ĐẠI HỌC KINH TẾ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
PHẠM THỊ HƯƠNG GIANG
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH VI
MÔ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
Người hướng dẫn TS : NGUYỄN THỊ BÍCH ĐÀO
Hà nội: 2007
MC LC
Mở đầu ................................................................................................................ 5
1. Sự cần thiết của đề tài .................................................................................. 5
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ................................................................... 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 9
4. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 9
5. Ph-ơng pháp nghiên cứu............................................................................ 10
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn ................................................ 10
7. Bố cục của luận văn ................................................................................... 10
Ch-ơng I - Tài chính vi mô và vai trò của nó Trong xoá đói
giảm nghèo ..................................................................................................... 11
1.1. Hoạt động tài chính vi mô ........................................................... 11
1.1.1. Khái niệm và lịch sử hình thành tài chính vi mô và tổ chức tài chính vi
mô. ................................................................................................................ 11
1.1.1.1. Khái niệm về tài chính vi mô và tổ chức tài chính vi mô. ................... 11
1.1.1.2. Lịch sử hình thành tài chính vi mô. ................................................... 12
1.1.1.3. Các loại hình tổ chức tài chính vi mô ................................................ 17
1.1.1.4. Đặc điểm cơ bản của tài chính vi mô ................................................ 22
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của tài chính vi mô. ......................................... 24
1.1.2.1. Hoạt động tín dụng ........................................................................... 24
1.1.2.2. Dịch vụ huy động tiết kiệm tại chỗ. ................................................... 26
1.1.2.3. Các dịch vụ hỗ trợ cho TCVM .......................................................... 28
1.2. Hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô .... 29
1.2.1. Thế nào là một tổ chức tài chính vi mô hoạt động có hiệu quả. ............ 29
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức tài chính vi mô. . 31
1.2.3. Các chỉ tiêu về khả năng tiếp cận của đối tuợng khách hàng mục tiêu. . 34
1.3. Nội dung và Vai trò của tài chính vi mô trong xoá đói
giảm nghèo ................................................................................................. 35
1.3.1. Nội dung hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam .................................. 35
1.3.2. Vai trò của tài chính vi mô trong xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. ...... 37
Ch-ơng II - Thực trạng hoạt động tài chính vi mô của hội
Liên hiệp phụ nữ việt nam ......................................................................... 40
2.1. giới thiệu về Hội liên hiệp phụ nữ việt nam .......................... 40
2.1.1 Mô hình tổ chức và các hoạt động chủ yếu của Hội LHPN Việt Nam. .. 40
2.1.2. Vai trò, vị trí của Hội LHPN Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu
xoá đói giảm nghèo của Đảng, Nhà n-ớc....................................................... 42
1
2.2. Tình hình hoạt động tài chính vi mô của Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam nhiệm kỳ 2002 - 2007. ............................................... 45
2.2.1. Giới thiệu các mô hình hoạt động tài chính vi mô: ............................... 45
2.2.1.1. Mô hình tổ/nhóm tín dụng - tiết kiệm do Đoàn Chủ tịch TW Hội
LHPN Việt Nam chỉ đạo ............................................................................... 45
2.2.1.2. Mô hình tín dụng - tiết kiệm của Quỹ Tình th-ơng ............................ 52
2.2.1.3. Mô hình tín dụng Việt - Bỉ................................................................. 54
2.2.1.4. Một số mô hình khác ở địa ph-ơng ................................................... 58
2.2.2. Kết quả hoạt động tài chính vi mô của Hội. ......................................... 58
2.3. Đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính vi mô của Hội
liên hiệp phụ nữ việt nam nhiệm kỳ 2002 - 2007. ............................ 61
2.3.1. Những -u điểm .................................................................................... 61
2.3.2. Những hạn chế..................................................................................... 63
Ch-ơng III - Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
Hoạt động tài chính vi mô của hội liên hiệp phụ nữ việt nam
trong thời gian tới .................................................................................... 66
3.1. Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động tài chính vi mô
của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thời gian tới. ....................... 66
3.1.1. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện Nghị định 28/2005/NĐ-CP. ......... 66
3.1.1.1. Về thuận lợi: ..................................................................................... 66
3.1.1.2. Khó khăn .......................................................................................... 67
3.1.1.3. Những nguy cơ.................................................................................. 68
3.1.2. Các vấn đề khác đặt ra với hoạt động tài chính vi mô của Hội LHPN
Việt Nam....................................................................................................... 69
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính vi
mô của Hội Liên hiệp phụ nữ việt nam. ............................................ 71
3.2.1.1. Về mô hình tổ chức hoạt động tài chính vi mô của Hội LHPN Việt
Nam. ............................................................................................................. 71
3.2.1.2. Tăng c-ờng kiểm tra giám sát hoạt động TCVM ............................... 74
3.2.1.2. Về cách thức phối hợp giữa Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với các cơ
quan chức năng trong hoạt động tài chính vi mô. .......................................... 77
3.2.2. Giải pháp về nguồn lực ........................................................................ 79
3.2.2.1. Nguồn lực tài chính .......................................................................... 79
3.2.2.2. Nguồn nhân lực ................................................................................ 80
Kết luận ........................................................................................................... 84
Tài liệu tham khảo ..................................................................................... 87
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
LHPN
Liên hiệp phụ nữ
NGO
Tổ chức phi Chính phủ
SEWA
Hiệp hội Phụ nữ tự quản
TCVM
Tài chính vi mô
TCTCVM
Tổ chức tài chính vi mô
TDTK
Tín dụng - tiết kiệm
TVPO
Tổ chức tư nhân tình nguyện quốc tế
TW
Trung ương
WB
Ngân hàng Thế giới
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
XĐGN
Xoá đói, giảm nghèo
3
DANH MỤC BẢNG, BIỂU TRONG LUẬN VĂN
Stt
Số bảng, biểu
Tên bảng, biểu
1.
Bảng 2.1
Số liệu phong trào các năm từ 2002 - 2006
2.
Biểu 2.1
Sơ đồ cơ cấu nguồn vốn của Hội LHPNVN năm
2006
3.
Biểu 2.2
Sơ đồ phát triển tổ/nhóm TDTK theo mô hình
TW Hội
4.
Biểu 2.3
Sơ đồ phát triển thành viên theo mô hình TW Hội
5.
