Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Kiểm soát giá đối với hàng hoá và dịch vụ độc quyền ở việt nam hiện nay luận văn ths kinh tế 5 02 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

LÊ THÀNH VIỆT

Kiểm soát giá đối với hàng hoá và dịch vụ
độc quyền ở Việt Nam hiện nay

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI, 2002


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1
KIỂM SOÁT GIÁ ĐỘC QUYỀN VÀ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA GIÁ ĐỘC
QUYỀN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1.1. Nguồn gốc và bản chất của độc quyền
1.1.1. Tính kinh tế của quy mô và độc quyền tự nhiên
1.1.2. Độc quyền do thoả thuận ngầm và sự hình thành của những

7
8

Cartel ngầm


1.1.3. Độc quyền do sự tồn tại của những vật cản đối với khả năng nhập

9

cuộc, bỏ cuộc của các doanh nghiệp và những biện pháp khắc phục
1.2. Hình thái thị trường độc quyền

10

1.2.1. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo

12

1.2.2. Thị trường độc quyền
1.2.3. Thị trường độc quyền nhóm

14

1.2.4. Nhận dạng các hình thái thị trường

16
18

1.3. Giá độc quyền và kiểm soát giá độc quyền
1.3.1. Giá độc quyền
1.3.1.1. Khái niệm cơ bản về giá hàng hoá dịch vụ độc quyền
1.3.1.2. Hậu quả tiêu cực của giá độc quyền

21
23

23
23

1.3.2. Kiểm soát giá độc quyền

26

1.3.2.1 Căn cứ xác định giá cả hàng hoá độc quyền Nhà nước
1.3.2.2. Sự can thiệp trực tiếp

30


1.3.2.3. Sự can thiệp gián tiếp
1.4. Kinh nghiệm của một số nước về kiểm soát giá độc quyền

31
33
39

1.4.1. Kinh nghiệm của Liên bang Mỹ
1.4.2. Kinh nghiệm của các nước Đông Âu

40

1.4.3. Kinh nghiệm của cộng hoà nhân dân Trung Hoa

40
42


CHƯƠNG 2

44

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KIỂM SOÁT GIÁ ĐỘC QUYỀN Ở VIỆT NAM

2.1. Quá trình hình thành và phát triển độc quyền ở Việt Nam
2.2. Kiểm soát giá độc quyền ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Khái quát về kiểm soát giá độc quyền ở Việt Nam

48

2.2.2. Thực trạng kiểm soát giá độc quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
53
CHƯƠNG 3

53
57

CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT ĐỘC QUYỀN GIÁ TRONG MỘT SỐ NGÀNH
KINH TẾ Ở VIỆT NAM

3.1. Vai trò của Nhà nước trong việc kiểm soát độc quyền và tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam
3.1.1. Vai trò của Nhà nước
3.1.2. Những nguyên tắc cơ bản của Nhà nước trong việc kiểm soát độc
quyền và tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam
3.2. Kiến nghị các giải pháp kiểm soát giá đối với các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực độc quyền ở Việt Nam
3.2.1. Phân loại hàng hoá, dịch vụ để xác định hình thức quản lý và kiểm


80
80


soát giá độc quyền

86

3.2.2. Căn cứ xác định giá đối với hàng hoá dịch vụ độc quyền
3.2.3. Ban hành hệ thống pháp luật nhằm kiểm soát giá độc quyền và tạo
môi trường cạnh tranh lành mạnh để chống độc quyền về giá
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91

93
100

104
109


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một động lực quan trọng để
phát triển nền kinh tế của mỗi nước. Cạnh tranh gay gắt tất yếu dẫn đến tình
trạng độc quyền. Mặt khác do mục đích tối đa hoá lợi nhuận trong kinh tế thị
trường do đó cũng hình thành nên các tổ chức độc quyền. Độc quyền tuy gây

nhiều hậu quả tai hại cho xã hội. Song trong một số ngành đặc biệt (hàng hoá
và dịch vụ công cộng ảnh hưởng tới an ninh quốc gia) nhiều nước vẫn phải
duy trì tình trạng độc quyền ở mức độ nhất định để đảm bảo lợi ích của
người tiêu dùng và duy trì chi phí sản xuất xã hội ở mức hợp lý do tính kinh
tế quy mô sản xuất lớn của nó.
Do vậy, để nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định, cần phải thiết lập
được môi trường cạnh tranh lành mạnh, giới hạn tình trạng độc quyền ở mức
hợp lý và kiểm soát được giá những ngành độc quyền mà Nhà nước cần duy
trì. Chính vì vậy, ở những nước có nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường thì vấn đề kiểm soát độc quyền nói chung và kiểm soát giá độc quyền
nói riêng luôn được coi trọng, trở thành những chính sách lớn của Nhà nước
và được thể chế hoá thành các đạo luật.
Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế nên vấn đề cạnh
tranh và độc quyền chưa được hiểu biết sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.
Cho đến nay, Nhà nước vẫn chưa có đủ khuôn khổ pháp lý cũng như các
chính sách nhằm tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các
doanh nghiệp, do vậy tình trạng độc quyền giá của các doanh nghiệp vẫn
đang tồn tại trên quy mô rộng gây hậu quả xấu cho hoạt động kinh doanh và
người tiêu dùng.

