Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải hành khách của nghành hàng không việt nam luận văn ths kinh tế 60 31 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

Vũ Thị Trang Nhung

Nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải hành
khách của nghành hàng không Việt Nam

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Hà nội - 2006


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

Vũ Thị Trang Nhung

Nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải hành
khách của nghành hàng không Việt Nam

Luận văn Thạc sĩ
Mã Số: 60 31 01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Phương Thảo

Hà nội - 2006


MỤC LỤC
Trang


Phần mở đầu

03

Chương 1 :Những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải

08

hành khách của ngành hàng không
1.

Đặc điểm dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng không

08

2.

Các nhân tố ảnh hưởng và hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải

13

hành khách của ngành hàng không
2.1.

Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng

15

không
2.1.1.


Các nhân tố chủ quan

15

2.1.2.

Các nhân tố khách quan

18

2.2.

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng

21

không
2.2.1.

Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá dịch vụ vận tải hành khách

21

2.2.2.

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá dịch vụ vận tải bổ trợ đi kèm

25


3.

Kinh nghiệm phát triển dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng không một số quốc gia

30

trên thế giới
3.1.

Dịch vụ vận tải hành khách của một số quốc gia ChâuÁ

30

3.2.

Dịch vụ vận tải hành khách của cộng đồng Châu Âu (EU)

32

3.3.

Dịch vụ vận tải hành khách tại khu vực Bắc Mỹ

34

3.4.

Kinh nghiệm rút ra cho ngành hàng không Việt Nam

37


Chương 2 : Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải hành khách của ngành

40

hàng không Việt nam
1.

Khái quát về ngành hàng không Việt Nam

40

1.1.

Mô hình tổ chức hoạt động của ngành hàng không Việt Nam

40

1.2.

Thị trường vận tải hàng không Việt Nam

48

1.2.1.

Đặc điểm kinh doanh vận tải hàng không

48


1.2.2.

Các yếu tố cơ bản của thị trường vận tải hàng không và các bộ phận tham gia quá trình vận
tải hành khách

1.3.

Một số kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải hàng không Việt Nam

2.

Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải hành khách của ngành

53
57

58

hàng không Việt nam
2.1.

Tải cung ứng - sản lượng vận chuyển, hệ số sử dụng ghế

1

58


2.2.


Các dịch vụ vận tải bổ trợ đi kèm

63

2.3.

Giá cước vận tải hành khách

66

2.4.

Thị phần vận tải hành khách

67

2.5.

Chi phí và lợi nhuận vận tải hành khách

69

3.

Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng không

72

Việt nam
Chương 3 :Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải hành khách của


77

ngành hàng không Việt nam
1.

Bối cảnh của ngành hàng không Việt nam trong xu thế mở cửa và hội nhập

77

1.1.

Bối cảnh quốc tế

77

1.2.

Bối cảnh trong nước

79

2.

Định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng không

81

Việt Nam
3.


Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng

85

không Việt nam
3.1.

Các giải pháp vĩ mô của chính phủ và của ngành hàng không

85

3.2.

Các giải pháp vi mô của doanh nghiệp vận tải

97

Kết Luận

109

Tài liệu tham khảo

110

2


PHẦN MỞ ĐẦU

1- Tính cấp thiết của đề tài
Hàng không dân dụng là một trong những ngành kinh tế - kỹ thuật hiện đại,
sự phát triển và lớn mạnh của ngành hàng không dân dụng luôn gắn liền với sự
phát triển kinh tế - xã hội, với đời sống và mức thu nhập của người dân. Ngành
hàng không dân dụng Việt nam có lịch sử phát triển gần nửa thế kỷ, nhưng do đất
nước trải qua nhiều năm chiến tranh ác liệt, kinh tế kém phát triển, thu nhập quốc
dân còn thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nên thực sự ngành hàng
không dân dụng chưa có được sự phát triển một cách rõ nét. Từ năm 1990 trở lại
đây khi ngành xoá bỏ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, ngành hàng không dân
dụng Việt nam khởi sắc phát triển, từng bước hoà nhập vào sự phát triển chung của
hàng không dân dụng trong khu vực cũng như trên toàn thế giới
Tuy nhiên, những gì mà ngành Hàng không Việt Nam làm được còn quá nhỏ
bé so với nhu cầu mà sự phát triển kinh tế đòi hỏi và chưa phát huy hết được tiềm
năng to lớn của đất nước. Vì vậy, để ngành Hàng không Việt Nam có được bước
phát triển tốt trong những năm tới thì vấn đề cấp thiết và cấp bách phải nâng cao
khả năng cạnh tranh trong điều kiện mở cửa kinh tế, để bảo đảm cho ngành phát
triển ổn định vững chắc, đáp ứng nhu cầu vận tải trong nước và quốc tế.
Thực tế những năm qua cho thấy mặc dù đã có sự cố gắng nỗ lực trong việc
nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường vận tải song ngành Hàng không
Việt Nam vẫn đang gặp không ít khó khăn, vướng mắc cần giải quyết : tình trạng
lạc hậu, thiếu hụt về số lượng của đội tàu bay, chất lượng dịch vụ chưa cao v.v…
đã khiến cho thị phần vận tải còn khiêm tốn. Đặc biệt là trên tuyến đường bay quốc
tế hiện đang diễn biến hết sức phức tạp và đang tồn tại nhiều hãng hàng không có
tiềm lực khác nhau hoạt động trong khuôn khổ vừa liên kết, vừa cạnh tranh gay gắt
đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến thị phần và sản lượng vận tải của toàn ngành. Đề
tài “ Nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải hành khách của ngành
Hàng không Việt Nam” nhằm góp phần phân tích thực trạng tình hình cạnh tranh
trong lĩnh vực dịch vụ vận tải hành khách, từ đó tìm ra phương hướng và những
giải pháp thích hợp để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường vận
chuyển hành khách của ngành Hàng không Việt Nam.

