Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Cấu trúc hai mặt và tính liên thông của từ điển địa danh lịch sử quân sự luận văn ths ngôn ngữ học 60 22 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.77 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

HOÀNG THỊ NGA

CẤU TRÚC HAI MẶT VÀ TÍNH LIÊN THÔNG
CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

HOÀNG THỊ NGA

CẤU TRÚC HAI MẶT VÀ TÍNH LIÊN THÔNG
CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 602201

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Văn Tình

HÀ NỘI - 2015



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phạm Văn Tình đã
luôn tận tình hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong khoa Ngôn ngữ học Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo
môi trƣờng thuận lợi để tôi học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, xin đƣợc bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp luôn động viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để tôi có thể hoàn thành
luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng

năm 2015

Tác giả

Hoàng Thị Nga


LI CAM OAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu trình bày trong đề tài là chính xác.
Kết quả nghiên cứu của đề tài ch-a từng đ-ợc công bố trong bất
kỳ một công trình khoa học nào khác.
Hong Th Nga


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
Chƣơng 1:

3
CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1. Một số khái niệm cơ bản

6
6

1.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của từ điển và từ điển học

6

1.1.2. Chức năng và đặc điểm cơ bản của từ điển

8

1.1.3 Cách phân loại từ điển

11

1.2. Nhận thức chung về từ điển bách khoa

14

1.2.1. Chức năng, đặc điểm của từ điển bách khoa

14


1.2.2. Cách phân loại từ điển bách khoa

16

1.3. Cấu trúc của từ điển

18

1.3.1. Cấu trúc của từ điển giải thích

18

1.3.2. Cấu trúc của từ điển bách khoa

20

1.4. Các kiểu định nghĩa của từ điển

24

1.4.1. Các kiểu định nghĩa trong từ điển giải thích

24

1.4.2. Đặc điểm và phƣơng pháp định nghĩa khái niệm
trong từ điển bách khoa
Chƣơng 2:

30


CẤU TRÚC VĨ MÔ – TÍNH TỔNG THỂ
CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ

2.1. Đặt vấn đề
2.1.1. Khái niệm Địa danh Lịch sử Quân sự

35
35
35

2.2. Cấu trúc tổng thể

39

2.3. Tính hệ thống

39

2.3.1. Địa danh – một chỉ dẫn địa lí có giá trị văn hóa

39

2.3.2. Địa danh phản ánh những hoạt động quân sự

40

2.3.3. Tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô

47


2.4. Tiểu kết

51


Chƣơng 3

CẤU TRÚC VI MÔ – THÔNG TIN CHI TIẾT
CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ

53

3.1 Đặt vấn đề

53

3.2 Thông tin chi tiết

53

3.2.1. Mục từ

53

3.2.2. Nội dung mục từ

56

3.2.3. Hình minh họa


57

3.2.4 Thƣ mục tham khảo

60

3.2.5. Tên ngƣời biên soạn

65

3.2.6. Tài liệu tham khảo

66

Chƣơng 4

TÍNH LIÊN THÔNG CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH
LỊCH SỬ QUÂN SỰ

4.1. Đặt vấn đề

67
67

4.2. Cấu trúc vĩ mô và tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô
của Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự

68


4.2.1. Cấu trúc vĩ mô

68

4.2.2. Tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô

69

Vấn đề tính hệ thống trong từ điển

71

4.3.

4.3.1. Tính chuẩn mực của từ điển

72

4.3.2. Tính tiện dụng của từ điển và ảnh hƣởng của nó đến ngƣời
biên soạn

74

4.3.3. Quá trình biên soạn

74

4.3.4. Cách sử dụng từ điển

75


KẾT LUẬN

78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

79


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ điển là loại sách có chức năng xã hội rộng lớn. Nó cung cấp vốn
từ ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, giúp cho việc học tiếng
mẹ đẻ và học ngoại ngữ, mở rộng vốn hiểu biết của con ngƣời về sự vật,
khái niệm trong thế giới tự nhiên và xã hội. Từ điển là một sản phẩm khoa
học có tác dụng đặc biệt đối với sự phát triển văn hoá, giáo dục, nâng cao
dân trí và mở rộng giao lƣu giữa các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau.
Trong thời đại ngày nay, số lƣợng phát hành, số lƣợng, chủng loại và
chất lƣợng của từ điển nói chung, từ điển bách khoa chuyên ngành nói riêng
là một tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển văn hoá, giáo dục,
khoa học kĩ thuật của một quốc gia. Chính vì vậy, việc nghiên cứu từ điển
học, cả lí luận và thực tiễn có tác dụng lớn trong việc nâng cao chất lƣợng
biên soạn từ điển.
Việc biên soạn và xuất bản từ điển ở nƣớc ta đã có nhiều dấu hiệu đổi
mới. Số lƣợng và chủng loại từ điển tăng trƣởng đáng kể trong vài ba năm
gần đây. Một số quyển từ điển đã phần nào đáp ứng đƣợc yêu cầu của
ngƣời sử dụng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn có nhiều quyển từ điển chất
lƣợng chƣa đáp ứng yêu cầu, thậm chí có những sai sót lớn về nội dung
cũng nhƣ in ấn.

Trong bối cảnh về sự ra đời và phát triển của từ điển học trên thế giới nói
chung, công tác nghiên cứu lí luận từ điển học và biên soạn từ điển ở nƣớc ta cũng
đƣợc hình thành trong thời gian có muộn. Gần đây, tuy đã đƣợc quan tâm chú ý và
có một số thành tựu đáng kể, nhƣng nhìn chung, từ điển học Việt Nam vẫn chƣa
phát triển kịp với yêu cầu của thời đại. Trong khi đó, cùng với sự phát triển của các
bộ môn ngôn ngữ học khác và sự bùng nổ của công nghệ tin học, từ điển học ở một
số nƣớc phát triển đã có những bƣớc tiến mạnh mẽ và không ngừng.
Các nhà từ điển học đã phân chia ra hai loại từ điển công cụ: Từ
điển ngôn ngữ (gồm từ điển tƣờng giải, từ điển chính tả, từ điển đồng
3