1


Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 3 Khoá IX về tiếp tục
sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp tháng 9-2001
đã khảng định “đối với doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực độc
quyền cần có quy định kiểm soát giá và điều tiết lợi nhuận”.
Như vậy, một khuôn khổ pháp lý cho việc kiểm soát độc quyền nói
chung và độc quyền giá nói riêng đang là một yêu cầu cấp bách nhằm sớm
hình thành một môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi thành viên trong

xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này tác giả đã chọn đề tài:
“Kiểm soát giá đối với hàng hoá và dịch vụ độc quyền ở Việt Nam hiện
nay”. Đây là đề tài chứa đựng nhiều vấn đề thực tiễn và lý luận có ý nghĩa
trong việc kiểm soát giá độc quyền khi mà độc quyền giá đang là vấn đề bức
xúc của người tiêu dùng và pháp luật cạnh tranh, chống độc quyền đang
trong quá trình soạn thảo.
2. Tình hình nghiên cứu
Kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh là vấn đề
được một số học giả quan tâm, đề cập tới ví dụ như:
- Đặng Vũ Huân, Về cạnh tranh, chống cạnh tranh bất hợp pháp và
kiểm soát độc quyền, Bộ Tư pháp, 1996.
- Lê Viết Thái, Cơ sở và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách cạnh
tranh ở Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động, 2000.
- Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Cạnh tranh và xây dựng
pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Công an Nhân dân,
2001.
Nhìn chung các học giả trước chủ yếu nghiên cứu kiểm soát độc
quyền, chống cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh...còn trong
luận văn này, tác giả đề cập tới một vấn đề mới “kiểm soát giá độc quyền”

2


nhằm mục đích tạo ra môi trường bình đẳng cho các nhà kinh doanh, đảm
bảo lợi ích cho người tiêu dùng và toàn xã hội.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Cung cấp cơ sở lý thuyết và phương pháp luận để làm rõ nguồn gốc,
bản chất của độc quyền, khái niệm về giá độc quyền và kiểm soát giá độc
quyền cũng như những tác động của nó đối với quá trình phát triển kinh tế.
Để từ đó làm căn cứ cho việc nghiên cứu thực trạng độc quyền và kiểm soát

giá độc quyền ở Việt Nam như: tình trạng độc quyền ở Việt Nam đều xuất
phát từ những quyết định hành chính của cơ chế cũ để lại, pháp luật về kiểm
soát giá độc quyền ở Việt Nam còn thiếu, nhiều doanh nghiệp lợi dụng độc
quyền gây ra những thiệt hại cho Nhà nước và người tiêu dùng... Và qua đó,
luận văn đề xuất một số kiến nghị các giải pháp can thiệp của Nhà nước
nhằm kiểm soát giá đối với hàng hoá dịch vụ độc quyền.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các cơ quan Nhà nước liên quan đến kiểm
soát độc quyền nói chung và giá độc quyền nói riêng như: các cơ quan quản
lý về giá, tài chính, thuế, xuất nhập khẩu..., các doanh nghiệp kinh doanh các
hàng hoá dịch vụ độc quyền ở Việt Nam và người tiêu dùng với những phản
ứng của họ đối với việc duy trì các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá dịch
vụ độc quyền.
Phạm vi nghiên cứu gồm hai phần lý thuyết và thực tiễn.
Về lý thuyết, luận văn tập trung làm rõ nguồn gốc bản chất của độc
quyền, khái niệm về giá độc quyền và kiểm soát giá độc quyền, sự cần thiết
khách quan kiểm soát giá đối với hàng hoá dịch vụ độc quyền.

3


Về thực tiễn, nghiên cứu thực trạng kiểm soát giá đối với hàng hoá
dịch vụ độc quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, đánh giá chung về giá
của một số ngành độc quyền để qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm kiểm
soát giá đối với hàng hoá dịch vụ độc quyền.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là áp dụng lý thuyết vào phân
tích thực tiễn, sử dụng phương pháp biện chứng, phương pháp thu thập và xử
lý thông tin, phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp...làm căn cứ để đánh
giá thực trạng và đưa ra những kiến nghị giải pháp trên cơ sở khoa học trong

việc kiểm soát giá độc quyền.
Nói một cách cụ thể, luận văn đã kế thừa và sử dụng những học
thuyết, phương pháp luận của kinh tế học hiện đại để luận giải một cách
khoa học về sự vận động và phát triển của độc quyền, giá độc quyền và kiểm
soát giá độc quyền, nhận dạng hình thái thị trường độc quyền.
Đồng thời, luận văn sử dụng phương pháp thu thập và xử lý thông tin
dữ liệu, trên cơ sở đó thực hiện việc phân tích động thái của thị trường độc
quyền ở nước ta, để làm căn cứ thực tế đánh giá thực trạng độc quyền trong
một số ngành kinh tế từ đó sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng
hợp để đưa ra những kiến nghị giải pháp cho việc kiểm soát giá độc quyền ở
Việt Nam trong thời gian tới.
6. Những kết quả đạt đƣợc và điểm mới của luận văn
Về mặt lý thuyết, luận văn cung cấp một cách khái quát có hệ thống
những vấn đề cơ bản lý thuyết về độc quyền, giá độc quyền và kiểm soát giá
độc quyền bao gồm các yếu tố tác động đến sự hình thành vận động của các
hình thái thị trường (cạnh tranh, độc quyền, độc quyền nhóm) cũng như

4


những tác động tích cực và những hạn chế của chúng tới quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Về mặt thực tiễn, trên cơ sở lý thuyết, luận văn đã phân tích thực trạng
độc quyền và kiểm soát giá độc quyền ở Việt Nam, đưa ra một số kiến nghị
mới nhằm kiểm soát giá đối với hàng hoá và dịch vụ độc quyền ở nước ta
trong thời gian tới.
Cụ thể, luận văn đã chỉ ra thực trạng độc quyền và kiểm soát giá độc
quyền ở Việt Nam hiện nay là: toàn bộ độc quyền ở nước ta hiện nay là độc
quyền của các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành do cơ chế kinh tế cũ
để lại, hệ thống pháp luật cho việc kiểm soát độc quyền nói chung và kiểm

soát độc quyền giá nói riêng còn thiếu đồng bộ, việc kiểm soát giá ở các
ngành độc quyền chỉ chú ý tới việc kiểm tra mức giá mà chưa quan tâm tới
kiểm tra chi phí giá thành sản xuất.
Luận văn đã đưa ra một số kiến nghị mới cho việc kiểm soát giá độc
quyền ở Việt Nam trong giai đoạn tới là: tăng cường vai trò kiểm soát của
Nhà nước đối với các doanh nghiệp độc quyền, phân loại hàng hoá dịch vụ
độc quyền để làm căn cứ cho việc kiểm soát giá độc quyền, căn cứ xác định
giá độc quyền, ban hành luật điều chỉnh riêng đối với từng ngành độc quyền
nhằm mục đích hạn chế những hành vi lợi dụng vị thế độc quyền để nâng
giá, ép giá...gây phương hại đến lợi ích của người sản xuất, người tiêu dùng
và cho toàn xã hội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn
bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về độc quyền, giá độc quyền và kiểm soát giá
độc quyền trong nền kinh tế thị trường như: nguồn gốc và bản chất của độc

