Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Liên từ logic và liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên dựa trên tư liệu tiếng việt và tiếng anh luận văn ths lý luận ngôn ng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 146 trang )

Đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
-------*****-------

Lê Thị Thu Hoài

Liên từ logic và liên từ trong
ngôn ngữ tự nhiên
(dựa trên tư liệu tiếng Việt và tiếng Anh)

Luận văn thạc sỹ ngôn ngữ

Hà nội - 2005


Đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
-------*****-------

Luận văn thạc sỹ ngôn ngữ

Liên từ logic và liên từ trong
ngôn ngữ tự nhiên
(Dựa trên tư liệu tiếng Việt và tiếng Anh)
Chuyên ngành : lý luận ngôn ngữ
Mã số : 5 04 08

Người hướng dẫn : GS.TS. Nguyễn Đức Dân
Người thực hiện : Lê Thị Thu Hoài

Hà nôi - 2005




Mục lục
Phần mở đầu ……………………………………………………………………….

4

01

Lý do chọn đề tài …………………………………….….……..

4

02

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu …………………………...

5

03

Lịch sử vấn đề ……………………………………….…………

7

04

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu …………………..….……...

9


05

Phương pháp nghiên cứu ………………………….….……...

11

06

Bố cục luận văn ………………………………………………...

11

Phần nội dung …………………………………………………………….………

13

 Chương 1: Logic và ngôn ngữ tự nhiên…………………………….…….

13

Logic và ngôn ngữ tự nhiên là hai hệ thống ký hiệu…….…...

13

1.1.1. Logic học và ký hiệu logic …………………….………

13

1.1.


1.1.2. Sự giống nhau và khác nhau giữa hai hệ thống ký hiệu
logic và ngôn ngữ ………………….…………………..
1.1.3. Logic tư duy và logic ngôn ngữ …………….….……
1.2.

17
20

Vận dụng logic mệnh đề để nghiên cứu liên từ trong ngôn
ngữ tự nhiên …………………………………………………...

22

1.2.1. Logic mệnh đề …………………………………………

22

1.2.2. Sự tương ứng giữa liên từ logic và liên từ trong ngôn
ngữ tự nhiên ……………………………………………

26

 Chương 2: Liên từ “” logic và liên từ tương ứng trong ngôn ngữ tự
nhiên……………………………………………………………

29

2.1.


Liên từ “” logic …………………………………….….……..

29

2.2.

Liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên tương ứng với liên từ “”
logic ……………………………………………………………

31

2.2.1. Liên từ “và” trong tiếng Việt ……………….………….

31

2.2.1.1

Những sắc thái ngữ nghĩa của liên từ “và”

.

tiếng Việt ………………………………….……...

1

31


2.2.1.2


Những liên từ đồng nghĩa với “và” về mặt

.

logic ……………………………………….………

41

2.2.2. Liên từ “and” trong tiếng Anh ………………….……...

46

2.2.2.1

Những quan hệ ngữ nghĩa của liên từ “and”

.

tiếngAnh ………………………………….………

2.2.2.2

Những liên từ đồng nghĩa với “and” về mặt

.

logic ……………………………………….………

46


53

2.2.3. Một số lưu ý khi dịch liên từ “and” sang tiếng Việt và

2.3.

liên từ “và” sang tiếng Anh ……………………………

57

Một số nhận xét ……………………………………………….

60

 Chương 3: Liên từ “” logic và liên từ tương ứng trong ngôn ngữ tự
nhiên………………………………………………….………..

62

3.1.

Liên từ “” logic ………………………………………………

62

3.2.

Liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên tương ứng với liên từ “”
logic ……………………………………………………………


65

3.2.1. Liên từ “hay/hoặc” trong tiếng Việt …………………...

65

3.2.2. Liên từ “or” trong tiếng Anh …………………………..

78

3.2.3. Những lưu ý khi chuyển dịch liên từ “or” sang tiếng

3.3.

Việt và liên từ “hay/hoặc” sang tiếng Anh .……………

85

Một số nhận xét ……………………………………………….

88

 Chương 4: Liên từ “” logic và liên từ tương ứng trong ngô ngữ tự
nhiên……………………………………………………………

91

4.1.

Liên từ “” logic ……………………………………………..


91

4.2.

Liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên tương ứng với liên từ “”
logic ……………………………………………………………
4.2.1. Cặp

liên

từ

“nếu



thì”

trong

tiếng

Việt

94
94

………………
4.2.1.1


Những đặc trưng và sắc thái ngữ nghĩa của

.

cặp

liên

từ

………….…..

2

“nếu…thì”

tiếng

Việt

94


4.2.1.2

Những liên từ đồng nghĩa với “nếu … thì” về

.


mặt logic ………………………………………….

109

4.2.2. Liên từ “if … then” trong tiếng Anh …………………..

114

4.2.2.1

Những sắc thái ngữ nghĩa của liên từ “if …

.

then” tiếng Anh ………………………………….

4.2.2.2

Những liên từ đồng nghĩa với “if … then” về

.

mặt logic ………………………………………….

114

121

4.2.3. Một số lưu ý khi chuyển dịch các câu điều kiện tiếng


4.3.

Anh sang tiếng Việt và ngược lại ……………………...

125

Một số nhận xét ………………………………………………..

129

Phần kết luận ……………………………………………………………………

133

Tài liệu tham khảo …………………………………………………………….

139

3


Phần mở đầu
0.1.

Lý do chọn đề tài.
Chúng ta đều biết rằng, logic là khoa học nghiên cứu về quy luật và hình

thức của tư duy. Mà tư duy hay tư tưởng chỉ có thể xuất hiện và tồn tại trên cơ
sở chất liệu ngôn ngữ. Vì vậy, với chức năng vừa là công cụ giao tiếp vừa là
công cụ tư duy, ngôn ngữ là đối tượng nghiên cứu không chỉ của ngôn ngữ học,