3


2- Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, đã có một số nghiên cứu đưa ra kinh nghiệm xây dựng
và quản lý nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực vận tải hành
khách của ngành Hàng không Việt Nam. Tuy nhiên những nghiên cứu này
chỉ tập trung đề cập một khía cạnh và phạm vi nhất định do vậy việc phân
tích một cách có hệ thống về năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ vận
tải hành khách chưa được nghiên cứu một cách toàn diện. Trong các nghiên
cứu đó đáng chú ý nhất có :
-

Cục hàng không dân dụng Việt Nam (2002), “ Một số giải pháp
nâng cao năng lực cạnh tranh vận tải hành khách của ngành hàng
không”

-

Th.S Nguyễn Ngọc Trâm (2003), “ Giải pháp nâng cao chất lượng
dịch vụ vận chuyển hành khách của Vietnam Airlines ” luận văn
Thạc sĩ kinh tế.

-

Cục hàng không dân dụng Việt Nam (2003), “ Đánh giá chất lượng
dịch vụ vận chuyển hành khách của ngành hàng không ”.

-


Viện Khoa học hàng không (2005), “ Thị trường dịch vụ vận tải
hàng không và sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt ”.

-

Icao (2000), “ những khuyến cáo của tổ chức Hàng không dân dụng
quốc tế”.

-

Công ty tư vấn Skytrax - Anh( 2005), “ Đánh giá xếp hạng dịch vụ
vận chuyển hành khách của các hãng hàng không trên thế giới”.

Trên cơ sở đúc kết, tham khảo ý kiến của các đề tài, tác giả nghiên cứu một
cách có hệ thống về năng lực cạnh tranh của dịch vụ vận tải hành khách của ngành
Hàng không nhằm làm rõ nhu cầu, những khó khăn thách thức mà ngành hàng
4


không Việt Nam đang gặp phải, đánh giá thực trạng cạnh tranh đồng thời đề xuất
những giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh của dịch vụ vận tải hành khách
của ngành Hàng không Việt Nam.

3- Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của Luận văn làm rõ thực trạng, khả năng cạnh tranh của dịch vụ
vận tải hành khách, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của ngành
Hàng không Việt Nam trong thời gian tới.
Để thực hiện được mục tiêu này, tác giả đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu của
đề tài là:
- Làm rõ một số vấn đề chung về ngành hàng không;

- Đánh giá thực trạng ngành hàng không Việt Nam từ năm 1995 đến nay;
- Trên cơ sở các phân tích trên, đề xuất những giải pháp có tính đồng bộ
nhằm nâng cao sức cạnh tranh của dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng
không Việt Nam.

4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng nghiên cứu: Dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng không.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng dịch vụ vận tải
hành khách của ngành Hàng không Việt Nam từ năm 1995 đến nay. Đây được coi
là mốc thời gian mà ngành hàng không có sự chuyển biến mạnh mẽ.
- Về không gian: Ngành Hàng không Việt Nam
- Về nội dung: Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên cứu dịch vụ
vận tải hành khách của ngành Hàng không như là một nhân tố góp phần thúc đẩy
khả năng cạnh tranh của một ngành dịch vụ của Việt Nam. Luận văn sẽ chỉ đề cập
đến những giải pháp, chính sách mang tính vĩ mô cho toàn ngành và sẽ không đi
sâu vào những vấn đề có tính tác nghiệp trong hoạch định chính sách cũng như

5


trong việc tổ chức thực thi chính sách đối với từng lĩnh vực, từng Hãng hàng
không riêng lẻ.

5- Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các nội dung đã đề ra trong Luận văn, trong quá trình nghiên cứu
tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn
sử dụng một số phương pháp: phương pháp kết hợp phân tích với tổng hợp,
phương pháp thống kê, so sánh, phân tích dự báo và sử dụng dữ liệu thứ cấp trong
quá trình nghiên cứu.


6- Dự kiến những đóng góp mới của Luận văn
- Làm rõ vai trò, đặc điểm dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng
không.
- Phân tích kinh nghiệm phát triển vận tải hành khách của ngành hàng không
một số quốc gia trên thế giới và rút ra bài học kinh nghiệm cho ngành hàng không
Việt Nam.
- Khái quát hóa hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của dịch vụ
vận tải hành khách của ngành hàng không.
- Đánh giá thực trạng khả năng cạnh tranh của dịch vụ vận tải hành khách
của ngành hành không từ năm 1995 đến nay trên các khía cạnh mạnh, yếu và
những vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu.
- Trên cơ sở phân tích các vấn đề trên, đề xuất các giải pháp phù hợp thực
tiễn nhằm nâng cao sức cạnh tranh của dịch vụ hành khách của ngành Hàng không.

7- Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương:

6


CHƯƠNG1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH
VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH DỊCH VỤ VẬN TẢI HÀNH KHÁCH
CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG.
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
DỊCH VỤ VẬN TẢI HÀNH KHÁCH CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG
VIỆT NAM.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH DỊCH VỤ VẬN TẢI HÀNH KHÁCH CỦA NGÀNH HÀNG
KHÔNG VIỆT NAM.


7


CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH
TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH DỊCH VỤ VẬN TẢI
HÀNH KHÁCH CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG.

1.

Đặc điểm dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng không

Dịch vụ là vô hình, chất lượng dịch vụ được đánh giá bởi khách hàng chứ
không phải người cung ứng - người bán. Khách hàng đánh giá chất lượng một dịch
vụ được cung ứng, thông qua đánh giá các dịch vụ cụ thể được phục vụ và qua cảm
giác chủ quan của mình.
Kinh doanh vận tải hành khách là một ngành kinh doanh đặc biệt bởi vì sản
phẩm hàng hoá của nó không lưu giữ được. Hành khách đã đặt giữ chỗ trên một
chuyến bay nhưng không thực hiện chuyến bay, hãng vận chuyển vẫn phải thực
hiện chuyến bay mặc dù chuyến bay vẫn còn nhiều chỗ trống. Hãng vận chuyển
vẫn phải chi phí cho các chỗ trống đó như phí hạ cất cánh, phí đỗ tàu bay, phí an
ninh an toàn cho chuyến bay.... Trong khi đó hành khách không bị phạt hay bất cứ
thiệt hại về kinh tế nào khi không thực hiện chuyến bay đã đặt chỗ. Các dịch vụ
cung cấp cho chuyến bay cũng không thể cắt lại được như đồ uống, báo chí v.v...
được cung cấp theo một cơ số nhất định. Thậm chí hãng hàng không vẫn phải thực
hiện chuyến bay khi không có hành khách nào để có máy bay nối chuyến các
chặng tiếp theo. Hay khi có khả năng hủy được chuyến bay (vì lý do thương mại)
thì hãng hàng không phải bố trí cho hành khách đi trên các chuyến bay khác hoặc
phải bồi thường cho hành khách vì đã hủy chuyến bay đó.
Dịch vụ vận tải hành khách nói chung đã xuất hiện từ rất lâu và có một vị trí

quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội. Kinh tế càng phát triển thì các ngành dịch
vụ cũng ngày một phát triển, đặc biệt là dịch vụ vận tải hành khách bằng đường
hàng không. Dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng không có những đặc điểm
của sản phẩm dịch vụ nói chung đồng thời cũng có những đặc điểm đặc thù riêng
của ngành.
1.1.

Dịch vụ vận tải hành khách bao gồm một dịch vụ cơ bản và các dịch vụ bổ
trợ đi kèm.
8


Dịch vụ cơ bản là hoạt động dịch vụ tạo ra giá trị thoả mãn lợi ích cốt lõi của
người tiêu dùng, là mục tiêu tìm kiếm của người mua. Dịch vụ cơ bản quyết định
bản chất của dịch vụ nhờ đó nó quy định dịch vụ là loại này chứ không phải loại
khác. Dịch vụ cơ bản của ngành hàng không là vận chuyển hành khách bằng máy
bay từ điểm đầu đến điểm cuối hành trình.
Dịch vụ đi kèm là những dịch vụ phụ, thứ sinh hoặc các khâu độc lập của
dịch vụ được hình thành nhằm mang lại giá trị phụ thêm cho khách hàng. Dịch vụ
đi kèm có thể nằm trong hệ thống của dịch vụ cơ bản làm tăng thêm lợi ích cốt lõi
như an toàn, an ninh hàng không hoặc có thể là những dịch vụ độc lập mang lại lợi
ích phụ thêm như các dịch vụ phục vụ hành khách trước, trong và sau chuyến bay.
Việc phân biệt dịch vụ thành dịch vụ cơ bản và dịch vụ đi kèm nhằm giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về dịch vụ và bản chất của chúng. Trên thực tế thì các dịch vụ
này luôn đan xen và hòa quyện với nhau đặc biệt là đối với ngành vận tải hàng
không ngày nay, khi các dịch vụ đi kèm là rất cần thiết và không thể thiếu được.
Các hãng hàng không sẽ không thể phát triển vận tải hành khách nếu không có các
hệ thống đặt giữ chỗ tự động, dịch vụ đặt chỗ, bán vé cùng với các dịch vụ phục vụ
hành khách trước, trong và sau chuyến bay v.v...
1.2.


Dịch vụ vận tải hành khách có đặc tính không hiện hữu.

Đây là đặc điểm cơ bản của dịch vụ nói chung. Với đặc điểm này cho thấy
dịch vụ là vô hình, không tồn tại dưới dạng vật thể. Tuy vậy sản phẩm dịch vụ vẫn
mang nặng tính vật chất. Ví như chúng ta không thể cầm lấy dịch vụ vận tải nhưng
máy bay vận tải là vật chất. Tính không hiện hữu được biểu lộ khác nhau đối với từng
loại dịch vụ. Nhờ đó mà người ta có thể xác định được mức độ sản phẩm hiện hữu,
dịch vụ hoàn hảo và các mức độ trung gian giữa dịch vụ và hàng hoá hiện hữu.
Trên thực tế từ hàng hoá hiện hữu tới dịch vụ phi hiện hữu có các mức độ khác
nhau: Hàng hoá hiện hữu hoàn hảo, bao gồm hàng hoá hiện hữu khi tiêu dùng phải có
dịch vụ đi kèm để tăng sự thoả mãn. Tiếp đến là dịch vụ chủ yếu, được thỏa mãn
thông qua sản phẩm hàng hoá hiện hữu. Cuối cùng là dịch vụ hoàn hảo, hoàn toàn
không hiện hữu; Dịch vụ vận tải hành khách được đánh giá ở mức độ dịch vụ chủ
yếu.
Tính không hiện hữu của dịch vụ gây rất nhiều khó khăn cho quản lý hoạt động
sản xuất cung cấp dịch vụ, khó khăn cho marketing dịch vụ và cho việc nhận biết dịch
9


vụ. Vì vậy để đánh giá chất lượng dịch vụ nhằm tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thì phải tiêu chuẩn hoá và đánh giá được dịch vụ
bằng các chỉ tiêu định lượng được. Ví dụ để đánh giá mức độ đạt tiêu chuẩn an toàn
chuyến bay thì 100% các chuyến bay thực hiện đều phải an toàn.
1.3.

Dịch vụ vận tải hành kháchcó đặc tính không tách rời.

Đặc tính không tách rời thể hiện sản phẩm dịch vụ gắn liền với hoạt động cung
cấp dịch vụ. Các sản phẩm dịch vụ cụ thể không đồng nhất nhưng đều mang tính hệ

thống, đều từ cấu trúc của dịch vụ cơ bản phát triển thành. Một sản phẩm dịch vụ cụ
thể gắn liền với cấu trúc của nó và là kết quả của quá trình hoạt động của hệ thống cấu
trúc đó. Quá trình sản xuất gắn liền với việc tiêu dùng dịch vụ. Người tiêu dùng cũng
tham gia vào hoạt động sản xuất cung cấp dịch vụ cho chính mình.
Từ đặc điểm trên cho thấy việc sản xuất cung ứng dịch vụ không được tuỳ tiện,
trái lại phải rất thận trọng. Phải có nhu cầu, có khách hàng thì quá trình sản xuất mới
có thể thực hiện được.

