup 2002 và hai điều đặc biệt............................................................... 48
2.2.2.World Cup 2006: Thời điểm để kết bạn........................................................... 59
2.3. Khảo sát tác phẩm truyền thông của phóng viên thể thao Việt Nam tác nghiệp
tại các kỳ Olympic ...................................................................................................... 69
2.3.1. Olympic 2004: Thế vận hội trở lại Athens- cái nôi của phong trào Olympic . 69
2.3.2.Olympic 2008: Thành công về mọi mặt ......................................................... 78
Chương 3 BÀI HỌC ỨNG XỬ VĂN HÓA TRONG TÁC NGHIỆP CỦA PHÓNG
VIÊN THỂ THAO VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI....................................................... 90
3.1.Về công tác chuẩn bị ............................................................................................. 90
3.1.1. Làm thủ tục xuất nhập cảnh .......................................................................... 90
3.1.2. Tìm nơi cư trú thuận lợi................................................................................. 91
3.1.3. Tìm kiếm sự giúp đỡ của các nhà tài trợ ........................................................ 93
3.1.4. Chuẩn bị trang thiết bị cá nhân và đồ ăn dự trữ ............................................ 94
3.1.5. Đến Trung tâm báo chí xin cấp thẻ hành nghề.............................................. 96
3.1.6. Nghệ thuật PR cho hoạt động của đoàn phóng viên ...................................... 98
3.1.7. Làm thủ tục xin cấp thẻ tác nghiệp .............................................................. 100
3.1.8.Chủ động giữ vững liên lạc với Toà soạn ..................................................... 102
3.2.Văn hoá tác nghiệp của phóng viên thể thao Việt Nam ..................................... 103
3.2.1.Chuẩn bị tư liệu ............................................................................................ 103
3.2.2.Tìm hiểu văn hoá của nước chủ nhà và các quốc gia tham dự..................... 108
3.2.3. Tiếp cận, phỏng vấn những người nổi tiếng ................................................ 112
3.2.4. Tham dự họp báo ......................................................................................... 116
1
3.2.5. Sáng tạo tác phẩm báo chí ........................................................................... 118
Kết luận ........................................................................................................................ 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 130
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử báo chí thể thao cùng phát triển với lịch sử báo chí nói chung,
nhưng phải đến năm 1924 thì giới báo chí thể thao trên thế giới mới tập hợp
nhau lại trong một tổ chức chung trên toàn thế giới. Tổ chức chung này có tên
là Hiệp hội báo chí thể thao quốc tế ( AIPS). AIPS hiện nay có gần 200 thành
viên với trên 27.000 phóng viên thể thao được cấp thẻ phóng viên chuyên
nghiệp. AIPS là thành viên của Uỷ ban Olympic quốc tế.
Ngày 2/7/1995, Đại hội đồng AIPS đã chọn ngày 2/7 hàng năm là
“Ngày báo chí thể thao thế giới”. Có thể nói, hiện nay, báo chí thể thao ở các
nước trên thế giới là một mảng đề tài rất phong phú và sinh động. Khi bóng đá
và các môn thể thao ngày càng được quan tâm thì báo chí về thể thao trở thành
một phần không thể thiếu trong đời sống xã hội. Ở nhiều nước phát triển, số
lượng các tờ báo chuyên về thể thao có thể lên tới hàng trăm với nhiều tờ báo
tên tuổi như Marca; World Soccer; Gazzetta dello Sports…Sport Bild;
L’Equipe; France Fooball, Kicker…
Mặc dù không nằm trong Hiệp hội báo chí thể thao quốc tế nhưng nền
báo chí thể thao của Việt Nam không chủ trương phát triển đơn độc mà cố
gắng hoà nhập, học hỏi kinh nghiệm từ các tờ báo nước ngoài và tìm được
hướng đi cho riêng mình.
Kể từ năm 1896, khi Thế vận hội Olympic hiện đại lần đầu tiên diễn ra
tại Athens, Hy Lạp đến nay, cứ 4 năm một lần, ngày hội thể thao lớn nhất
hành tinh lại được tổ chức. Nếu Olympic là đại hội thể thao dành cho tất cả
các quốc gia trên thế giới tham dự thi đấu ở hầu hết các môn thể thao thì
1
World Cup là giải vô địch dành cho môn thể thao Vua, môn bóng đá. Có thể
nói, không có một sự kiện văn hoá - thể thao nào ở cấp độ toàn cầu lại được
nhiều người quan tâm đến như hai sự kiện kể trên.
Đối với hàng tỷ con người sống trên trái đất, thể thao chiếm một phần
khá quan trọng trong đời sống của họ. Khi báo chí phát triển thì thể thao đến
với người hâm mộ càng dễ dàng hơn. Nhờ báo chí truyền thông mà thể thao
được phổ biến đến từng người dân ở những vùng xa xôi nhất.
Mảng báo chí truyền thông về thể thao đang nổi lên như là một món ăn
tinh thần ở khắp nơi trên thế giới. Giờ đây, trong một quốc gia, sự tồn tại của
vài chục tờ báo chuyên về thể thao không còn là điều ngạc nhiên. Sự cạnh
tranh giữa các tờ báo thể thao cũng là tất yếu. Sự cạnh tranh đó khiến cho nền
báo chí quốc gia trở nên sôi động hơn. Ở Việt Nam cũng vậy, sự tồn tại của
gần 10 tờ báo chuyên ngành thể thao và hàng chục tờ báo có chuyên đề về thể
thao đã được độc giả Việt Nam nhiệt thành đón nhận. Chính những tờ báo này
đã, đang và sẽ làm cho đời sống tinh thần, nhu cầu được thông tin về thể thao
quốc tế của bạn đọc Việt Nam trở nên phong phú đa dạng hơn.
Có thể nói, trong các mảng đề tài thể thao trên báo chí, mảng bóng đá
quốc tế là có sức cuốn hút lớn nhất. Đặc biệt là trong các sự kiện thể thao-văn
hóa ở tầm thế giới như Thế vận hội Olympic hay World Cup. Sự có mặt của
phóng viên thể thao Việt Nam tới đưa tin trực tiếp đã góp phần làm nên những
trang báo nóng hổi, đưa đến cho bạn đọc những tin tức cập nhật, độc đáo.