Biểu 2.4
Sơ đồ phát triển về doanh số vốn do Hội quản lý
từ nguồn huy động trong hệ thống Hội và số lượt
phụ nữ được vay vốn
4
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Hoạt động tài chính vi mô trên thế giới đã có lịch sử khá lâu đời, phát
triển mạnh mẽ ở Châu Phi, Châu Mỹ La tinh, một số nước Châu Á và không
ngừng được hoàn thiện trong sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau của các nước, sự nỗ
lực của từng Chính phủ nhằm đạt được mục tiêu duy nhất là xoá đói giảm
nghèo đối với các cá nhân, các hộ gia đình còn gặp nhiều khó khăn, chưa tiếp
cận được với các dịch vụ tài chính của các tổ chức tài chính chính thức.
Tại Việt Nam, khái niệm “Tài chính vi mô” được biết đến vào cuối thập
niên 80 của thế kỷ trước và đã có nhiều đóng góp to lớn vào công cuộc xoá
đói giảm nghèo. Tuy nhiên khái niệm về “Tài chính vi mô” vẫn chưa thực sự
được hiểu một cách thống nhất. Việc tìm hiểu sâu sắc khái niệm về “Tài chính
vi mô” và các nội hàm của nó chính là một mấu chốt để giúp các tổ chức có
hoạt động tài chính vi mô có thể tìm ra được các giải pháp hữu hiệu đảm bảo
các hoạt động tài chính vi mô phát triển bền vững, phục vụ được một số lượng
đáng kể người dân và những hộ gia đình có thu nhập thấp.
Năm 1987, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã tổ chức Hội nghị khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương về “Tạo việc làm và tăng thu nhập cho phụ
nữ”. Sự kiện này được xem là điểm khởi đầu cho các dự án tiết kiệm và tín
dụng dành cho Việt Nam. Cũng trong thời gian đó, các tổ chức đoàn thể như:
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Cựu Chiến binh,
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Chữ thập Đỏ, Hội Người mù
và nhiều tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam đã thực hiện các hoạt động tài
chính vi mô nhằm giúp hội viên, thành viên của mình xoá đói giảm nghèo.
Hoạt động tài chính vi mô của các tổ chức này tồn tại và phát triển song song
5
với các hoạt động tài chính vi mô của các Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội và hệ
thống Quỹ tín dụng nhân dân.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là một tổ chức tiên phong trong tổ
chức các hoạt động tài chính vi mô nhằm giúp hội viên, phụ nữ xoá đói giảm
nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng. Thông qua nhiều nguồn vốn, từ các
ngân hàng, vốn từ các tổ chức quốc tế, vốn huy động trong hệ thống Hội, Hội
LHPN Việt Nam đã giúp cho hàng trăm ngàn phụ nữ thoát khỏi đói nghèo. Có
thể thấy rằng hầu hết các chương trình, dự án tài chính vi mô do các tổ chức
nước ngoài tài trợ ở Việt Nam đều có sự tham gia của Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam. Điều này có thể lý giải bởi Hội có mạng lưới rộng khắp từ trung
ương đến tận thôn, xóm và phụ nữ là đối tượng thụ hưởng chủ yếu của các
chương trình tài chính vi mô. Đặc biệt, vốn do Hội LHPN Việt Nam nhận uỷ
thác với Ngân hàng Chính sách xã hội cho phụ nữ nghèo vay chiếm trên 50%
tổng số vốn cho người nghèo vay của Ngân hàng.
Trong bối cảnh hiện nay, với tư cách là một tổ chức thuộc khu vực tài
chính vi mô bán chính thức, hoạt động tài chính vi mô của Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam đang gặp phải những thách thức không nhỏ, nhất là những vấn
đề về môi trường pháp lý và các vấn đề nội tại của tổ chức, có ảnh hưởng trực
tiếp đến khả năng phát triển bền vững các hoạt động tài chính vi mô của Hội.
Về môi trường pháp lý, trước khi có Nghị định số 28/2005/NĐ - CP
ngày 09/3/2005 của Chính phủ về “Tổ chức và hoạt động của Tổ chức tài
chính quy mô nhỏ ở Việt Nam”, hầu như không có một văn bản pháp lý
chuyên biệt nào điều chỉnh về các chương trình, dự án tài chính vi mô và chưa
có sự quản lý, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
6
Về nhận thức, mặc dù không còn quá mới mẻ, nhưng xung quanh khái
niệm “Tài chính vi mô” vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau do tại Việt Nam
chưa có một văn bản pháp lý nào định nghĩa một cách đầy đủ về “tài chính vi
mô” chính vì vậy mà khái niệm này mới chỉ được một số ít những người trực
tiếp tham gia và các chương trình, dự án tài chính vi mô tìm hiểu qua các tài
liệu nước ngoài. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam cũng không phải là một
ngoại lệ do đó hoạt động tài chính vi mô trong hệ thống Hội phần lớn mang
tính tự phát, hiểu gì làm nấy.
Về năng lực tài chính, hầu hết các tổ chức tài chính vi mô bán chính
thức có nguồn vốn rất hạn chế, chủ yếu là do các tổ chức phi chính phủ tài trợ.
Mục đích của các nhà tài trợ này là cung cấp nguồn vốn ban đầu để tạo lập
mô hình nhằm thực hiện một mục tiêu xã hội nào đó trong khoảng thời gian
nhất định. Khi kết thúc dự án sẽ được bàn giao cho chính quyền địa phương
hoặc chuyển sang thực hiện ở địa phương khác. Chính vì vậy, sau khi kết thúc
dự án, khả năng tồn tài và phát triển bền vững của các hoạt động tài chính vi
mô bị ảnh hưởng là điều không thể tránh khỏi.
Về mô hình tổ chức và hoạt động, cho đến nay, các chương trình, dự án
tài chính vi mô của Hội được thực hiện theo kiểu “mạnh ai, nấy làm”, hay nói
cách khác thiếu một sự điều phối thống nhất. Tuy có sự chỉ đạo của Đoàn Chủ
tịch TW Hội LHPN Việt Nam về xây dựng và triển khai các mô hình tín dụng
- tiết kiệm trong hệ thống Hội, tuy nhiên, tại các địa phương, các hoạt động tài
chính vi mô được thực hiện rất đa dạng. Điều này gây khó khăn cho việc quản
lý và điều hành thống nhất hoạt động tín dụng vi mô và xác định một chiến
lược phát triển các hoạt động tài chính vi mô thống nhất và bền vững trong
toàn hệ thống Hội. Mặt khác, việc tổ chức lại mô hình hoạt động tài chính vi
mô của Hội theo quy định của Nghị định 28/2005/NĐ-CP đang là một bài
toán rất khó khăn cho Hội LHPN Việt Nam trong thời gian tới.