mà còn của logic học. Nhưng khác với ngôn ngữ học, logic học nghiên cứu
ngôn ngữ với tư cách như một chiếc cầu nối để dẫn đến tư duy, thông qua ngôn
ngữ để hiểu và nắm bắt được các quy luật của tư duy. Có thể nói, ngôn ngữ học
và logic học là hai ngành khoa học có một mối quan hệ chặt chẽ, tác động và bổ
sung cho nhau.
Trong lịch sử phát triển của ngành ngôn ngữ học, chúng ta không thể phủ
nhận sự ảnh hưởng mạnh mẽ của logic học. Sự ảnh hưởng đó thể hiện rõ nét
trong một số thuật ngữ cú pháp cơ bản mà giới ngôn ngữ học vẫn sử dụng rộng
rãi để phân tích câu từ xưa cho đến nay như : mệnh đề, chủ ngữ, vị ngữ, vốn
xuất phát từ các khái niệm logic. Không chỉ vậy, nhiều lý thuyết logic như :
logic mệnh đề, logic vị từ, logic thời gian, logic đa trị, logic mờ … đã trở thành
những vốn quý cho việc miêu tả ngôn ngữ tự nhiên, đồng thời góp phần vào
việc phát triển ngôn ngữ học hiện đại. Đặc biệt phải kể đến hướng nghiên cứu
logic - ngữ nghĩa hay logic của ngôn ngữ tự nhiên đã có những đóng góp đáng
kể.
Hướng nghiên cứu này có thể nói là không mới. Đây đó đã có một số tác
giả trong và ngoài nước đề cập đến. Tuy nhiên, cho tới này nó vẫn chưa được
quan tâm một cách thoả đáng, đặc biệt là ở trong nước. Chúng ta chỉ có thể kể
ra đây những cái tên ít ỏi trong giới Việt ngữ học đã tiếp cận vấn đề này như :
Nguyễn Đức Dân, Hoàng Phê. Có thể nói logic - ngữ nghĩa là những vấn đề vô
cùng lý thú, hấp dẫn nhưng cũng vô cùng phức tạp. Để tiếp cận vấn đề đòi hỏi

4


người nghiên cứu phải có những hiểu biết đến một chứng mực nhất định tri thức
của cả hai ngành khoa học ngôn ngữ học và logic học.
Trong logic học tồn tại nhiều hệ thống logic khác nhau như chúng ta đã
đề cập đến ở trên. Trong đó, logic mệnh đề được xem là một trong những hệ
thống logic cơ bản. Nó sử dụng các tác tử logic (hay còn gọi là liên từ logic) :

hội (), tuyển (), kéo theo (), để liên kết hai phán đơn đã cho tạo ra những
phán đoán mới, phức hợp. Trong ngôn ngữ, phán đoán được thể hiện bằng câu
tường thuật và các tác tử logic được biểu hiện bằng các liên từ. Như vậy là, có
một sự tương ứng giữa các liên từ logic và các liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên.
Đề tài “Liên từ logic và liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên” được chúng tôi lựa
chọn nằm hướng tới việc miêu tả, so sánh mức độ tương đồng và khác biệt giữa
hai hệ thống liên từ này. Và nó sẽ là một dẫn chứng sinh động cho hướng
nghiên cứu logic - ngữ nghĩa. Một mảnh đất còn nhiều chỗ trống.

0.2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Logic mệnh đề được xác định gồm có năm tác tử logic, đó là : phủ định

(~), hội (), tuyển (), kéo theo (), tương đương (), biểu hiện năm quan hệ
logic khác nhau. Tuy nhiên, được hiểu với chức năng như một liên từ liên kết
hai phán đoán đơn tạo thành một phán đoán mới, phức hợp mang tính đặc trưng
thì chỉ gồm ba liên từ : hội (), tuyển (), kéo theo (). Còn hai tác tử phủ định
(~) và tương đương () không được xem là đặc trưng cho chức năng liên kết vì
những lý do sau :
 Tác tử phủ định (~) không có chức năng liên kết nên tương ứng với nó
không phải là một liên từ trong ngôn ngữ.
 Tác tử tương đương (), hay phép tương đương thực chất chỉ là một
hình thức khác của phép kéo theo.
Chính vì thế, luận văn của chúng tôi chỉ đề cập đến ba liên từ logic nêu
trên và các liên từ ngôn ngữ tương ứng với ba liên từ đó.

5



Đó là về phía các liên từ logic, còn về phía các liên từ trong ngôn ngữ tự
nhiên thì phạm vi nghiên cứu cũng có những giới hạn nhất định. Như chúng ta
đã biết, thuật ngữ “ngôn ngữ tự nhiên” có một ngoại diên rất rộng, nó bao gồm
tất cả các ngôn ngữ đã và đang được sử dụng như một công cụ giao tiếp và biểu
đạt tư duy. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các liên từ logic và các liên từ
tương ứng trong ngôn ngữ tự nhiên. Tuy nhiên, chúng tôi không thể tiến hành
nghiên cứu liên từ của tất cả các ngôn ngữ tự nhiên được mà chỉ lựa chọn hai
ngôn ngữ là tiếng Việt và tiếng Anh, xem chúng như là những đại diện tiêu biểu
cho hệ thống các ngôn ngữ tự nhiên.
Việc lựa chọn này không khỏi nhuốm màu sắc chủ quan. Tuy nhiên
chúng tôi cũng dựa trên một số lý do ít nhiều mang tính khách quan sau :
 Tiếng Việt và tiếng Anh là hai ngôn ngữ thuộc về hai loại hình khác hẳn
nhau. Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập điển hình, còn tiếng Anh lại là
một ngôn ngữ nằm trong nhóm các ngôn ngữ biến hình. Sự đa dạng về loại
hình ngôn ngữ cũng sẽ giúp cho những kết luận mà chúng tôi rút ra sau quá
trình nghiên cứu mang tính bao quát và khách quan hơn.
 Đối với người thực hiện đề tài này, tiếng Việt là ngôn ngữ mẹ đẻ nên việc
chọn tiếng Việt là một sự lựa chọn chính đáng, vì khi đó người nghiên cứu
có thể cảm nhận hết được những sắc thái ngữ nghĩa cũng như cách thức sử
dụng các liên từ trong ngôn ngữ đó.
 Tiếng Anh là một ngôn ngữ mang tính quốc tế, có phạm vi và số lượng
người sử dụng cao nhất thế giới. Nó là một ngoại ngữ thông dụng ở nhiều
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Chính vì thế tiếng Anh là sự lựa chọn hợp
lý có tính phổ quát và ứng dụng cao.
Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng, liên từ là nhóm từ biểu hiện quan hệ
ngữ pháp, ngữ nghĩa. Chính vì vậy, các ngữ cảnh sử dụng cũng như các sắc thái
ngữ nghĩa mang tính riêng biệt của chúng thì đôi khi chỉ có người bản ngữ mới
có thể biết và cảm nhận được. Vì thế, việc chúng tôi chọn tiếng Anh chỉ mang
tính chất như là bổ sung thêm nguồn tư liệu cho ngôn ngữ tự nhiên, để kết luận
6