Những chuyện hậu trường, bên lề, những bài viết cập nhật về văn hoá của
nước chủ nhà, muôn vàn câu chuyện sinh động về cổ động viên mà trước đây
do sự khai thác gián tiếp từ nguồn tin báo chí nước ngoài, nay đã được các
phóng viên thể thao Việt Nam trực tiếp chuyển tải tới bạn đọc.
2
Trong những năm vừa qua, nhiều phóng viên thể thao Việt Nam đã trực
tiếp tham gia vào các hoạt động thể thao đỉnh cao quốc tế để phản ánh một
cách nhanh nhất các sự kiện lớn trên thế giới, đáp ứng nhu cầu của đông đảo
công chúng. Tuy nhiên, do nhiều lý do khách quan và chủ quan, phóng viên
Việt Nam chưa phải là thành viên trong các hiệp hội thể thao quốc tế, do đó
việc tác nghiệp báo chí ở lĩnh vực này còn gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, mỗi
tờ báo, mỗi phóng viên được cử đi công tác tùy theo điều kiện cụ thể, hoàn
cảnh cũng như yêu cầu của tòa soạn. Các phóng viên thể thao khi tác nghiệp ở
nước ngoài, do hoạt động trong những môi trường văn hoá khác biệt với quốc
gia mình nên rất dễ mắc phải những sai sót. Hơn nữa, do hiện nay chúng ta
chưa có một tài liệu, giáo trình nào hướng dẫn cụ thể về điều này nên mỗi
phóng viên thể thao khi ra nước ngoài thường phải tự vạch cho mình một quy
trình tác nghiệp riêng, miễn sao hoàn thành nhiệm vụ.
Trong các môn thể thao nói chung, bóng đá vẫn được mệnh danh là
môn thể thao “vua” và tầm quan trọng của nó đã lớn đến mức đã xuất hiện
khái niệm “văn hoá bóng đá”. Hoặc nói một cách khác, bóng đá - nghệ thuật
túc cầu đã được nhìn nhận từ góc nhìn văn hóa. Do đặc thù riêng biệt, văn hoá
bóng đá, ngoài ý nghĩa phổ quát, mang tính toàn cầu – đúng như bản chất vốn
có của nó, còn mang đặc thù của từng dân tộc. Chính điều này làm nên sức
hấp dẫn của bóng đá và tất nhiên là của báo chí viết về bóng đá. Bởi bóng đá
của dân tộc nào sẽ mang nét văn hóa riêng của dân tộc ấy. Do vậy, người
phóng viên khi tác nghiệp ở các quốc gia khác nhau, nơi diễn ra các sự kiện
thể thao lớn, sẽ không chỉ làm nhiệm vụ phản ánh sự kiện thể thao đó mà còn
phải thông tin đến bạn đọc về văn hoá của quốc gia chủ nhà, của giải đấu và
bóng đá của những nền văn hoá khác nhau mà họ may mắn được tiếp cận.
3
Xét về thực chất, cuộc đối thoại giữa các nền văn hoá, văn minh hiện
nay là sự đánh giá, so sánh, lựa chọn các giá trị văn hóa trong đó đương nhiên
có giá trị văn hóa-thể thao theo quan điểm nhân văn hiện đại, nhằm định
hướng cho sự phát triển kinh tế, xã hội ở buổi bình minh của kinh tế tri thức
trên toàn cầu.
Trong cuộc đối thoại rộng lớn, đa dạng giữa các nền văn hoá, người ta
thấy nổi lên quá trình đối thoại, giao tiếp phổ biến giữa nền văn hoá phương
Đông với nền văn hoá phương Tây. Quá trình xây dựng nền văn hoá nước ta
nằm trong cuộc đối thoại ấy.
Nền văn hoá Việt Nam là một bộ phận trong nền văn hoá phương Đông,
chắc chắn sẽ chịu ảnh hưởng và tác động của cuộc đối thoại văn hoá ĐôngTây. Vì vậy, mỗi phóng viên khi tác nghiệp ở nước ngoài trong các sự kiện thể
thao lớn cần phải xác tín một cách ứng xử văn hoá kết hợp giữa truyền thống
tốt đẹp của văn hoá dân tộc với sự hiểu biết văn hoá của nước chủ nhà để có
thể hoàn thành được nhiệm vụ truyền thông về thể thao quốc tế mà toà soạn đã
tin cẩn giao phó.
Có thể nói, trong khi các vận động viên đang thi đấu quyết liệt để giành
thắng lợi thì bên ngoài sân cỏ cũng là một “cuộc chiến” cũng không kém phần
gay gắt của những phóng viên thể thao mà phần thắng sẽ thuộc về những
người biết ứng xử một cách văn hoá nhất, thông qua quá trình tác nghiệp và
các tác phẩm báo chí của mình. Tất nhiên, trong quá trình đó, cũng giống như
nhà báo hoạt động trong các lĩnh vực khác, hoạt động của người phóng viên
“luôn gắn bó chặt chẽ với những đặc điểm cơ bản nhất của báo chí mà trong
đó chức năng thông tin kịp thời về những cái mới đã đóng vai trò như một đặc
điểm quan trọng nhất” [6, 31].
4
Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang ngày càng tăng cường hội
nhập với thế giới thì thể thao luôn đi trước, được coi là sứ giả của hòa bình.
Chính vì thế, cơ hội được đi ra nước ngoài để hoạt động nghiệp vụ của các
phóng viên thể thao cũng ngày càng mở rộng hơn, đa dạng hơn. Trong tình
hình đó, việc nghiên cứu, tổng kết để rút ra những kết luận cần thiết nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động của phóng viên thể thao nói chung và những
ứng xử văn hóa của họ nói riêng khi ở ngoài nước là một vấn đề bức xúc của
thực tiễn và lý luận báo chí.