nghĩa/trái nghĩa, từ điển song ngữ, đa ngữ...) và Từ điển tri thức (từ điển
bách khoa, bách khoa thƣ, bách khoa toàn thƣ...). Tuy nhiên, bất luận loại
từ điển nào cũng đều đƣợc biên soạn trên cơ sở của các cấu trúc vĩ mô
(cấu trúc tổng thể) và cấu trúc vi mô (cấu trúc chi tiết mục từ). Vì vậy,
việc xem xét cấu trúc hai mặt này là vấn đề phải quan tâm tới mọi loại
hình từ điển của nƣớc ta hiện nay.
Tình hình trên đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lí
luận và kinh nghiệm từ điển học. Luận văn với đề tài “Cấu trúc hai mặt và
tính liên thông của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự ” hi vọng có thể đóng
góp phần nào cho nhiệm vụ quan trọng và cấp bách này.
2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là cấu trúc vĩ mô và cấu
trúc vi mô của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự xuất bản năm 2006. Đi
sâu hơn nữa, luận văn tiến hành tìm hiểu các kiểu định nghĩa để từ đó rút ra
các mẫu định nghĩa trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự . Không chỉ
dừng lại ở đó, luận văn còn đi sâu tìm hiểu những nội dung đƣợc thể hiện và
cách tổ chức, sắp xếp các nội dung đó trong lời giải thích của một số nhóm
loại mục từ tiêu biểu trong Từ điển.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ một số vấn đề về cấu
trúc vi mô của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự . Đó là: một số mẫu định
nghĩa đƣợc sử dụng; và, những nội dung đƣợc đƣa vào lời giải thích của
mục từ trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự .
Để thực hiện đƣợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ đối chiếu, so
sánh yêu cầu của từ điển học hiện đại với thực tiễn biên soạn từ điển ở
nƣớc ta qua cuốn từ điển đƣợc chọn làm đối tƣợng nghiên cứu là Từ điển
Địa danh Lịch sử Quân sự . Trên cơ sở đó, hệ thống hoá, khái quát hoá, mô
hình hoá một số mẫu định nghĩa cơ bản, những nội dung đƣa vào lời giải
thích của mục từ trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự .
4


4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau đây:
- So sánh - đối chiếu các kiểu định nghĩa, cách tổ chức nội dung
thông tin trong cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa nói chung, Từ điển Địa
danh lịch sử Quân sự nói riêng với từ điển giải thích, đồng thời, trong một
số trƣờng hợp, đối chiếu với yêu cầu của lí thuyết từ điển học hiện đại.
- Phƣơng pháp hệ thống cấu trúc của từ điển học (một số phân ngành
của ngôn ngữ học ứng dụng).
- Phƣơng pháp miêu tả; phƣơng pháp thống kê
- Vận dụng một số khái niệm và phƣơng pháp của logic học, đặc biệt
là phƣơng pháp quy nạp để khái quát một số vấn đề.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Đây là luận văn đầu tiên đề cập đến vấn đề định nghĩa trong Từ điển
Địa danh Lịch sử Quân sự. Trong tình hình các công trình nghiên cứu từ
điển học ở Việt Nam nói chung và trong lực lƣợng vũ trang nói riêng còn
quá ít, những kết quả nghiên cứu dù là bƣớc đầu của luận văn có thể góp

một phần nhỏ vào việc bổ sung lí luận cho lĩnh vực khoa học này đặc biệt
là những vấn đề liên quan tới từ điển địa danh lịch sử nói chung.
Trong một chừng mực nào đó, những kết quả nghiên cứu cụ thể của luận
văn về các kiểu định nghĩa, cách xử lí các nội dung trong lời giải thích của mục
từ có thể đƣợc vận dụng trong việc biên soạn nhằm nâng cao chất lƣợng, đảm
bảo sự nhất quán, tăng sự hấp dẫn cho Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết
cấu thành 4 chƣơng:
- Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết Từ điển học những vấn đề lí luận cơ bản
- Chƣơng 2: Bàn về vấn đề liên quan đến cấu trúc vĩ mô – tính hệ
thống của Từ điển địa danh Lịch sử Quân sự.
- Chƣơng 3: Cấu trúc vi mô – thông tin chi tiết của Từ điển Địa danh
Lịch sử Quân sự.
- Chƣơng 4: Tính liên thông của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự.
5


NỘI DUNG
Chương 1 . CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1. 1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của từ điển và từ điển học
Do nhu cầu của xã hội, một trong những loại sách ra đời sớm là từ điển.
Quyển từ điển đầu tiên trên thế giới là quyển từ vựng do ngƣời Hy Lạp biên
soạn thế kỉ V trƣớc Công nguyên; thu thập và giải thích các từ khó trong các tác
phẩm thời cổ đai, đặc biệt những tác phẩm của Homer. Ở Việt Nam, trƣớc đây
mấy thế kỉ, chỉ có những từ điển song ngữ đối chiếu nhƣ “An Nam — Lusitan —
La tinh” (“Việt - Bồ - La”) do Alexandre de Rhodes biên soạn, xuất bản ở Roma
năm 1651 ; tiếp theo là một số từ điển Hán - Việt cỡ nhỏ nhƣ “Tam thiên tự giải
âm” do Ngô Thì Nhậm biên soạn, xuất bản năm 1831, “Thiên tự văn giải âm”;

và một số quyển từ điển đối chiếu Pháp - Việt nhƣ Dictionnaire F'rancaisAnnamite et Aniiamite-Fratuiis (G.Aubaret, Paris, 1867), Petit Dictionnaire
Francais-Anmmite (PJ.B. Trƣơng Vĩnh Ký, Sài Gòn, 1884). Cuối thế kỉ XIX
mới có quyển từ điển giải thích tiếng Việt đầu tiên, Đại Nam Quấc âm tự vị của
Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895) và sau hơn ba mƣơi năm sau mới có quyển thứ
hai, Việt Nam Tự điển của Hội Khai trí Tiến Đức ( 1931 ).
Cuối thế kỉ XX, cùng với sự phát triển của khoa học, kinh tế, giáo dục
trên phạm vi toàn cầu, nhu cầu về từ điển của xã hội tăng nhanh, từ điển đƣợc
biên soạn và xuất bản với số lƣợng lớn và nhiều chủng loại đa dạng. Đặc biệt,
gần đây, sự bùng nổ của công nghệ tin học đã tạo ra một bƣớc phát triển mới
trong các khâu biên soạn, in ấn từ điển; sản phẩm từ điển không chỉ là những
quyển sách bằng giấy mà còn ở dạng từ điển điện tử.
Ngƣợc lại với thời điểm ra đời của từ điển, từ điển học lại ra đời rất
muộn. Đến những năm bốn mƣơi của thế kỉ XX, lí thuyết từ điển học mới
đƣợc khởi xƣớng bằng bài viết “Thử bàn về lí thuyết đại cương về từ điển
6


học” của L.V.Serba. Đến năm 1971, bộ môn từ điển học đã có bƣớc ngoặt
đáng kể với sự ra đời của hai công trình: Giáo trình từ điển học của
Ladislav Zgusta, xuất bản ở Praha và Nghiên cứu từ điển hiện đại bằng
tiếng Pháp về ngôn ngữ học và kí hiệu học của Josette Rey Debove, xuất
bản ở Paris. Gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của ngôn ngữ học nói
chung, của ngữ nghĩa học, từ vựng học nói riêng, từ điển học cũng phát
triển mạnh mẽ.
Ở Việt Nam, nhiều bài viết có giá trị thể hiện sự quan tâm của các tác
giả trong lĩnh vực này, nhƣ: Về việc biên soạn một quyển từ điển tiếng Việt
mới (Hoàng Phê, 1969); Một vài nhận xét về từ điển giải thích của ta (Vƣơng
Lộc, 1969); Một số ý kiến về việc giải thích nghĩa của từ trong từ điển tiếng
Việt (Đỗ Hữu Châu, 1969); Về việc giải thích nghĩa của từ nhiều nghĩa trong
từ điển tiếng Việt (Nguyên Văn Tu, 1969); Một số kinh nghiệm biên soạn từ

