Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Việc làm ở nông thôn việt nam hiện nay luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------------------

NGUYỄN THỊ HẢI VÂN

VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN
VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành:

KINH TẾ CHÍNH TRỊ XHCN

Mã số:

5.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. PHẠM VĂN DŨNG

HÀ NỘI - 2004


MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của đề tài ...........................................................................................................3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .....................................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................................4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................................5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .........................................................................................................5
6.

Đóng góp của luận văn .........................................................................................................5

7. Kết cấu luận văn......................................................................................................................5
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN .................6
1.1. Việc làm và đặc điểm của việc làm ở nông thôn ...................................................................6
1.2. Những nhân tố kinh tế - xã hội ảnh hƣởng đến việc làm ở nông thôn hiện nay ................ 16
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG - VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM ........... 32
2.1. Động thái lao động - việc làm ở nông thôn nƣớc ta trong những năm qua ....................... 32
2.2. Chính sách của nhà nƣớc và các chƣơng trình quốc gia giải quyết việc làm ở nông thôn
.................................................................................................................................................... 55
2.3. Đánh giá chung về việc làm và tạo việc làm ở nông thôn nƣớc ta hiện nay ....................... 59
Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN ................................................................................................... 67
3.1. Chiến lƣợc phát triển nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010 và vấn đề việc làm ............ 67
3.2. Một số quan điểm giải quyết việc làm ở nông thôn ............................................................ 72
3.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở nƣớc ta
trong thời gian tới ...................................................................................................................... 75
KẾT LUẬN ................................................................................................................................ 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 97

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử xã hội loài người, việc làm luôn luôn là vấn đề bức xúc

của mọi quốc gia. Nó đang tồn tại như một thách thức lớn và là một trong
những mối quan tâm hàng đầu đối với hầu hết các nước trên thế giới.
Ở nước ta trong những năm gần đây đường lối đổi mới, phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đã tạo ra
nhiều điều kiện thuận lợi để người lao động có cơ hội tự tạo việc làm và có
việc làm đáp ứng yêu cầu bức xúc về đời sống, góp phần ổn định tình hình
kinh tế - xã hội. Song bên cạnh đó, thực trạng lao động dư thừa và thiếu việc
làm trong nông thôn vẫn đang là mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và
của toàn xã hội. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt
Nam lần IX khẳng định: Đẩy nhanh CNH- HĐH nông nghiệp và nông thôn
theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị
trường và điều kiện sinh thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề,
cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn. Vấn đề này
được đặt ra không chỉ bởi tầm quan trọng của phát triển kinh tế nông thôn
trong bối cảnh chung của đất nước mà còn vì nông thôn là nơi cư trú, sinh
sống và làm ăn của một bộ phận lớn lao động và dân cư cả nước. Vì vậy, giải
quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn trong bối cảnh hiện nay đang
là vấn đề nóng bỏng và cấp thiết của sự nghiệp CNH- HĐH, có ý nghĩa kinh
tế, chính trị, xã hội quan trọng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chuyển sang
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đặc biệt, trong những năm
gần đây, vấn đề giải quyết việc làm cho những người lao động ở nông thôn là
đề tài đã được nhiều tác giả nghiên cứu, thảo luận trên những khía cạnh khác
nhau như:
2


"Vấn đề di chuyển lao động từ các vùng nông thôn vào thành phố" của
PTS Lê Đăng Giảng - Trung tâm Nghiên cứu nguồn lao động, Bộ Lao ĐộngThương binh - Xã hội, Hà nội, 1996.

Báo cáo đề tài:"Nghiên cứu thị trường lao động trong nông thôn". Chủ
nhiệm đề tài: KS. Nguyễn Đình Chính - Phó bộ môn chính sách nông nghiệp,
Hà Nội, 1996.
"Mối quan hệ giữa dân số và việc làm ở một xã phát triển ngoại thành
Hà Nội" của Đặng Xuân Thao, NXB Thống kê, Hà Nội, 1998.
"Quan hệ giữa chất lượng lao động và giải quyết việc làm trong quá
trình CNH- HĐH đất nước". PGS - TS.Trần Văn Chử, tạp chí Lý luận chính
trị, số 2/2002.
"Lao động và việc làm những bước tiến quan trọng". Nguyễn Thị
Hằng, Tạp chí Cộng sản, số 23/8/2002.
Các công trình, bài báo nêu trên đã nghiên cứu việc làm ở nhiều góc độ
và đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm tạo việc làm ở nông thôn... Tuy nhiên, do
sự không ngừng vận động của dân số và các nhân tố kinh tế - xã hội khác,
việc làm nói chung và việc làm ở nông thôn Việt Nam hiện nay vẫn là vấn đề
mang tính bức xúc. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài này cho luận văn thạc sĩ
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Từ việc làm sáng tỏ thực trạng việc làm ở nông thôn, những vấn đề đặt
ra cần giải quyết, luận văn đề xuất những kiến nghị về phương hướng và các
giải pháp chủ yếu nhằm tạo việc làm cho lao động ở nông thôn, đáp ứng yêu
cầu nhiều mặt của sự phát triển đất nước.
* Nhiệm vụ:
- Trình bày cơ sở khoa học về vai trò và sự cần thiết phát triển việc
làm ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
3


- Tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước khu vực về giải quyết việc
làm ở nông thôn và ý nghĩa của nó đối với nước ta.

- Đánh giá thực trạng lao động việc làm ở nông thôn trong những năm
gần đây, chỉ ra những thiếu sót và khó khăn cần khắc phục.
- Kiến nghị phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết
việc làm cho lao động ở nông thôn trong quá trình CNH - HĐH đất nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề việc làm ở nông
thôn nước ta từ khi đổi mới đến nay.
* Phạm vi: Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên cứu sự vận
động, biến đổi của vấn đề việc làm ở nông thôn nước ta, các nhân tố tác động
đến vấn đề này và xu hướng vận động của nó trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể là:
phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, thống kê so sánh…
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm.
- Làm rõ thực trạng việc làm ở nông thôn nước ta hiện nay.
- Kinh nghiệm của một số nước về giải quyết việc làm ở nông thôn.
- Luận chứng các định hướng, một số giải pháp để nhằm giải quyết việc
làm đúng hướng và có hiệu quả cho lao động ở nông thôn trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm ở nông thôn.
Chương 2: Thực trạng việc làm ở nông thôn Việt nam.