5


quyền; hình thái thị trường độc quyền: cạnh tranh hoàn hảo, độc quyền và
độc quyền nhóm; độc quyền giá và hậu quả tiêu cực của nó đối với phát triển
kinh tế, kiểm soát độc quyền giá; kinh nghiệm của một số nước về kiểm soát
giá độc quyền.
Chương 2: Một số vấn đề về kiểm soát giá độc quyền ở Việt Nam như:
quá trình hình thành và phát triển độc quyền ở Việt Nam; kiểm soát giá độc
quyền ở nước ta hiện nay.
Chương 3: Các giải pháp kiểm soát độc quyền giá trong một số ngành
kinh tế ở Việt Nam như: vai trò của Nhà nước trong việc kiểm soát độc
quyền và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam; kiến nghị các

giải pháp kiểm soát giá đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
độc quyền ở Việt Nam.

6


CHƢƠNG 1
KIỂM SOÁT GIÁ ĐỘC QUYỀN VÀ ẢNH HƢỞNG TIÊU CỰC CỦA
GIÁ ĐỘC QUYỀN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1.1. Nguồn gốc và bản chất của độc quyền
Cạnh tranh tự do theo luật định là một động lực quan trọng của sự
phát triển. Cạnh tranh thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung nguồn lực, vốn
và các yếu tố khác của quá trình tái sản xuất. Cạnh tranh cao độ sẽ làm
xuất hiện các doanh nghiệp lớn có khả năng khống chế được thị trường
và tiến tới độc quyền trên thị trường đó.
Xét về bản chất của quá trình cạnh tranh, nếu để tự do quá trình
này sẽ phát triển theo lộ trình sau đây: từ cạnh tranh lành mạnh sang
cạnh tranh không lành mạnh mang tính độc quyền, từ cạnh tranh mang
tính độc quyền sang độc quyền. Độc quyền khi mới xuất hiện có những ý
nghĩa tiến bộ nhất định. Để giành được vị trí độc quyền các doanh nghiệp
phải cải tiến tổ chức quản lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tập trun g
mọi nguồn lực tạo sức mạnh để giành giữ vị trí độc quyền. Do vậy, độc
quyền đã có những tác động tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung
các nguồn lực để phát triển tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn, luôn đi
đầu về mặt kỹ thuật công nghệ. Song khi đã giữ vững được vị trí độc
quyền thì các doanh nghiệp độc quyền lại tìm cách duy trì địa vị độc
quyền của mình bằng cách thôn tính hoặc tiêu diệt các đối thủ, không
chú trọng tới việc tăng năng suất, cải tiến kỹ thuật nữa... Những doanh
nghiệp độc quyền này lại là những lực cản cho môi trường cạnh tranh.

Như vậy ngoài nguyên nhân cạnh tranh khốc liệt dẫn đến độc
quyền có thể chỉ ra ba nguyên nhân chính dẫn đến độc quyền đó là: đặc
thù của công nghệ sản xuất sản phẩm, sự thông đồng ngầm giữa các

7


doanh nghiệp ở trong ngành và những cản trở đối với việc nhập cuộc của
các doanh nghiệp tiềm năng.
1.1.1. Tính kinh tế của quy mô và độc quyền tự nhiên
Từ những thông tin và số liệu về chi phí và nhu cầu, chúng ta có
thể dự đoán được cơ cấu của ngành sẽ là độc quyền hay cạnh tranh. Nhìn
chung cơ cấu này sẽ phụ thuộc vào đường cong chi phí trung bình và
đường cong cầu.
Trong điều kiện cạnh tranh nếu không có sự trợ giúp thì các doanh
nghiệp sẽ chỉ sản xuất nếu nhu cầu ít nhất phải đạt được mức của qui mô
tối thiểu có hiệu quả, và do đó đường cong sẽ bắt đầu từ mức sản lượng
tối thiểu đó. Ở đây qui mô tối thiểu có hiệu quả được định nghĩa như
mức sản lượng mà ở đó chi phí trung bình đạt mức thấp nhất.
Tỷ lệ qui mô tối thiểu có hiệu quả và qui mô của nhu cầu là yếu tố
quyết định đến cơ cấu độc quyền hay cạnh tranh trên thị trường. Điều
này có thể minh họa thông qua hình 1.
p

p

MES

D(p)


D(p)

AC

AC

*
(A) q

MES

q

* *
(B) q

q

Hình 1
Trong hình 1, đồ thị (A) mô tả ngành có qui mô tối thiểu có hiệu quả
(điểm thấp nhất trong đường cong chi phí trung bình AC, tức là điểm MES)
nhỏ so với nhu cầu (giao điểm của đường cong cầu D (p) và đường chi phí