Đó cũng là lý do khiến chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu này cho luận
văn Thạc sỹ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến hoạt động của người phóng viên nói chung, ở nước ta đã
có khá nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu dưới dạng sách chuyên khảo, giáo
trình, luận văn tốt nghiệp đại học và sau đại học. Trong số đó, nếu tính theo
trình tự thời gian, có thể kể tên một số công trình tiêu biểu sau đây:
Giáo trình nghiệp vụ báo chí hai tập (lưu hành nội bộ) của Khoa Báo
chí, Trường Tuyên huấn Trung ương 1, Hà Nội xuất bản năm 1978. Đây là
một trong những giáo trình báo chí đầu tiên của nền báo chí cách mạng Việt
Nam. Trong giáo trình này, phần “Công tác phóng viên” gắn với thực tế hoạt
động của phóng viên báo chí nước ta trong những năm của thập kỷ 70 của thế
kỷ trước đã được trình bày rất kỹ lưỡng trong tập II.
Cuốn sách Nghề nghiệp và công việc của nhà báo do Hội nhà báo Việt
Nam xuất bản (1992) từ nguồn tập hợp các bài viết, công trình nghiên cứu của
các tác giả trong và ngoài nước. Trong đó, có nhiều bài nghiên cứu về nghề
nghiệp và các công việc của người phóng viên.
5
Cuốn sách Nghĩ về nghề báo của tác giả Hữu Thọ đã được Nhà xuất bản
Giáo Dục in và phát hành năm 1997. Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu lên
những khía cạnh cơ bản nhất trong hoạt động nghiệp vụ của người làm báo
cách mạng Việt Nam.
Năm 2000, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội đã cho tái bản cuốn
sách Công việc của người làm báo của tác giả Hữu Thọ. Đây cũng là một tài
liệu quý, có vai trò đặt nền móng cho những nghiên cứu về báo chí và nghề
báo ở nước ta.
Cuốn sách Xử lý thông tin - công việc của nhà báo của tác giả Nguyễn
Uyển, một nhà báo có nhiều kinh nghiệm đã được Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành năm 1998. Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu ra được
những kinh nghiệm của một người làm báo đảng địa phương.
Năm 1998, PTS Nguyễn Văn Dững và PTS Hoàng Anh (Học viện Báo
chí và Tuyên truyền) đã dịch cuốn sách Nhà báo - Bí quyết kỹ năng nghề
nghiệp của các tác giả Vôtxkobôinhikốp - Iyriev (1998). Sách do Nhà xuất bản
Lao Động ấn hành. Trong cuốn sách này có một số kinh nghiệm làm báo của
các nước phương Tây.
Trong các cuốn sách Viết báo như thế nào? và Sáng tạo tác phẩm báo
chí (do Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin xuất bản các năm 2001 và 2002),
tác giả Đức Dũng đều có những chương dành cho việc trình bày về lao động
của nhà báo, chủ yếu tập trung vào công việc sáng tạo tác phẩm báo chí.
Phóng viên và toà soạn là một cuốn sách của tác giả Nguyễn Quang
Hoà (khi đó là Thư ký Tòa soạn của báo Hà Nội mới). Cuốn sách này được
Nhà xuất bản Văn hoá- Thông tin, Hà Nội in và phát hành năm 2002 với nội
dung chủ yếu bàn về công việc của ban Thư ký Tòa soạn.
6
Trong cuốn sách Cơ sở hoạt động sáng tạo của nhà báo (Nhà xuất bản
Thông tấn, Hà Nội, 2003), tác giả G.V. Lazutina đã bàn bạc khá sâu về công
việc của nhà báo và cơ sở lý luận của nó,.
Nghề làm báo là một cuốn sách của tác giả Philippe Gaillard (Nhà xuất
bản Thông tấn, Hà Nội, 2003). Sách trình bày khá sinh động về kinh nghiệm
làm báo của phương Tây.
Tác giả V.V.Vôrôsilốp trong cuốn sách Nghiệp vụ báo chí- Lý luận và
thực tiễn (Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội, 2004) đã đề cập đến những vấn đề
cơ bản về lý luận và thực tiễn của nghề báo.
Tổ chức và hoạt động của toà soạn là một cuốn sách của PGS, TS Đinh
Hường, do Nhà xuất bản Đại học quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 2006. Đây là
một trong số không nhiều các công trình nghiên cứu có tính lý luận về công
việc của phóng viên và tòa soạn báo chí, gắn với thực tế Việt Nam.
Ngoài những công trình nghiên cứu kể trên, cho đến nay vẫn chưa thấy
có chưa có các công trình khoa học báo chí học nghiên cứu về quá trình tác
nghiệp của phóng viên Việt Nam ở nước ngoài, nhất là về những ứng xử văn
hoá của họ trong những môi trường văn hóa khác. Bên cạnh đó, việc nghiên
cứu các tác phẩm báo chí của họ, như kết quả cuối cùng của quá trình tác
nghiệp và ứng xử văn hóa ấy, lại càng hiếm hoi, nếu không muốn nói là chưa
có.
Trong bối cảnh đó, có thể khẳng định luận văn này là công trình đầu
tiên đề cập đến ứng xử văn hoá của phóng viên thể thao khi tác nghiệp ở nước
ngoài , thông qua việc tổ chức và truyền thông các tác phẩm báo chí của họ về
Việt Nam trong môi trường truyền thông toàn cầu đầu thế kỷ 21.
7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là những ứng xử văn hóa của
phóng viên thể thao Việt Nam trong quá trình tác nghiệp ở nước ngoài và các
tác phẩm báo chí của họ như là kết quả của quá trình ứng xử văn hóa ấy.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở các tờ báo có cử phóng viên tham
gia tác nghiệp ở nước ngoài nhân các sự kiện thể thao lớn như các báo: Thể
thao Việt Nam; Thanh niên, Tuổi Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh; Thể thao và
Văn hóa và một số báo thể thao, một số báo có chuyên trang thể thao và các
báo điện tử…
Các tác phẩm báo chí được khảo sát trên các tờ báo nêu trên, gắn với
bốn sự kiện thể thao lớn: Olympic 2004 tại Athens - Hy Lạp; Olympic 2008 tại
Bắc Kinh - Trung Quốc; World Cup 2002 đồng tổ chức tại Nhật Bản - Hàn
Quốc và World Cup 2006 tại Đức.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn này trên cơ sở trình bày, phân tích những ứng xử
văn hóa của của phóng viên thể thao Việt Nam trong quá trình tác nghiệp ở
nước ngoài và các tác phẩm báo chí của họ, từ đó rút ra những kết luận cần
thiết và cố gắng khái quát thành những nguyên tắc ứng xử văn hoá trong tác
nghiệp báo chí ở lĩnh vực thể thao khi hoạt động ngoài nước.