điển ngôn ngữ ở các nước xã hội chủ nghĩa (Bùi Khắc Việt, 1969); Việc chọn
và giải thích từ ngữ miền Nam trong một quyên từ điển tiếng Việt loại phổ
thông (Nguyễn Quang, 1970); Vấn đề biên soạn hư từ trong việc biên soạn từ
điển giải thích (Hồng Dân, 1971);... Các bài viết trên đã đề cập đến nhiều mặt,
nhiều vấn đề cần chú ý trong thực tế biên soạn từ điển tiếng Việt.
Đến năm 1997, mới có một công trình chuyên đề về từ điển học, Một
số vấn đề từ điển học, gồm tập hợp 9 bài viết, đúc kết những kinh nghiệm
biên soạn từ điển ở nƣớc ta và một số vấn đề lí luận từ điển học. Các bài
viết trong công trình này đã đi sâu vào một số vấn đề lí luận từ điển, nhƣ:
những nét khái quát về cấu trúc vĩ mô, cấu trúc vi mô, hệ thống các kiểu
chú, phƣơng pháp biên soạn từ điển đồng nghĩa... Tuy nhiên, các vấn đề mà
các tác giả đề cập đến trong công trình này đều là những vấn đề trong từ
điển giải thích, không có tác giả nào đề cập đến các vấn đề của từ điển
báeh khoa, nhất là vấn đề về các kiểu định nghĩa.
7


Ngày nay, từ điển học đã đƣợc coi là một bộ môn ngôn ngữ học ứng dụng
quan trọng, với đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu là các loại hình từ điển, cấu trúc vĩ mô,
cấu trúc vi mô... Gần đây, giới từ điển học còn chú ý đến hai mặt khác nữa là lịch sử
của từ điển và việc áp dụng công nghệ tin học vào công tác biên soạn từ điển.
1.1.2. Chức năng và đặc điểm cơ bản của từ điển
1.1.2.1.Khái niệm từ điển
Từ điển là một công cụ đắc lực giúp cho con ngƣời nắm vững công cụ
ngôn ngữ và sử dụng có hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình, đồng
thời góp phần chuẩn hoá ngôn ngữ.
Theo tác giả Nguyễn Văn Tu, từ điển là “sách tra cứu bao gồm các từ,
ngữ đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhất định, giải thích ý nghĩa của các đơn vị
đƣợc miêu tả, cung cấp những thông tin khác nhau về chúng hoặc dịch chúng ra
một ngôn ngữ khác, hoặc ; thông báo những kiến thức về các đối tƣợng do

chúng biểu thị” .
Trong cuốn Giáo trình từ điển học (1971), L. Zgusta đã dẫn ra một định
nghĩa về từ điển của Bergl mà ông cho là một trong những định nghĩa tốt nhất:.
“Một cuốn từ điển là một danh mục đƣợc sắp xếp có hệ thống của các hình thức
ngôn từ đƣợc xã hội hoá, thu thập từ những thói quen nói năng của một cộng đồng
ngôn ngữ nhất định và đƣợc ngƣời biên soạn chú giải sao cho ngƣời đọc có một
trình độ nhất định hiểu đƣợc ý nghĩa của từng hình thức ngôn ngữ riêng rẽ và biết
đƣợc nhũng điều cần yếu về chức năng của nó trong cộng đồng ngôn ngữ ấy”.
Trong công trình Một số vấn đề lý luận và phương pháp luận cơ bản về
từ điển học và bách khoa thư Việt Nam do tác giả Phạm Hùng Việt làm chủ
nhiệm, các tác giả cho rằng: “Từ điển là một công trình tra cứu, luôn chứa
các từ ngữ tách rời của vốn từ ngữ chung (hay một bộ phận các từ ngữ
chuyên biệt) của ngôn ngữ, kèm theo các thông tin (đầy đủ hoặc chỉ một số
thông tin) về chính tả, cách phát âm, ý nghĩa, cách dùng, các từ đồng nghĩa,
sự phái sinh và lịch sử của các từ ngữ đó. Để tiện tra cứu, ở phần lớn các từ
8


điển, các từ ngữ đƣợc sắp xếp theo trật tự bảng chữ cái; các thông tin đƣợc
minh hoạ bằng những trích dẫn từ các tác phẩm văn học”.
Từ những định nghĩa và sự tƣờng giải về từ điển, có thể thấy một số
đặc tính chung trong từ điển nhƣ sau:
Từ điển là loại công trình dùng để tra cứu, giúp cho ngƣời đọc tìm
kiếm những thông tin qua các từ ngữ đƣợc tập hợp và trình bày (các đầu
mực từ). Các đầu mục từ đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhất định, có thể đi
kèm là các thông tin phụ liên quan đến đầu mục này.
Trong mỗi mục từ, đƣợc trình bày có hệ thống là các nội dung thông
tin (tri thức) - phần còn lại ngoài các đầu mục từ, có vai trò giải thích nội
dung của đầu mục từ hoặc cung cấp các thông tin về đối tƣợng đã đƣợc nêu
trong đầu mục từ.