mà chúng tôi đưa ra có cơ sở vững chắc hơn, chính xác hơn và phổ quát hơn.
Chúng tôi không cho rằng những phân tích đưa ra là đã khái quát hết được
những khả năng biểu đạt của liên từ tiếng Anh mà chỉ khẳng định rằng đó là
những quan hệ ngữ nghĩa nổi bật nhất và đã được các nhà Anh ngữ học xác
nhận là tồn tại. Và do đó, phần lớn các ví dụ tiếng Anh trong luận văn cũng
được chúng tôi trích dẫn từ những cuốn sách nghiên cứu tiếng Anh trên cả
phương diện lý luận cũng như thực hành.
Các liên từ ngôn ngữ được xác định là tương ứng với các liên từ logic hội
(), tuyển (), kéo theo () là : và, hay/hoặc, nếu … thì trong tiếng Việt và and,
or, if … then trong tiếng Anh. Chúng ta cũng biết rằng, một liên từ logic sẽ có
nhiều hình thức biểu hiện ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, ứng với mỗi liên từ
logic chúng tôi chỉ chọn một liên từ ngôn ngữ ương ứng được xem là tiêu biểu
nhất. Lý do của sự lựa chọn này chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau.
Như vậy, đối tượng nghiên cứu của đề tài là các liên từ logic và các liên
từ tương ứng trong tiếng Việt và tiếng Anh. Thông qua những miêu tả, phân tích
từng liên từ cụ thể, chúng tôi quan tâm đến chức năng và phạm vi hoạt động của
các liên từ này. Từ đó so sánh và rút ra những luận điểm về sự tương đồng và
khác biệt giữa liên từ trong logic và liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên.

0.3.

Lịch sử vấn đề.
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy là một trong những vấn đề cơ bản

không chỉ của ngôn ngữ học mà còn của logic học. Tuy nhìn nhận vấn đề này
dưới những góc độ khác nhau nhưng hai ngành khoa học này vẫn có chung một
phạm vi nghiên cứu nhất định. Chính vì vậy, nhiều nhà triết học, logic học đã
quan tâm đến ngôn ngữ, nghiên cứu các hoạt động của ngôn ngữ trong giao tiếp

hàng ngày và điều đó được xem là một trong những nhân tố quan trọng góp
phần mở rộng chân trời chân trời của logic học hiện đại, thúc đẩy sự phát triển
ngày càng mạnh mẽ của hàng loạt hệ thống logic như : logic tình thái, logic thời
gian, logic đa trị, logic mờ. .. Ngược lại, cũng có nhiều nhà ngôn ngữ học quan
7


tâm đến logic. Sự phân tích logic đối với ngôn ngữ tự nhiên thực tế đã soi sáng
nhiều hiện tượng cú pháp - ngữ nghĩa, góp phần tạo nên một hướng nghiên cứu,
một hướng mới tiếp cận các vấn đề ngôn ngữ.
Hướng nghiên cứu này đã được khá nhiều học giả nước ngoài quan tâm.
Từ những năm 50-60 của thế kỷ XX, người ta bắt đầu thấy xuất hiện khuynh
hướng vận dụng logic để phân tích ngôn ngữ. Ban đầu chỉ là phân tích cấu trúc
cú pháp, dần dần về sau là phân tích cấu trúc cú pháp - ngữ nghĩa và cấu trúc
logic - ngữ nghĩa của câu. Có thể kể tên các đại diện tiêu biểu như : J.D.
McCawley, G. Lakoff, H.P. Grice, O. Ducrot… ở Việt Nam , cũng đã có những
nhà ngôn ngữ học quan tâm đến hướng nghiên cứu này nhưng quả thực là
không nhiều. Có thể nói, cho đến nay thực tế chỉ có hai nhà ngôn ngữ học Việt
Nam thực sự quan tâm đến lĩnh vực này, và đã có những đóng góp nhất định cả
về lý thuyết lẫn thực hành, đó là : Nguyễn Đức Dân và Hoàng Phê.
Đề tài mà chúng tôi thực hiện lấy đối tượng nghiên cứu là liên từ trong
logic mệnh đề và các liên từ tương ứng trong ngôn ngữ tự nhiên (để cho gọn, từ
đây trở đi chúng tôi chỉ nói “liên từ logic” với nghĩa là “liên từ trong logic mệnh
đề”). Đứng trên phương diện thuần tuý ngôn ngữ, thì thực sự vẫn chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách chi tiết về chức năng, phạm vi hoạt động
cũng như phạm vi biểu nghĩa của từng liên từ cụ thể. Có chăng thì các nhà ngữ
pháp chỉ định nghĩa liên từ và phân chia chúng thành các nhóm dựa trên những
đặc điểm , sắc thái quan hệ phổ quát của chúng, như : liên từ đẳng lập, liên từ
chính phụ hay liên từ hạn định, liên từ phụ thuộc … Nếu có đi vào giới thiệu
từng liên từ cụ thể thì chỉ nêu những đặc điểm khái quát chung của chúng mà

chưa đi sâu tìm hiểu các sắc thái ngữ nghĩa mà chúng biểu hiện. Thoảng đây đó
cũng có những bài nghiên cứu về liên từ nói riêng hay hư từ nói chung, nhưng
nhìn chung vẫn chưa thật thoả đáng cho một nhóm từ loại có chức năng liên kết
và có ý nghĩa ngữ pháp quan trọng này.
Chẳng hạn như Diệp Quang Ban, trong Ngữ pháp tiếng Việt (1998, tập
1), đã gọi liên từ bằng cái tên khác là kết từ và ông chỉ ra : “và” là kết từ đẳng
8


lập chỉ ý nghĩa tập hợp, liệt kê; “hay, hoặc” là kết từ đẳng lập chỉ ý nghĩa quan
hệ lựa chọn; hay “nếu … thì” chỉ ý nghĩa quan hệ giả thiết hệ quả. Thực sự đây
chỉ là những nét nghĩa khái quát của các liên từ này, trong quá trình hành chức,
chúng còn biểu hiện nhiều nét nghĩa khác, phong phú và đa dạng hơn nhiều.
Nghiên cứu liên từ theo hướng logic - ngữ nghĩa đã được Nguyễn Đức
Dân chú ý và quan tâm. Trong bài “Logic và sắc thái liên từ tiếng Việt” (Ngôn
ngữ, 4.1976), bằng việc tiến hành so sánh liên từ logic và liên từ tương ứng
trong tiếng Việt, ông đã chỉ ra được các sắc thái ngữ nghĩa của các liên từ: và,
hay/hoặc, nếu…thì khi đi vào hoạt động. Tiếp thu phương pháp và những kết
quả từ nghiên cứu này, chúng tôi thực hiện đề tài “Liên từ logic và liên từ trong
ngôn ngữ tự nhiên” với mong muốn bổ sung thêm những sắc thái nghĩa, phạm
vi hoạt động cũng như những nhân tố tác động đến khả năng biểu nghĩa của các
liên từ tiếng Việt, ngoài ra mở rộng hơn phạm vi đối chiếu với liên từ logic
không chỉ có tiếng Việt mà gồm cả tiếng Anh để thấy rõ hơn sự tương đồng và
khác biệt giữa liên từ trong logic mệnh đề và liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên.
Hơn nữa, đề tài của chúng tôi muốn nhấn mạnh hơn vai trò của logic mệnh đề
trong việc miêu tả và phân tích các liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên. Chúng tôi
mong rằng đề tài sẽ được xem là một đóng góp nhỏ cho việc nghiên cứu liên từ
nói riêng và cho hướng nghiên cứu logic - ngữ nghĩa - cú pháp nói chung.