4


Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho

lao động ở nông thôn.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN
1.1. Việc làm và đặc điểm của việc làm ở nông thôn
1.1.1. Những quan niệm về việc làm
Vấn đề lao động và việc làm là một phạm trù rộng, đã được nhiều tác
giả đề cập, nghiên cứu trên những lĩnh vực khác nhau trong các sách, báo ,tạp
chí trong và ngoài nước... Tuy nhiên còn tuỳ theo cách tiếp cận mà người ta
có những định nghĩa khác nhau về việc làm.
Theo từ điển "Kinh tế khoa học xã hội" xuất bản 1996 tại Pari thì có
quan niệm sau: "Công việc mà người lao động tiến hành nhằm có được thu
nhập bằng tiền hoặc bằng hiện vậ ".
Còn trong "Đại từ điền kinh tế thị trường" của Trung Quốc, do Viện
nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa Hà Nội biên dịch và xuất bản năm
1998 thì việc làm được hiểu là: "hành vi của nhân viên, có năng lực lao động,
thông qua hình thức nhất đinh kết hợp với tư liệu sản xuất, để được thù lao
hoặc thu nhập. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, người lao động là chủ tư liệu
sản xuất, làm việc có nghĩa là thực hiện quyền làm chủ trên tư liệu sản xuất
đó, vừa làm việc cho cá nhân người lao động, cũng lại là làm việc cho xã
hội".
Khái niệm việc làm có thể hiểu được ở hai trạng thái "tĩnh" và "động".
Ở trạng trái "tĩnh", việc làm chỉ sử dụng sức lao động và các yếu tố vật chất kỹ thuật khác, nhằm mục đích tạo ra thu nhập hoặc kết quả có ích cho cá
nhân, cộng đồng. Theo cách hiểu này, việc làm là khả năng làm tăng của cải
của xã hội, tăng lợi ích cho dân cư và cộng đồng, là khả năng sử dụng nguồn
nhân lực và là các hoạt động lao động có ích.
5


Theo nghĩa "động", việc làm là hoạt động của dân cư nhằm tạo ra thu
nhập có lợi cho cá nhân hoặc cộng đồng, trong khuôn khổ pháp luật cho phép;

việc làm là hình thức vận dụng sức lao động, là hoạt động có chủ đích của con
người, được tiến hành trong một không gian và thời gian nhất định với sự kết
hợp các yếu tố vật chất - kỹ thuật khác.
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu việc làm là tác động qua lại giữa
hành động của con người với những điều kiện vật chất - kỹ thuật và môi
trường tự nhiên, tạo ra giá trị vật chất và tinh thần mới cho bản thân và xã hội,
đồng thời những hoạt động lao động phải trong khuôn khổ pháp luật cho
phép. Nói cách khác, việc làm là tổng thể các hoạt động kinh tế có liên quan
đến thu nhập và đời sống của dân cư. Việc làm là hoạt động kinh tế - xã hội
rộng lớn và đa dạng. Người ta có thể căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau để
xác định hoạt động nào là việc làm, hoạt động nào không phải là việc làm và
thế nào là: thời gian làm việc, mức thu nhập, hiệu qủa kinh tế - xã hội... Trong
cuốn sách "Mối quan hệ giữa dân số và việc làm" của tác giả Đặng Xuân
Thao thì định nghĩa việc làm như sau: "Việc làm là hoạt động có ích, không bị
pháp luật cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho người
dân, gia đình hoặc cộng đồng ".
Liên quan chặt chẽ với khái niệm việc làm, hai tác giả Nguyễn Hữu
Dũng và Trần Hữu Trung trong cuốn sách "Về chính sách giải quyết việc làm
ở Việt Nam" đã đưa ra khái niệm về người có việc làm như sau: "Người có
việc làm là người đang làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề, dạng hoạt
động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản
thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội ".
Khái niệm này cũng phù hợp với quan niệm của Tổ chức Lao động
quốc tế (I LO) về người có việc làm như sau: “Người có việc làm: Là những
người đang làm một việc gì đó được trả tiền công, hoặc những người tham
gia vào các hoạt động mang tính chất tự thoả mãn lợi ích hay thay thế thu
nhập của gia đình" [45].
6



Khái niệm người có việc làm của I LO được áp dụng ở nhiều nước khi
tiến hành các cuộc điều tra thống kê về lao động và việc làm, nhưng được cụ
thể hoá thêm bằng một số tiêu thức khác tuỳ thuộc vào mỗi nước đặt ra. Các
nước thường phân thành hai nhóm người trong độ tuổi lao động xét trong mối
quan hệ việc làm. Nhóm thứ nhất là nhóm lao động có việc làm và đang làm
việc, đó là những người làm bất kể công việc gì được trả công hoặc mang lợi
ích vật chất và tinh thần cho bản thân và gia đình.
Nhóm thứ hai là người có việc làm nhưng tại thời điểm nhất định nào
đó lại không làm việc, hoặc tạm nghỉ việc.
Ở Việt Nam trong thời kỳ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoặch hoá
tập trung trước đây (trước năm 1986) đã quan niệm việc làm phải là những
công việc đòi hỏi một chuyên môn nào đó, tạo ra một thu nhập nhất định;
người có việc làm hoặc phải thuộc biên chế Nhà nước, hoặc làm việc trong
các hợp tác xã. Với cách hiểu đó, khái niệm việc làm đã không tính đến
những người lao động đang làm việc ở các khu vực sau:
- Khu vực kinh tế tư nhân, cá thể, tự làm việc kể cả những người chưa
đủ tuổi hoặc đã quá tuổi lao động theo quy định chung của Nhà nước.
- Làm việc tại nhà (nội trợ, chăm nom gia đình... ). Mặt khác, cách hiểu
trên cũng không phân biệt những người hiện trong guồng máy sản xuất nhưng
tạm thời thiếu việc làm hoặc thực tế không có việc làm.
Tại điều 13 của Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23
tháng 6 năm 1994 cho rằng: "Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không
bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm ". Trong các cuộc điều tra
về "Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam" năm 1997 và năm 1998 do Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Tổng cục Thống kê tổ chức,
khái niệm về việc làm được xác định như sau:
" Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm
đều có thể gọi là việc làm ", bao gồm:
7