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn phải thực hiện một số
nhiệm vụ sau đây:
- Khảo sát các tư liệu là các công trình nghiên cứu lý luận báo chí và
các tác phẩm báo chí được đăng tải trên các báo thể thao thuộc phạm vi đề tài
đề cập đến.
8
- Phân tích những hoạt động thực tế của phóng viên thể thao Việt Nam
hoạt động ở nước ngoài để khái quát, rút ra những kết luận cần thiết phục vụ
cho những luận điểm của luận văn.
- Những ứng xử của phóng viên thể thao ở nước ngoài như một đại diện
về văn hoá của nước mình, thông qua giao lưu văn hoá với các nước bạn.
Người viết cũng chú ý sự khác biệt trong phương thức tác nghiệp gắn với
những nền văn hoá khác nhau của phóng viên các nước khi hoạt động ở các
quốc gia khác nhau.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nếu được thực hiện thành công, luận văn này sẽ có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sau đây:
Về mặt lý luận, trên cơ sở phân tích các tác phẩm của phóng viên thể
thao Việt Nam hoạt động ở nước ngoài và thông qua đó nhận xét về những
ứng xử văn hóa của họ trong quá trình tác nghiệp, luận văn sẽ góp phần chỉ ra
những nguyên tắc ứng xử của phóng viên khi tác nghiệp ở nước ngoài, góp
phần vào công tác bồi dưỡng nghiệp vụ lý luận báo chí cho các phóng viên,
đặc biệt là phóng viên thể thao Việt Nam.
Đây cũng là công trình nghiên cứu lý luận đầu tiên về quá trình tác
nghiệp của phóng viên thể thao Việt Nam ở nước ngoài dưới góc nhìn văn
hoá. Không chỉ là những bài học kinh nghiệm, tác giả luận văn mong muốn
thông qua công trình nghiên cứu này để khái quát thành những nguyên tắc ứng
xử văn hoá trong tác nghiệp báo chí thể thao.
Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể là một tài liệu tham khảo tin cậy đối
với những ai quan tâm đến đề tài này. Những cứ liệu thực tế trong luận văn có
9
thể được khai thác sử dụng như những ví dụ cụ thể và sinh động về quá trình
tác nghiệp của phóng viên thể thao Việt nam khi tác nghiệp ngoài nước.
Do bản thân tác giả cũng là một phóng viên thể thao và đã nhiều lần tác
nghiệp ở ngoài nước nên cũng có những kinh nghiệm muốn được trao đổi với
các đồng nghiệp. Đồng thời, tác giả luận văn cũng mong muốn thông qua
công trình nghiên cứu này để rút ra những bài học kinh nghiệm từ hoạt động
của các đồng nghiệp khác. Do đó, quá trình thực hiện luận văn cũng là quá
trình tác giả tự nâng cao vốn hiểu biết và tri thức lý luận của bản thân mình.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong thực tế hiện nay, những công trình nghiên cứu về lý luận báo chí
nói chung còn hiếm hoi, đặc biệt là những công trình nghiên cứu về ứng xử
văn hoá của phóng viên trong tác nghiệp ở nước ngoài. Cho nên, nguồn tư liệu
phục vụ cho việc triển khai đề tài rất hạn chế. Các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu của luận văn bao gồm:
- Phương pháp khảo sát tài liệu được dùng để tiếp cận các tài liệu
nghiên cứu lý luận báo chí nhằm tập hợp những kiến thức lý luận cần thiết, tạo
cơ sở lý luận cho luận văn.
- Phương pháp phân tích các tác phẩm báo chí của các phóng viên
tác nghiệp ở nước ngoài để qua đó tìm ra đặc điểm, phong cách trong ứng xử
văn hoá của họ khi tác nghiệp ở nước ngoài.
- Phương pháp trao đổi, phỏng vấn được thực hiện với những phóng
viên thể thao đã trực tiếp hoạt động nghiệp vụ ở ngoài nước để thu thập thêm
những ý kiến, kinh nghiệm cá nhân của họ.
- Các phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để rút ra
những vấn đề lý luận từ thực tiễn sinh động được khảo sát. Trên cơ sở đó cố
10
gắng xây dựng thành những nguyên tắc ứng xử cần thiết trong tác nghiệp của
các phóng viên báo chí thể thao nói riêng và phóng viên nói chung khi tác
nghiệp ở nước ngoài trong bối cảnh hội nhập và phát triển đất nước hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Tài liệu tham khảo, Phụ lục,
những nội dung chính của luận văn gồm 3 chương có tiêu đề như sau:
Chương 1: Sự hình thành và phát triển báo chí thể thao Việt Nam
trong bối cảnh giao lưu văn hoá.
Chương 2: Ứng xử văn hóa qua các tác phẩm của phóng viên thể
thao Việt Nam tại World Cup và Olympic.
Chương 3: Bài học ứng xử văn hóa trong tác nghiệp của phóng viên
thể thao Việt Nam ở nước ngoài
Cuối luận văn, sau Danh mục tài liệu tham khảo còn có phần Phụ lục,
trong đó giới thiệu thêm những tư liệu cần thiết để bổ sung cho những luận
điểm của luận văn.
11
Chương 1
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN BÁO CHÍ THỂ THAO
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH GIAO LƯU VĂN HOÁ
1.1. Tác động của giao lưu văn hoá đối với sự hình thành và phát
triển báo chí thể thao Việt Nam.
1.1.1.Vài nét về báo chí thể thao ở Việt Nam trước cách mạng
Trước khi người Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam khá lâu, nhiều người
phương Tây đã đặt chân tới Việt Nam. Tuy nhiên, sự truyền bá văn hoá
phương Tây ở Việt Nam chỉ diễn ra một cách toàn diện và có hệ thống sau
khoảng giữa thế kỷ XIX, khi Pháp sử dụng vũ lực chiếm đóng Việt Nam, đặt
Việt Nam hoàn toàn dưới sự cai trị của mình.