Chức năng của từ điển
1. Từ điển có chức năng cung cấp thông tin. Đây là chức năng cơ
bản của từ điển và chi phối các chức năng khác. Bằng cách diễn đạt tri thức
ngắn gọn, cô đọng nhất, từ điển là một phƣơng tiện hữu hiệu để tàng trữ và
cung cấp thông tin. các thông tin do từ điển cung cấp có thể là các thông tin
về ngôn ngữ, văn hoá, xã hội, kinh tế, khoa học...
2. Từ điển giúp giải thích, cung cấp và hƣớng dẫn cách sử dụng từ
ngữ của một ngôn ngữ, do đó, từ điển còn có chức năng nữa là chức năng
phục vụ giao tiếp, giúp cho việc giao tiếp trong nội bộ một dân tộc cùng
sử dụng chung một ngôn ngữ hay giữa các dân tộc sử dụng các ngôn ngữ
khác nhau.
3. Từ điển có chức năng hƣớng dẫn, giáo dục ngôn ngữ. Từ điển là
công cụ đắc lực trong việc dạy và học ngôn ngữ. Ngƣời sử dụng từ điển
thƣờng coi từ điển là ngƣời thầy không lời, là trọng tài trong các cuộc tranh
luận về từ ngữ.
9


4. Từ điển có chức năng chuẩn hoá ngôn ngữ. Ngôn ngữ rất đa dạng
và luôn luôn vận động phát triển. Hiện tƣợng một chuẩn mới hình thành
bên cạnh một chuẩn cũ luôn luôn tồn tại, nhất là trong lĩnh vực từ vựng. Cái
mới và cái cũ song song tồn tại trong một thời gian, thƣờng là cuối cùng cái
cũ nhƣờng chỗ cho cái mới, nhƣng không phải bao giờ cũng vậy. Từ điển
phải thƣờng xuyên đƣợc cập nhật, giới thiệu chuẩn ngôn ngữ trong sự biến
đổi, phát triển nên từ điển đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn hoá
ngôn ngữ.
5. Ngoài các chức năng trên, từ điển còn có thêm chức năng phục vụ
nghiên cứu. Qua từ điển ngƣời ta có thế rút ra đƣợc những nguyên tắc, lí
luận về từ điển học, đồng thời cũng có thể lấy từ điển làm tƣ liệu nghiên
cứu nhiều lĩnh vực khác của ngôn ngữ học.

Đặc điểm của từ điển:
Để thực hiện các chức năng nêu trên, từ điển có những đặc điểm
riêng khác biệt với tất cả các loại sách khác.
1. Là một loại sách phục vụ nghiên cứu giáo dục, từ điển có tính khoa
học. Tính khoa học đƣợc thể hiện ở nhiều mặt, từ việc xác định nguyên tắc
biên soạn, phạm vi thu thập từ ngữ đến cách thức định nghĩa, cung cấp các
thông tin mở rộng. Đối với từ điển bách khoa, độ chính xác là thƣớc đo của
tính khoa học.
2. Từ điển thu thập và giải thích các từ ngữ đƣợc dùng trong đời sống
của con ngƣời, cũng có nghĩa là nó đề cập đến mọi khía cạnh của đời sống
hiện thực, dù muốn hay không muốn, nó phản ánh một sự lí giải và một
cách đánh giá về các vấn đề văn hoá, khoa học, chính trị, xã hội. Theo
Hoàng Phê, từ điển phản ánh thế giới quan, quan điểm, lập trƣờng của
ngƣời biên soạn, dù rằng ngƣời biên soạn có đầy đủ ý thức hay không về
việc đó. Do đó, từ điển mang trong mình tính tƣ tƣởng.
10


3. Đặc điểm thứ ba của từ điển là tính tiện dụng. Từ điển là loại sách
công cụ mang tính phổ cập (trừ các từ điển chuyên ngành), có đối tƣợng sử
dụng là đông đảo ngƣời sử dụng ngôn ngữ ở những trình độ khác nhau.
Điều này đòi hỏi ở từ điển tính tiện dụng, dễ hiểu, dễ tra cứu. Điều này
dƣờng nhƣ ít nhiều mâu thuẫn với đặc điểm về tính khoa học của từ điển.
Mâu thuẫn đó làm cho công tác biên soạn từ điển càng trở nên khó khăn.
Dung hoà đƣợc mâu thuẫn này, đảm bảo đồng thời hai yêu cầu khoa học và
tiện dụng của từ điển là cả một nghệ thuật.
4. Một kết quả của sự dung hoà đó đƣợc biểu hiện qua phƣơng thức
trình bày của từ điển. Từ điển luôn đƣợc tổ chức theo hai cấu trúc: cấu trúc
vĩ mô (cấu trúc tổng thể hay cấu trúc bảng từ) và cấu trúc vi mô (cấu trúc
mục từ). Kiểu cấu trúc đó làm cho từ điển không lẫn lộn với các sách khác,

các thông tin trong từ điển đƣợc trình bày một cách vừa khoa học, vừa tiện
dùng. Với từ điển, tính khoa học và tính tiện dùng là hai đặc điểm cơ bản.
1.1.3 Cách phân loại từ điển
Trên thế giới đã từng có nhiều học giả nổi tiếng đề cập đến vấn đề phân loại
từ điển nhƣ Shcherba (1940), Makiel (1959, 1967), Cornyn (1967), Gelb §1968),
Zgusta (1971)... Ở Việt Nam, phải kể đến Nguyễn Ngọc Trâm (2003), Dƣơng Kỳ
Đức (2000), Chu Bích Thu, Vũ Quang Hào (2005), Nguyễn Trọng Báu... Nhìn
chung, cách phân loại của các tác giả mới chỉ dừng lại ở mức khái quát, chƣa đi vào
từng loại cụ thể. Đáng chú ý là cách phân loại của L.V.Sherba phân chia từ điển
theo 6 cặp đối lập:
1. Từ điển hàn lâm và từ điển tra cứu: từ điển hàn lâm phản ánh ý thức
ngôn ngữ hiện thực, thống nhất của cả cộng đồng trong một thời gian nhất định,
còn từ điển tra cứu không nhất thiết có sự thống nhất của cả cộng đồng, từ ngữ
có thể đƣợc thu thập ở những thời đại khác nhau, những địa phƣơng khác nhau.
2. Từ điển bách khoa và từ điển ngôn ngữ: từ điển bách khoa cung cấp
thông tin về sự vật, hiện tƣợng, khái niệm; từ điển ngôn ngữ cung cấp thông tin
về kí hiệu ngôn ngữ.
11


3. Từ điển thesaurus (từ điển tổng toàn) và từ điển thông thường: từ
điển piesaurus thu thập toàn bộ từ ngữ có trong một ngôn ngữ (dù chỉ xuất hiện
một lần) và những lời tích dẫn có chứa các từ ngữ đó; từ điển thông thƣờng thì
chỉ thu thập những đơn vị từ có tính ổn định và một số thí dụ minh hoạ. Sự đối
lập giữa hai từ điển này thực ra là sự đối lập giữa tƣ liệu ngôn ngữ và hệ thống
ngôn ngữ.
4. Từ điển thông thường và từ điển ý niệm: từ điển thông thƣờng lấy
vỏ ngữ âm của từ làm cơ sở, các đơn vị đƣợc sắp xếp theo trật tự chữ viết;
từ điển ý niệm lấy nội dung của từ làm cơ sở, các đơn vị đƣợc sắp xếp theo
nhóm chủ đề.