0.4.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau :

 Thu thập và xử lý các tư liệu liên quan đến thực tiễn hành chức của các liên
từ trong ngôn ngữ tự nhiên.
 Miêu tả, phân tích chi tiết về phạm vi hoạt động, chức năng, các sắc thái ngữ
nghĩa cũng như các nhân tố tác động đến việc biểu nghĩa của từng liên từ cụ
thể.
 Tiến hành so sánh trên tất cả các khía cạnh từ hình thức đến nội dung giữa
các liên từ logic với các liên từ tương ứng trong tiếng Việt và tiếng Anh.
9


 Nhận xét về những nét tương đồng và khác biệt giữa các liên từ logic và các
liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên.
 Khái quát được những điểm giống và khác nhau giữa hai hệ thống ký hiệu:
logic và ngôn ngữ.
 Dựa trên những miêu tả, phân tích các liên từ tương ứng trong hai ngôn ngữ
tiếng Việt và tiếng Anh, rút ra một số điểm cần lưu ý trong quá trình chuyển
dịch các liên từ đó ở hai ngôn ngữ này.
Tuy nhiên, có một điểm chúng tôi cần thuyết minh thêm ở đây là, mục
đích của đề tài không hướng tới việc đối chiếu liên từ tiếng Việt và tiếng Anh.
Mà như đã nói ở trên, các liên từ trong hai ngôn ngữ này chỉ là những tư liệu về
ngôn ngữ tự nhiên mà chúng tôi sử dụng để phân tích. Từ một điểm tựa chung
là logic chúng tôi thấy được những cơ chế biểu nghĩa cũng như những sắc thái
ngữ nghĩa của các liên từ trong hai ngôn ngữ này là không giống nhau. Chính vì
thế, chúng tôi xin mạo muội đưa ra đây những lưu ý trong quá trình chuyển dịch
liên từ giữa hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh.
Đề tài lựa chọn đối tượng nghiên cứu cũng như đặt ra những nhiệm vụ

nghiên cứu như trên nhằm hướng đến những mục đích và đóng góp sau :
 Đóng góp về mặt phương pháp nghiên cứu : đề tài được tiến hành theo
hướng logic - ngữ nghĩa - ngữ pháp, một hướng nghiên cứu mang tính chất
liên ngành. Nó sẽ là minh chứng cụ thể cho một hướng tiếp cận các vấn đề
ngôn ngữ một cách hệ thống và mang lại hiệu quả, giúp chúng ta thấy được
tính hữu ích và giá trị của hướng nghiên cứu này.
 Đóng góp về phương diện lý thuyết : Bằng những miêu tả và phân tích cụ thể
đối với từng liên từ trong cả hai hệ thống logic và ngôn ngữ, chúng ta sẽ có
cái nhìn khái quát, đầy đủ và toàn diện về chức năng và phạm vi hoạt động
của các liên từ trong từng hệ thống nói chung cũng như thấy được các sắc
thái, các quan hệ ngữ nghĩa riêng biệt đặc trưng của từng liên từ trong từng

10


ngôn ngữ nói riêng. Từ đó có thể góp thêm những dẫn chứng về sự tương
đồng và khác biệt giữa hai hệ thống ký hiệu logic và ngôn ngữ.
 Đóng góp về mặt thực hành : Đề tài sẽ là một đóng góp thiết thực cho công
tác dạy tiếng, đặc biệt là quá trình giảng dạy các liên từ, một nhóm từ không
dễ tiếp nhận và sử dụng trong quá trình học ngoại ngữ. Bên cạnh đó, đề tài sẽ
là sự gợi ý hữu ích cho quá trình chuyển dịch ngôn ngữ từ tiếng Anh sang
tiếng Việt và ngược lại.

0.5.

Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được các nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên

cứu chúng tôi đã sử dụng những phương pháp sau.
 Phương pháp diễn dịch : Đây là một trong những phương pháp nghiên cứu

cơ bản. Phương pháp này trước hết đưa ra những nhận định về một vấn đề và
sau đó bằng những ví dụ cụ thể sẽ chứng minh cho những nhận định trên là
đúng đắn.
 Phương pháp quy nạp : Đây cũng là một phương pháp nghiên cứu hết sức
cơ bản, được sử dụng nhiều trong nghiên cứu khoa học. Ngược lại với
phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp lại đi từ những dẫn chứng cụ
thể để đúc ra những luận điểm mang tính kết luận.
Đề tài của chúng tôi sử dụng phối hợp cả hai phương pháp này nhằm tạo
nên những lập luận vững chắc và chặt chẽ, để những kết luận đưa ra có sức
thuyết phục cao.
 Phương pháp miêu tả, phân tích và tổng hợp : Từ những câu cụ thể chúng
tôi tiến hành miêu tả và phân tích các khả năng biểu hiện nghĩa cũng như các
quan hệ ngữ nghĩa của từng liên từ. Từ đó tổng hợp lại và rút ra những luận
điểm lý thuyết.
 Phương pháp so sánh, đối chiếu : Từ những miêu tả và phân tích về chức
năng cũng như phạm vi hoạt động của các liên từ logic và liên từ ngôn ngữ,
11


chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu chúng với nhau để thấy được sự tương
đồng và khác biệt giữa chúng.

0.6.

Bố cục luận văn.
Luận văn được chia thành ba phần :

 Phần mở đầu.
 Phần nội dung.
 Phần kết luận.

Trong đó, phần nội dung gồm có bốn chương ;
 Chương 1 : Logic và ngôn ngữ tự nhiên.
1.1.

Logic và ngôn ngữ tự nhiên là hai hệ thống ký hiệu.

1.2.

Vận dụng logic mệnh đề để nghiên cứu liên từ trong ngôn ngữ tự
nhiên.

 Chương 2 : Liên từ “” logic và liên từ tương ứng trong ngôn ngữ tự
nhiên.
2.1.

Liên từ “” logic.

2.2.

Liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên tương ứng với liên từ “” logic.

2.3.