7
Về nhân lực thực hiện các hoạt động tài chính vi mô, hoạt động tài
chính vi mô của Hội LHPN Việt Nam đã được thực hiện tại tất cả các
tỉnh/thành trong cả nước nhưng chủ yếu tập trung tại các địa phương chưa
phát triển về kinh tế. Điều này kéo theo nhân lực thực hiện chương trình dự án
hầu hết là đội ngũ cán bộ Hội tại địa phương. Đội ngũ này, trừ một số cán bộ
Hội cấp tỉnh có trình độ chuyên môn còn hầu hết cán bộ Hội cấp huyện, cấp
xã, trước khi triển khai dự án hầu như không có kiến thức về quản lý tài chính
và khi triển khai dự án mới được trang bị những kiến thức hết sức cơ bản.
Đây là một thách thức rất lớn trong thời gian tới đối với Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam khi phải chuyển đổi hoạt động theo đúng quy định pháp lý của
Nghị định 28/2005/NĐ - CP.
Vì vậy đề tài luận văn "Nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính vi mô
của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam" với mục đích nghiên cứu thực trạng
và tìm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính vi mô của Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thực sự là một đòi hỏi vừa cấp
bách vừa cơ bản đồng thời mang tính lý luận và thực tiễn cao.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về tài chính vi mô
như “Tài chính vi mô cho xoá đói giảm nghèo: một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” - của Đỗ Kim Chung; “Tín dụng nông nghiệp, nông thôn: thực trạng và
một số đề xuất” của Kim Thị Dung; “Tài chính vi mô và một số khuyến nghị
đối với hoạt động tài chính vi mô ở nước ta” của Doãn Hữu Tuệ”; “Hệ thống
tín dụng nông thôn Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” của Tiến sĩ Nguyễn
Thị Bích Đào v.v. Mặc dù vậy, như các tác giả đề cập, đây là khái niệm còn
rất mới mẻ ở Việt Nam và việc nghiên cứu chủ yếu dựa trên các tài liệu từ
nước ngoài. Từ sau khi có Nghị định 28/2005/NĐ-CP cũng chưa có một
nghiên cứu lớn, toàn diện nào về việc chuyển đổi và hướng phát triển của các
8
hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam trong thời gian tới. Đối với Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội đã có một đề tài nghiên cứu cấp bộ về “Mô hình
hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế và vai trò của Hội LHPN Việt Nam” tuy nhiên
kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các mô hình phát triển
kinh tế và đưa ra một số khuyến nghị ở mức độ nhất định nhưng chưa đưa ra
được phương hướng phát triển của hoạt động tài chính vi mô của Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam trong thời gian tới do đề tài chưa đặt hoạt động của Hội
trong bối cảnh thực hiện Nghị định 28/2005/NĐ-CP. Nghiên cứu của luận văn
hy vọng sẽ đưa ra được những giải pháp hết sức cơ bản và cụ thể cho sự phát
triển của hoạt động tài chính vi mô của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong
thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm
giải quyết những vấn đề đặt ra trong hoạt động tài chính vi mô của Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam. Để đạt mục đích trên, nhiệm vụ của Luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ khái niệm tài chính vi mô và vai trò của tài chính
vi mô trong hoạt động xoá đói giảm nghèo.
- Phân tích thực trạng hoạt động tài chính vi mô của Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam.
- Xây dựng các giải pháp định hướng trong hoạt động tài chính vi mô.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là hoạt động tài chính vi mô của
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Trong đó tập trung làm rõ một số nội dung
cơ bản: mô hình tổ chức hoạt động, những ưu điểm và hạn chế trong hoạt
động tài chính vi mô của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
9
Phạm vi nghiên cứu là hoạt động tài chính vi mô của Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam ở 4 cấp (trung ương, tỉnh, huyện, xã). Luận văn sẽ nghiên cứu
hoạt động của Hội trong thời gian từ năm 2002 trở lại đây vì phù hợp với một
nhiệm kỳ hoạt động của Hội (2002 – 2007).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sẽ được tiếp cận ở góc độ nghiên cứu của cấp trung ương, sử
dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu; so sánh, phân tích tổng hợp trên cơ sở
phương pháp luận biện chứng duy vật. Luận văn sử dụng số liệu thống kê của
Tổng cục thống kê, dữ liệu về các chương trình, hoạt động, dự án của Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam nhiệm kỳ 2002 - 2007; các số liệu của các bộ,
ban, ngành chức năng.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ khái niệm “Tài chính vi mô” và vai trò của tài chính
vi mô trong công tác xoá đói giảm nghèo.
- Phân tích thực trạng hoạt động tài chính vi mô của Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam trong thời gian qua.
- Làm rõ những thách thức đối với hoạt động tài chính vi mô của Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong thời gian tới.
- Đóng góp mới của Luận văn đó chính là giá trị thực sự của công trình
nghiên cứu và những giải pháp nhằm nâng cao kết quả hoạt động tài chính vi
mô của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày trong ba
chương:
Chương I: Tài chính vi mô và vai trò của nó trong xoá đói giảm nghèo
10
Chương II: Thực trạng hoạt động tài chính vi mô của Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động tài chính vi mô của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thời gian tới.
CHƢƠNG I
TÀI CHÍNH VI MÔ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH VI MÔ
1.1.1. Khái niệm và lịch sử hình thành tài chính vi mô và tổ chức
tài chính vi mô.
1.1.1.1. Khái niệm về tài chính vi mô và tổ chức tài chính vi mô.
a. Khái niệm về tài chính vi mô (TCVM).
Về mặt ngữ nghĩa, “tài chính vi mô” tức là “tài chính có quy mô rất
nhỏ”, là hoạt động trung gian tài chính chủ yếu phục vụ các tác nhân kinh tế
nằm ngoài vòng tròn khép kín của hoạt động ngân hàng. Tài chính vi mô cung
cấp các dịch vụ chủ yếu như tín dụng, tiết kiệm và bảo hiểm với quy mô rất
nhỏ.