5. Từ điển giải thích và từ điển đối dịch: từ điển giải thích nhằm làm
sáng tỏ bản chất kí hiệu của một ngôn ngữ bằng chính ngôn ngữ ấy. Từ
điển đối dịch nhằm làm hiểu rõ một ngôn ngữ khác.
6. Từ điển phi lịch sử và từ điển lịch sử: từ điển phi lịch sử phản ánh từ
ngữ trong một khoảng thời gian hiện thời còn từ điển lịch sử phản ánh cả quá
trình lịch sử, sự xuất hiện, sự biến đổi và thậm chí cả sự mất đi của các từ ngữ.
L.Zgusta phân loại cụ thể hơn cho từ điển ngôn ngữ và đƣa thêm một
tiêu chí về cỡ của từ điển. Ông cho rằng, sự phân loại đầu tiên, có tính chất
bao quát nhất là sự phân biệt giữa từ điển ngôn ngữ và từ điển bách khoa.
Theo ông, “các từ điển ngôn ngữ chủ yếu đề cập đến ngôn ngữ, tức là đề
cập đến các đơn vị từ vựng của ngôn ngữ và tất cả các đặc tính ngôn ngữ
của chúng. Ngƣợc lại, các từ điển bách khoa chỉ đề cập chủ yếu đến các
denótate của các đơn vị từ vựng, chúng cho những thôrg tin vê thế giới
ngoài ngôn ngữ có tính chất vật chất hoặc phi vật chất”.
Tiếp tục phân loại từ điển ngôn ngữ, ông chia ra thành các loại cơ
bản theo bốn tiêu chí sau:
1. Theo tiêu chí thời gian, có sự đối lập giữa từ điển lịch đại và từ
điển đồng đại. Theo L.Zgusta, đây là một trong những sự phân loại quan
12


trọng nhất đối với các từ điển ngôn ngữ. Ông đã nêu ra các đặc điểm khác
biệt giữa hai loại là trong khi từ điển lịch đại chỉ quan tâm chủ yếu đến lịch
sử sự phát triển của từ ngữ cả về nghĩa và hình thức thì nhiệm vụ của từ
điển đồng đại là đề cập đến kho từ vựng của một ngôn ngữ trong một giai
đoạn phát triển nhất định của chúng. Đồng thời ông lƣu ý đến “tình trạng
luôn có sự chồng chéo giữa các lĩnh vực của từ điển lịch sử với lĩnh vực
của từ điển đồng đại” , “khái niệm về từ điển đƣợc coi là đồng đại chỉ có
tính chất tƣơng đối”.
2. Theo phạm vi thu thập toàn bộ hay một bộ phận từ vựng của một ngôn

ngữ, có từ điển phổ thông và từ điển hạn chế (hoặc đặc biệt). Tính chất “hạn
chế” hay “đặc biệt” của từ điển hạn chế là do quyết định của ngƣời biên soạn
chỉ lựa chọn thu thập một bộ phận hẹp từ ngữ nhất định. Có thể có nhiều tiêu
chuẩn lựa chọn, nên có nhiều loại từ điển hạn chế khác nhau, chằng hạn nhƣ từ
điển phƣơng ngữ, từ điển học sinh, từ điển thuật ngữ một ngành... Đối lập lại,
từ điển phố thông thu thập toàn bộ ngôn ngữ phổ thông, nghĩa là ngôn ngữ
chuẩn toàn dân đƣợc dùng một cách phổ biến. Loại này lại đƣợc chia nhỏ hơn
nữa, thành từ điển miêu tả - chuẩn và từ điển miêu tả - chung. Từ điển miêu tả
- chuẩn khác từ điển miêu tả - chung ở một tính chất cơ bản là nó không chỉ
“tìm ra cái gì là chuẩn trong thời kì từ điển đƣợc phát hành” mà còn định ra
tiêu chuẩn cho ngƣời sử dụng trong tƣơng lai. Nghĩa là từ điển miêu tả - chuẩn
không chỉ phản ánh những tính chất và quy tắc phổ biến của ngôn ngữ hiện
thời mà còn “lƣờng trƣớc tình hình sử dụng của tƣơng lai” dựa vào quy luật
phát triển của ngôn ngữ”.
3. Theo số lƣợng ngôn ngữ đƣợc miêu tả, có từ điển một thứ tiếng và từ
điển hai thứ tiếng (thƣờng rất ít từ điển có từ ba thứ tiếng trở lên). Mục đích của
từ điển hai thứ tiếng là giúp cho việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác
hoặc cho việc giao tiếp bằng một ngôn ngữ khác không phải là tiếng mẹ đẻ.. Do
13


tính không đồng hình giữa các ngôn ngữ, từ điển hai thứ tiếng gặp rất nhiều khó
khăn trong việc đƣa ra các đơn vị từ vựng tƣơng đƣơng.
4. Tiêu chí cuối cùng là dựa vào cỡ từ điển, có từ điển cỡ nhỏ và từ điển
cỡ lớn. Đây là một trong những mặt không thể nói đƣợc thật chính xác mà chỉ có
thể là sự đánh giá có tính chất ấn tƣợng. Cỡ của từ điển không chỉ là khối lƣợng
và nhƣ vậy số lƣợng mục từ của từ điển, có thế nói một cách chính xác, chỉ nêu
lên đƣợc một cách khái quát về khả năng thông tin của nó. Phần lớn phụ thuộc
vào bản thân mục từ đƣợc thực hiện nhƣ thế nào.
Trên đây chỉ là “khung” của các sự phân loại. Các tiêu chí ở mỗi sự phân loại