Một số nhận xét.

 Chương 3 : Liên từ “” logic và liên từ tương ứng trong ngôn ngữ tự
nhiên.
3.1.

Liên từ “” logic.


3.2.

Liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên tương ứng với liên từ “” logic.

3.3.

Một số nhận xét.

 Chương 4 : Liên từ “” logic và liên từ tương ứng trong ngôn ngữ tự
nhiên.
4.1.

Liên từ “” logic.

4.2.

Liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên tương ứng với liên từ “” logic.

12


4.3.

Một số nhận xét.

13


Chương I : Logic và ngôn ngữ tự nhiên

1.1.

Logic và ngôn ngữ tự nhiên là hai hệ thống ký hiệu.
1.1.1. Logic học và ký hiệu logic.
Logic được xem như là đối tượng của một ngành khoa học độc lập từ rất

sớm ở các quốc gia như Hy Lạp, Trung Quốc, ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ IV
trước công nguyên. Thuật ngữ logic được xuất phát từ từ logos trong tiếng Hy
Lạp với ý nghĩa là tư tưởng, lập luận, trí tuệ. Thuật ngữ logic được nhìn nhận từ
hai góc độ sau :
 Logic khách quan : là logic của sự vật, của cái tồn tại bên ngoài con người.
Đây là logic của sự vận động, biến đổi không ngừng của sự vật trong thế giới
khách quan. Có nghĩa là, ở góc độ này logic đã được đồng nhất với quy luật
sự vật. Mà quy luật sự vật mang tính tất yếu, chính vì vậy mà logic cũng là
cái bất biến, tất yếu của thế giới khách quan. Ví dụ như các quy luật sinh tử,
quy luật về nước chảy chỗ trũng … là logic sự vật, logic khách quan.
 Logic chủ quan : đây là logic tồn tại bên trong con người, là logic của tư
duy. Như vậy logic chủ quan được đồng nhất với quy luật tư duy, đồng nhất
với quá trình con người nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan.
Nhìn cả hai cách quan niệm về logic trên ta thấy rằng nguồn gốc ra đời
của logic chủ quan chính là từ logic khách quan. Từ sự nhìn nhận logic khách
quan mà trong con người hình thành nên logic chủ quan. Bởi vì chúng ta đều
biết, tư duy ra đời là để phản ánh đúng sự vật và quy luật vận động của sự vật.
Logic khách quan (logic sự vật) là cái tồn tại bên ngoài con người, tất yếu
và bất biến nên nó không phải là đối tượng nghiên cứu của logic học. Logic với
tư cách là một ngành khoa học xác định cách hiểu về thuật ngữ logic như sau :
 Là khoa học về hình thức và quy luật của tư duy. Trong quá trình tư duy, có
những tư duy đúng đắn và tư duy sai lầm. Tuy nhiên, logic chỉ nghiên cứu về
tư duy với tư cách là tính chân lý của sự phản ánh. Có nghĩa là logic học


13


nghiên cứu phương thức làm thế nào tư duy phản ánh một cách đúng đắn và
chân thực hiện thực khách quan. Hay nói cách khác tư duy logic giúp chúng
ta tiếp cận hiện thực khách quan, chân lý và bản chất sự vật, hiện tượng bằng
con đường ngắn nhất.
 Là những mối liên hệ tất yếu có tính quy luật giữa các sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan cũng như giữa suy nghĩ, tư tưởng trong tư duy,
trong lập luận của con người. Sự vật, hiện tượng hay ý nghĩ, tư tưởng không
tồn tại độc lập, đơn lẻ mà chúng luôn có những mối quan hệ, sự ràng buộc
lẫn nhau, từ cái này có thể suy ra cái kia. Logic học nghiên cứu chính những
quy luật đó, những mối liên hệ đó.
Như vậy, có thể nói ngắn gọn logic học là ngành khoa học nghiên cứu về
tư duy và về những suy luận đúng đắn.
Con đường nhận thức thế giới khách quan của con người được thực hiện
qua hai giai đoạn : nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính hay tư duy trừu
tượng. Nhận thức cảm tính cho ta tri thức về các sự vật riêng lẻ và các thuộc
tính của chúng. Tư duy trừu tượng cho ta hình ảnh đầy đủ, sâu sắc và chính xác
hơn về thế giới khách quan luôn vận động và biến đổi.
Tư duy tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là : khái niệm và phán đoán.
Đây cũng chính là hai đơn vị cơ bản của logic học.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy phản ánh những thuộc tính bản
chất, khác biệt của sự vật riêng lẻ hay lớp sự vật đồng nhất, phân biệt sự vật này
với sự vật khác.
Phán đoán là hình thức cơ bản của tư duy dưới dạng khẳng định hoặc phủ
định, thể hiện nhận thức của người về thế giới khách quan. Một phán đoán sẽ có
một và chỉ một trong hai giá trị hoặc đúng hoặc sai.
Các khái niệm và phán đoán này trong logic được miêu tả, được hình
thức hoá thông qua một hệ thống các ký hiệu, biểu thức logic. Ngoài ra, mỗi

một hệ thống logic lại có những quy tắc và phép toán riêng. Tất cả tạo nên một

14


hệ thống các ký hiệu nhân tạo để mô hình hoá tư tưởng và con đường đi tới một
tư duy đúng đắn, một nhận thức chân thực về thế giới.
Gọi là hệ thống ký hiệu nhân tạo vì để phục vụ cho nghiên cứu của mình
logic học đã sáng tạo ra chúng. Và thông qua hệ thống ký hiệu này logic học đã
phân tích về mặt lý thuyết kết cấu cũng như quá trình của tư tưởng trong việc
nhận thức và phản ánh thế giới khách quan.
Trong thực tiễn tư duy, các tư tưởng có thể có nội dung khác nhau nhưng
lại có hình thức logic giống nhau. Hình thức logic của một tư tưởng là cấu trúc
của tư tưởng đó, là phương thức liên kết các yếu tố cấu thành tư tưởng đó với
nhau. Hình thức logic của một tư tưởng xác định là sự phản ánh cấu trúc của các
mối liên hệ, quan hệ giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các thuộc tính của
chúng. Ví dụ, chúng ta có hai phán đoán “Nếu một vật rắn bị đốt nóng thì nó nở
ra” và “Nếu ai nghiên cứu logic học thì người đó nâng cao được trình độ tư
duy logic của mình” có nội dung tư tưởng khác nhau nhưng lại có chung một
hình thức logic. Hai phán đoán trên có cùng một cấu trúc và được biểu diễn
bằng ký hiệu logic như sau: Nếu S là P thì S là P1. Hệ thống ký hiệu hay hệ
thống ngôn ngữ nhân tạo này là công cụ nghiên cứu tư duy của một ngành khoa
học độc lập đó là logic học hình thức.
Chúng ta biết rằng, tư duy là quá trình mang tính phổ quát đối với mọi
dân tộc, chính điều này giúp con người trên trái đất này có thể hiểu được nhau
mặc dù có thể nói những ngôn ngữ khác nhau. Để có được một tư duy đúng đắn
thì quá trình tư duy cũng như các yếu tố cấu thành của tư duy phải tuân theo
những quy luật logic hình thức cơ bản sau :
 Luật đồng nhất : Trong một thời gian, không gian xác định và với những
quan hệ xác định, sự phản ánh về sự vật phải đồng nhất với chính nó. Khái

niệm đồng nhất ở đây được hiểu theo 3 khía cạnh :
+ Đồng nhất về mặt phản ánh : Có nghĩa là sự vật tồn tại như thế nào
thì tư duy phải phản ánh về nó đúng như vậy.