Theo định nghĩa của ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB): “Tài chính vi
mô là việc cung cấp các dịch vụ huy động tiền gửi, cho vay, thanh toán,
chuyển tiền và bảo hiểm cho người nghèo, các hộ gia đình có thu nhập thấp
và doanh nghiệp nhỏ của họ”1.
b. Khái niệm về tổ chức tài chính vi mô (TCTCVM):
1
[23, Tr. 30]
11
Các tổ chức tài chính vi mô là những chủ thể thực hiện việc cung cấp
dịch vụ tài chính với quy mô rất nhỏ, chủ yếu bao gồm các ngân hàng, các
hợp tác xã, các tổ chức phi Chính phủ (NGOs), v.v…nhằm thực hiện các mục
tiêu khác nhau (xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ, phát huy
vai trò của phụ nữ và các mục tiêu xã hội khác) thông qua các phương thức
khác nhau (cho vay theo tổ nhóm, cho vay cá nhân, tiết kiệm tự nguyện, tiết
kiệm bắt buộc,…). Khách hàng của các TCTCVM thường là các hộ gia đình
có thu nhập thấp và thường phải chịu nhiều rủi ro hơn so với các đối tượng
khách hàng của các ngân hàng.
Như vậy, có thể hiểu TCTCVM là một định chế cung cấp các dịch vụ
tài chính cho các đối tượng khách hàng có thu nhập thấp. Khái niệm theo
nghĩa rộng này bao hàm các chủ thể cung cấp các dịch vụ TCVM khác nhau
về địa vị pháp lý, chức năng nhiệm vụ, phương thức hoạt động và khả năng
bền vững. Tuy nhiên, chúng có những nét đặc trưng giống nhau trong việc
cung cấp các dịch vụ tài chính cho đối tượng khách hàng có thu nhập thấp và
dễ bị tác động bởi các yếu tố rủi ro hơn so với khách hàng truyền thống của
các ngân hàng. TCTCVM còn có thể được hiểu với một nghĩa rộng hơn nữa là
bất cứ tổ chức nào ngân hàng thương mại quy mô nhỏ, quỹ tín dụng và tiết
kiệm, các tổ chức tài chính phi chính phủ, các hợp tác xã tín dụng thực hiện
việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho người nghèo.
1.1.1.2. Lịch sử hình thành tài chính vi mô.
Trước đây, TCVM thường gắn liền với cho vay nặng lãi. Ở vùng nông
thôn, những người buôn bán thường cho các hộ gia đình vay những món tiền
nhỏ để trang trải các chi phí phát sinh trong sinh hoạt (như giáo dục, chăm sóc
sức khoẻ, ma chay, cưới hỏi,…) hoặc các khoản chi tiêu bất thường khác. Lãi
suất của các món vay này thường rất cao và đôi khi được hoàn trả bằng các
sản phẩm nông nghiệp khi đến mùa thu hoạch. Hoạt động này đã đáp ứng
12
phần nào nhu cầu của người dân, nhưng lại đẩy họ vào vòng nợ luẩn quẩn và
hệ quả thấy rõ nhất là người giàu càng trở nên giàu hơn, người nghèo càng trở
nên nghèo hơn.
Một trong những hoạt động khác liên quan đến lịch sử của TCVM là
“hụi” (hay còn gọi là “họ”), tức là các nhóm tiết kiệm và tín dụng không
chính thức hoạt động dựa vào nguyên tắc quay vòng. Hình thức chơi hụi được
biết đến từ thế kỷ XVI ở khắp nơi trên thế giới: Châu Phi, Ca-ri-bê, In-đô-nêxia, Phi-líp-pin, Ấn Độ…Có nhiều biến thể khác nhau từ loại hình này nhưng
chúng đều cùng dựa trên nguyên tắc là đưa các sản phẩm (như lúa, gạo…),
sức lao động hoặc sau này là tiền vào sử dụng chung nhằm mục đích tích luỹ
cho thành viên của nhóm sử dụng theo thứ tự.
Tuy nhiên, có thể nói rằng TCVM được khởi xướng bắt nguồn từ hai
phát hiện quan trọng trong những năm 1970: (1) Phát hiện thứ nhất cho rằng
người nghèo có khả năng và sẵn sàng hoàn trả các khoản vay theo lãi suất thị
trường. Kinh nghiệm thực tiễn ở châu Mỹ - Latinh, châu Á đã chứng minh
rằng các hộ nghèo có nhu cầu vay vốn và sẵn sàng trả mức lãi suất đủ để bù
đắp các chi phí của các tổ chức cho vay. Phát hiện này đã loại bỏ định kiến
rằng người nghèo không có khả năng trả nợ. Ngày nay, hầu hết các TCTCVM
ghi nhận rằng tỷ lệ nợ quá hạn chỉ thấp hơn 5%. Với một tỷ lệ nợ quá hạn
thấp như vậy, khả năng thành lập các TCTCVM bền vững trở nên thực tế đối
với những tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính; (2) Phát hiện thứ hai cho rằng,
áp lực tập thể có thể thay thế cho việc thế chấp tài sản. Các nhà thực hành
TCVM nhận thấy rằng việc cho các nhóm người thực hiện bảo lãnh món vay,
đối với các thành viên của nhóm có tỷ lệ hoàn trả rất cao. Do người nghèo
thường không có phương tiện bảo đảm món vay nên phát hiện này đã mở ra
hình thức cho vay liên đới như là một phương tiện cung cấp các dịch vụ tài
chính cho những đối tượng khách hàng thực sự nghèo đói.
13
Có thể nói TCTCVM đầu tiên có hoạt động tài chính gắn liền với phát
triển cộng đồng đó là Ngân hàng Shore (thành lập năm 1973 tại Chicago) và
sau đó là Ngân hàng Grameen do Giáo sư kinh tế Mohamed Yunus (người
được nhận giải thưởng Nô-ben năm 2006) thành lập năm 1974 tại Băng-lađét.