10


Sơ đồ hệ thống cung cấp dịch vụ vận tải hành khách ngành hàng không

11


Đặt vé

Đến Sbay

Đăng ký

LTT vé

Ghi D.mục chờ
Kiểm tra vé
Hành lý

Nhận phiếu gửi
hành lý


Hành lý

Trả vé và phiếu
gửi hành lý
Đưa hành lý
gửi lên máy

Phòng chờ
máy bay

Các dịch vụ
miễn phí

Lên máy
bay

Hướng dẫn
ghế ngồi

Hướng dẫn an
toàn bay

Bay

Thực hiện dịch
vụ trên không

Phi hành đoàn
vận hành bay


Xuống máy
bay

Trả hàng

KHÁCH HÀNGHÃNG HÀNG KHÔNG

1.4.

Dịch vụ vận tải hành kháchkhông thể tồn kho, cất trữ được.

12

Đăng
kýgửi


Đặc tính không thể tồn kho cất trữ làm cho việc mua bán và tiêu dùng sản
phẩm bị giới hạn bởi thời gian. Do đó làm mất cân đối quan hệ cung cầu cục bộ giữa
các thời điểm khác nhau trong ngày, trong tuần hoặc trong tháng.
Đặc tính này của dịch vụ quy định sản xuất và tiêu dùng dịch vụ phải đồng
thời, trực tiếp, trong một thời gian giới hạn. Nếu không tuân thủ điều đó sẽ không có
cơ hội mua bán và tiêu dùng chúng. Hiện nay để hạn chế các khó khăn đem lại do đặc
tính này các Hãng hàng không bán vé cho hành khách xa ngày trước ngày bay hàng
năm, hàng tháng, hay hàng tuần đồng thời áp dụng các mức giá vé khác nhau cho
nhiều đối tượng hành khách, ưu tiên hành khách đặt chỗ và mua vé sớm để tối ưu hoá
doanh thu trên từng chuyến bay và lấp đầy khách khi máy bay cất cánh. Bên cạnh đó
còn áp dụng nhiều hình thức bán và khuyến mại linh hoạt khác như bán vé vào giờ
chót tại sân bay, ưu tiên các khách hàng thương gia, các khách hàng lớn v.v ...

1.5.

Dịch vụ vận tải hành kháchmang tính quốc tế cao.

Với nhu cầu đa dạng có thể đi đến bất cứ nước nào trên thế giới của hành
khách thì không phải bất cứ hãng hàng không nào cũng có đường bay tới nước đó,
đặc biệt là đi/ đến các điểm nội địa của một nước chỉ có các hãng hàng không của
quốc gia đó mới được phép khai thác ( Quy định quốc tế của IATA về vận chuyển
hành khách). Trong hoạt động hàng không quốc tế các hãng hàng không luôn cạnh
tranh lẫn nhau nhưng để đáp ứng các nhu cầu của hành khách thì các hãng hàng
không cũng buộc phải liên minh và liên kết với nhau trong đó chú trọng các dịch
vụ phục vụ hành khách. Bởi vậy khi hành khách ra nước ngoài, đi trên nhiều hãng
vận chuyển của các quốc gia khác nhau sẽ cảm nhận được sự phong phú của dịch
vụ bởi các dịch vụ cụ thề của từng hãng là khác nhau nhưng chúng lại tương đối
thống nhất và theo các quy định quốc tế.
Tùy theo độ dài, ngắn của chuyến bay và hạng dịch vụ đã mua, hành khách
sẽ được phục vụ chu đáo. Đặc biệt là các dịch vụ trên không như suất ăn, đồ uống,
các dịch vụ giải trí ... luôn được cung cấp đầy đủ, theo cơ số ghế của máy bay phù
hợp với số đông hành khách.
1.6.

Dịch vụ vận tải hành kháchcó tính an toàn và an ninh hàng không.

Hơn bất cứ các phương tiện vận chuyển nào bằng đường bộ, đường thủy,
đường sắt, vận tải hành khách bằng đường hàng không có tính an toàn cao. Dù vận
chuyển hành khách trên các tuyến đường bay nội địa hay quốc tế cũng đều đáp ứng

13



các đièu kiện về an toàn an ninh hàng không, đặc biệt các tuyến bay quốc tế phải đáp
ứng các điều kiện an ninh quốc gia như các điều kiện về xuất nhập cảnh, vệ sinh thực
phẩm, sức khoẻ v.v ...

2.

Các nhân tố ảnh hưởng và hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng lực
cạnh tranh dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng không
Vấn đề cạnh tranh kinh tế, về mặt lý luận, từ lâu đã được các nhà kinh tế học

trước Các Mác và chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã đề
cập đến.
Ở nước ta trong quá trình đổi mới nền kinh tế có sự thay đổi về tư duy, quan
niệm và cách thức đối xử với cạnh tranh và độc quyền. Cạnh tranh vừa là môi
trường, vừa là động lực trong nền kinh tế thị trường. Trong Văn kiện Đại hội VIII
của Đảng cũng đã ghi rõ: “Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi
trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh’’.
Cạnh tranh vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải làm phá sản hàng
loạt, lãnh phí các nguồn lực, thôn tính lẫn nhau. Trong mục tiêu tổng quát của kế
hoạch 5 năm 2001 - 2005 Đảng ta khẳng định cần phải: “Nâng cao rõ rệt hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế”.
Thuật ngữ “cạnh tranh” được dùng ở đây là cách gọi tắt của cụm từ cạnh
tranh kinh tế (Economics Competition) - một dạng cụ thể của cạnh tranh.
Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất và
trao đổi hàng hoá. Do đó, hoạt động cạnh tranh gắn liền với sự tác động của các
quy luật thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu.
Do cách tiếp cận khác nhau, bởi mục đích nghiên cứu khác nhau, nên trong
thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Kế thừa các quan điểm của
các nhà nghiên cứu chúng ta có thể thấy rằng: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế phản
ánh mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục

đích lợi nhuận tối đa. Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể nhằm giành được những
điều kiện thuận lợi nhất đề thu được lợi nhận siêu ngạch về phía mình. Cạnh tranh
còn là phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể của nền
kinh tế thị trường. Cạnh tranh không quyết định bản chất kinh tế - xã hội của các
chế độ xã hội. Tính chất cạnh tranh bị chi phối bởi bản chất kinh tế - xã hội của
14


những chế độ xã hội đó. Với các quan niệm như trên, phạm trù cạnh tranh được
hiểu: “Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau
tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình,
thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều
kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế
trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh
là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi”. Cạnh
tranh mang lại các lợi ích:
- Đảm bảo và đáp ứng sở thích của người tiêu dùng nghĩa là sản phẩm
hàng hóa phải ổn định ở mức giá hợp lý, thoả mãn yêu cầu của người
tiêu dùng.
- Khuyến khích áp dụng công nghệ mới, công nghệ mới làm giảm chi phí
sản xuất, giá thành sản phẩm sẽ thấp hơn so với sản phẩm của đối thủ
cạnh tranh.
- Cạnh tranh tạo ra sức ép, buộc phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
- Cạnh tranh tạo ra sự đổi mới do đó mang lại sự tăng trưởng kinh tế.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh, các nhà nghiên cứu còn sử dụng các khái
niệm: Sức mạnh cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh. Rõ ràng,
các khái niệm trên đều có quan hệ với cạnh tranh, nhưng không hoàn toàn đồng
nhất với nhau. Trong thực tế, thì sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh được sử dụng như là những khái niệm đồng nghĩa.
Một doanh nghiệp muốn có một vị trí vững chắc trên thị trường thì phải có

một tiềm lực đủ mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường, đó chính là năng lực
cạnh tranh của một doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là
khả năng đạt và có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh
tranh, đảm bảo thực hiện một mức lợi nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc
thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh thể hiện ở nhiều mặt. Các doanh nghiệp phải luôn luôn
đưa ra các phương án, các giải pháp tối ưu nhất để giảm chi phí sản xuất để từ đó
giảm giá thành, giá bán, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao
hiệu quả quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức tốt bộ máy, mạng lưới
bán hàng và biết chọn đúng thời điểm bán hàng nhằm thu hút được khách hàng,
mở rộng thị trường.
15


Chỉ tiêu tổng hợp nhất để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh
nghiệp là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận. Thị phần càng lớn
thể hiện rõ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó càng mạnh. Để tồn tại và có
sức cạnh tranh doanh nghiệp phải chiếm giữ được một phần thị trường bất kể nhiều
hay ít, chính điều này đã phản ánh được quy mô tiêu thụ của doanh nghiệp. Qua đó
ta cũng có thể đánh giá được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ưu thế cũng
như những điểm mạnh, điểm yếu tương đối của doanh nghiệp so với các đối thủ
cạnh tranh trong ngành.
Nâng cao năng lực cạnh tranh là điều kiện tất yếu của mỗi doanh nghiệp,
mỗi ngành kinh tế hoạt động trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
2.1.

Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải
hành khách của ngành hàng không

2.1.1. Các nhân tố chủ quan

Được hiểu là các nguyên nhân phát sinh từ các nhân tố nằm trong khả năng
kiểm soát của doanh nghiệp vận chuyển, như do sự mắc lỗi hay do sơ suất của hệ
thống cung ứng dịch vụ và đội ngũ nhân viên phục vụ. Đa số các nhân tố chủ quan
là những nhân tố nếu được nhận dạng có thể có những giải pháp hữu hiệu khắc
phục. Một số nhân tố chủ quan bao gồm:
2.1.1.1. Chính sách, chiến lược:
Trong bất cứ ngành kinh doanh dịch vụ nào, chiến lược phát triển sản phẩm
luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chiến lược, đặc biệt là trong
kinh doanh vận tải hàng không đó là vấn đề mấu chốt quyết định sự tồn tại và phát
triển của ngành hàng không. Trong quá khứ các hãng hàng không không coi trọng
việc xây dựng chính sách, chiến lược. Họ nhận được sự tài trợ từ phía chính phủ
trong bất cứ điều kiện kinh doanh nào. Ngày nay, mọi việc đã thay đổi khi mà
ngành hàng không đã được tư nhân hóa. Những hãng hàng không có chiến lược
phát triển sản phẩm xây dựng phù hợp với nhu cầu thị trường là những hãng hàng
không không ngừng lớn mạnh. Có thể lấy Singapore Airlnes làm ví dụ. Hành
khách luôn chọn lựa Singapore Airlines ngay cả khi họ không đi và đến Singapore,
bởi chất lượng dịch vụ vận tải của Singapore Airlines được Skytrax - một công ty
tư vấn hàng đầu tại Anh chuyên thực hiện việc điều tra đánh giá về chất lượng các

16


hãng hàng không trên thế giới - đánh giá là số 1 trong các hãng hàng không trên
thế giới. Ngược lại những hãng hàng không đưa ra những chính sách, chiến lược
sai lầm thì sẽ suy yếu nhanh chóng, phải rút lui khỏi thị trường đang khai thác
thậm chí là phá sản doanh nghiệp. Điển hình là Skytrain, một hãng hàng không của
Anh ra đời năm 1977 chỉ khai thác một đường bay và đã đưa ra chính sách giảm
giá mạnh trên tuyến đường London- New York xuống 118 bảng Anh cho mỗi hành
khách khiến cho các hãng cạnh tranh trực tiếp với Skytrain đã đại hạ giá đến mức
làm cho hãng này phải phá sản sau khi vận chuyển được 2 triệu lượt khách.