15


+ Đồng nhất về mặt ngôn ngữ : Tư duy phải đồng nhất với mặt diễn đạt,
hay nói cách khác tư tưởng và ngôn ngữ phải nhất quán. Tư duy biểu
hiện như thế nào thì phải được diễn đạt bằng ngôn ngữ đúng như vậy.
+ Đồng nhất với chính nó : Được hiểu là sự nhất quán trong tư duy. Tư
duy tái tạo phải đồng nhất với tư duy nguyên mẫu.
 Luật cấm mâu thuẫn : Một ý nghĩ, một tư tưởng đã được định hình trong tư
duy để phản ánh sự vật, hiện tượng ở một phẩm chất xác định thì đồng thời
không được mang hai giá trị logic trái ngược nhau. Có nghĩa là tư duy phải
không được mâu thuẫn. Trước cùng một sự vật với hai thuộc tính trái ngược
nhau thì không thể xác nhận là cùng đúng. Có hai loại mâu thuẫn :
+ Mâu thuẫn trực tiếp : không được khẳng định đồng thời phủ định sự
vật ở một thuộc tính xác định.
+ Mâu thuẫn gián tiếp : không được cho sự vật một thuộc tính nào đó
mà những hệ quả được suy ra từ thuộc tính đó lại phủ định chính thuộc
tính đó.
 Luật bài trung : Một ý nghĩ, một tư tưởng đã được định hình trong tư duy để
phản ánh về một sự vật ở một phẩm chất xác định thì phải mang một giá trị
logic xác định, hoặc đúng hoặc sai chứ không có khả năng thứ ba (vừa đúng
vừa sai). Để xác định được giá trị logic của tư tưởng chúng ta phải đưa ra
những chuẩn để làm cơ sở cho việc tính giá trị.
 Luật lý do đầy đủ : Trong tư duy, một tư tưởng chỉ được công nhận là chân
thực khi ta có đủ cơ sở để chứng minh cho tính chân thực của tư tưởng đó.
Luật này bị vi phạm khi kết luận là đúng nhưng không có đủ cơ sở.

Các quy luật này tác động tới mọi quá trình tư duy theo một thể thống
nhất. Vì thế khi tư duy vi phạm một trong những yêu cầu cơ bản của một quy
luật nào đó thì đồng thời nó cũng vi phạm những quy luật còn lại ở những khía
cạnh khác nhau.
Các quy luật logic là độc lập với ý chí của con người. Chúng không do ý
chí và nguyện vọng của con người tạo ra. Chính vì vậy mà đặc trưng mang tính
16


nhân loại chung của những quy luật logic này là ở bất kỳ nơi nào, trong bất kỳ
hoàn cảnh lịch sử nào, dù con người thuộc giai cấp nào, thuộc dân tộc nào đều
suy nghĩ theo cùng các quy luật logic. Có nghĩa là quy luật logic là những quy
tắc hình thức mang tính phổ quát, bất biến.
1.1.2. Sự giống nhau và khác nhau giữa hai hệ thống ký hiệu logic và
ngôn ngữ.
C. Mác đã từng nói “Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng”. Mỗi
tư tưởng chỉ có thể xuất hiện và tồn tại trên cơ sở các chất liệu ngôn ngữ, biểu
hiện trong các từ và câu. Nhờ ngôn ngữ con người biểu thị, diễn đạt, củng cố
các kết quả tư duy của mình, trao đổi tư tưởng với người khác, kế thừa và bổ
sung tri thức của thế hệ trước.
Logic học nghiên cứu các quy luật và hình thức của tư duy. Tư duy lại
được thể hiện thông qua ngôn ngữ. Chính vì vậy không ai có thể phủ nhận mối
quan hệ chặt chẽ giữa logic và ngôn ngữ. Logic có thể là điểm tựa trong việc
nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên và ngôn ngữ tự nhiên giúp cho ngôn ngữ logic
học hình thành và phát triển.
Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu đặc biệt có chức năng là phương tiện
giao tiếp và phương tiện để biểu đạt tư duy của con người. Hệ thống ký hiệu
logic lại có chức năng phân tích kết cấu và quá trình của tư duy trong việc nhận
thức và phản ánh thế giới khách quan. Rõ ràng là hai hệ thống ký hiệu này sẽ
tồn tại những đặc điểm tương đồng và khác biệt. Chúng ta cùng thử tiến hành so

sánh hai hệ thống này.
 Sự giống nhau :
Xét về mặt ký hiệu, vì ngôn ngữ và logic là hai hệ thống ký hiệu nên
chúng đều mang những đặc trưng chung của ký hiệu. Đó là, chúng tồn tại và có
giá trị trong hệ thống không phải là do những thuộc tính tự nhiên vốn có của nó
mà do chúng được người ta trao cho những thuộc tính để biểu thị một khái niệm
hay tư tưởng nào đó. Chính vì vậy, mỗi ký hiệu luôn có tính hai mặt : mặt biểu
đạt và mặt được biểu đạt. Hai mặt này luôn kết hợp với nhau thành một tổng thể
17