trên có thể tiếp tục đƣợc cụ thể hoá, và theo đó có thể phân loại từ điển thành nhiều
loại nhỏ hơn. Thêm nữa, do các tiêu chí tƣơng đối độc lập, nên có thể có sự phối
hợp một số tiêu chí trong sự phân loại từ điển. Điều này dẫn đến tình trạng là trên
thực tế các kiểu loại từ điển rất đa dạng, phong phú. Sự phân loại từ điển có ý nghĩa
đặc biệt.
1.2. Nhận thức chung về từ điển bách khoa
1.2.1. Chức năng, đặc điểm của từ điển bách khoa
Từ điển bách khoa đƣợc phát triển từ từ điển. Từ điển bách khoa xuất hiện
là do sự ảnh hƣởng qua lại và xích lại gần nhau giữa bách khoa toàn thƣ và từ
điển ngôn ngữ. Chính vì vậy, khi nhận diện khái niệm từ điển bách khoa, một
mặt ngƣời ta cố gắng phân biệt nó với từ điển ngôn ngữ (chủ yếu là từ điển giải
thích); mặt khác, phân biệt nó với bách khoa thư.
Từ điển bách khoa có đặc điểm chung với các loại từ điển và bách khoa
thƣ ở chỗ, chúng đều là các công trình tra cứu, giúp ngƣời đọc tìm hiểu các
thông tin; các đầu mục từ đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhât định; các
thông tin trong mục từ đƣợc trình bày một cách có hệ thống. Tuy nhiên,
ngƣời ta cũng nhận thấy giữa chúng có những sự khác biệt nhất định.
Từ điển giải thích cung cấp mọi thông tin về bản thân kí hiệu ngôn
ngữ, còn từ điển bách khoa cung cấp thông tin về sự vật, khái niệm đƣợc từ
14


ngữ biểu thị. Phạm vi thu thập của từ điển giải thích là các đơn vị từ vựng
của một ngôn ngữ. Còn từ điển bách khoa, do lấy sự vật, khái niệm làm đối
tƣợng, nên chỉ thu thập những từ có ý nghĩa biểu vật, biểu niệm cụ thể mà
không phụ thuộc vào nhân tố ngƣời sử dụng hay hoàn cảnh nói năng.
Nhiệm vụ của từ điển bách khoa là cung cấp kiến thức về các đối tƣợng do
từ ngữ biếu thị, còn nhiệm vụ của từ điển ngôn ngữ là cung cấp kiến thức về
chính các đơn vị từ ngữ. Do nhiệm vụ khác nhau nhƣ vậy mà thông tin
trong từng mục từ của từ điển giải thích có thể là toàn bộ các thông tin về kí

hiệu ngôn ngữ, bao gồm rất nhiều mặt nhƣ thông tin về ngữ âm, từ vựng,
ngữ nghĩa, ngữ dụng, ngữ pháp...; ngƣợc lại, thông tin trong từ điển bách
khoa là các thông tin về sự vật, khái niệm mà từ đầu mục biểu thị, ngoài
phần định nghĩa còn có thể có thông tin mở rộng về lịch sử ra đời, quá trình
phát triển... Vì vậy, lời giải thích trong từ điển bách khoa sâu hơn. rộng hơn,
nhƣng cấu trúc vi mô thì thƣờng đơn giản hơn từ điển giải thích.
Định nghĩa trong từ điển bách khoa là định nghĩa khái niệm, là sự giải
thích chính xác, đầy đủ những đặc trƣng cơ bản của khái niệm, sự vật mà từ
ngữ biểu thị. Định nghĩa từ ngữ trong từ điển giải thích chỉ nhằm nêu lên
những đặc trƣng khu biệt của từ đủ để ngƣời sử dụng nhận biết và phân biệt
nó với những từ ngữ khác. Tuy nhiên, trên thực tế, “những đặc trƣng cơ bản
của khái niệm, sự vật mà từ ngữ biểu thị” trong từ điển bách khoa và
“những đặc trƣng cơ bản của từ ngữ trong từ điển giải thích không phải lúc
nào cũng có ranh giới rõ ràng. Nếu hình dung một từ mà từ đó quy chiếu
một sự vật thì không một tiêu chí khách quan nào có thể giúp chúng ta phân
biệt một định nghĩa về từ theo nghĩa phân tích từ đó về ngữ nghĩa, với một
định nghĩa về sự vật, vid trong định nghĩa ngƣời ta đi tới sự vật bằng từ và
từ bắt buộc phải trả trở về sự vật. Theo quan điểm chung của số đông các
nhà nghiên cứu, trong nội dung nghĩa từ bao giờ cũng có một hàm lƣợng
15


thông tin bách khoa. Xu hƣớng chung hiện nay của từ điển học hiện đại là
lời giải thích trong từ điển giải thích ngày càng có xu hƣớng gần với lời giải
thích trong từ điển bách khoa, nói một cách chính xác hơn, thông tin bách
khoa ngày càng đƣợc chú ý nhiều hơn trong từ điển giải thích.
Mặc dù đều là "công trình bách khoa", nhƣng giữa từ điển bách khoa và
bách khoa thƣ cũng có những khác biệt nhất định. Bách khoa thƣ có chức nàng
hệ thống hoá toàn bộ tri thức cơ bản và chuyên sâu, nhiều mặt về một hay nhiều
ngành khoa học hoặc hoạt động thực tiễn. Từ điển bách khoa lại có chức năng

cung cấp những thông tin vắn tắt phổ cập về các khái niệm của một hay nhiều
ngành khoa học hoặc hoạt động thực tiễn. Nếu nhƣ bách khoa thƣ đƣợc dùng
chủ yếu để giáo dục, tự học, tự nghiên cứu về nhiều mặt qua các chủ đề tri thức
độc lập, thì từ điển bách khoa lại chủ yếu đƣợc dùng để tra cứu, tìm kiếm thông
tin một cách nhanh chóng, số lƣơng mục từ trong bách khoa thƣ thƣờng ít nhƣng
chủ đề lại rất rộng và có biên độ dài. Ngƣợc lại, số lựợng mục từ trong từ điển
bách khoa nhiều, nhƣng chủ đề hẹp và có biên độ ngắn.
Nhƣ vậy, “từ điển bách khoa là một dạng công trình tra cứu có tính
chuyển tiếp giữa từ điển ngôn ngữ và bách khoa thƣ (vừa có tiêu chí chung với
từ điển ngôn ngữ vừa có tiêu chí chung với bách khoa thƣ); có chức năng cung
cấp những thông tin vắn tắt chung quanh các khái niệm khoa học, kĩ thuật, nghệ
thuật hay tri thức thực tiễn khác. Đây là loại sách chủ yếu để ngƣời ta tra cứu,
tìm hiểu”.
1.2.2. Cách phân loại từ điển bách khoa
Trong công trình Một số vấn đề lí luận và phương pháp luận cơ bản về
từ điển học và bách khoa thư Việt Nam do tác giả Phạm Hùng Việt làm chủ
nhiệm, các tác giả cho rằng, từ điển bách khoa và bách khoa thƣ có nhiều điểm
khác nhau nhƣng có đặc điểm chung về tính sự kiện của thông tin đƣợc chuyền
tải trong các mục từ. Theo cách mà Nguyễn Kim Thản đề xuất, các tác giả đã sử
dụng công trình bách khoa làm tên gọi chung cho từ điển bách khoa và bách
16