- Các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật.
- Những công việc tự làm để tạo thu nhập và thu lợi nhuận cho bản thân
hoặc chỉ cho gia đình mình, nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc hiện
vật) cho công việc đó.
Sự thay đổi nhận thức về việc làm đã dẫn đến các thay đổi về tư tưởng
chính sách và biện pháp giải quyết việc làm. Từ chỗ giải quyết việc làm là
trách nhiệm của Nhà nước và chỉ khi làm việc trong cơ quan Nhà nước mới
được coi là việc làm đã chuyển sang nhận thức mới. Đó là: Mọi hoạt động lao
động - xã hội, tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa
nhận là việc làm. Giải quyết việc làm là quá trình tạo ra điều kiện và môi
trường bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội làm việc.
Tham gia vào quá trình này có nhiều thành phần, đó là Nhà nước, các doanh
nghiệp, các đoàn thể và cá nhân từng người lao động trong toàn xã hội. Người
lao động không thụ động chờ đợi Nhà nước bố trí việc làm mà chủ động tự
tạo việc làm cho mình và cho người khác trong môi trường kinh tế - xã hội,
luật pháp thuận lợi do Nhà nước đặt ra. Trách nhiệm của Nhà nước đã chuyển
đổi từ vị trí độc tôn trong giải quyết việc làm trước đây, sang ban hành cơ chế,
chính sách, luật pháp đảm bảo cho người lao động tự do hành nghề, các đơn
vị sản xuất kinh doanh được quyền tự do thuê mướn lao động...
Từ những quan niệm trên có thể hiểu việc làm như sau:
Việc làm là hoạt động lao động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm,
tạo thu nhập hoặc lợi ích cho bản thân, gia đình người lao động hoặc cho
một cộng đồng nào đó.
Với cách hiểu trên, nội dung của khái niệm việc làm được mở rộng và
tạo ra khả năng to lớn giải phóng sức lao động, giải quyết việc làm cho nhiều
người. Người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết để tạo
việc làm và tự do thuê mướn lao động theo luật pháp của Nhà nước, để tự tạo
việc làm cho mình và thu hút thêm lao động xã hội theo quan hệ cung - cầu về
lao động trên thị trường.

8


Khái niệm trên còn thích ứng với nền kinh tế thị trường. Một mặt, nó
mở rộng quan niệm của người lao động về việc làm: mặt khác, nó giới hạn
hoạt động lao động theo những chế định của pháp luật, ngăn ngừa những hoạt
động có hại cho cộng đồng và xã hội, cho dù hoạt động đó có thể có lợi cục
bộ cho cá nhân hoặc một nhóm xã hội nào đó.
* Phân loại việc làm và thất nghiệp. Căn cứ vào thời gian thực hiện
công việc, Tổ chức Lao động Quốc tế phân chia "việc làm " thành các loại:
- Việc làm đầy đủ:
Việc làm đầy đủ là việc làm cho phép người lao động có điều kiện sử
dụng hết thời gian lao động theo quy định. Trong thống kê lao động - việc làm
ở Việt Nam thì người đủ việc làm gồm những người có số giờ làm việc trong
tuần lễ tính đến thời điểm điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ nhưng lớn hơn
hoặc bằng giờ quy định đối với những người làm các công việc nặng nhọc,
độc hại theo quy định hiện hành. Số giờ quy định ở trên có thể được thay đổi
theo từng năm hoặc từng thời kỳ.
- Việc làm hợp lý và việc làm hiệu quả:
Việc làm hợp lý là sự phù hợp về số lượng và chất lượng của các yếu
tố con người và vật chất của sản xuất, là bước phát triển cao hơn của việc làm
đầy đủ. Việc làm hợp lý có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội
cao. Việc làm hợp lý còn là việc làm phù hợp với khả năng và nguyện vọng
của người lao động.
Việc làm hiệu quả là việc làm đem lại mức thu nhập cao cho người lao
động. Việc làm không hiệu quả là việc làm đem lại thu nhập thấp không đủ
cho các chi tiêu cơ bản trong đời sống của người lao động hoặc thấp hơn so
với mức thu nhập tối thiểu trong xã hội.
- Thiếu việc làm:
Thiếu việc làm là tình trạng việc làm trong đó người lao động không sử

dụng hết thời gian quy định và nhận được thu nhập thấp từ công việc khiến họ
9


có nhu cầu làm thêm. Tình trạng thiếu việc làm còn gọi là bán thất nghiệp.
Người lao động ở trong tình trạng này thường là lao động nông thôn, theo
mùa vụ, lao động khu vực thành thị không chính thức, lao động ở các cơ sở
sản xuất kinh doanh đang gặp khó khăn, lao động khu vực nhà nước dôi dư.
Tỷ lệ người thiếu việc làm là phần trăm số người thiếu việc làm so với
dân số hoạt động kinh tế (lực lượng lao động). Tỷ lệ sử dụng thời gian lao
động là phần trăm của tổng số ngày công làm việc thực tế so với tổng số ngày
công có nhu cầu làm việc (bao gồm số ngày công thực tế đã làm việc và số
ngày có nhu cầu làm thêm) của dân số hoạt động kinh tế.
- Thất nghiệp:
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), thất nghiệp là tình cảnh của
những người lao động không có việc làm vì những lý do ngoài ý muốn của
họ, do đó không có thu nhập.
Như vậy, thất nghiệp là những người có khả năng lao động, có nhu cầu
lao động nhưng hiện tại không có việc làm, đang tích cực tìm việc hoặc đang
chờ đợi trở lại làm việc. Thất nghiệp là hiện tượng phổ biến ở các quốc gia.
Tỷ lệ thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh tình hình
kinh tế - chính trị - xã hội của một quốc gia.
Tỷ lệ thất nghiệp được tính theo công thức sau:
Số người thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp =

x 100%

Lực lượng lao động
Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, người ta chia thất nghiệp ra

thành nhiều loại. Ở các nước đang phát triển người ta dùng khái niệm thất
nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình. Thất nghiệp trá hình gồm bán thất
nghiệp và thất nghiệp vô hình. Người ta cho rằng thất ngiệp trá hình là biểu
hiện chính của tình trạng chưa sử dụng hết lao động ở các nước đang phát
triển. Họ là những người có việc làm trong khu vực nông thôn hoặc thành thị
không chính thức nhưng việc làm đó có năng suất rất thấp, những người này
10