Dịch vụ vận tải hành khách hàng không là loại hình dịch vụ tổng hợp. Có thể
nói thực hiện một chuyến bay nhà vận chuyển đồng thời cung ứng cho hành khách
nhiều dịch vụ. Mỗi dịch vụ có những tác động khác nhau đến bức tranh chất lượng
dịch vụ của hãng hàng không. Do vậy, trong quá trình hoạch định chiến lược, các
nhà kinh doanh vận chuyển hàng không phải cân nhắc phát triển loại hình dịch vụ
nào để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Chính sách chiến lược của ngành vận tải hàng không phụ thuộc rất nhiều
vào tình hình phát triển kinh tế của từng thị trường.
2.1.1.2. Khả năng tài chính:
Khả năng tài chính là một trong những nhân tố quan trọng nó quyết định cơ
sở vật chất kỹ thuật của ngành hàng không. Hoạt động kinh doanh vận tải hành
khách của ngành hàng không sử dụng phương tiện đặc thù là máy bay, nên đòi hỏi
nhà vận chuyển phải đầu tư vốn lớn. Nếu khả năng tài chính yếu thì không thể
trang bị được các tàu bay hiện đại có khả năng bay xa, có sức chuyên chở hành
khách lớn do đó khó có thể cạnh tranh được với các đối thủ trên thị trường. Bên
cạnh đó, các tàu bay hiện đại thường có các ghế ngồi rộng rãi, các tiện nghi hiện
đại như hệ thống máy, màn hình phục vụ các chương trình giải trí, các biển báo
trên tàu bay cho hành khách mà các máy bay thế hệ cũ không có nên chúng có ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng dịch vụ cũng như hình ảnh của hãng hàng không
trong mắt khách hàng. Ngoài ra, khả năng tài chính còn tác động đến năng suất lao
động của doanh nghiệp. Người lao động được đào tạo nghiệp vụ, được trả lương
phù hợp với công việc và công sức lao động sẽ tạo ra năng suất lao động cao hơn
và ngược lại nếu nhận được mức lương không phù hợp hay không cạnh tranh sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động và dẫn đến hiện tượng chảy máu chất

17


xám mặc dù tiền lương chỉ là một trong những điều kiện giữ chân người lao động
làm việc cho các doanh nghiệp nhưng đó là một tiêu thức quan trọng hàng đầu.

Các hãng hàng không muốn phát triển dịch vụ vận tải hành khách đều phải
căn cứ vào khả năng tài chính của mình. Các hãng non trẻ luôn lựa chọn phát triển
các loại sản phẩm dịch vụ mà các hãng lớn chưa chú trọng hoặc chưa có đồng thời
phù hợp với khả năng tài chính của mình do đó sẽ nâng cao được năng lực cạnh
tranh trên thị trường.
2.1.1.3. Trình độ tổ chức quản lý:
Để chuyến bay thực hiện an toàn hiệu quả cần có sự phối hợp đồng bộ thống
nhất giữa các bộ phận chức năng. Sự phối hợp khai thác hợp lý giữa các nguồn lực
lại (để có thể tạo ra chất lượng dịch vụ) phụ thuộc vào nhận thức sự hiểu biết về
quản lý chất lượng, trình độ xây dựng, chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình,
chính sách, mục tiêu, kế hoạch chất lượng của đội ngũ quản lý.
Việc quản lý ở mọi khâu, mọi bộ phận phải được tuân thủ theo các qui trình
qui định thống nhất của các hãng hàng không và theo thông lệ quốc tế. Hàng không
là ngành ứng dụng công nghệ hiện đại, để quản lý và khai thác tối đa công dụng
của các trang thiết bị đòi hỏi các nhà quản lý phải không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn.
Với mạng đường bay vươn tới nhiều quốc gia trên thế giới, tùy theo điều
kiện tại từng quốc gia, từng thị trường mà các nhà tổ chức quản lý tiến hành tổ
chức khai thác thị trường.
2.1.1.4. Trình độ nhận thức, thái độ của nhân viên phục vụ:
Ngành hàng không là một ngành tiêu biểu trong việc ứng dụng và khai thác
tiên bộ của khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhưng sử dụng và khai thác lại là con người. Nhân tố con người tác động tới tất cả
các khâu trong quá trình sản xuất. Dịch vụ vận tải hành khách của ngành hàng
không phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn, trình độ nhận thức của nhân
viên. Vì vậy, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của dịch vụ này ngành hàng
không cần chú trọng tới việc nâng cao trình độ của nhân viên.
2.1.1.5. Hệ thống cung ứng các dịch vụ phục vụ cho quá trình hoạt động của
Hãng HK:


18


Một trong các yếu tố đầu vào tham gia cấu thành sản phẩm là nguyên vật
liệu. Nguyên vật liệu phục vụ cho một chuyến bay rất đa dạng, phong phú từ cốc
nước, lon bia tới lốp máy bay, động cơ máy bay... Hơn nữa, đảm bảo an toàn cho
chuyến bay chất lượng của các nguyên vật liệu này luôn được các cơ quan đảm bảo
chất lượng của hãng vận chuyển kiểm tra giám sát.
Do đặc thù của ngành hàng không một số các loại nguyên vật liệu như lốp
máy bay, động cơ máy bay ... chỉ có một hoặc hai hãng có khả năng cung cấp để
thực hiện mục tiêu chất lượng đề ra buộc các nhà quản lý hệ thống cung ứng tin
tưởng ổn định với một số nhà cung ứng nhằm đảm bảo cung ứng kịp thời, nhanh
chóng, thuận tiện tiến tới mục tiêu cuối cùng là chuyến bay thực hiện an toàn, đúng
giờ.