8


trung bình AC), tức là điểm hoà vốn được ký hiệu là q* trong hình (A) và
q** trong hình (B) và do đó ngành này có cơ cấu cạnh tranh tiềm năng. Ở
đây cần lưu ý là, trong giai đoạn dài hạn chi phí cố định có thể thay đổi tuỳ
theo sự thay đổi của công nghệ, đặc biệt là phụ thuộc vào sự vận động của

nhu cầu. Điều này dẫn đến sự thay của đường cong chi phí trung bình cùng
với động thái nhu cầu, do đó qui mô tối thiểu có hiệu quả MES cũng khả
biến khi có những sự thay đổi lớn về nhu cầu.
Đồ thị (B) cho thấy, qui mô tối thiểu hiệu quả (MES) rất lớn so với nhu
cầu (q**). Do vậy, ngành này có cơ cấu độc quyền tiềm năng và những độc
quyền như vậy được gọi là “độc quyền tự nhiên”. “Tự nhiên” ở đây nói lên
rằng, cơ cấu độc quyền là do đặc điểm công nghệ và nhu cầu đối với sản
phẩm của ngành tạo ra chứ không phải là yếu tố lịch sử hay ảnh hưởng của
cơ chế chính sách kinh tế. Hay nói cách khác, trong những điều kiện về công
nghệ và nhu cầu như vậy, sự tồn tại của độc quyền là khách quan và do đó
biện pháp duy nhất mà Nhà nước có thể làm là điều tiết những độc quyền đó.
1.1.2. Độc quyền do thoả thuận ngầm và sự hình thành của những
Cartel ngầm
Trong một vài trường hợp, mặc dù trong một ngành có một số doanh
nghiệp hoạt động, song các doanh nghiệp này có những thoả thuận ngầm và
hình thành nên Cartel, họ định ra giá và sản lượng gần với giá và sản lượng
độc quyền. Tuy Cartel bị nghiêm cấm theo luật và bị trừng phạt nặng nếu có
bằng chứng ở nhiều nước, song trên thực tế vẫn tồn tại những thoả thuận
ngầm (không viết thành văn bản) giữa các doanh nghiệp nhằm tối đa hoá lợi
nhuận của ngành, gây thiệt hại cho xã hội. Song lý thuyết đã chỉ ra, các
doanh nghiệp tham gia Cartel ngầm nói chung là không bền vững, trừ phi
mỗi doanh nghiệp đều có một kế hoạch làm ăn lâu dài trên thị trường đó, coi
trọng lợi nhuận thu được trong tương lai và Cartel phải có một cơ chế trừng
phạt thích hợp đối với việc thành viên bí mật vi phạm thoả thuận ngầm. Bởi

9


vậy, để chống lại những Cartel ngầm, một mặt Chính phủ phải có những biện
pháp phạt nặng nếu phát hiện ra sự tồn tại của chúng, mặt khác phải tạo ra

một cơ cấu ngành mềm dẻo với khả năng nhập cuộc của các doanh nghiệp
mới và khả năng bỏ cuộc của các doanh nghiệp đã có mặt trên thị trường
được dễ dàng. Điều này có nghĩa là cơ cấu của ngành rất năng động, luôn có
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong Cartel và ngoài Cartel, đồng thời
các Cartel không có được một cơ cấu bền vững do khả năng bỏ cuộc chống
lại những tổ chức ngầm. Chính phủ phải chú trọng những biện pháp gián
tiếp, đặc biệt là những biện pháp mang tính cơ cấu.
1.1.3. Độc quyền do sự tồn tại của những vật cản đối với khả năng
nhập cuộc, bỏ cuộc của các doanh nghiệp và những biện pháp khắc phục
Trong thực tế, một số ngành có cơ cấu cạnh tranh tiềm năng, song trong
một giai đoạn nào đó lại ở trong tình trạnh độc quyền. Tuy lợi nhuận của các
doanh nghiệp độc quyền rất cao tạo sự nhòm ngó của các doanh nghiệp khác
song sự nhập cuộc của các doanh nghiệp mới lại không xảy ra. Nguyên nhân
chính là trong ngành này có những vật cản đối với khả năng nhập cuộc. Có
thể chia những vật cản ra làm hai loại: Vật cản tuyệt đối và vật cản tương
đối.
- Vật cản tuyệt đối.
Đây là những cản trở loại bỏ hoàn toàn sự nhập cuộc trong một giai
đoạn nào đó. Những vật cản này mang tính chất pháp lý, bằng các điều luật
chứ không phải tính chất kinh tế. Trong một giai đoạn nhất định, vì một lý do
nào đó mà Nhà nước muốn bảo vệ tính độc quyền của một ngành nào đó nếu
không cho phép bất cứ một sự nhập cuộc nào.
Một ví dụ phổ biến nhất trong thực tế là bảo vệ bản quyền đối với
những phát minh và sáng chế. Một bằng sáng chế cho phép người phát minh
độc quyền sử dụng và thu lợi từ sáng kiến đó trong một thời gian. Đặc quyền
đó một mặt khuyến khích đầu tư cho khoa học kỹ thuật, mặt khác lại gây ra