Giáo sư kinh tế Mohamed Yunus ở Băng - la - đét đã chứng minh rằng
vài đô la cũng có thể giúp người nghèo thực hiện các hoạt động sinh lợi và
thoát khỏi đói nghèo. Các món cho vay đầu tiên mà giáo sư thực hiện vào
năm 1978 đã dẫn đến thành lập một NGO, tổ chức này chính là tiền thân của
ngân hàng Grameem (Grameen Bank) hiện đang phục vụ hàng triệu khách
hàng với tổng số tiền cho vay khoảng 6 tỷ đô la Mỹ.
Sau đó, hoạt động TCVM lan rộng ra các vùng khác nhau trên thế giới,
nhất là khi nhu cầu của người nghèo tăng lên vào những năm 1980 và các tổ
chức tư nhân tình nguyện quốc tế (IVPO) và các NGO bắt đầu đưa hoạt động
TCVM vào chương trình xoá đói giảm nghèo. Các IVPO tài trợ vốn, tổ chức
đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật cho các NGO đối tác tại địa phương để thực hiện
việc cung cấp các dịch vụ TCVM cho cộng đồng dân cư. Hai vị “tiền bối” của
các dự án TCVM này tiếp tục cùng tồn tại với các sáng kiến hiện nay trong
cuộc chiến chống đói nghèo.
Khu vực TCVM đã có nước phát triển nhảy vọt trong hai mươi năm
qua. Năm 1997, trên thế giới có khoảng 7.000 tổ chức thực hiện các dự án
TCVM cho vay món nhỏ đối với các doanh nghiệp nhỏ, huy động tiền gửi
phù hợp với nhu cầu của các hộ nghèo và thực hiện các dịch vụ tài chính khác
như dịch vụ chuyển tiền. Cho đến nay, đại đa số các tổ chức này vẫn là các
NGO hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên một số hợp tác xã tín
dụng tiết kiệm, nhất là ở châu Phi bắt đầu cung cấp các dịch vụ TCVM và
14
một số tổ chức tài chính chính thức cũng như một số ngân hàng thương mại
bắt đầu tham gia vào lĩnh vực này.
Hiện nay, nguồn vốn của các TCTCVM chủ yếu đến từ các nhà tài trợ
và các chính phủ. Nhưng các tổ chức tài chính lớn lại nhận thấy rằng yêu cầu
của khách hàng vượt xa nguồn vốn tài trợ đó. Bên cạnh đó, các tổ chức này
cũng cho thấy có thể cung cấp các dịch vụ TCVM trên một cơ sở tài chính
bền vững: khách hàng tìm thấy lợi ích của mình trong các dịch vụ mà
TCTCVM cung cấp và họ sẵn sàng trả một mức giá phù hợp. Khi trở nên bền
vững về mặt tài chính, một TCTCVM có thể bắt đầu tài trợ các khoản cho vay
bằng tiền gửi huy động và các nguồn vốn thương mại khác. Như vậy,
TCTCVM có thể thoát khỏi hạn chế gắn liền với nguồn tài trợ do các tổ chức
cấp vốn áp đặt nhưng vẫn đảm bảo được các dịch vụ tiết kiệm an toàn và
thuận lợi cho khách hàng. Sự phát triển của lĩnh vực TCVM trong thời gian
qua có xu hướng đáp ứng một nhu cầu hiển nhiên của việc đa dạng hoá các
dịch vụ, từ việc cho vay đơn thuần đến các dịch vụ tài chính linh hoạt và có
chất lượng nhằm thực hiện tốt hơn vai trò của TCVM trong cuộc chiến chống
đói nghèo. Một trong những ví dụ thú vị nhất là dịch vụ bảo hiểm xã hội do
Hiệp hội Phụ nữ tự quản (SEWA) tại nhiều bang ở Ấn Độ thực hiện. Ngoài
ra, cũng có thể kể đến các hình thức dịch vụ thuê mua vi mô (micro - leasing)
hay cho vay bằng hiện vật (ví dụ cho vay bằng gia súc, cây giống) nhất là đối
với những người rất nghèo. Với đối tượng khách hàng này, các TCTCVM
cũng bắt đầu cung cấp các khoản cho vay tiêu dùng để trang trải các chi phí
giáo dục, y tế,… Việc cho vay tiêu dùng giúp cho các hộ nghèo trang trải các
loại chi phí tiêu dùng mà không làm thâm thủng nguồn vốn sản xuất, kinh
doanh của gia đình họ.
Định hướng của hoạt động TCVM và nhất là tín dụng vi mô đối với
phụ nữ ngày càng trở nên rõ nét qua thực tế hoạt động của ngân hàng
15
Grameen ở Băng - la - đét. Mục tiêu xuất phát ban đầu là cho vay đối với phụ
nữ cũng như nam giới và lúc đầu không dễ gì có thể đạt được tỷ lệ cho vay
đối với phụ nữ là 50%. Sau một thời gian ngắn, phụ nữ đã tỏ ra là đối tượng
khách hàng đáng tin cậy và sòng phẳng nhất. Ngày nay, 95% khách hàng vay
vốn của Ngân hàng Grameen là phụ nữ và họ luôn là những khách hàng hoàn
trả vốn vay tốt hơn so với nam giới.
Điều ghi nhận này trở nên phổ biến và giải thích phần nào việc hoạt
động tín dụng vi mô hướng tới phụ nữ. Một lý do khác giải thích cho hiện
tượng này là hiệu quả ngày càng cao của cuộc chiến chống đói nghèo: đa số
các nghiên cứu cho thấy rằng khi có thu nhập, phụ nữ sẽ ưu tiên đầu tư vào
việc học hành của con cái và các hoạt động sản xuất, kinh doanh của gia đình.
Điều đó góp phần cải thiện điều kiện sống của gia đình họ. Đến năm 2004,
theo báo cáo tại Chiến dịch Thượng đỉnh về tài chính vi mô thuộc tổ chức
Chính phủ Quỹ Giáo dục Result (Mỹ) cho biết đã có hơn 54 triệu người
nghèo nhất trên thế giới, trong đó 81% là phụ nữ được nhận những khoản vay
rất nhỏ để bắt đầu hoặc mở rộng việc buôn bán nhỏ.