đóng góp ít hoặc không đáng kể vào phát triển sản xuất, hầu như không có
tích luỹ để đóng góp cho xã hội.
Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm cao sẽ có ảnh hưởng không tốt
đến tình hình kinh tế và xã hội. Về mặt kinh tế, nếu tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ
thiếu việc làm cao có nghĩa là một bộ phận lao động và tài nguyên sẽ bị lãng
phí trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Về mặt xã hội nó sẽ làm
gia tăng các tệ nạn xã hội, cuộc sống của con người luôn ở trạng thái căng
thẳng vì thiếu việc làm, từ đó dẫn đến hiện tượng có các dòng di dân từ những
nơi căng thẳng về việc làm đến những nơi có thể tìm được việc làm mội cách
dễ dàng hơn.
Vì vậy, các khái niệm về lao động và việc làm không nhất thiết áp dụng
cứng nhắc, dập khuôn cho mọi nước, mà tuỳ điều kiện cụ thể, yêu cầu và khả
năng sử dụng lao động của mỗi nước mà có thể đưa ra khái niệm phù hợp có
ý nghĩa thực tế cho nước mình, đáp ứng những yêu cầu và mục tiêu nhất định
của chính sách lao động, việc làm mà họ theo đuổi.
1.1.2. Đặc điểm lao động - việc làm ở nông thôn
* Khả năng tạo việc làm thấp
Khu vực nông thôn của nhiều nước đang phát triển và của nước ta có
đặc điểm chung là dân số tăng nhanh, cấu trúc dân số trẻ, dẫn đến nguồn lao
động hàng năm tăng với tốc độ cao. Vì vậy, khả năng tạo việc làm của nền
kinh tế luôn thấp hơn nhu cầu việc làm của lao động nông thôn. Ở Việt Nam,

số việc làm tăng hàng năm ở nông thôn chỉ đáp ứng được dưới 60% nhu cầu.
Trong khi công nghiệp và ngành nghề ở các địa phương chỉ thu hút thêm
được một số lượng không nhiều.
Sản xuất nông lâm ngư nghiệp là lĩnh vực tạo việc làm truyền thống
và thu hút nhiều lao động của dân cư nông thôn, nhưng bị giới hạn bởi diện
tích đất canh tác vốn rất hạn hẹp và có xu hướng giảm dần do quá trình đô thị
hoá và công nghiệp hoá đang phát triển mạnh ở các nước. Điều đó đã hạn chế
khả năng giải quyết việc làm ở nông thôn. Nếu tình trạng dân số còn gia tăng
11


thì sự khan hiếm đất nông nghiệp càng trầm trọng thêm, đưa đến hậu quả
ngày càng thiếu việc làm cho lao động nông nghiệp, nếu lực lượng này không
được chuyển dần sang khu vực sản xuất khác.
Sản xuất nông nghiệp luôn chịu tác động và bị chi phối mạnh mẽ của
các quy luật sinh học và các điều kiện tự nhiên cụ thể của từng vùng, tiểu
vùng như: đất đai, khí hậu, thời tiết... Quá trình sản xuất mang tính thời vụ
cao, thu hút lao động không đồng đều, trong ngành trồng trọt việc làm chỉ tập
trung chủ yếu vào thời điểm gieo trồng và thu hoạch, thời gian còn lại là rỗi
rãi đó là lao động " nông nhàn" trong nông thôn.
* Việc làm mang tính thời vụ
Quá trình sản xuất mang tính thời vụ cao và thu hút nhiều lao động
không đồng đều, hay nói cách khác thời gian làm việc không rõ ràng, không
cụ thể vì vào ngày mùa thì thời gian lao động tăng cao, những ngày nông
nhàn làm việc ít và trong thời kỳ nông nhàn, một bộ phận lao động nông thôn
thường chuyển sang làm các công việc phi nông nghiệp hoặc đi sang các địa
phương khác hành nghề để tăng thu nhập. Tình trạng thời gian nông nhàn
cùng với thu nhập thấp trong sản xuất nông nghiệp là nguyên nhân đầu tiên
gây nên hiện tượng di chuyển lao động trong nông thôn từ vùng này đến vùng
khác, từ nông thôn ra thành thị, tạm thời hoặc lâu dài.

Ở nông thôn về cơ bản không có thất nghiệp hoàn toàn nhưng nổi lên
vấn đề đáng quan tâm là thiếu việc làm, thực tế lao động nông nghiệp là chia
việc ra làm, đồng thời việc làm đó hiệu quả không cao, thu nhập thấp và đời
sống nhìn chung còn nhiều khó khăn.
Như vậy, ở khu vực nông thôn có hiện tượng thất nghiệp trá hình dưới
hai hình thức:
+ Chia nhau việc làm
+ Thất nghiệp theo thời vụ

12


Khác với lao động thành thị, lao động nông thôn làm việc không kể
ngày lễ, ngày chủ nhật. Nếu lao động thành thị làm việc khoảng 290 ngày thì
lao động nông thôn làm việc khoảng 340 - 350 ngày. Đặc điểm của lao động
nông thôn là tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng bởi vì diện tích đất bình
quân đầu người thấp và có xu hướng giảm xuống. Vì đất canh tác bình quân
đầu người thấp nên tình trạng thiếu việc làm và thu nhập thấp diễn ra ngay
trong bản thân phần lớn các hộ nông dân. Mặt khác, đặc điểm nổi bật của
nông nghiệp là tính thời vụ cao. Đặc điểm này quy định nhu cầu lao động,
thời gian lao động rất khác nhau trong năm. Những tháng thời vụ khẩn
trương, mỗi lao động phải làm việc 26 - 27 ngày trong một tháng, trong khi
đó lúc nông nhàn chỉ làm 6 - 7 ngày một tháng. Bên cạnh số lao động dư thừa
thời vụ nói trên, trong nông thôn đã và đang xuất hiện ngày càng đông số lao
động thiếu hoặc không có việc làm thường xuyên, thậm chí hầu như quanh
năm. Phần lớn trong số này là thanh niên chưa có nghề và lao động không có
đất hoặc đã chuyển nhượng đất, họ thực sự trở thành lao động thất nghiệp, lao
động làm thuê mà việc làm và thu nhập đều hết sức bấp bênh. Ngoài ra, trong
nông thôn nói chung còn tồn tại khá phổ biến lao động "dư thừa trá hình"
dưới dạng các hoạt động "tự phục vụ", hoạt động không mang lại thu nhập

hoặc có thu nhập thấp.
Nếu xem xét trên phương diện nghề nghiệp, sự phân bố các nguồn lực
và thành phần dân cư ở nông thôn có thể thấy tình trạng thiếu việc làm, dư
thừa lao động tập trung cao ở nhóm hộ thuần nông, hộ nghèo thiếu đất canh
tác, thiếu vốn và phương tiện sản xuất, thiếu năng lực và kinh nghiệm sản
xuất kinh doanh. Đối tượng thiếu việc làm trước hết là phụ nữ, lao động trẻ
không có nghề, vị thành niên và các đối tượng xã hội khác. Đây là nhóm dân
cư yếu thế, dễ tổn thương trong điều kiện kinh tế thị trường. Nhiều người
trong số họ không có khả năng và cơ hội tiếp cận nghề nghiệp, việc làm hoặc
thiếu các điều kiện để tạo lập và tìm kiếm việc làm.