khoa thƣ. Công trình bách khoa là loại công trình tra cứu phản ánh tri thức của
một xã hội. Theo các tác giả, có nhiều cách phân loại từ điển bách khoa, có thể
kể đến một số cách phân loại thƣờng gặp sau:
a, Dựa vào nội dung có thể phân các công trình bách khoa thành 2 loại
lớn: công trình bách khoa tổng hợp và công trình bách khoa chuyên ngành.
Công trình bách khoa tổng hợp là những công trình tra cứu điển hình của một
quốc gia, thƣờng bao gồm nhiều tập, trong đó trình bày tri thức về tất cả các

ngành khoa học, kĩ thuật, văn hoá, nghệ thuật. Thuộc về loại này có thể kể đến
Từ điển bách khoa Xô Viết của Liên Xô, Americana của Mĩ (30 tập), đại bách
khoa toàn thư Trung Qưôc (74 tập), Từ điển bách khoa Việt Nam (4 tập)...
Công trình bách khoa chuyên ngành trình bày tri thức về một ngành khoa học,
kĩ thuật, văn hoá, nghệ thuật nhất định (hoặc một bộ môn của một ngành khoa
học, một chuyên dề nào đó). Thuộc về loại này có thể kể đến Bách khoa toàn
thư Triết học của Liên Xô (5 tập 1960 -1970), bách khoa toàn thƣ về nhiếp ảnh
của Anh (1949), từ điển bách khoa sinh học của một tập thể tác giải Việt Nam
(năm 2003)...
b, Dựa vào quy mô có thể chia các công trình bách khoa thành hai loại
chủ yếu: Công trình bách khoa cỡ lớn và công trình bách khoa cỡ nhỏ. Công
trình bách khoa cỡ lớn thƣờng có dung lƣợng hàng chục tập trở lên, có khi tới
hàng trăm tập. Thí dụ: bách khoa thƣ thuần học của linh mục Mingne 168 tập,
bách khoa toàn thƣ Tây Ban Nha – Mỹ (1805 – 1933) gồm 80 tập bách khoa
toàn thƣ Xô Viết cỡ lớn in lần thứ nhất 66 tập...công trình bách khoa cỡ nhỏ
thƣờng từ vài ba tập đến chục tập.
c, dựa vào đối tƣợng phục vụ có thể phân chia thành công trình bách khoa
cho thiếu niên nhi đồng (bách khoa toàn thƣ trẻ em của Liên Xô)
d, dựa vào phƣơng tiện truyền đạt có thể phân chia các công trình bách
khoa thành: sách in đĩa CD mạng internet, âm thanh mùi vị.
17


e, theo phạm vi đề cập có thể phân chia các công trình bách khoa thành
các công trình bách khoa chung và công trình bách khoa riêng (địa phƣơng dân
tộc...). Công trình bách khoa chung là loại công trình cung cấp thông tin về toàn
thế giới và toàn quốc. Bách khoa thƣ của các nƣớc Anh, Mỹ, Pháp, Trung
Quốc...thuộc loại này. Công trình bách khoa riêng (địa phƣơng dân tộc...)là loại
công trình cung cấp thông tin về một bộ phận trong nƣớc, chẳng hặn Bách
khoa thư về Moskva, Bách khoa thư về Leningrat ở Liên Xô, Bách khoa

thư Hà Nội, Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng ở Việt Nam.
1.3. Cấu trúc của từ điển
1.3.1. Cấu trúc của từ điển giải thích
13.1.1. Cấu trúc vĩ mô của từ điển giải thích
Các mục từ trong từ điển giải thích đƣợc thu thập theo những tiêu chí
nhất định, tạo thành một bảng từ có tính hệ thống, đảm bảo sự nhất quán,
có cấu trúc chặt chẽ. Đây là cấu trúc có quan hệ dọc, suốt từ đầu đến cuối
quyển từ điển, nên đƣợc gọi là cấu trúc vĩ mô. “Cấu trúc vĩ mô là cấu trúc
bao gồm toàn thể các mục từ đƣợc sắp xếp theo một trật tự xác định; còn
có thể gọi là cấu trúc bảng từ”.
Đối tƣợng chính của từ điển giải thích là từ vựng. Các đơn vị đƣợc thu
thập trong bảng từ của từ điển giải thích rất rộng và có cấu tạo đa dạng. Bảng
từ có thể bao gồm từ (chiếm phần lớn), các đơn vị lớn hơn từ (ngữ cố định,
thành ngữ...), các đơn vị nhỏ hơn từ (yếu tố cấu tạo từ),... số lƣợng các đơn vị
trong bảng từ phụ thuộc vào việc lựa chọn mục từ. vấn đề này nói chung rất
phức tạp, hiện nay chƣa có một tiêu chuấn chung nào vê việc lựa chọn mục
từ. Công việc này phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ cỡ, loại từ điển, số lƣợng,
chủng loại của các nguồn tƣ liệu, ngữ cảm của ngƣời biên soạn.
Là sách công cụ dùng để tra cứu, từ điển bao giờ cũng đƣợc sap xếp
theo một trật tự nhất định. Tuỳ theo loại hình ngôn ngữ, có thế có nhiều
cách sấp xếp khác nhau, chẳng hạn, có thể sắp xếp theo trật tự chữ cái, theo
18


chủ đê, theo tần số, hoặc theo bộ chữ (đối với từ điển tiếng Hán),... Tuy
nhiên, cách sắp xếp phố biến nhất là xếp theo trật tự bảng chữ cái.
1.3.1.2. Cấu trúc vi mô của từ điển giải thích
Giống nhƣ các loại từ điển khác, cấu trúc vi mô của từ điển giải
thích cũng bao gồm hai phần chính: mục từ và các thông tin trong mục từ
đó. Nhƣ vậy, mục từ trong từ điển là đơn vị đặc biệt, đa chức năng, hay