10



sự thiệt hại cho xã hội do có sự độc quyền. Do vậy luật phải tìm được thời
hạn tối ưu cho độc quyền đối với phát minh sáng chế đó.
- Vật cản tương đối.
Vật cản tương đối thường mang tính kinh tế, việc nhập cuộc không bị
cấm đoán song do có những khó khăn lớn mà sự nhập cuộc của các doanh
nghiệp đứng ngoài là không có lợi. Có 3 nguyên nhân dẫn đến vật cản tương
đối:
Một là: Sự kém hoàn thiện của thị trường vốn.
. Những người vay khác nhau phải trả lãi suất vay khác nhau và lãi
suất sẽ tăng khi lượng vay tăng lên. Điều này cũng dễ hiểu vì việc nhập cuộc
thường được ngân hàng coi là công việc mạo hiểm nên sẽ đòi lãi suất cao
hơn. Lượng vay càng lớn thì độ mạo hiểm càng lớn nên lãi suất phải trả càng
cao.
. Sự vắng mặt hay kém hoàn thiện của thị trường vốn dài hạn và của
thị trường chứng khoán. Như chúng ta biết, những doanh nghiệp độc quyền
thường là những doanh nghiệp có qui mô lớn. Nếu doanh nghiệp khác nhập
cuộc với một qui mô nhỏ hơn quy mô tối ưu, tức là qui mô có hàm chi phí
trung bình trong giai đoạn dài hạn AC là nhỏ nhất, chi phí trung bình của
doanh nghiệp mới nhập cuộc sẽ cao hơn so với chi phí đó của doanh nghiệp
độc quyền và do vậy rất khó cạnh tranh. Việc nhập cuộc với qui mô tối ưu
đòi hỏi phải có những khoản chi cho đầu tư cơ bản lớn. Ngân hàng chỉ có thể
cho vay một phần những khoản vốn trung hạn và dài hạn đó. Còn một tỷ
trọng lớn của những đầu tư đó cần phải nhận được từ thị trường vốn và thị
trường chứng khoán bằng việc bán cổ phiếu hay trái phiếu doanh nghiệp.
Như vậy việc hoàn thiện thị trường vốn cũng là một biện pháp chống
độc quyền, tuy gián tiếp song rất căn bản, rất lâu dài và có hiệu quả, vì Chính
phủ không phải có những chi phí to lớn để kiểm soát, giám sát và theo dõi

11



chi phí sản xuất của các doanh nghiệp độc quyền. Điều này rất có ý nghĩa đối
với Việt Nam là nơi thị trường vốn rất hạn chế.
Hai là: Một số lợi thế đặc biệt về chi phí của doanh nghiệp độc quyền.
Doanh nghiệp độc quyền có những lợi thế về vị trí, mạng lưới tiêu thụ,
mạng lưới cung cấp đầu vào, thông tin, kinh nghiệm chuyên gia và quan hệ
với khách hàng. Những lợi thế này dẫn đến việc các doanh nghiệp độc quyền
có lợi thế nhất định về chi phí so với các doanh nghiệp mới nhập cuộc.
Ba là: Sự trung thành của khách hàng quen.
Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp, quan hệ lâu dài nhiều khi
quan trọng không kém gì so với giá trong quan hệ giữa người bán hàng và
người mua hàng. Quan hệ lâu năm giữa doanh nghiệp độc quyền với người
tiêu dùng, sự bảo thủ và không ưa mạo hiểm của khách hàng dẫn đến việc
các doanh nghiệp mới nhập cuộc phải chi phí cho quảng cáo, khuyến mại và
chất lượng cao hơn so với các doanh nghiệp độc quyền, ít nhất là trong
những giai đoạn đầu.
Tất cả 3 điểm trên tạo ra sự phi đối xứng về chi phí có lợi cho doanh
nghiệp độc quyền. Tuy nhiên, việc cơ cấu độc quyền trên thị trường có bền
vững hay không còn phụ thuộc vào tương quan lực lượng giữa doanh nghiệp
độc quyền và các doanh nghiệp nhập cuộc tiềm năng và cuộc tranh đấu thực
sự giữa các doanh nghiệp này.
1.2. Hình thái thị trƣờng độc quyền
Quá trình trong đó giá cả và sản phẩm được xác định trong thế giới thực
thường được phản ánh rõ ràng trong cơ cấu thị trường. Một thị trường bao
gồm tất cả những người mua, người bán hiện có và ở dạng tiềm năng của
một sản phẩm.
Thông thường cơ cấu thị trường được chia làm 3 dạng: cạnh tranh hoàn
hảo một thái cực, độc quyền thuần tuý ở một thái cực khác và độc quyền ở

12



giữa. Ba dạng khác nhau này của cơ cấu thị trường được xác định và phân
biệt bởi số lượng và qui mô của người mua và người bán, dạng của sản phẩm
được mua hay bán, mức độ linh động của nguồn hàng và thị trường (các
hãng và cá nhân có dễ dàng gia nhập và đi khỏi thị trường không) và kiến
thức mà các thành viên trong thị trường đang có về giá cả và chi phí, điều
kiện của cung và cầu.

SƠ ĐỒ CÁC HÌNH THÁI THỊ TRƢỜNG

Cạnh tranh hoàn hảo

Độc quyền nhóm

Độc quyền

Cạnh tranh về giá

Cạnh tranh về lƣợng

Sản phẩm không thuần nhất mà
có một số tính chất khác nhau 
phân liệt sản phẩm theo chiều dọc tức
là theo tính chất

Sản phẩm thuần nhất song phân liệt
theo chiều ngang tức là theo không gian

Dưới giác độ phân tích phúc lợi, trong sơ đồ trên, tổn thất xã hội sẽ tăng

dần từ trái sang phải tức là cạnh tranh hoàn hảo cho đến độc quyền nhóm và
cao nhất là độc quyền. Cụ thể là nếu chuyển dạng thị trường từ trái sang
phải, giá cả sẽ tăng lên còn lượng cung ứng sẽ giảm dần đi. Dạng thực tế phổ
biến nhất là độc quyền nhóm và trong nội bộ dạng này, tổn thất xã hội tỷ lệ

13


nghịch với cấp độ khốc liệt của cạnh tranh giữa các tập đoàn độc quyền mà
cấp độ này lại tỷ lệ nghịch với khả năng phối hợp chính sách giữa các tập
đoàn này (khả năng hình thành nên những Cartel công khai và ngầm). Như
vậy trừ một vài trường hợp đặc biệt, việc phối hợp chính sách giữa các công
ty thường làm tăng tổn thất xã hội. Bởi vậy những biện pháp chống độc
quyền trên thực chất là làm thay đổi cơ cấu thị trường theo chiều từ phải
sang trái (độc quyền  độc quyền nhóm  cạnh tranh hoàn hảo). Trên thực
tế, dạng thị trường cạnh tranh hoàn hảo rất hiếm có và thường là ở những
ngành nhỏ và không quan trọng. Bởi vậy, một khi đã chuyển được cơ cấu thị
trường từ độc quyền sang độc quyền nhóm thì bước tiếp theo của các biện
pháp chống độc quyền là làm tăng thêm tính khốc liệt của cạnh tranh trong
dạng này và đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng.
1.2.1. Thị trƣờng cạnh tranh hoàn hảo
Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo thì giá và lượng của một hàng hoá
trên thị trường hoàn toàn xác định bởi thế lực thị trường: cung và cầu về
hàng hoá đó và do vậy một hãng tham gia thị trường phải là người chấp nhận
giá (nó có thể bán bất kỳ số lượng nào theo giá thị trường).
- Ý nghĩa và tính chất quan trọng của thị trường cạnh tranh hoàn hảo.