2.1.2. Các nhân tố khách quan
Các nhân tố khách quan được hiểu là các nhân tố phát sinh nằm ngoài khả
năng kiểm soát như dịch bệnh, các biến động bất ngờ về thời tiết, đình công v.v...
Những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành hàng
không thường rất khó khắc phục và khó tác động. Các nhân tố này bao gồm:
2.1.2.1. Tốc độ phát triển của nền kinh tế:
Tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia có ảnh hưởng lớn đến ngành hàng
không dân dụng. Nếu nền kinh tế có tốc độ phát triển cao, thu nhập của người dân
sẽ tăng do đó các nhu cầu đi lại bằng đường hàng không sẽ phát triển hơn và ngược
lại. Để thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng về vận chuyển hàng không, các hãng
vận chuyển phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng các yêu cầu
trong môi trường cạnh tranh có nhiều hãng cùng cung cấp dịch vụ vận tải.
Nền kinh tế của các quốc gia có ngành vận tải hàng không dân dụng - một
trong những ngành kinh tế chứa mọi đặc thù của nền kinh tế thế giới - cũng bao
hàm đầy đủ chu trình kinh tế suy thoái, phục hồi, tăng trưởng, khủng hoảng, phá

sản. Ngành hàng không dân dụng là một trong những ngành kinh tế chịu tác động
lớn khi hủng hoảng kinh tế xảy ra. Có thể thấy rõ nét qua khủng hoảng kinh tế tài
chính tiền tệ năm 1997-1998. Nền kinh tế giảm phát, hoạt động đầu tư ngừng trệ
các chuyến bay vắng khách doanh thu giảm với tốc độ chóng mặt buộc các hãng

19


hàng không phải cắt giảm dịch vụ, tạm ngừng khai thác các đường bay không có
hoặc ít lợi nhuận, cố gắng duy trì các đường bay trong điểm qua thời kỳ khó khăn.
Mặt khác, khi nền kinh tế các nước có dấu hiệu phục hồi, tăng trưởng cũng
là lúc ngành hàng không khởi sắc. Các hãng hành không có khả năng mở rộng
đường bay, mở lại các đường bay đã buộc phải cắt giảm. Đồng thời cung cấp thêm
các dịch vụ và nâng cấp chất lượng dịch vụ hiện có.
2.1.2.2. Cơ chế chính sách quản lý đối với ngành hàng không của chính phủ:
Những thay đổi kinh tế nói chung cũng được thể hiện cả trong các đường lối
chính sách của các quốc gia về lĩnh vực vận tải hàng không. Sự can thiệp của nhà
nước vào hoạt động của ngành hàng không dân dụng được tiến hành theo hai
hướng: một mặt hạn chế sự thâm nhập vận tải của hàng không nước khác vào nước
mình; mặt khác khuyến khích vận tải hàng không trong nước phát triển bằng nội
lực của mình đồng thời cũng duy trì bảo hộ vận tải.
Các hình thức bảo hộ phổ biến nhất thường được các quốc gia trên thế giới
áp dụng là đưa ra các hạn chế về cấp giấy phép bay, tiến hành kiểm tra, giám sát về
mặt kỹ thuật và các trở ngại khác được đặt ra với các hãng nước ngoài. Ví dụ hạn
chế số lượng chuyến bay, về sức chở ... đối với các nhà chuyên chở nước ngoài
đang cạnh tranh với các hãng hàng không quốc gia trên các thị trường cụ thể hay
việc ưu tiên dành những khoảng thời gian hạ cất cánh tốt nhất cho các hãng hàng
không quốc gia của mình.
Trong lĩnh vực vận tải hàng không quốc tế, thuật ngữ “tư nhân hoá” không
chỉ được hiểu là hoàn lại toàn bộ hoặc một phần tài sản quốc hữu hoá của hãng

hàng không mà còn có nghĩa là nhà chuyên chở sẽ được quyền trực tiếp tham gia
vào thị trường quốc tế. Trở thành hãng hàng không tư nhân, về mặt lý thuyết, hãng
có quyền trực tiếp tiếp xúc với các nước khác để được cấp phép bay, mở các văn
phòng đại diện với nhân sự mà mình tự chỉ định, được quyền mua bán, thanh quyết
toán các chứng từ vận chuyển, quyền tự do chuyển doanh thu về nước, tự phục vụ
các máy bay hành khách và hàng hoá của mình, tự chỉ định các đại lý bán vé.
Song trên thực tế không một quốc gia có chủ quyền nào lại cho phép các
hãng hàng không nước ngoài được hoạt động một cách tự do hoàn toàn trên lãnh
thổ của mình. Như vậy tự do hoá, theo đúng luật, chỉ là một phạm vi hay khuôn

20


khổ nào đó và có hiệu lực đối với một số hãng hàng không mà thôi mà điều này
còn phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị xã hội giữa các quốc gia với nhau.
2.1.2.3. Sự phát triển của các ngành công nghiệp bổ trợ.
Sự phát triển của các ngành công nghiệp bổ trợ như công nghiệp chế tạo máy
bay, công nghệ thông tin, công nghiệp xây dựng, công nghiệp luyện kim đã làm
cho ngành hàng không thật sự khởi sắc.
Năm 1903, chiếc máy baydo con người chế tạođã được bay thử lầnđầu tiên tại
thành phố Kity Hawk Bang Bắc Caroline - Mỹ, máy bay rất thô sơ chỉ bay được
vài chục mét và hoàn toàn không có các thiết bị điện tử điều khiển. Đến nay các
máy bay được chế tạo đã hoàn toàn thay đổi: nguyên vật liệu chế tạo vỏ máy bay
có thể thích ứng mọi điều kiện về khí hậu và thời tiết; Tốc độ máy bay đạt hàng
chục ngàn km/h và có thể bay xa xuyên các lục địa với sức chở hàng trăm hành
khách; Được cài đặt chế độ lái tự động bằng các thiết bị điện tử. Sự phát triển này
kéo theo việc xây dựng mở rộng hàng loạt các cơ sở hạ tầng cho ngành hàng không
như hệ thống các cảng hàng không- sân bay, đường băng hạ cất cánh cho máy bay,
các thiết bị hoa tiêu đèn báo an toàn phù hợp, hệ thống quản lý các hoạt động bay
phục vụ các chuyến bay v.v...