và mối quan hệ giữa chúng là mang tính võ đoán. Hay nói cách khác giữa hình
thức bên ngoài và tư tưởng, khái niệm bên trong của chúng không có mối tương
quan nào cả, mà hoàn toàn là do sự quy ước thói quen của một tập thể quy định
mà đôi khi chúng ta không giải thích được lý do.
Xét về mặt đơn vị, logic chỉ có hai đơn vị cơ bản là khái niệm và phán
đoán (hay mệnh đề). Trong khi đó ngôn ngữ, vì là một hệ thống ký hiệu đặc biệt
nên nó gồm nhiều đơn vị và được chia thành nhiều cấp độ khác nhau. Mỗi cấp
độ lại có một đơn vị cơ bản như : âm vị, hình vị, từ, câu …
Như chúng ta đã biết, trong logic học khái niệm là đơn vị cơ bản phản
ánh các dấu hiệu bản chất của sự vật, hiện tượng; còn trong ngôn ngữ học khái
niệm được biểu hiện thông qua các từ. Hay có thể nói từ là cơ sở vật chất của
khái niệm, không có từ thì không thể hình thành và sử dụng khái niệm. Tương
tự như vậy, phán đoán trong logic nêu lên các thuộc tính của sự vật và mối quan
hệ giữa chúng; còn trong ngôn ngữ nó được biểu thị bằng câu. Câu là hình thức
vật chất của phán đoán, phán đoán không xuất hiện và tồn tại bên ngoài câu. Sự
thống nhất của phán đoán và câu là ở chỗ các thành phần cơ bản của chúng đều
biểu thị đối tượng của tư tưởng là hiện thực khách quan. Như vậy giữa logic và
ngôn ngữ có những đơn vị cơ bản chung tương ứng.
Xét về mặt cú pháp, để liên kết hai phán đoán logic sử dụng các tác tử

logic hay còn gọi là liên từ logic. Chúng ta thấy rõ nhất là trong logic mệnh đề,
các tác tử logic phủ định, tuyển, hội, kéo theo được dùng để nối một hoặc nhiều
phán đoán đã biết tạo thành một phán đoán mới. Tất cả các tác tử này được xem
là “cú pháp” của logic mệnh đề. Điều cần nói đến ở đây là, toàn bộ các liên từ
logic đều được thể hiện ra trên ngôn ngữ bằng những liên từ tương ứng. Các
liên từ ngôn ngữ này cũng đảm nhận những chức năng tương tự như liên từ
logic.
 Sự khác nhau :
Xét về mặt ký hiệu, mặc dù logic và ngôn ngữ cùng là hai hệ thống ký
hiệu nhưng chúng không hoàn toàn như nhau.
18


Ký hiệu logic là hệ thống ký hiệu nhân tạo. Nó mang tính quy ước và chỉ
có giá trị trong phạm vi nghiên cứu của logic học. Nó chỉ quan tâm đến phương
diện hình thức cấu tạo, làm thế nào để xây dựng các quy ước, các biểu thức
logic để phân tích về mặt lý thuyết kết cấu của tư tưởng. Mà kết cấu của tư
tưởng thì không bao giờ biến đổi, không chịu tác động của thời gian, không
gian. Chính vì vậy, hệ thống ký hiệu logic luôn thuần nhất và bất biến.
Ngược lại, ký hiệu ngôn ngữ là hệ thống ký hiệu có thể gọi là “tự nhiên”
theo nghĩa nó xuất hiện do nhu cầu cần giao tiếp và biểu đạt tư duy của con
người (vì lý do này mà ngôn ngữ loài người được gọi chung là ngôn ngữ tự
nhiên). Do đó, ngôn ngữ mang tính xã hội, nó tồn tại và phát triển theo quy luật
khách quan không phụ thuộc vào ý chí nguyện vọng của bất kỳ cá nhân nào.
Ngôn ngữ không cố định, bất biến mà nó thay đổi theo thời gian, không gian,
đặc điểm xã hội, cộng đồng.
Xét về mặt đơn vị, mặc dù chúng ta khẳng định giữa logic và ngôn ngữ
tồn tại những đơn vị chung tương ứng, đó là khái niệm và từ, phán đoán và câu.
Nhưng trên thực tế, các đơn vị của tư duy không hoàn toàn đồng nhất với các
đơn vị của ngôn ngữ. Một khái niệm trong logic không chỉ được thể hiện ra

ngôn ngữ thông qua các từ mà còn qua các cụm từ. Bên cạnh đó chúng ta còn
thấy rằng, không phải từ nào trong ngôn ngữ cũng biểu thị khái niệm, có những
từ không biểu thị khái niệm như hư từ, đại từ, danh từ riêng…
Tương tự như thế, không phải câu nào cũng biểu thị phán đoán. Phán
đoán chỉ tương ứng với câu tường thuật, còn những câu cảm thán, mệnh lệnh,
nghi vấn, cầu khiến … không phải là phán đoán. Bên cạnh đó thành phần của
phán đoán và câu cũng không giống nhau, kết cấu logic của tư tưởng và kết cấu
ngữ pháp của câu không trùng nhau. Kết cấu logic của phán đoán ở mọi người
là như nhau, song kết cấu ngữ pháp của câu lại phụ thuộc vào từng ngôn ngữ cụ
thể. Thậm chí ở trong cùng một ngôn ngữ, một phán đoán có thể được biểu thị
bằng những câu khác nhau. Như vậy, các phán đoán đều là câu nhưng không
phải câu nào cũng là phán đoán.
19


Xét về mặt nội dung ký hiệu, logic học chỉ quan tâm đến giá trị chân lý
của phán đoán. Mỗi phán đoán chỉ nhận một trong hai giá trị hoặc đúng hoặc
sai. Có nghĩa là logic thuần tuý hướng tới phương diện hình thức, xây dựng các
biểu thức đơn trị về cấu trúc. Trong khi đó ở ngôn ngữ không có sự đối ứng 1-1
giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện. Một nội dung có thể có nhiều cách
diễn đạt khác nhau với những sắc thái nghĩa khác nhau (ví dụ như các từ đồng
nghĩa, câu đồng nghĩa). Ngược lại, cùng một biểu thức có thể dùng để diễn đạt
nhiều nội dung khác nhau (ví dụ như từ đồng âm, câu mơ hồ). Điều này có
nghĩa là ngôn ngữ tự nhiên mang tính đa trị về cấu trúc.
Xét về mặt quy luật, như đã trình bày ở phần trước, chúng ta thấy rằng
quy luật logic là những quy tắc hình thức; cố định không thay đổi theo không
gian, thời gian cũng như các điều kiện khác nhau của tự nhiên và xã hội. Nó
mang tính phổ quát đối với mọi dân tộc. Con người ở đâu cũng tư duy giống
nhau và để có những tư duy đúng đắn thì họ đều phải tuân theo các quy luật của
tư duy. Trong khi đó, ngôn ngữ ngoài việc tuân theo quy luật tư duy nó còn phải

tuân theo các quy luật nội tại của hệ thống, ngoài những quy tắc mang tính phổ
quát cho mọi ngôn ngữ còn tồn tại những quy tắc đặc thù riêng cho từng nhóm
ngôn ngữ hay từng ngôn ngữ cụ thể. Chúng không bất biến mà có sự phát triển
mang tính kế thừa theo thời gian, không gian và những điều kiện cụ thể.
Như vậy là giữa hai hệ thống ký hiệu này tồn tại những điểm giống nhau
và khác nhau. Nắm vững được những đặc điểm và bản chất của từng hệ thống
ký hiệu này sẽ giúp chúng ta tiếp cận các vấn đề nghiên cứu mang tính liên
ngành một cách đầy đủ và hệ thống hơn.