13


Sản xuất nông nghiệp luôn luôn phụ thuộc vào các yếu tố: đất đai, cơ
sở hạ tầng như : giao thông, thuỷ lợi và các hoạt động dịch vụ sản xuất như
cung ứng giống, phân bón, phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch chế biến và tiêu thụ
sản phẩm... Do đó, tạo việc làm ở nông thôn phải dựa trên cơ sở đẩy mạnh
thâm canh, phát triển các hoạt động dịch vụ.
Trong nông thôn các hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông
nghiệp (công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ) thường bắt nguồn từ lao
động của kinh tế hộ gia đình. Các thành viên trong gia đình có thể chuyển đổi,
thay thế để thực hiện công việc của nhau. Vì vậy, việc chú trọng thúc đẩy phát
triển các hoạt động khác nhau của kinh tế hộ gia đình là một trong những biện
pháp giải quyết việc làm có hiệu quả.
Khả năng thu hút lao động trong các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi với
các cây trồng vật nuôi khác nhau, đồng thời thu nhập cũng rất khác nhau, vì
vậy việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng thu dụng nhiều lao
động cũng là biện pháp tạo thêm việc làm ngay trong sản xuất nông nghiệp.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn là hoạt động phi nông

nghiệp với một số nghề thủ công mỹ nghệ được lưu truyền từ đời này qua đời
khác trong từng gia đình, từng dòng họ, từng làng xã, dần dần hình thành nên
những làng nghề truyền thống tạo ra những sản phẩm hàng hoá tiêu dùng độc
đáo vưà có giá trị sử dụng vừa có giá trị văn hoá nghệ thuật đặc trưng cho
từng cộng đồng, từng dân tộc.
* Việc làm hiệu quả thấp
Nói chung việc làm trong nông nghiệp, nông thôn thường là những
công việc giản đơn, thủ công, ít đòi hỏi tay nghề cao, tư liệu sản xuất chủ yếu
là đất đai và công cụ cầm tay, dễ học hỏi, dễ chia xẻ. Vì vậy, khả năng thu hút
lao động cao nhưng sản phẩm làm ra trong sản xuất nông nghiệp phần đa là
chất lượng thấp, mẫu mã thường đơn điệu, NSLĐ thấp nên thu nhập bình
quân của lao động nông thôn nói chung chưa cao, tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn
còn khá cao so với thành thị. Ở nông thôn, có một số lượng khá lớn công việc
14


tại nhà không định thời gian như: trông nhà, trông cháu, nội trợ, làm vườn....
có tác dụng hỗ trợ tích cực tăng thêm thu nhập cho gia đình. Thực chất đây
cũng là việc làm có khả năng tạo thu nhập và lợi ích đáng kể cho người lao
động.
Thị trường sức lao động ở nông thôn thực tế đã có từ lâu nhưng chưa
thật sự phát triển. Hình thức trao đổi sức lao động diễn ra tự phát theo quan hệ
truyền thống trong cộng đồng, thiếu một cơ chế điều tiết thống nhất và không
được pháp chế hoá. Vì vậy, giá trị công lao động thường được đánh giá theo
thoả thuận dân sự, trực tiếp, việc thanh toán kết hợp cả giá trị và hiện vật.
Việc thuê mướn lao động dựa trên mối quan hệ thân quen là chủ yếu, vừa kết
hợp làm thuê chuyên nghiệp, vừa theo thời vụ. Lao động thủ công, cơ bắp là
chính. Một số nơi do chưa phát triển được ngành nghề, dẫn đến dư thừa lao
động, nhất là vào thời vụ nông nhàn, người lao động phải đi làm thuê ở vùng
khác, xã khác hoặc ra đô thị để tìm việc làm.

1.2. Những nhân tố kinh tế - xã hội ảnh hƣởng đến việc làm ở nông thôn
hiện nay
1.2.1. Tàì nguyên đất đai ở nông thôn
Đất đai là một yếu tố của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt không
chỉ đối với nông nghiệp mà còn đối với công nghiệp, dịch vụ phi nông
nghiệp…
Nước ta có diện tích hơn 330.000 km2, đứng thứ 58 trên thế giới; diện
tích bình quân đầu người là 0,45ha, đứng thứ 159 trong số gần 200 nước trên
thế giới. Hiện cả nước có 8,1 triệu ha đất nông nghiệp, bình quân 0,68ha/hộ
nông nghiệp và bình quân một lao động nông nghiệp có 0,27 ha, đặc biệt
vùng đồng bằng sông Hồng bình quân một lao động nông nghiệp chỉ có
600m2. Nhu cầu lao động ở nông thôn cho nông nghiệp tối đa chỉ 19 triệu
người. Nếu không phát triển mạnh việc làm phi nông nghiệp, sẽ dư thừa
tương đối lao động rất lớn, khoảng 10 triệu người [23].
15


Trong quá trình đô thị hoá, diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu
hẹp, nhất là ở những vùng nông thôn ven đô thị lớn, thị xã, thị trấn, hai bên
trục đường giao thông... Cùng với quá trình đô thị hoá đang diễn ra khá mạnh,
lao động nông thôn đang có xu hướng tăng lên. Tình hình trên dẫn đến bình
quân diện tích đất canh tác trên một lao động ở nông thôn Việt Nam vào loại
thấp nhất thế giới và do đó thời gian sử dụng ngày công nông nghiệp rất thấp.
Theo tài liệu điều tra, chỉ có 18% lao động nông nghiệp làm 210 ngày/năm,
còn lại làm dưới 200 ngày/ năm, trong đó 21% chỉ làm việc 90 ngày/năm
(mỗi ngày làm bình quân từ 4 - 5 giờ). Theo tính toán, nếu căn cứ vào quỹ đất
và làm thuần nông, lao động nông thôn dư thừa ít nhất 30%, tương đương 8- 9
triệu người .
Hiện nay ở nước ta diện tích đất nông nghiệp có khả năng khai thác còn
rất lớn, khoảng 9 triệu ha rừng và đất trống, đồi trọc, 90 vạn ha mặt nước, ao,