Theo như định nghĩa ở trên thì cạnh tranh hoàn hảo là hình thái thị
trường, trong đó có rất nhiều người mua và người bán một sản phẩm, họ là
quá nhỏ so với qui mô thị trường do vậy không có khả năng để tác động tới

giá của sản phẩm. Điều này có nghĩa là sự thay đổi sản lượng của một hãng
hoàn toàn không ảnh hưởng gì tới giá thị trường. Tương tự, mỗi người mua
cũng quá nhỏ để có thể đòi hỏi người bán những điều như phải giảm giá khi
mua nhiều hay bán chịu...
Sản phẩm của mỗi doanh nghiệp là đồng nhất hay được tiêu chuẩn hoá
hoàn hảo, người mua không thể phân biệt được sản phẩm của hãng này với
hãng khác, do vậy họ có thể chọn bất cứ hãng nào để mua. Tất nhiên “môi

14


trường” có thể thay đổi được thái độ bàng quan của họ (chất lượng dịch vụ,
địa điểm bán...).
Trong cạnh tranh hoàn hảo mọi yếu tố đều tự do dịch chuyển, có nghĩa
là công nhân hay những sản phẩm đầu vào có thể dễ dàng dịch chuyển để
phản ứng nhanh chóng với những thay đổi, không có một đầu vào nào là sản
phẩm độc quyền. Về mặt dài hạn, các hãng đều có thể gia nhập và đi khỏi thị
trường một cách dễ dàng. Có nghĩa là không có giấy phép, không cần phải có
nhiều vốn để gia nhập thị trường, và các hãng đã hình thành cũng không có
ưu thế gì hơn các hãng mới gia nhập thị trường về kinh nghiệm hay qui mô.
Về cơ bản, trong cạnh tranh hoàn hảo thì khách hàng và các doanh
nghiệp có kiến thức hoàn hảo về giá hiện tại, giá tương lai, chi phí và những
cơ hội kinh tế. Do vậy, người mua hàng không cần thiết trả một giá cao hơn
cho một sản phẩm. Chênh lệch giá sẽ nhanh chóng kết thúc và một giá thống
nhất cho một sản phẩm sẽ thống trị toàn thị trường. Với thông tin hoàn hảo
về giá cả hiện tại, tương lai và chi phí, những nhà sản xuất sẽ biết chính xác
phải sản xuất bao nhiêu là vừa đủ và có lợi nhất cho họ.
- Hình thành giá trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Trong cạnh tranh hoàn hảo giá của một sản phẩm hoàn toàn được xác
định bởi cung và cầu của thị trường (tại điểm giao nhau của đường biểu diễn

cung và cầu). Do vậy, một doanh nghiệp có vị trí cạnh tranh là người chấp
nhận giá. Có nghĩa là hãng này chấp nhận giá thị trường của sản phẩm và
hoàn toàn không thể tác động tới giá thị trường bằng cách thay đổi sản lượng
sản xuất. Do sản phẩm của các hãng là đồng nhất, nên một hãng không thể
bán sản phẩm cao hơn giá của hãng khác, làm như vậy hãng sẽ mất hết khách
hàng. Mặt khác, một hãng cũng không có lý do gì để bán với giá thấp hơn
giá của hãng khác vì nếu làm như vậy về lâu dài, hãng này sẽ không có “lợi
nhuận kinh tế”.

15


Tuy nhiên, việc nghiên cứu hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo
chủ yếu có ý nghĩa về mặt lý thuyết khi chúng ta đặt vấn đề nghiên cứu các
loại hình thái thị trường một cách toàn diện.
Trên thực tế, cả thời kỳ sơ khai của sản xuất hàng hoá cũng không tồn
tại thị trường cạnh tranh hoàn hảo theo đúng ý nghĩa vốn có của nó. Chỉ có
một số loại hình thị trường có dáng dấp gần với mô hình thị trường cạnh
tranh hoàn hảo tồn tại ở một số ngành như sản xuất nông nghiệp phân tán
hoặc trong phạm vi một khu vực buôn bán nhỏ ở một số thành phố.
1.2.2. Thị trƣờng độc quyền
Độc quyền là một hình thái thị trường trong đó có một doanh nghiệp
duy nhất bán một sản phẩm mà không có một sản phẩm thay thế gần giống
với nó (được gọi là độc quyền bán), hoặc chỉ có một người mua (được gọi là
độc quyền mua). Do vậy độc quyền là thái cực trái ngược với cạnh tranh
hoàn hảo.
So sánh thị trường độc quyền và thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Khi một ngành công nghiệp mang tính cạnh tranh hoàn hảo ở trong
trạng thái cân bằng dài hạn thì mỗi doanh nghiệp sẽ sản xuất với chi phí bình
quân cho một đơn vị sản phẩm thấp nhất và cũng bán với giá cạnh tranh thấp

nhất. Ngược lại trong độc quyền, sản xuất thường không được tiến hành ở
điểm chi phí bình quân thấp nhất, do việc gia nhập thị trường là rất khó khăn
và nhà độc quyền về lâu dài sẽ thu được lợi nhuận độc quyền. Nhưng từ đây
chúng ta chưa thể kết luận được là cạnh tranh hoàn hảo nhất thiết phải tốt
hơn hay hiệu quả hơn độc quyền.
Cạnh tranh hoàn hảo chỉ có hiệu quả hơn độc quyền nếu qui mô tối
thiểu hiệu quả (MES) của mỗi doanh nghiệp là rất nhỏ so với toàn bộ nhu
cầu thị trường, điều này sẽ cho phép nhiều doanh nghiệp hoạt động và nếu
sản phẩm là đồng nhất thì cạnh tranh hoàn hảo có thể xảy ra. Nhưng thực tế
điều này ít xảy ra, bởi vì trong nhiều ngành qui mô tối thiểu hiệu quả thường