1.1.3. Logic tư duy và logic ngôn ngữ.
Logic hình thức là một bộ môn khoa học nghiên cứu về tư duy. Mà tư
duy được biển hiện ra thông qua cái vỏ vật chất là ngôn ngữ. Chính vì vậy ngôn
ngữ cũng là đối tượng nghiên cứu của logic học. Nhưng logic học nghiên cứu
ngôn ngữ là để qua đó nghiên cứu về phương thức tư duy của con người. Vì
20


vậy, khi nghiên cứu những dữ kiện của ngôn ngữ tự nhiên, logic học đã trừu
tượng hoá những yếu tố giao tiếp, yếu tố tình huống để nhằm đạt tới cái ngôn
ngữ “là hiện thực trực tiếp của tư duy”. Logic học phi ngôn cảnh hoá các lời của
ngôn ngữ tự nhiên để có được những câu chỉ đơn giản có giá trị chân lý mà thôi.
Có thể nói rằng logic học hình thức đã nghiên cứu tư duy thông qua ngôn
ngữ. Thậm chí trong lịch sử triết học và logic học, trào lưu triết học phân tích
còn đi đến cực đoan khi quan niệm nhiệm vụ của triết học là phân tích ngôn ngữ
để làm sáng tỏ nội dung của những vấn đề triết học. Tuy quan niệm này là sai
lầm nhưng những nghiên cứu, phân tích ngôn ngữ của những nhà triết học lại
đem lại những đóng góp đáng kể cho ngành ngôn ngữ học nói riêng. Chúng ta
có thể kể đến những tên tuổi như J.R. Austin, J.R. Searle, H.P. Grice… mặc dù
đều là những nhà triết học nhưng đã có những nghiên cứu ngôn ngữ một cách
chi tiết trong quá trình hành chức. Các nhà triết học này đã cung cấp những bộ

khái niệm, những học thuyết như : học thuyết hành vi ngôn ngữ, khái niệm tiền
giả định, hàm ngôn hay hàm ý hội thoại… góp phần vào việc nghiên cứu ngôn
ngữ học nói chung và nghiên cứu logic - ngữ nghĩa nói riêng.
Về phía ngôn ngữ, chúng ta đều biết, ngôn ngữ có hai chức năng cơ bản
là giao tiếp và phản ánh tư duy. Với những chức năng này ngôn ngữ gắn liền
với quá trình nhận thức thế giới khách quan của con người. Vì gắn với nhận
thức thế giới nên ngôn ngữ không chỉ có quan hệ cấu trúc như các sự vật khác
mà nó còn có quan hệ logic. Logic của ngôn ngữ tự nhiên này không chỉ là logic
của tư duy. Logic ngôn ngữ có một số cách thức suy luận riêng với những đặc
trưng riêng và có sự khác biệt so với logic tư duy được nghiên cứu trong logic
học hình thức. Lời trong ngôn ngữ nhiên không chỉ có giá trị chân lý như trong
logic mà nó còn có giá trị dĩ ngôn nên logic ngôn ngữ có một hệ thống toán tử
rất phong phú và phức tạp. Chính nhờ cái logic trong ngôn ngữ tự nhiên này,
chúng ta không chỉ có thể nói trực tiếp với nhau bằng hiển ngôn mà có thể nói
gián tiếp thông qua các hàm ngôn, mà đôi khi hàm ngôn mới là cái quan trọng,
mới là thông điệp mà người nói muốn chuyển đến người nghe. Vì vậy, muốn
21


nghiên cứu ngôn ngữ một cách sâu rộng và triệt để từ cấu trúc, chức năng,
những biến đổi và phát triển của nó đến sự tham gia của nhân tố con người
trong nó chúng ta cần quan tâm đến vấn đề logic của ngôn ngữ tự nhiên.
Trong nội dung lời nói thường có hai thành phần : thành phần nhận thức,
có giá trị chân lý thường được gọi là nội dung mệnh đề, thành phần này chính là
phần hiện diện của logic trong ngôn ngữ; và thành phần ngữ vi, không có giá trị
chân lý mà chỉ có giá trị dĩ ngôn, tức là giá trị thực hiện một hành vi ngôn ngữ
nhằm tác động đến nhận thức của người tiếp nhận, hay nhiều tác giả gọi thành
phần này là nội dung tình thái. Giá trị dĩ ngôn này rất đa dạng và thường phụ
thuộc vào ngữ cảnh. Trong một lời có thể có nhiều giá trị dĩ ngôn khác nhau và
một hành động dĩ ngôn có thể thực hiện trong nhiều ngữ cảnh khác nhau cho ta

những giá trị ngữ nghĩa khác nhau. Như vậy, logic hình thức chỉ có hai giá trị
chân lý đúng và sai, trong khi đó logic ngôn ngữ là một tập hợp vô số những giá
trị. Nói cách khác logic của ngôn ngữ tự nhiên là một logic đa trị đặc biệt. Lời
trong ngôn ngữ không chỉ có giá trị chân lý mà còn có giá trị dĩ ngôn. Đây chính
là đặc điểm khác biệt giữa ngôn ngữ logic và ngôn ngữ tự nhiên.
Bên cạnh đó, trong giao tiếp ngôn ngữ đôi khi con người không chỉ nói
trực tiếp với nhau bằng các hiển ngôn mà thông điệp được gửi đến người nghe
có thể thông qua các hàm ngôn. Hàm ngôn được người nghe tiếp nhận thông
qua các suy ý từ những tiền đề là hiển ngôn và tiền giả định, từ những nội dung
logic và nội dung tình thái. Rõ ràng, ở đây logic ngôn ngữ đã hoạt động với một
cơ chế riêng, với những phép suy luận riêng, ngầm ẩn, một địa hạt mà logic
hình thức không vươn tới.
Có thể thấy, logic ngôn ngữ dựa trên logic tư duy, lấy logic tư duy làm cơ
sở nhưng nó phong phú hơn và phức tạp hơn rất nhiều. Mà logic hình thức lại
có đối tượng nghiên cứu là logic của tư duy được biểu hiện thông qua ngôn ngữ.
Nhưng cái logic này không phải là logic ngôn ngữ. Hai hệ thống logic này thống
nhất nhưng không đồng nhất. Chúng có những điểm chung và những điểm riêng

22


×