hồ và hàng vạn ha đất ven biển. Diện tích đất canh tác mặt nước càng lớn, tài
nguyên nông - lâm - thuỷ sản càng phong phú thì khả năng tạo ra việc làm
trong nông nghiệp, nông thôn càng nhiều. Nếu có chính sách tốt, diện tích này
sẽ giải quyết được việc làm cho hàng triệu lao động. Tuy nhiên, diện tích đất
đai, mặt nước của mỗi quốc gia là đại lượng hữu hạn và đang có xu hướng bị
co hẹp do sự xâm lấn của các ngành kinh tế khác. Tài nguyên nông, lâm, thuỷ
sản đang bị suy giảm nghiêm trọng, việc sử dụng đất trong các doanh nghiệp
nông- lâm nghiệp hiện còn nhiều lãng phí do sự khai thác quá mức của con
người. Theo quy hoạch, đất dành cho các nông, lâm trường quốc doanh lên tới
1,2 triệu ha, nhưng trên thực tế mới sử dụng khoảng 40%, trong khi đó dân lại
thiếu đất để canh tác. Vì vậy, vấn đề tạo việc làm đang trở nên khó khăn và
phức tạp khi lao động xã hội ngày một tăng lên, việc di dân xây dựng các
vùng kinh tế mới là hướng quan trọng để giải quyết việc làm cho các vùng
nông thôn, trước hết là vùng đồng bằng sông Hồng- nơi có mật độ dân số cao
nhất cả nước khoảng 800 người/km2 [15], [23], [45].
1.2.2. Chất lượng nguồn nhân lực
16


CNH- HĐH ở nước ta hiện nay được coi là sự nghiệp của toàn dân, của
mọi thành phần kinh tế. Đại hội IX của Đảng đã thông qua Chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội 2001- 2010 với mục tiêu: Đẩy mạnh CNH - HĐH theo
định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp.
CNH - HĐH là quá trình đổi mới trang thiết bị hiện đại phục vụ cho
quá trình sản xuất nhằm đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao bằng
phương pháp sản xuất công nghiệp, đồng thời chú trọng, phát triển các ngành
công nghệ cao. Đó là những công nghệ dựa vào những thành tựu mới nhất của
khoa học hiện đại như công nghệ tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới,
công nghệ gia công chính xác trong chế tạo máy, tự động hoá, năng lượng

mới.
Đối với lĩnh vực lao động - việc làm, sự phát triển của khoa học công
nghệ mang lại nhiều cơ hội để con người phát huy khả năng của mình, nhưng
đồng thời cũng tạo ra không ít thách thức. Kinh nghiệm của các nước phát
triển cho thấy, việc phổ biến các phương tiện tự động hoá sẽ làm cho những
nước có sức lao động rẻ và dư thừa bị mất dần ưu thế. Xu hướng hiện nay là
tăng lao động khoa học kỹ thuật và giảm lao động giản đơn, kỹ năng thấp.
Như vậy, trong xã hội hiện đại, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan
trọng trong quá trình tìm kiếm việc làm. Các quốc gia không lường trước
được hiện tượng này của sự phát triển khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến tình
trạng mất cân đối trong nguồn nhân lực. Vì vậy, khi phát triển khoa học và
công nghệ, chắc chắn xảy ra xu hướng gia tăng thất nghiệp của đội ngũ công
nhân không lành nghề. Ngay ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp có liên doanh với nước ngoài, sử dụng công nghệ tiên tiến cũng
không tuyển dụng đủ lao động do lao động được đào tạo thấp. Thực tế cho
thấy, trang bị máy móc, thiết bị càng hiện đại thì nguy cơ thất nghiệp càng
cao. Do đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung là giải pháp rất
quan trọng để hạn chế thất nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này, trước hết
17


cần có những biện pháp nhằm tăng cường năng lực thể chế của các cơ quan
hoạt động trong lĩnh vực lao động- việc làm. Thực hiện có hiệu quả chương
trình việc làm quốc gia thông qua nhiều hoạt động: đào tạo nghề cho nông
dân, phát triển nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng đầu tư
kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội...
1.2.3. Dân số và tỷ lệ tăng dân số
Việt Nam thuộc loại hình dân số trẻ, có tốc độ tăng dân số cao, quy mô
tương đối lớn nên lực lượng lao động rất dồi dào, đặc biệt là khu vực nông
thôn, lao động chiếm tỷ trọng lớn. Hàng năm, nguồn lao động cả nước vẫn

tiếp tục gia tăng ở mức cao, khoảng trên 1% với trên 1,3 triệu thanh niên bước
vào tuổi lao động, trong đó có khoảng 70 đến 80 vạn người ở khu vực nông
thôn. Tính đến 1/7/2003, tổng dân số của Việt Nam là 80.782.000 người, số
người ở độ tuổi lao động chiếm khoảng 60,66%, trong đó khoảng 42 triệu
người từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên tăng 1,8% so với
năm 2002 (khu vực thành thị có 10 triệu người chiếm 24%, khu vực nông
thôn 32 triệu người chiếm 76%) số lao động không biết chữ là 3,74% và
80,31% lao động có trình độ từ tiểu học trở lên nhưng có sự cách biệt khá lớn
giữa nông thôn và thành thị [41].
Bảng 1: Quy mô dân số và lực lƣợng lao động khu vực nông thôn
so với thành thị và cả nƣớc
Chỉ tiêu

2000
1000

Dân số cả
nƣớc
LLLĐ
trong đó
LLLĐ kv
thành thị
LLLĐ kv

2001
%

1000

2002

%

1000

2003
%

1000

người

người

người

người

77.912

78.713

79.930

80,782

%

38,643

100


39,120

100

40,7

100

42

100

8726

20,45

8931

22,83

9.7

23,87

10

24

29917


79,55

30189

77,17

31000

76,13

32

76

18


nông thôn

Nguồn: Số liệu điều tra lao động - việc làm toàn quốc 1999-2003
(Bộ Lao động Thương binh - Xã hội và Tổng cục Thống kê, NXB
Thống kê, Hà Nội).
Qua số liệu điều tra trên ta thấy quy mô lực lượng lao động hàng năm
gia tăng theo sự gia tăng của dân số (tuy dân số năm 1999 có giảm nhưng số
người tham gia vào lực lượng lao động vẫn tăng). Trong đó lực lượng lao
động nông thôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lực lượng lao động của cả
nước, tuy xu thế có giảm nhưng vẫn tăng nhanh về số tuyệt đối.
Trong 3 thập kỷ qua, mặc dù tỷ lệ dân số hàng năm ở nước ta liên tục
giảm, từ 3% xuống còn 1,8% nhưng tốc độ dân số vẫn còn cao gây sức ép