Để tổng kết quá trình phát triển của TCVM, một số nghiên cứu cho
rằng sự tiến hoá của TCVM là sự tiến hoá của tài chính thương mại dựa trên
sự phát triển công nghệ tài chính mới (cho vay món nhỏ, tín dụng gắn liền với
tiết kiệm, lấy nhỏ nuôi lớn) ở thập kỷ 90 của thế kỷ XX và các nghiên cứu này
đã chia quá trình phát triển của TCVM thành 4 giai đoạn như sau:
Giai đoạn một, những năm thập kỷ 70 là giai đoạn bắt đầu của tài chính
vi mô. Giai đoạn này diễn ra ở các nước đang phát triển thông qua các chương
trình xoá đói giảm nghèo;
Giai đoạn hai, những năm 80 của thế kỷ XX là giai đoạn phát triển của
TCVM, TCVM đã phục vụ số đông khách hàng mà vẫn có lãi;
16
Giai đoạn ba, những năm 90, TCVM phát triển như là một ngành riêng.
ở một số nước có sự cạnh tranh khá mạnh giữa các TCTCVM cung cấp dịch
vụ tài chính cho người nghèo;
Giai đoạn bốn, những năm 2000, mục tiêu của TCVM là đáp ứng được
nhu cầu ở quy mô lớn về dịch vụ tài chính cho xoá đói giảm nghèo. TCVM
được các tổ chức tài chính lớn như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển
châu Á, Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp coi là cách tiếp cận cơ bản để
mang dịch vụ tài chính cho người nghèo, tạo điều kiện xoá đói giảm nghèo
một cách bền vững.
Hội nghị thượng đỉnh quốc tế về tín dụng vi mô được tổ chức vào tháng
2 năm 1997 tại Washington (Mỹ) đã rút ra kết luận rằng: “ TCVM là công cụ
sắc bén, có hiệu quả trong cuộc chiến chống đói nghèo và bảo đảm khả năng
độc lập về kinh tế cũng như nhân phẩm của con người”. Như vậy có thể nói
TCVM ngày càng khẳng định được vai trò kinh tế - xã hội của mình và thu
hút được sự quan tâm thích đáng của nhiều tổ chức, đặc biệt là chính phủ ở
những nước đang phát triển.
1.1.1.3. Các loại hình tổ chức tài chính vi mô
Nhiều tổ chức thực hiện các chương trình TCVM đã hình thành trong
các thập niên gần đây. Ngay cả khi mục tiêu chung là cung cấp dịch vụ tài
chính cho đối tượng khách hàng có thu nhập thấp, các tổ chức này đã xây
dựng các phương pháp tiếp cận khác nhau để đạt được mục đích đó. Những
kết quả mà các tổ chức này đạt được rất khác nhau và đôi khi không đáng kể
do chúng theo đuổi các mục tiêu cũng rất khác nhau. Có thể phân biệt 3 loại
hình TCTCVM tùy theo chức năng chủ yếu của chúng.
a. Ngân hàng phát triển
17
Ngân hàng phát triển được biết đến nhiều nhất là các ngân hàng phát
triển nông nghiệp và nông thôn. Cách đây khoảng 3 thập niên, khi các ngân
hàng này bắt đầu khuyếch trương hoạt động, các chính phủ đã hy vọng tăng
khối lượng vốn đầu tư vào nông nghiệp, tăng dư nợ cho vay đối với các hộ
sản xuất nông nghiệp và củng cố các tổ chức đóng vai trò làm kênh dẫn nguồn
tín dụng nông nghiệp đến với bộ phận dân cư nghèo nhất.
Chi phí quản lý tín dụng cao, việc thiếu khả năng đa dạng hoá khối
lượng tín dụng, sự can thiệp của chính phủ vào việc quản lý các tổ chức này,
sự thờ ơ của các ngân hàng đối với việc huy động tiết kiệm tại chỗ là những
yếu tố liên quan đến việc cung ứng dịch vụ làm ảnh hưởng đến khả năng bền
vững của các ngân hàng nông nghiệp. Người ta nhận thấy sự mất cân đối giữa
các dịch vụ tài chính và các nhu cầu của khách hàng vay vốn, nhất là những
người nghèo. Mặt khác, khu vực nông nghiệp có rủi ro cao và khả năng sinh
lời thấp đã khiến cho các nhà đầu tư có định kiến làm hạn chế khả năng tiếp
cận tín dụng nông nghiệp.
Một số nghiên cứu thực tế cho thấy rằng ảnh hưởng và sự đóng góp của
các dự án tín dụng đã bị xem nhẹ. Trên thực tế, trong số các dự án được tài trợ
bởi Ngân hàng Thế giới (WB), người ta nhận thấy rằng một số dự án đã góp
phần làm tăng sản lượng nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, giúp mua
sắm thiết bị nông nghiệp, là kênh dẫn một phần vốn tài trợ từ nước ngoài và
cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ nghèo, hơn nữa vai trò của
WB trong việc tái cơ cấu các hệ thống ngân hàng tại nhiều nước trong những
năm 1980 là rất quan trọng.
Công cuộc cải cách các ngân hàng Phát triển nông nghiệp và nông thôn
đã đề cập đến việc thông qua các chiến lược nhằm đảm bảo khả năng bền
vững về tài chính như: tăng cường huy động tiết kiệm tại chỗ, phát triển quan
18
hệ đối tác với các tổ chức khác hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ tài
chính, sự hiểu biết tốt nhất về các nhu cầu và sự yêu thích của khách hàng vay
vốn, cung ứng sản phẩm và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu.
Hiện nay các loại hình tổ chức này đã có thể đóng vai trò quan trọng
trong lĩnh vực TCVM, ví dụ như trường hợp của Ngân hàng Phát triển nông
nghiệp và nông thôn Thái Lan. Nhưng để cho các dịch vụ này có hiệu quả,
các tổ chức này cần phát triển các cơ cấu chuyên môn trong việc cung cấp các
dịch vụ tài chính cho người nghèo. Ví dụ Ngân hàng Phát triển nông nghiệp nông thôn quốc gia Ấn Độ có một chương trình giúp liên kết 200 NGOs với
các tổ chức tài chính trong vòng chưa đầy 2 năm.
b. Các tổ chức tín dụng hợp tác
Các tổ chức tín dụng hợp tác có nhiều hình thức và được biết đến với
nhiều tên gọi khác nhau tuỳ theo từng nước: Quỹ tiết kiệm và tín dụng
(Burkin Faso), Ngân hàng nhân dân (Rwanda), Quỹ tiết kiệm và tín dụng
(Mali), Quỹ tín dụng nông nghiệp tương hỗ địa phương (Benin)…Sau đây xin
gọi chung là tổ chức tín dụng hợp tác.