Một trong những biểu hiện rõ rệt nhất của việc mở rộng phạm vi ảnh
hưởng của văn hoá phương Tây ở Việt Nam, dẫn tới sự giao lưu giữa văn hoá
phương Tây và văn hoá phương Đông chính là sự hình thành và phát triển chữ
quốc ngữ. Đó là loại chữ mà các giáo sỹ phương Tây hình thành bằng cách sử
dụng bộ chữ cái latin quen thuộc có bổ sung thêm các dấu phụ (mà một số
ngôn ngữ phương Tây như chữ Bồ Đào Nha đã từng làm) để ghi âm tiếng
Việt.
Một biểu hiện khác nữa của việc mở rộng ảnh hưởng văn hoá phương
Tây tại Việt Nam chính là sự ra đời phát triển của nhiều tờ báo chữ quốc ngữ
trên toàn lãnh thổ Việt Nam, trong đó có báo chí Việt Nam.
12
Ở Việt Nam, báo chí tiếng Việt ra đời sớm nhất là tờ Gia Định báo xuất
bản hàng tuần tại Sài Gòn, số 1 ngày 15-4-1865. Tuy nhiên, báo chí thể thao
xuất hiện muộn hơn nhiều.
Một điều dễ hiểu là đến những thập niên đầu thế kỷ 20, một số môn thể
thao hiện đại mới có điều kiện du nhập Việt Nam theo đội quân viễn chinh
Pháp vào Đông Dương. Những hoạt động thể thao này, trước hết là bóng tròn
(bóng đá) được tổ chức trên địa bàn Sài Gòn. Do vậy, báo chí ở Sài Gòn đã
sớm thông tin, phản ánh các hoạt động thể thao, trước hết là bóng tròn. Từ
năm 1908, một vài tờ báo ở đây như Lục tỉnh tân văn đã đưa tin về các đội
bóng tròn người Nam (Tân Định, Phú Mỹ, Chợ Đủi) hoặc đội bóng của các
thủy thủ xứ Hồng Mao (Anh quốc) tranh đua với đội bóng của nhà binh Pháp,
khi tàu của họ cập bến Sài Gòn…
Năm 1924, báo Công luận (Sài Gòn), bên cạnh các mục quan lại thuyên
chuyển, tin tàu đến, tàu đi…, có mục tin về các trận đá banh (bóng), tranh tài
bơi lội, quần vợt…, nghị luận về thể dục thể thao.
Trong những năm 1920-1925, ở Hà Nội, Nam Phong - một tờ tạp chí
chính trị - xã hội, đã đăng nhiều bài ca ngợi Trường Thể dục ( EDEP – Ecole
d‟e‟ducation physique) và người sáng lập là ông Nguyễn Quý Toản, khuyến
khích mọi người luyện tập thể dục. Tờ Nhật báo Đông Pháp (1925-1943), sau
đổi tên thành tờ Đông Pháp cũng thường đăng tin, bài về thể dục thể thao, chủ
yếu là các hoạt động ở Bắc Kỳ.
Hai tờ báo chuyên đề về thể thao bằng tiếng Việt cùng xuất bản trước
sau trong năm 1930. Tờ báo đầu tiên ra đời tại Sài Gòn, mang tên Nam Kỳ thể
thao, số 1 ấn hành ngày 8-5-1930. Sáu tháng sau, tại Hà Nội, tờ Bắc Kỳ thể
13
thao số 1 ra mắt độc giả ngày 4-11-1930 và xuất bản liên tục trong các năm
1930-1931.
Cũng trong thời gian này, ở Sài Gòn, các tờ báo chuyên đề về thể thao
bằng tiếng Pháp (hoặc cả tiếng Pháp và tiếng Việt) tiếp tục xuất bản như tờ
Sport d’Indochine (Thể thao Đông Dương), Sporting d’Indochine (19331936), Sports de Cochinchine (Thể thao Nam Kỳ-1936-1941) ra hàng tuần
hoặc nửa tháng một kỳ. Một số tờ báo khác có phần đề cập đến nội dung thể
dục thể thao xuất bản tiếng Việt năm 1933-1934 như tờ Rạng Đông ở Hà Nội,
tờ Vận động báo ở Sài Gòn.[37, 63].
Ở Sài Gòn trong những năm từ 1936 đến 1942 còn xuất hiện một số tờ
báo thể thao chuyên đề về đua ngựa, đánh cá ngựa...
Thời kỳ viên toàn quyền Decoux cử đại tá hải quân Ducoroy vận động
phong trào thể thao Đông Dương, nhà cầm quyền Pháp bảo trợ xuất bản các
báo thể thao bằng tiếng Pháp. Ở Hà Nội, tờ Sport d’ Indochine (Thể thao
Đông Dương) ra đều kỳ từ 1941 đến 1944; còn ở Sài Gòn, cũng tờ báo mang
tên này xuất bản từ 1942 đến 1945 mới đình bản.
Đáng chú ý là từ năm 1940, tờ báo tiếng Việt xuất bản ở Hà Nội có ảnh
hưởng tương đối rộng là tờ Tin Mới Thể thao, lúc đầu là phụ bản của báo Tin
Mới, sau này ấn hành như một tờ báo độc lập chuyên đề về thể dục thể thao
cho tới năm 1942-1943.
Nói chung, các báo thể thao tiếng Việt và tiếng Pháp nội dung chủ yếu
là thông tin, tường thuật, bình luận về bóng đá, xen kẽ với các môn quần vợt,
bơi lội, bóng bàn, điền kinh, quyền Anh, đua xe đạp…ở từng miền hoặc toàn
Việt Nam và quan hệ với các nước trong xứ Đông Dương. Qua các tờ báo do
nhà cầm quyền Pháp chi phối hoặc chịu nhiều ảnh hưởng của Pháp, có thể
14
thấy rõ xu hướng chính là lợi dụng thể dục thể thao như một công cụ để đề cao
nền văn minh khai hoá của thực dân Pháp, làm lạc hướng đấu tranh của quần
chúng, nhất là thanh niên, tiếp tục duy trì ách thống trị và sau này là tranh
giành ảnh hưởng với phát xít Nhật ở Đông Dương, thực hiện âm mưu nô dịch,
bóc lột lâu dài nhân dân ta.