Cùng với sự hiện đại của các máy bay- máy bay càng hiện đại càng có sức
chuyên chở lớn - và nhu cầu ngày càng cao của khách hàng về vận chuyển hàng
không cũng như chất lượng dịch vụ đòi hỏi các hãng hàng không phải không
ngừng nâng cao năng lực chuyên chở và năng lực cạnh tranh để chiếm lĩnh thị
trường khai thác.
2.1.2.4. Tình hình thị trường:
Tại mỗi một thị trường, yêu cầu của hành khách về dịch vụ đều có những nét
riêng biệt. Yêu cầu về mức chất lượng đạt được của sản phẩm phải phản ánh được
đặc điểm và tính chất của nhu cầu. Những nhu cầu đó rất phong phú đa dạng nó
được dựa trên đặc trưng về văn hoá-xã hội, kinh tế, chính trị, thói quen, lối sống,
phong tục tập quán và mục đích sử dụng của hành khách. Xác định đúng nhu cầu
cấu trúc đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu là căn cứ đầu tiên quan trọng
nhất hướng đến phát triển sản phẩm.
Kinh doanh vận tải hành khách của ngành hàng không nói chung đều có
hoạt động trên nhiều quốc gia, nhiều thị trường. Do vậy sản phẩm dịch vụ vận tải
hành khách của ngành hàng không mang tính quốc tế cao và riêng biệt.

21


Nhu cầu đi lại bằng máy bay tại mỗi thị trường luôn thay đổi. Nó không chỉ
phụ thuộc vào tình hình phát triển của nền kinh tế mà còn phụ thuộc vào thói quen
sở thích của người dân. Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào sự ổn định chính trị tại
quốc gia mà họ dự định đến.
2.1.2.5. Những biến động bất ngờ của môi trường kinh doanh:
Các biến động bất ngờ này thường là các nhân tố bất khả kháng như thời
tiết, đình công, chiến tranh v.v… Chúng thường mang lại các thiệt hại lớn cho
ngành hàng không, làm giảm sản lượng khách chuyên chở, gia tăng các chi phí bất
hợp lý làm giảm hoặc mất khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vận tải.
Thời tiết xấu buộc nhà chuyên chở phải cho chuyến bay chậm lại hoặc hủy

chuyến bay. Đình công xảy ra làm cho các hoạt động hàng không tê liệt, làm thiệt
hại kinh tế cho ngành hàng không, hay khi chiến tranh xảy ra tại một quốc gia,
ngành hàng không bị ngưng trệ. Các hãng hàng không có đường bay đi/đến để đảm
bảo an toàn thường phải huỷ bỏ chuyến bay hoặc hãng vận chuyển có đường bay
bay qua vùng trời nước xảy ra chiến tranh hãng vận chuyển buộc phải bay qua
đường bay khác có thể làm chi phí tăng lên, đường bay dài hơn hoặc không thực
hiện được các chuyến bay thẳng.
2.2.

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh dịch vụ vận tải
hành khách của ngành hàng không

2.2.1. Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá dịch vụ vận tải hành khách
2.2.1.1. Tải cung ứng - sản lượng vận chuyển, hệ số sử dụng ghế.
Một trong những chỉ tiêu cơ bản đánh giá năng lực vận tải hành khách của
ngành hàng không là tải cung ứng hay ghế cung ứng trên thị trường. Tải cung ứng thể
hiện nhà chuyên chở có khả năng vận chuyển tối đa bao nhiêu lượt hành khách trong
một khoảng thời gian nhất định.
Tải cung ứng của các chuyến bay phụ thuộc vào sức chứa - Capacity của từng
loại máy bay khai thác. Thông thường các máy bay ATR có sức chứa tối đa là 64 chỗ,
Focker 70 có sức chứa tối đa là 79 chỗ, A320 có sức chứa tối đa là 150 chỗ, A321 có
sức chứa tối đa là 185 chỗ, Boeing 767 có sức chứa tối đa là 250 chỗ, Boeing 777 có
sức chứa tối đa là 338 chỗ.
T = Cf x Tf
22


T: Tải cung ứng
Cf: Capacity - sức chứa tối đa của máy bay
Tf:Tổng số chuyến bay

Dựa vào đặc điểm đường bay và để thuận tiện cho công tác quản lý các chuyến
bay của ngành hàng không, người ta thường tính toán và phân bổ tải cung ứng trên
từng đường bay cụ thể nhưng được phân ra hai loại, tải cung ứng của các đường bay
nội địa và tải cung ứng của các đường bay quốc tế.
Đối với các chuyến bay trao đổi liên doanh với các Hãng hàng không khác, tải
cung ứng được xác định căn cứ vào các hợp đồng thương mại.
Sản lượng vận chuyển là tổng số hành khách được chuyên chở trên toàn bộ các
chuyến bay của nhà chuyên chở.
Sản lượng vận chuyển thể hiện năng lực kinh doanh của doanh nghiệp vận tải
và nó phụ thuộc các nhân tố như số lượng chuyến bay, sức chứa của máy bay, giá vé
v.v… Sản lượng vận chuyển phải nhỏ hơn, tối đa là bằng tải cung ứng của các chuyến
bay.
Trong kinh doanh vận tải, không phải chuyến bay nào cũng chất được đầy hành
khách do đặc tính cố hữu nói chung của các ngành dịch vụ là sản phẩm không thể tồn
kho cất trữ được khi việc mua bán và tiêu dùng sản phẩm bị giới hạn bởi thời gian. Do
vậy làm quan hệ cung cầu cục bộ giữa các thời điểm khác nhau trong ngày, trong tuần
hoặc trong tháng bị mất cân đối . Để đánh giá năng lực vận tải hành khách của các
doanh nghiệp vận tải hàng không người ta còn căn cứ vào chỉ tiêu hệ số sử dụng ghế
của doanh nghiệp vận tải đạt được. Hệ số sử dụng ghế là tống số ghế bán được trên tải
cung ứng ra thị trường.
Ts
Hs =
T

Ts: Ghế đã bán
T: Tải cung ứng
Cũng giống như tải cung ứng, hệ số sử dụng ghế trong ngành hàng không cũng
được tính trên từng đường bay và được đánh giá chung trên các đường bay quốc tế
và đường bay nội địa. Hiện nay hệ số sử dụng ghế đạt từ 80% trở lên được đánh
giá là tốt.


23


×