Phương pháp tiếp cận hợp tác xã trao cho các thành viên một quyền lực
rất lớn. Các thành viên phải tự tổ chức để huy động tiết kiệm và cho vay. Các
quyết định về lãi xuất, các điều kiện cho vay và hoàn trả vốn vay cũng như
các chiến lược hoạt động của tổ chức tín dụng hợp tác đều do các thành viên
tự quyết định. Cách thức này cho phép sự luân chuyển các nguồn vốn tại chỗ
trong cộng đồng. Lợi nhuận của tổ chức tín dụng hợp tác được phân bổ cho
các thành viên trong cộng đồng và các quyết định được đưa ra bởi chính
những người thụ hưởng. Các chi phí giao dịch được giảm thiểu ở giai đoạn
khởi đầu hoạt động do các thành viên làm việc tự nguyện không hưởng lương.
Phương pháp này khác với phương pháp của đại đa số các NGO, hoặc các tổ
19
chức chuyên môn khác được thiết lập và quản lý bởi những người ngoài cộng
đồng dân cư địa phương.
Các hình thức pháp lý điều chỉnh các tổ chức này cũng rất khác nhau
tùy theo mức dộ phát triển của chúng. Nói chung, các tổ chức này được thừa
nhận như là các tổ chức tài chính, thường được điều chỉnh bởi Luật Hợp tác
xã. Một tổ chức tín dụng hợp tác có thể gia nhập vào một tổ chức hiệp hội để
được hưởng các lợi ích như: được tổ chức này làm đại diện ở cấp quốc gia,
đươc hưởng các dịch vụ về đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật cũng như tiếp cận dễ dàng
hơn với các chương trình tiết kiệm tín dụng ở cấp quốc gia và quốc tế. Ví dụ,
ở Châu Mỹ - La tinh, các hợp tác xã tiết kiệm và tín dụng được coi như là các
ngân hàng hợp tác, vừa được điều chỉnh bởi Luật Ngân hàng, vừa được điều
chỉnh bởi Luật Hợp tác xã. Các ngân hàng này có thể được tham gia vào thị
trường tài chính như các ngân hàng thương mại. Chúng cũng có thể được huy
động các nguồn vốn từ bên ngoài và giao dịch với Ngân hàng Trung ương.
Hình thức ngân hàng Hợp tác xã được xem là hình thức tiên tiến nhất trong số
các loại hình tổ chức tín dụng hợp tác. Các hợp tác xã tín dụng vẫn tiếp tục
đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực TCVM. Nhưng vấn đề đặt ra là
liệu sự tham gia của chúng có khả năng tăng lên hơn nữa hay không. Nhiều
tác nhân tham gia vào lĩnh vực TCVM cũng tự hỏi là cần có những động thái
cần thiết nào để giúp các tổ chức tín dụng hợp tác tăng cường vai trò của
chúng trong lĩnh vực TCVM. Việc hiện đại hoá các dịch vụ có thể hướng tới
việc mở rộng các dịch vụ tiết kiệm với các mức lãi suất khác nhau và phát
triển các dịch vụ cho vay đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu rộng rãi của khách
hàng.
c. Các tổ chức phi chính phủ.
20
Nhiều NGO và tổ chức trung gian chuyên môn hiện đang tham gia vào
việc cung ứng các dịch vụ TCVM và một số loại hình tổ chức khác cũng có ý
định tham gia vào hoạt động này. Thâm chí có những tổ chức đã chuyển đổi
các hoạt động TCVM thành các ngân hàng thực thụ. Hình thức tham gia của
các nhân tố này cũng rất khác nhau. Các NGO đã phát triển nhiều phương
pháp tiếp cận đa dạng và phù hợp với các bối cảnh hoạt động cụ thể.
Một nghiên cứu được thực hiện tại 4 nước châu Á về sự tham gia của 5
NGO trong lĩnh vực TCVM thông qua phương pháp tổ nhóm liên kết đã cho
thấy mức độ đa dạng rất cao giữa các hình thức tham gia liên quan đến cấu
trúc, chức năng và tỷ lệ thành công.
Về khả năng tiếp cận, tất cả các NGO đã thành công trong việc tiếp cận
với các hộ nghèo ở nông thôn, đặc biệt là những phụ nữ mù chữ. Tuy nhiên,
vấn đề tồn tại là khẳ năng bền vững của tổ chức. Yếu tố thành công có vẻ như
là một cam kết của các NGO về khái niệm cơ bản “khách hàng là chủ sở
hữu”. Điều này tạo thuận lợi cho việc tăng tỷ lệ thu hồi vốn cho vay, do mọi
nguồn vốn hoặc ít nhất là một phần vốn, được huy động tại chỗ.
Kinh nghiệm cho thấy khi các TCTCVM hướng tới một viễn cảnh bền
vững về tài chính thì sẽ có một rủi ro lớn trong việc giảm thiểu các phúc lợi
xã hội đối với những người nghèo. Phương pháp ưu đãi tín dụng thông qua
việc chỉ theo đuổi tiêu chí bền vững sẽ cản trở khả năng tiếp cận các hộ
nghèo. Ngay cả những khách hàng được vay vốn cũng gặp khó khăn trong
việc sử dụng có hiệu quả vốn vay nếu họ không được tiếp cận với các dịch vụ
hỗ trợ khác giúp họ cải thiện khả năng hiểu biết hoặc trước hết là làm thoả
mãn các nhu cầu cơ bản của họ. Các NGO hướng tới các chương trình tín
dụng bền vững thường không đánh mất các lợi thế so sánh trong lĩnh vực phát
triển; tức là khả năng cung ứng các dịch vụ xã hội cho người nghèo nhất.
21
Một vấn đề khác đối với các NGO là những người thụ hưởng thường ít
có quyền tác động đến các quyết định, điều này trái ngược với các tổ chức tín
dụng hợp tác, nơi mà những người thụ hưởng cũng đồng thời là những người
sở hữu tổ chức. Các NGO còn thường gặp phải những khó khăn trong việc
đảm bảo một hệ thống huy động tiết kiệm và độc lập với các khoản tài trợ từ
bên ngoài. Ngược lại, chúng rất có khả năng tiếp cận với những người nghèo
nhất.