Tuy nhiên, một số tờ báo thể thao tiếng Việt ở các thời kỳ đều có những
bài khéo léo khêu gợi, đề cao tinh thần yêu nước, truyền thống thượng võ của
dân tộc, khuyến khích tổ chức và phát triển các Hội đoàn thể thao của người
Việt, kêu gọi thanh niên, học sinh luyện tập thể dục thể thao vì vận mệnh và
tương lai đất nước.
1.1.2.Về tờ báo thể thao đầu tiên của nước Việt Nam độc lập
Cuộc Cách mạng tháng Tám của nhân dân ta thành công. Ngày 2-91945, tại Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước nhân dân Việt Nam và thế giới:
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Một kỷ nguyên mới của dân tộc ta
bắt đầu. Nhiệm vụ xây dựng bộ máy Nhà nước và hệ thống chính quyền, đoàn
thể nhân dân là nhiệm vụ hàng đầu, đi đôi với cấp bách chống giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời đã huy động sức mạnh
của toàn dân vừa kiến quốc, vừa cứu quốc. Thể dục thể thao là một lĩnh vực
hoạt động được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra trong chương trình
cứu nước của Mặt trận Việt Minh năm 1941, đã sớm được chính quyền cách
mạng quan tâm xây dựng.
Ngày 30-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ liên hiệp
lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký Sắc lệnh số 14 thành lập Nha
15
Thể dục trung ương thuộc Bộ Thanh niên. Đây là cơ quan lãnh đạo thể dục thể
thao đầu tiên của chế độ mới và cũng là dấu mốc khai sinh nền thể dục thể
thao của nước Việt Nam mới.[37, 98].
Trong các công việc mở đầu, lãnh đạo Bộ Thanh niên và Nha Thể dục
trung ương đã chủ trương xuất bản một tờ báo làm cơ quan ngôn luận chính
thức của ngành thể dục thể thao nước ta. Bộ trưởng Bộ Thanh niên Dương
Đức Hiền giao cho ông Hà Đức Toàn, Giám đốc Nha thể dục trung ương, tiến
hành các thủ tục xin phép ra báo. Theo Việt Nam dân quốc công báo số 11,
ngày 16-3-1946: “Ông Hà Đức Toàn, Giám đốc Nha Thể dục trung ương,
được phép xuất bản tại Hà Nội một tờ báo đặt tên là “Thanh niên khoẻ”…
Trong thời gian chuẩn bị ra báo, có sự bàn bạc lại, và ông Dương Đức Hiền
quyết định đặt lại tên báo là “Việt Nam khoẻ” để thể hiện rõ tính toàn quốc,
toàn dân, không chỉ riêng trong giới thanh niên.
Việt Nam khoẻ là tờ báo thể thao đầu tiên ở Việt Nam. Trong “Lời nói
đầu” đăng ở số 1, tờ báo nêu rõ tôn chỉ, mục đích của Việt Nam khoẻ là góp
phần “gây phong trào ham chuộng thể dục và thể thao trong nước, ngõ hầu
làm tăng tiến sức khoẻ và cải tạo nòi giống Việt Nam… Khỏe để gây đời sống
mới, mạnh và hùng cho một dân tộc đang tranh đấu cho nền Độc lập nước
nhà…”. Trên trang nhất, báo đăng “Tuyên bố của Nha Thể dục trung ương về
phong trào thể dục Việt Nam”, đặc biệt giữa trang đóng khung trang trọng bài
viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đầu đề: “Hồ Chủ tịch hô hào đồng bào tập
thể dục: Sức khoẻ và thể dục”, cùng chữ ký của Người. Lời kêu gọi thiết tha,
đầy lòng yêu nước, yêu dân, đặt cơ sở tư tưởng, quan điểm, cở sở khoa học và
mục tiêu của nền thể dục thể thao cách mạng, vì “dân cường, quốc thịnh” với
16
mong muốn của Người: “Tôi mong đồng bào ta ai cũng cố gắng tập thể
dục…”
Trong năm 1946, Việt Nam khoẻ đã phát hành gần 30 kỳ báo ra đều đặn
hàng tuần với nội dung bám sát tôn chỉ, mục đích và định hướng tuyên truyền
đề ra. Bên cạnh phần tin tức, tường thuật các hoạt động thể dục thể thao ở cơ
sở trong các ngành, các giới, mỗi số báo đều đăng nổi bật những bài chuyên
luận, trình bày một cách dễ hiểu những nhận thức, quan điểm mới về bản chất
và mục tiêu cảu nền thể dục thể thao cách mạng trong chế độ mới; luận bàn về
sức khoẻ và thể dục; so sánh hai nền thể thao trước và nay; lợi ích, tác dụng
của thể dục thể thao với mọi giới, mọi người… Tác giả các bài báo này đều là
những người hoạt động thể dục thể dục thể thao dưới chế độ cũ, sớm giác ngộ
cách mạng và đi đầu xây dựng nền thể dục thể thao mới, viết nên những lời
tâm huyết yêu nước, yêu nghề xuất phát từ chính cuộc sống thể thao của mình.
Buổi ban đầu xây dựng sự nghiệp thể dục thể thao của chế độ mới,
nhiệm vụ xây dựng tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thể dục thể
thao có ý nghĩa rất quan trọng. Trên các trang báo, thường xuyên có các mảng
thông tin về việc mở các khoá, các lớp đào tạo cán bộ, huấn luyện viên, hướng
dẫn viên của Trường Cán bộ Thể dục Việt Nam, của các lớp Thể dục- Quân sự
phổ thông điạ phương; về hoạt động của tổ chức thể dục thể thao ở các đơn vị
cơ sở, tỉnh, thành phố. Qua báo Việt Nam khoẻ, người ta thống kê có hơn
2.000 học viên từ Cao Bằng đến Thuận Hoá đã được đào tạo ở các khoá, lớp
cán bộ thể dục thể thao này trong năm 1946, không kể lớp đào tạo lại các huấn
luyện viên cũ của các trường Cao đẳng thể dục Phan Thiết, Đà Lạt.