16


là lớn do vậy có rất ít doanh nghiệp hoạt động để thoả mãn nhu cầu thị
trường. Tính kinh tế của qui mô sản xuất đã đòi hỏi một số ngành như thép,
nhôm, ô tô, vỏ máy tính, máy bay và rất nhiều dịch vụ phải có sản lượng đầu
ra lớn để sản xuất có hiệu quả cao. Như vậy, chỉ có một vài doanh nghiệp rất
lớn tồn tại để đáp ứng toàn bộ nhu cầu thị trường. Dưới những điều kiện như
vậy thì không thể có cạnh tranh hoàn hảo hoặc nếu có thì chỉ với điều kiện
chi phí sản xuất rất cao. Chẳng hạn, giá của một chiếc xe ô tô sẽ rất cao nếu
có 100 hãng cùng sản xuất thay cho vị trí của 3 hay 4 hãng rất lớn.
Cũng có một số người cho rằng khả năng cho phép nhà độc quyền thu
được lợi nhuận cao sẽ tạo cho nhà độc quyền có vốn và khuyến khích để đầu
tư vào nghiên cứu và phát triển. Điều này là một suy đoán rất quan trọng vì
một phần rất lớn của khả năng tăng điều kiện sống của các nước công nghiệp
phát triển có nguồn gốc từ tiến bộ trong công nghệ. Tuy vậy, vẫn có nhiều
người không đồng tình với quan điểm cho rằng độc quyền sẽ mang lại nhiều
đổi mới về công nghệ hơn so với cạnh tranh hoàn hảo. Cũng có một số người
cho rằng một nhà độc quyền được che chắn đối với cạnh tranh và không có

nhiều động cơ để cải tiến sản xuất và thực tế rất nhiều công nghệ mới đã
được áp dụng ở những doanh nghiệp rất nhỏ.
Chỉ khi chúng ta không xét tiến bộ công nghệ và giả định rằng công
nghệ được sử dụng để sản xuất sản phẩm cho phép rất nhiều doanh nghiệp
sản xuất có hiệu quả thì chúng ta mới có thể chứng minh được cạnh tranh
hoàn hảo là tốt hơn độc quyền theo giác độ toàn xã hội.
Tóm lại, chúng ta có thể chứng minh rằng cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn
đến việc sử dụng có hiệu quả hơn của cải và nguồn lực xã hội so với độc
quyền chỉ khi công nghệ sản xuất sản phẩm cho phép nhiều doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả trên thị trường. Song thông thường do tính kinh tế của
qui mô sản xuất luôn đòi hỏi sản lượng sản xuất của một doanh nghiệp phải

17


lớn, và như vậy chỉ có một hay rất ít doanh nghiệp là có thể thoả mãn được
toàn bộ thị trường của một sản phẩm.
1.2.3. Thị trƣờng độc quyền nhóm
Độc quyền nhóm là một hình thái tổ chức thị trường trong đó có một số
người cạnh tranh với nhau trong việc bán một sản phẩm thuần nhất. Tuỳ theo
tham số hành động của các tập đoàn độc quyền là giá hay là lượng ta sẽ có
hai dạng cạnh tranh tương ứng giữa các tập đoàn độc quyền, cạnh tranh về
giá và cạnh tranh về lượng. Khác với thị trường độc quyền, nơi mà giá và sản
lượng độc quyền không phụ thuộc vào tham số hành động. Ở thị trường độc
quyền nhóm, giá bán và lượng cung ứng phụ thuộc đáng kể vào sự lựa chọn
này.
Cạnh tranh về lượng thường xảy ra khi việc điều chỉnh sản lượng có
khó khăn nhất định và tốn kém. Trong thực tế, cạnh tranh về lượng thường
được thực hiện khi các công ty đưa ra quyết định về công suất sản xuất ở giai
đoạn trước khi nhập cuộc hoặc điều chỉnh lại công suất đối với các công ty

đã ở trong cuộc rồi (đổi mới nhà máy, thay đổi qui trình công nghệ...), cạnh
tranh về giá thường được tiến hành ở giai đoạn sau nhập cuộc. Lý thuyết đã
chỉ ra rằng, chi phí cố định chỉ tác động lên giá một cách gián tiếp, thông qua
việc quyết định qui mô nhập cuộc ở giai đoạn một (giai đoạn cạnh tranh về
lượng). Giá chỉ chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc cạnh tranh ở giai đoạn sau
nhập cuộc tức là cạnh tranh về giá. Hệ quả là cạnh tranh về giá càng khốc liệt
ở giai đoạn sau sẽ dẫn đến một thị trường có cơ cấu tập trung hơn, tức là với
một qui mô cầu cho trước, các công ty tham gia thị trường sẽ có qui mô lớn
hơn và do đó số lượng các công ty ít hơn
- Cạnh tranh giữa các tập đoàn độc quyền với sự phân liệt sản phẩm
theo chiều ngang (theo không gian).
Ví dụ, trên cả nước có một số doanh nghiệp sản xuất xi măng (sản phẩm
tương đối thuần nhất) nằm ở các vị trí khác nhau và thị trường này có thể xếp