Về phần các NGO, điều quan trọng là phải phân biệt hình thức tham gia
của các NGO quốc tế với hình thức tham gia của các NGO trong nước. Các
NGO quốc tế ngày càng chuyên môn hoá trong việc hỗ trợ thành lập các
TCTCVM cấp quốc gia và rút lui dần để các NGO trong nước đảm đương các
hoạt động và hướng tới khả năng tự bền vững. Các NGO quốc tế có thể giúp
các NGO trong nước thực hiện các hoạt động dưới mọi hình thức, cơ cấu để
có thể tiếp cận với một số lượng cá nhân lớn hơn.
1.1.1.4. Đặc điểm cơ bản của tài chính vi mô
Một là, TCVM cung cấp dịch vụ tài chính quy mô nhỏ chủ yếu là tín
dụng và tiết kiệm. Các ngân hàng thường cho rằng dịch vụ cho vay tiết kiệm
món nhỏ không có lãi, và vì thế, họ không quan tâm tới các món vay nhỏ và
tiết kiệm nhỏ. Điều này dành chỗ cho tín dụng tư nhân phát triển, nhất là ở
nông thôn. Dịch vụ tín dụng thương mại tư nhân luôn sẵn có nhưng chi phí
vay lớn (vì lãi suất cao) cho người vay, nhất là người nghèo. Các tổ chức phi
chính phủ và các tổ chức tài chính phi ngân hàng đã có phương pháp cung cấp
tín dụng phù hợp cho những người vay có thu nhập thấp. Tiết kiệm cho phép
người tiết kiệm tích góp vốn cho tương lai. Tiết kiệm nhắc nhở người sử dụng
vốn có ý thức sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm. Tín dụng và tiết kiệm là hai
mặt không tách rời của TCVM.
22
Hai là đối tượng phục vụ của tài chính vi mô là những người nghèo,
chủ yếu là những người có nguồn thu nhập hay có phương thức kiếm sống
nhất định, nếu được cung cấp tài chính sẽ có thể vươn lên. Người nghèo có
phương thức kiếm sống khác nhau: làm nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, lâm
nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ, buôn bán, tái chế, làm thuê, cho thuê (trâu
bò, ruộng đất, máy móc…).
Các tổ chức tài chính quy mô lớn thường không thành công khi tiếp xúc
với người nghèo vì họ chưa lôi kéo sự tham gia của người vay vào các hoạt
động tín dụng và tiết kiệm. Người nghèo thường không có khả năng thông tin
cho các thị trường tín dụng chính thống về nhu cầu dịch vụ vay và tiết kiệm.
Do đó, các dịch vụ tài chính của tín dụng chính thống không được cung cấp
cho họ. Những tổ chức tín dụng chính thống có thể cung cấp các dịch vụ tài
chính lại không biết rõ nhu cầu. Người hiểu rõ nhu cầu không có quyền lực để
cung cấp các dịch vụ đó. TCVM đã thu hút người nghèo tham gia vào quá
trình xác định nhu cầu, quyết định các hoạt động tín dụng hay tiết kiệm.
Ba là, tổ chức cung cấp TCVM là những tổ chức bền vững tài chính. Sự
bền vững tài chính được thể hiện ở sự bù đắp được chi phí, kể cả rủi ro, tăng
nguồn thu, kích thích tiết kiệm, tạo ra vốn cho nhiều người vay tín dụng và
tiết kiệm, giám sát và hỗ trợ trong sử dụng vốn tín dụng, tăng hiệu quả của sử
dụng vốn. Tổ chức này thường là tổ chức đa chức năng (của người vay kết
hợp với các tổ chức ngân hàng, xã hội và phát triển). TCVM đã bù đắp tất cả
chi phí và rủi ro không cần trợ cấp, mang lại lợi nhuận cho tổ chức tham gia.
Bốn là, phương pháp TCVM được xây dựng đáp ứng cho từng cá nhân
hay nhóm khách hàng tham gia. TCVM cung cấp các dịch vụ tài chính: cho
từng hộ hay nhóm hộ; cho từng hộ có điều kiện nhất định để tạo ra thu nhập,
sẵn sàng trả các khoản vay và lãi, thường là người nghèo kinh tế; cho nhóm
23
khách hàng nhất là những người cực nghèo…thông qua các nhóm tín dụng và
tiết kiệm.
Năm là, TCVM cung cấp dịch vụ tài chính ngay tại địa bàn mà người
vay và tiết kiệm sinh sống, thu hút được nhiều người tham gia, giảm chi phí
tín dụng, tăng tính cộng đồng, tăng tính tiết kiệm. TCVM thông qua các tổ
chức tài chính đa chức năng đã cung cấp dịch vụ tài chính cho hàng triệu
khách hàng có ảnh hưởng sâu, rộng.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của tài chính vi mô.
Hoạt động TCVM chủ yếu bao gồm hoạt động tín dụng và hoạt động
huy động tiết kiệm.
1.1.2.1. Hoạt động tín dụng
Các TCTCVM thường áp dụng 3 phương pháp cho vay: cho vay cá
nhân, cho vay nhóm liên kết và cho vay ngân hàng làng xã.
(1) Cho vay trực tiếp đến cá nhân: Một cá nhân được vay vốn khi có tài
sản bảo đảm tiền vay và được TCTCVM tin tưởng. Việc thế chấp ở các
TCTCVM nói chung ít bị ràng buộc hơn so với ở các ngân hàng thương mại.
Cho vay cá nhân thường phổ biến hơn cho vay tổ nhóm, nhất là ở In-đô-nêxia và ở Sê-nê-gan. Phương pháp này cũng được áp dụng phổ biến ở Niger và
Cô-lôm-bi-a nhưng với tỷ lệ thấp hơn nhiều.
(2) Cho vay theo nhóm liên kết: phương pháp này được thực hiện dưới
hình thức cho vay thông qua nhóm nhỏ (thường từ 4-10 người). Cam kết của
nhóm thay cho tài sản thế chấp và là sự bảo lãnh món vay trong trường hợp
một thành viên của nhóm không trả được vốn vay. Điều đó tạo nên một áp lực
mang tính cộng đồng đối với các thành viên vay vốn và có tác dụng kích thích
họ thực hiện cam kết. Phương pháp này ngày càng trở nên phổ biến và được
24