Phản ánh sức sống sôi động của phong trào “Khoẻ vì nước” là hàng loạt
tin, bài về hoạt động thể dục thể thao cơ sở với các đề mục “Tin làng khoẻ”,
17
“Mỗi tuần một tỉnh”… nói về các địa phương, các ngành, các giới tham gia
thể dục thể thao. Các bài tường thuật khá đa dạng về các Hội khoẻ, Ngày
Thanh niên vận động, các cuộc đồng diễn thể dục, các giải thi đấu thể thao…
ở Thủ đô và các tỉnh từ Bắc bộ tới Trung bộ, trừ các tỉnh ở Nam Trung bộ và
Nam bộ đang kiên cường kháng chiến chông Pháp xâm lước.
Với nhiệm vụ phổ thông thể dục, báo Việt Nam khoẻ coi trọng cả hai
mặt truyền bá và cổ động. Về truyền bá, nhiều bài báo liên tục giới thiệu
những nguyên tắc và phương pháp huấn luyện, tập luyện thể dục, trong đó chú
trọng phương pháp tự nhiên đã được thử nghiệm và đúc kết. Tuy mỗi tờ báo
chỉ có 4 trang (trừ các số đặc biệt tăng lên 8 trang), nhưng Toà soạn đã dành
trọn một trang và đăng 10 kỳ liên tiếp giới thiệu một hệ thống 10 bài tập “thể
dục phổ thông” có kèm hình vẽ, do Ban Huấn luyện Trường Thể dục - Quân
sự phổ thông Hà Nội biên soạn, để đáp ứng yêu cầu của phong trào. Về cổ
động, các số báo đều có đăng những khẩu hiệu rung động lòng người, gây ấn
tượng mạnh, cùng với hàng loạt ca khúc hùng tráng gồm cả nhạc và lời, được
đăng tải để phổ biến nhanh, rộng, như “Thể dục hành khúc ca”, “Nhi đồng thể
dục”, “Hành khúc ca của Trường nữ Cán bộ Thể dục Việt Nam”… Nổi bật
nhất là bài ca “Khoẻ vì nước” từng vang lên trong các hội khoẻ, trên sân vận
động, theo chân các chiến sỹ Nam tiến trên đường hành quân chiến đấu…
Từ khẩu hiệu “Khoẻ vì nước” xuất phát nơi Trường Cán bộ Thể dục
Việt Nam, tờ báo đã sớm phát hiện, cổ vũ rầm rộ, tổ chức mở rộng thành một
phong trào luyện tập thể dục thể thao sôi nổi. Đặc biệt, sau khi báo đăng bản
nhạc và lời ca “Khoẻ vì nước” (nhạc: Hùng Lân, lời: Huy Khôi), tiếp đó đưa
tin về Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói chuyện tại Ngày Thanh niên vận
động ở Việt Nam học xá Hà Nội (26-5-1946), nhóm lửa thiêng phát động
18
phong trào “Khoẻ vì nước”, thì trên mặt báo liên tục phản ánh tin tức, kinh
nghiệm hưởng ứng, mở rộng hoạt động thể dục thể thao ở các địa phương…
Cùng với các thể loại chuyên luận, tin thể thao trong nước và quốc tế,
các bài hướng dẫn và phổ biến kiến thức tập luyện thể dục và các môn thể
thao như bóng chuyền, bóng rổ, bơi lội và cứu đuối, trò chơi vận động, báo
Việt Nam khoẻ còn thường xuyên đăng các văn bản sắc lệnh, nghị định, thông
tri… về thể dục thể thao của Chính phủ và các cơ quan thuộc Chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hoà.[37, 43].
Việt Nam khoẻ là tờ báo chuyên đề duy nhất về thể dục thể thao, việc
đăng các văn bản về chỉ đạo hoạt động, về hướng dẫn các quy định tổ chức bộ
máy cơ quan thể dục thể thao từ trung ương tới kỳ bộ, tỉnh, huyện, xã, về bổ
nhiệm nhân sự cán bộ… trong bối cảnh cụ thể năm 1946, là rất thiết thực và
cần thiết để thống nhất nhận thức và hành động trong toàn ngành.
Việt Nam khoẻ với số trang và khuôn khổ hạn hẹp của một tờ tuần báo,
vẫn quan tâm tới yêu cầu đa dạng của bạn đọc. Tờ báo giữ đều kỳ nhiều
chuyên mục như tiểu phẩm, thơ, nhạc, chuyện cổ tích, nụ cười, trong đó có
những bài châm biếm, nhắc nhở nhẹ nhàng những nhận thức không đúng, ảnh
hưởng của thể dục thể thao chế độ cũ, những lối sống, tác phong không phù
hợp với đời sống mới và phong trào “Khoẻ vì nước”.
Với một nhóm cán bộ biên tập và trị sự dăm người, Toà soạn Việt Nam
khoẻ đã tập hợp được nhiều người thuộc nhiều giới, từ các cán bộ, huấn luyện
viên, danh thủ thể dục thể thao đến các nhà báo, văn nghệ sỹ đóng góp cho nội
dung và hình thức trình bày tờ báo. Bên cạnh các tác giả những bài chuyên
luận là cán bộ lãnh đạo, huấn luyện viên thể dục thể thao như Dương Đức
Hiền, Hà Đức Toàn, Nguyễn Văn Cảnh, Trần Văn Quý, hay Vũ Quang Tiệp,
19
Lê Văn Lãng, Nguyễn Chí Tam..., còn có tác phẩm của các nhạc sỹ Lưu Bách
Thụ, Xuân Oanh, Hùng Lân... với những ca khúc thể dục thể thao đăng trên
Việt Nam khoẻ, góp phần làm phong phú nội dung các ca khúc cách mạng thời
kỳ đầu của chế độ mới. Và trong điều kiện ấn loát chưa cho phép làm bản kẽm
để in ảnh hoạt động thể dục thể thao, sự cộng tác của các hoạ sỹ đã làm cho tờ
báo thêm phần sinh động với các tranh cổ động của Xuân Oanh, tranh tốc hoạ
của Bùi Xuân Phái...[37, 52].