còn gọi là đơn vị kép, nó vừa là đon vị cơ bản của cấu trúc vĩ mô (trong
mối quan hệ dọc, với hệ thông bảng từ), vừa là đơn vị của cấu trúc vi mô
(trong mối quan hệ ngang, với các thông tin về chính bản thân nó).
L.Zgusta gọi hai thành phần chính của cấu trúc vi mô là “phần đề”
(mục từ) và “phần chính” (các thông tin). J.Rey Debove coi mục từ trong
từ điển có cấu trúc nhƣ một câu, trong đó đơn vị mục từ là chủ ngữ, các
thông tin là vị ngữ. Hai quan niệm này cùng nêu lên một đặc tính cơ bản
của cấu trúc mục từ là tính “đề - thuyết”( phần đƣợc nêu ra và phần đƣợc
thuyết minh làm rõ). Trên cấu trúc bề mặt, “phần đề” chỉ gồm một yếu tố,
đó là mục từ, còn “phần thuyết” thƣờng là nhiều yếu tố, đó là các thông tin
nhiều mặt về mục từ. Nhƣng xét về cấu trúc sâu, mỗi cấu trúc vi mô bao
gồm nhiều cấu trúc đề - thuyết bình đẳng với nhau. Bởi vì mỗi thông tin
đều có quan hệ trực tiếp với mục tù' làm thành cấu trúc đề - thuyết, nhƣng
trên bề mặt, phần đề luôn luôn đƣợc tỉnh lƣợc (chỉ xuất hiện một lần duy
nhất). Nối giữa “phần đề” và “phần thuyết” là một số hệ từ. Những hệ từ
này có thể hiển ngôn hoặc không hiển ngôn nhƣng rất dễ đƣợc khôi phục ở
dạng hiển ngôn. Tiếp thu và phát triển quan niệm này vào nghiên cứu từ
điển tiếng Việt, Chu Bích Thu đã khai thác sâu hơn các mối liên kết trong
cấu trúc vi mô. Ngoài tính tỉnh lƣợc là đặc trƣng cơ bản, còn phải kể đến
các mối liên kết bằng phép liên kết tuyến tính và phép lặp.
Theo tác giả Chu Bích Thu, các loại thông tin thƣờng thấy trong cấu
trúc vi mô của từ điến giải thích là: chính tả, ngữ âm, từ loại, phong cách,
19


phạm vi sử dụng, kết hợp cú pháp, kết hợp từ vựng, định nghĩa, kết hợp từ
vựng - cú pháp, định hướng ngữ dụng, đồng nghĩa - trái nghĩa, ví dụ. Các
thông tin này dƣợc thê hiện bằng những phƣơng tiện đa dạng, tuỳ thuộc
vào từng ngôn ngữ, vào quan niệm từ điển học của những ngƣời’ biên
soạn. Thông thƣờng các thông tin về từ loại, phong cách, sắc thái... đƣợc

thể hiện bằng những kí hiệu viết tắt; các thône tin về ý nghĩa, cách dùng...
thƣờng đƣợc trình bày đầy đủ.
1.3.2 Cấu trúc của từ điển bách khoa
1.3.2.1 Cấu trúc vĩ mô của từ điển bách khoa
Cấu trúc vĩ mô trong từ điển bách khoa chính là bảng đầu mục từ tên gọi các khái niệm, sự vật, sự kiện, nhân vật... mà thông tin về chúng
đƣợc trình bày trong mục từ. Thông thƣờng, bảng mục từ của từ điển bách
khoa đƣợc lập dựa trên sự phân loại tri thức và khoa học của các ngành và
bộ môn; các cuốn từ điển, từ điển thuật ngữ; các ấn phẩm đã công bố và
các nguồn tƣ liệu khác...
Bảng đâu mục từ trong từ điên bách kh.03. chính là Viêc thê hiện cu
ths cúci việc phân loại tri thức, là bƣớc triển khai của phân loại tri thức và
liên kết nội dung, là bộ khung của từ điển bách khoa. Ngoài những đặc trƣng
cơ bản nhƣ tính tƣ tƣởng, tính khoa học, tính hiện đại, đồng thời bảo đảm
tính ngắn gọn, dễ tra cứu, bảng từ trong từ điển bách khoa phải quán triệt ba
mục tiêu, đó là: tính hiện thực trong phân loại khoa học; sự phát triển của các
ngành khoa học và xu hƣớng liên kết các bộ môn khoa học; khuynh hƣớng
xuất hiện các ngành khoa học mói
Bảng đầu mục từ mang tính khoa học phải đƣợc xây dựng trên cơ sở phân
loại tri thức đƣa vào từ điển bách khoa theo một chu trình khép kín, có tầng bậc và
cấp độ, đặc biệt là đầu mục từ phải mang tính khái niệm. Nó phải bao gồm đầy đủ
những khái niệm của các chuyên ngành khoa học. Mỗi chuyên ngành cũng phải

20


hoàn chỉnh về mặt kết cấu và nội dung, nghĩa là mỗi chuyên ngành, đến lƣợt mình,
cũng phải đầy đủ các bộ môn khoa học. Nó cũng phải phản ánh tính thống nhất và kế
thừa tri thức cổ kim, đƣợc ghi nhận qua các tên gọi (đầu mục từ) của các khái niệm.
Phân loại tri thức đƣợc coi là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình chuẩn bị,
lập kế hoạch, xây dựng bảng từ, biên soạn nội dung và biên tập bản thảo. Tuỳ

pheo sự phát triển của khoa học ở từng thời kì, từng nƣớc, mục đích yêu cầu của
từng loại từ điển bách khoa và ý đồ của những ngƣời tổ chức mà chọn cách phân
loại. Việc phân loại tri thức không phải là liệt kê các thành phần tham gia một
cách |hình thức, mà là phải xác định đƣợc các mối quan hệ nội tại của từng
thành phần tham gia và giữa các thành phần. Chỉ khi nào lập đƣợc mạng lƣới
quan hệ và dựng đƣợc bộ khung cho từ điển bách khoa thì mớí coi là hoàn thành
phân loại tri thức.
Trong quá trình xây dựng bảng mục từ tổng hợp, cần tránh tính ngẫu
hứng, thiếu khách quan, thiếu quan điểm tổng thể, toàn diện, đôi khi còn có
biểu hiện thiên kiến, bản vị của một số ngƣời biên soạn. Do vậy, trƣớc khi
xây dựng bảng đầu mục từ phải nghiên cứu kĩ các hệ thống phân loại khoa
học và hình thành đƣợc bảng cấu trúc các chủ đề theo phân loại khoa học, các
ngành, phân ngành, các bộ môn khoa học, các khái niệm, các thuật ngữ, các
chủ đề tri thức, các sự kiện, các tổ chức, các địa danh, nhân vật... Trên cơ sở
bảng cấu trúc phân loại mục từ mới có thể xây dựng đƣợc một bảng mục từ
tổng hợp, để bảo đảm không trùng lặp, không bỏ sót, và từ đó hình thành
đƣợc các mục từ biệt lập và liên ngành, thuộc nhiều loại khác nhau, dƣới các
hình thức dài, trung bình và ngắn.
1.3.2.2 Cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa
Cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa là thiết kế bên trong (mục từ) của
từ điển bách khoa. Cấu trúc vi mô đƣa ra các thông tin mang tính sự kiện, chi
tiết về khái niệm, sự vật, hiện tƣợng, nhân vật... đƣợc nêu ra ở đầu mục từ.
21


×