nhiều mặt cho xã hội, trong đó bức xúc nhất là việc làm. Giai đoạn 1989 1995 trung bình mỗi năm tăng trên 1,4 triệu, giai đoạn 1996 - 2003 tăng 1,17
triệu lao động trên cả nước. Như vậy mỗi năm dân số trung bình tăng khoảng
trên một triệu người. Trong đó tỷ lệ dân cư nông thôn vẫn tiếp tục tăng cao và
giảm không đáng kể. Trên cả nước, tỷ lệ tăng dân số các giai đoạn trước năm
1990 khá cao dẫn đến dân số tăng nhanh. Năm 1989 dân số cả nước là 64,4
triệu người, năm 1996 đã tăng lên 75,3 triệu người và đến năm 2003 dân số cả
nước lên tới 80,7 triệu người. Đặc biệt, tỷ lệ dân số ở các vùng nông thôn luôn
luôn cao hơn ở khu vực thành thị [39[, [41].
Về cơ cấu lao động theo độ tuổi, cả nước theo điều tra của Tổng cục
Thống kê, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội năm 1999 thì nhóm lực
lượng lao động trẻ (15 - 34 tuổi) chiếm 50,76%; nhóm lực lượng lao động
trung niên (35 - 54 tuổi) chiếm 42,24% và nhóm lực lượng lao động cao tuổi
(từ 55 tuổi trở lên) chiếm 7%. Kết quả này cho thấy sự biến động về cơ cấu
lao động chia theo nhóm tuổi qua các năm 1999, 2000, 2001, 2002, 2003 đã
diễn ra theo một xu hướng rõ rệt: Nhóm lao động trung niên ngày một gia
tăng nhanh cả về tương đối, tuyệt đối, nhóm lực lượng lao động trẻ và cao

19


tuổi ngày một giảm, trong đó nhóm cao tuổi giảm nhanh hơn cả về quy mô và
tốc độ.
Do quy mô lao động của nước ta lớn và tăng nhanh. Trong nguồn lao
động cần phải giải quyết việc làm hàng năm, ngoài số học sinh, sinh viên thôi
học hoặc số người đến tuổi lao động tham gia lực lượng lao động còn một số
lượng lớn những người chưa có việc làm từ năm trước chuyển sang năm sau,
lao động dôi ra do sắp xếp lại sản xuất hoặc cổ phần hoá các doanh nghiệp
khu vực Nhà nước, bộ đội xuất ngũ, lao động từ nước ngoài trở về, lao động
nông thôn mất đất canh tác, các đối tượng khác... Đây là một sức ép rất lớn
đối với công tác giải quyết việc làm của cả nước cũng như của khu vực nông

thôn nói riêng trong thời gian tới.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế- xã
hội đáng kể. Tuy nhiên, do tốc độ gia tăng dân số trong những năm trước đây
quá nhanh, nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ
tạo việc làm không tăng kịp với tốc độ gia tăng của nguồn lao động. Trong
thời kỳ 1976- 1980, tỷ lệ tăng nguồn lao động bình quân hàng năm là 3,25%,
con số tương ứng của thời kỳ 1981-1985 là 2,87%, thời kỳ1986-1990 là
3,06%, thời kỳ 1991 - 1995 là 2,27% và năm 2003 là 1,8%. Trong giai đoạn
1991 - 1996 chúng ta đã giải quyết được trên 6 triệu việc làm. Từ 1997 - 2003
giải quyết được khoảng 7 triệu việc làm. Tuy nhiên, trên thực tế, số người
bước vào độ tuổi lao động hàng năm vẫn cao hơn nhiều so với chỗ làm việc
có thể tạo ra, đó là một sức ép lớn. Ngoài ra còn phải kể đến sức ép của số lao
động bị mất việc làm do tác động của khủng hoảng kinh tế, của sức cạnh
tranh yếu kém của nền kinh tế nước ta. Chỉ tính riêng trong khu vực nhà
nước, đến cuối năm 1998 đã có khoảng 10% số lao động không bố trí được
việc làm. Theo điều tra của Bộ Lao động - Thương Binh và xã hội, năm 2003
tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nông thôn giảm xuống còn 5,78%
(giảm 0,23% so với năm 2002); tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm từ 6,28%
năm 2001 xuống 6,01% năm 2003, tỷ trọng lao động ở nông thôn tăng tử 74,
20


37% năm 2001 lên 76% năm 2003. Các số liệu thống kê và dự báo dân số còn
cho thấy, năm 1990 số người trong độ tuổi lao động mới là 35,7 triệu người,
năm 2002 là 47 triệu và năm 2015 con số này sẽ lên tới 62 triệu người. So với
năm 1990 đến năm 2015 sẽ có thêm 26 triệu người trong độ tuổi lao động [9],
[26], [41].
Dân số và việc làm có quan hệ vừa tương hỗ vừa hạn chế lẫn nhau, qui
mô dân số lớn, dân số tăng nhanh tất yếu sẽ làm tăng nguồn lao động và đồng
nghĩa với tăng sức ép về giải quyết việc làm với mỗi thành viên và cộng đồng,

gây ra tình trạng thất nghiệp trong xã hội. Mặt khác nguồn lao động là nguồn
lực rất cơ bản để phát triển kinh tế. Khi kinh tế phát triển khả năng tạo việc
làm trong xã hội nhiều. Giải quyết mối quan hệ dân số và việc làm là vấn đề
nan giải của mỗi quốc gia. Chính phủ luôn phải đối phó với xu hướng gia tăng
số lượng lao động với qui mô lớn hơn tốc độ gia tăng số chỗ làm việc. Vì vậy
bên cạnh việc kiểm soát tốc độ phát triển về số lượng lao động, việc không
kém phần quan trọng là phải nâng cao chất lượng nguồn lao động- một yếu tố
tác động trực tiếp đến khả năng giải quyết việc làm trong xã hội.
1.2.4. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Sau năm 1975 mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung được mở rộng ra
phạm vi cả nước. Khi cách mạng nước ta chuyển giai đoạn, cơ chế kế hoạch
hoá tập trung không còn phù hợp nữa gây trì trệ cho sản xuất. Do vậy, từ Hội
Nghị lần thứ sáu BCHTW khoá IV (1979) đến năm 1985 Đảng ta chủ trương
cải tiến cơ chế quản lý trong công nghiệp, nông nghiệp, lưu thông - phân phối
(giá - lương - tiền). Nhưng thực tế, trong quá trình cải tiến cơ chế quản lý vẫn
chưa thoát khỏi mô hình kinh tế cũ. Đặc biệt những sai lầm trong tổng điều
chỉnh giá, lương, tiền năm 1985 khiến lạm phát, giá cả tăng nhanh, khủng
hoảng kinh tế - xã hội diễn ra nghiêm trọng. Trước tình hình ấy, Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng và được Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, nhất là Đại hội IX tiếp tục khẳng
định. Một nội dung quan trọng của đổi mới kinh tế ở nước ta là chuyển đổi cơ
21


chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hành chính, bao cấp chuyển sang
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự điều
tiết của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế thị trường là con
đường giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã
hội, mà trước hết là giải phóng sức lao động, phát huy khuyến khích tính hăng
say sáng tạo của con người để vươn tới sự giàu có của bản thân và thịnh vượng của đất nước. Trong cơ chế mới, các doanh nghiệp, các hộ gia đình... là

những chủ thể kinh tế độc lập, tự mình quyết định sản xuất cái gì, sản xuất
như thế nào và cho ai. Đây chính là cơ hội cho các cá nhân và gia đình tạo
việc làm và thu nhập cho bản thân mình. Cơ chế quản lý kinh tế mới cùng với
các chính sách kinh tế đã làm cho khu vực kinh tế nông thôn có cơ sở ngày
càng mở rộng.
1.2.5 Thị trường lao động
Ở nước ta hiện nay quan hệ cung cầu về lao động còn căng thẳng về
mặt kết cấu dẫn đến tình trạng "thất nghiệp kết cấu”. Điều này thể hiện ở chỗ
một số ngành tiềm năng còn lớn, có khả năng thu hút được nhiều lao động,
nhưng chưa tạo ra được những điều kiện để biến khả năng thành hiện thực (về
vốn, kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, công nghệ, thị trường tiêu thụ...) như lâm
nghiệp, dịch vụ và du lịch... Ở một số vùng miền núi, đồng bằng sông Cửu
Long, ven biển vẫn thiếu sức lao động, nhưng khả năng di dân và di chuyển
lao động đến rất hạn chế. Tình trạng này tiếp tục kéo dài trong những năm tới,
dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm vì chúng ta thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng,
chiến lược lựa chọn công nghệ thích hợp chưa được xác định rõ ràng, cơ cấu
kinh tế đang trong quá trình chuyển dịch, nhưng diễn ra chậm chạp và khó
khăn, cung lớn hơn cầu về lao động do lao động còn tăng với tỷ lệ cao 3,2%3,5%/ năm, dẫn đến mỗi năm có khoảng 1,1 triệu thanh niên bước vào tuổi
lao động. Trong khi đó lao động nông thôn chiếm khoảng 70% lao động trong
cả nước, nếu chỉ làm thuần nông, tự cung tự cấp thì số lao động thiếu hoặc
không có việc làm lên tới 30%. Số này sẽ tự phát di chuyển ra thành phố hoặc
22


khu công nghiệp tập trung để tìm việc làm, làm cho cung về lao động càng
lớn. Trên thực tế đang có xu hướng lao động bị đẩy ra ở một số lĩnh vực thì
đồng thời một số lĩnh vực và hình thức khác lại xuất hiện khả năng thu hút
thêm lao động như kinh tế hộ gia đình, khu vực phi kết cấu, doanh nghiệp
nhỏ, nhưng lại chưa có chính sách khuyến khích thoả đáng. Đặc biệt là thiếu
một đội ngũ lao động có trình độ cao để làm việc trong một số lĩnh vực áp

dụng công nghệ mới hoặc trong các khu chế xuất, các đơn vị kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài...
1.2.6. Chính sách lao động - việc làm
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành hệ thống
các chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để các ngành, các hình thức kinh
tế, các vùng phát triển tạo nhiều việc làm mới, đáp ứng yêu cầu việc làm và
đời sống của người lao động. Hội nghị Thượng đỉnh Copenhagen tháng 3 năm
1995 đã coi mở rộng chiến lược phát triển xã hội của các nước trên thế giới từ
nay đến năm 2000 và 2010 là tập trung giải quyết việc làm cho lao động xã
hội, trong đó có lao động nông nghiệp, nông thôn. Chính sách việc làm thực
chất là một hệ thống các biện pháp có tác động mở rộng cơ hội để lực lượng
lao động của toàn xã hội tiếp cận được việc làm. Ngoài ra, chính sách việc
làm còn bao gồm các giải pháp trợ giúp cho các đối tượng đặc biệt (người tàn
tật, người hồi hương, đối tượng tệ nạn xã hội...) có cơ hội và điều kiện được
làm việc.
Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội. Giải quyết việc
làm giảm thất nghiệp là mục tiêu xã hội hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta.
Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm là chương trình trọng điểm của
Nhà nước. Đảng ta đã khẳng định: Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để
phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã
hội, đặc biệt là ở khu vực nông thôn nơi đang tồn tại tỷ lệ người chưa có việc

23


làm, thiếu việc làm khá cao, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức
xúc của nhân dân.
Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là
Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động

tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách cụ thể. Có
thể có rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề việc
làm, hợp thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ
sung cho nhau, hướng vào phát triển cả cung và cầu về lao động, đồng thời
làm cho cung và cầu phù hợp với nhau. Mặt khác, trong quá trình chuyển
sang cơ chế thị trường, tình trạng thất nghiệp là điều khó tránh. Để hạn chế
thất nghiệp, một mặt phải tạo ra chỗ làm việc mới, mặt khác phải tránh cho
người lao động đang làm việc lâm vào thất nghiệp. Ngoài ra, phải có hệ thống
bảo hiểm cho người lao động khi họ bị thất nghiệp.
Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách xã
hội và các chính sách kinh tế. Thực hiện tốt chính sách việc làm, nguồn lao
động được sử dụng có hiệu quả thì hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm đi, sẽ giảm
được chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Ngược lại, khi chính sách việc làm
chưa được giải quyết tốt, nạn thất nghiệp sẽ tăng lên và các tệ nạn xã hội sẽ dễ
dàng phát sinh. Khi đó gánh nặng của các chính sách về bảo đảm xã hội, an
ninh xã hội sẽ tăng lên và còn có thể gây ra những bất ổn về chính trị- xã hội.
Trong chính sách giải quyết việc làm, một nguyên tắc cơ bản cần phải dược
lưu ý, đó là đảm bảo cho mọi người được tiếp cận với cơ hội làm việc, trên cơ
sở Nhà nước tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi người có cơ hội chủ
động tìm kiếm việc làm, chống tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, tránh thực hiện
chủ nghĩa bình quân, chia đều việc làm với thu nhập thấp. Đồng thời, cũng
chống việc coi nhẹ trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế, khiến cho tình trạng thất nghiệp trở thành vấn đề xã hội gay cấn. Cần gắn
tiêu chuẩn về mức thu hút lao động của doanh nghiệp trong chính sách
khuyến khích hoặc hỗ trợ doanh nghiệp.
24


×