Báo Việt Nam khoẻ xuất bản gần 30 kỳ năm 1946 trong hoàn cảnh hết
sức khó khăn, thiếu thốn thời kỳ đầu của chế độ dân chủ cộng hoà và khởi đầu
nền thể dục thể thao mới. Kinh phí dành cho thể dục thể thao nói chung và cho
tờ báo nói riêng rất hạn hẹp. Giấy in báo khan hiếm. Nhà in Trịnh Văn Bích ở
phố Hàng Tre đảm nhiệm việc ấn loát với mấy cỗ máy in hiệu Minerve cổ lỗ,
cọc cạch in từng tờ…
Trong giai đoạn đầu xây dựng sự nghiệp thể dục thể thao cách mạng
của nước ta, qua gần một năm hoạt động, Việt Nam khoẻ thực sự là tờ báo
xung kích tuyên truyền, phổ biến về tư tưởng, quan điểm, chính sách chỉ đạo
tổ chức và phong trào thể dục thể thao của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Báo Việt Nam khoẻ đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử là người mở đường
cho báo chí thể thao cách mạng trong chế độ mới, tiền thân của Báo Thể thao
Việt Nam hiện nay. Từ số báo đầu tiên ra ngày 30-3-1946, đến số cuối cùng
ngày 28-9-1946, khi Hà Nội và cả nước bước vào cuộc kháng chiến anh dũng
chống thực dân Pháp xâm lược, báo Việt Nam khoẻ đã để lại những trang biên
niên sử, những tư liệu quý giá, phản ánh chân thật sự chỉ đạo và thực tiễn hoạt
động của nhân dân ta trong những tháng năm hào hùng xây đắp nền độc lập
20
của đất nước và mở đầu sự nghiệp thể dục thể thao thực sự của dân, do dân, vì
dân.
Bên cạnh báo Việt Nam khoẻ, cơ quan Thể dục thể thao Trung ương
thời kỳ này còn xuất bản cuốn đặc san “Khoẻ vì nước”, ấn hành vào cuối năm
1946. Cuốn đặc san dầy 62 trang này đã tổng hợp và giới thiệu các chủ trương
chỉ đạo, kế hoạch và nội dung hoạt động cùng những công việc chính mà
ngành thể dục thể thao đã đề ra và thực hiện trong vòng 10 tháng, từ 30-1 đến
10-11-1946.[37, 98].
1.1.3. Báo chí thể thao Việt Nam sau 1954
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ về Đông
Dương được ký kết trên miền Bắc vừa giải phóng, chính quyền nhân dân các
cấp được xây dựng và củng cố. Nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, phát
triển văn hoá- xã hội đòi hỏi phải thiết lập tổ chức bộ máy của các ngành để
đáp ứng yêu cầu của cuộc sống và xây dựng chế độ mới. Công tác thể dục thể
thao nhằm góp phần phục hồi và tăng cường sức khoẻ của nhân dân sau 9 năm
kháng chiến trở nên hết sức cần thiết.
Ngay sau khi Ban Thể dục Thể thao Tung ương được thành lập, lãnh
đạo Ban đã xúc tiến việc chuẩn bị xuất bản một tờ báo là cơ quan ngôn luận
của ngành, kịp thời phục vụ sự chỉ đạo các hoạt động thể dục thể thao. Tên
của tờ báo là tên gọi đầy đủ của ngành: Báo Thể dục thể thao. Số 1 ra ngày
16-6-1957. Đây là tờ báo chuyên đề đầu tiên về thể dục thể thao của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà sau ngày giải phóng miền Bắc. Bộ phận biên tập có ba
cán bộ gồm: Trần Văn Quý, một cựu tiền vệ nổi tiếng của đội “Ánh Chớp”
(E‟clair), thời tiền chiến từng là nhà báo chuyên viết về thể thao từ những năm
30, chủ bút tờ tin mới thể thao thời kỳ 1940-1941; Phan Ngọc, cựu cầu thủ,
21
cán bộ miền Nam tập kết và Lê Bách, nguyên phóng viên của báo Quân đội
nhân dân chuyển ngành.
Từ số báo đầu tiên, ngoài vấn đề trung tâm là thể dục và rèn luyện thân
thể theo tiêu chuẩn, còn có các chuyên mục thể thao quốc phòng và thể thao
quốc tế. Những hoạt động quốc tế như các giải đấu tổ chức tại Việt Nam và
nước ngoài đều được phản ánh. Các đội bóng của Việt Nam gặp đội tuyển
PhnomPênh (Campuchia) nhân dịp khánh thành sân Hàng Đẫy, 3 trận đấu của
Công an Triều Tiên tại Hà Nội và Hải Phòng, rồi đội Thanh niên Bắc Kinh
sang Việt Nam… đã được báo giới thiệu và bình luận.
Đầu tháng 4-1960, Hội nghị cán bộ thể dục thể thao toàn miền Bắc lần
thứ ba họp tại Hà Nội. Nội dung của Hội nghị là kiểm điểm, đánh giá những
thành tựu phong trào năm 1959, từ đó lấy năm 1960 làm đà tiến vào kế hoạch
5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Trong không khí hào hứng của Hội nghị, mọi người vô cùng phấn khởi
nhận được thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bức thư do tự tay Bác viết, có nội
dung như sau:
Gửi Hội nghị cán bộ Thể dục thể thao toàn miền Bắc.
Muốn lao động, sản xuất tốt, công tác và học tập tốt thì cần có sức
khoẻ. Muốn giữ sức khoẻ thì nên thường xuyên tập thể dục thể thao. Vì
vậy, chúng ta nên phát triển phong trào thể dục thể thao cho rộng khắp.
Cán bộ thể dục thể thao thì phải học tập chính trị, nghiên cứu nghiệp vụ
và hăng hái công tác. Vì đó cũng là một công tác trong những công tác
cách mạng khác.
Thân ái chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.
31-3-1960
22