18


vào loại độc quyền nhóm với sự phân liệt sản phẩm theo không gian. Trên
thực tế, chi phí vận chuyển và bảo quản xi măng rất lớn và do đó mỗi doanh
nghiệp có thể thay đổi giá cả của mình ở mức độ nào đó đối với người tiêu
dùng trong vùng sản xuất của doanh nghiệp mà không ảnh hưởng đến lượng
tiêu thụ xi măng của các doanh nghiệp khác. Như vậy, mỗi doanh nghiệp đều
được lợi thế độc quyền địa phương và dưới giác độ đó cơ cấu thị trường này
thực chất là tập hợp của các độc quyền ở trên các thị trường nhánh.
- Cạnh tranh giữa các tập đoàn độc quyền với sự phân liệt sản phẩm
theo chiều dọc (theo tính chất sản phẩm).
Một dạng đặc biệt của thị trường này trong đó có một số lượng người
bán đáng kể cạnh tranh, song mỗi người bán đó lại có một sức mạnh độc
quyền nào đó, được gọi là thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền.
Thị trường dịch vụ viễn thông trong đó có sự cạnh tranh giữa điện thoại

có dây với điện thoại di động (các dịch vụ này có khả năng thay thế lẫn nhau
ở một mức độ nhất định) là một ví dụ khác của thị trường độc quyền nhóm
với sự phân liệt sản phẩm theo tính chất.
Thực tế cho thấy, các công ty đều có xu thế phân liệt sản phẩm (hoặc
theo không gian hoặc theo tính chất) một cách tối đa để giảm mức độ khốc
liệt của cạnh tranh. Mặt khác các công ty có xu hướng làm gia tăng thị phần
của mình thông qua đẩy mạnh quảng cáo, nâng cấp chất lượng dịch vụ...cách
này được gọi là cạnh tranh phi giá cả. Ví dụ, khi General Motors có một
chiến lược quảng cáo lớn, thì Ford và Chrysler sẽ nhanh chóng làm theo. Khi
hãng Pepsicola có một chiến dịch quảng cáo lớn trong những năm 80 thì
hãng Cocacola cũng đáp lại bằng một chiến dịch quảng cáo của riêng họ.
Hành vi của các bên tham gia thị trường. Do mục đích cơ bản của người
tiêu dùng là tối đa hoá lợi ích tiêu dùng, của người sản xuất là tối đa hoá lợi
nhuận. Vì vậy, tuỳ thuộc vào hình thái thị trường cụ thể mà họ có những
phương thức ứng xử khác nhau vì những mục đích trên. Song nhìn chung dù

19


ở bất kỳ hình thái thị trường nào, bất cứ ai khi tham gia thị trường đều rất
quan tâm đến hai loại tham số, tham số hành động và tham số chờ đợi.
. Tham số hành động là đại lượng kinh tế mà người kinh doanh dùng nó
để đạt mục đích của mình.
. Tham số chờ đợi là một biến số mà người kinh doanh không thể quyết
định được, trái lại nó được qui định do các nhà kinh doanh khác (hoặc người
mua) trên cơ sở đáp lại hoặc phản ứng lại tham số hành động của bên bán.
Ví dụ: Hai tham số giá cả và lượng cung ứng. Một doanh nghiệp sản
xuất độc quyền có thể lựa chọn một trong hai tham số trên là tham số hành
động. Giả định họ chọn giá cả làm tham số hành động của mình thì người
mua sẽ chiếm lấy tham số chờ đợi, tức là người mua sẽ qui định số lượng có

thể tiêu thụ được của việc doanh nghiệp độc quyền với giá bán do họ định ra.
Trái lại, nếu doanh nghiệp độc quyền muốn quy định số lượng bán ra (tham
số hành động) thì người mua sẽ quy định mức giá (tham số chờ đợi) để có
thể tiêu thụ khối lượng đó.
Tuy nhiên, một doanh nghiệp độc quyền bao giờ cũng thích lựa chọn
giá cả làm tham số hành động và khống chế sản lượng cung ứng ở mức
“hàng hiếm” để đạt được lợi nhuận tối đa. Đó là phương sách ứng xử ít tốn
kém nhất và hoàn toàn độc lập. Trái lại, ở trạng thái thị trường (nhiều người
bán nhỏ và nhiều người mua nhỏ) giá cả hầu như không phụ thuộc lắm vào
việc gia nhập thêm hay rút bớt một vài người tham gia thị trường bởi vì
lượng cung cầu mà họ chiếm được không đáng kể so với tổng số, ở đây thị
trường định giá là chủ yếu, người sản xuất mất đi cái quyền lựa chọn giá là
tham số hành động để tối đa lợi nhuận, họ chỉ còn cách quyết định một sản
lượng tối ưu để đạt lợi nhuận cao nhất, đó là phương sách ứng xử chủ yếu
nhất, tức là tìm cách thích nghi với thị trường.
Ở hình thái thị trường vừa cạnh tranh vừa độc quyền thì tình hình phức

tạp hơn nhưng xu thế của nó là, bất cứ ai có nguyện vọng muốn tránh né

20


cạnh tranh, muốn lẩn trốn nó hoặc loại trừ nó càng mạnh thì cường độ cạnh
tranh càng lớn. Nhưng quan hệ cạnh tranh trên thị trường này giữa người
cung càng ráo diết thì xu thế tạo nên liên minh độc quyền càng lớn, xu
hướng độc quyền càng mạnh.
Một vấn đề khác cũng cần làm sáng tỏ thêm trên thực tế cạnh tranh là
cạnh tranh giá cả là chủ yếu hay cạnh tranh chất lượng tốt, kỹ thuật mới là
chủ yếu? Suy cho cùng cạnh tranh kỹ thuật mới hay chất lượng tốt chỉ là
công cụ để đạt được sự thành công trong cạnh tranh giá cả. Nếu một sản

phẩm mới mà người sản xuất bí mật được giải pháp công nghệ của họ, thì họ
sẽ bán nó với giá cao hơn mức giá thu được lợi nhuận bình quân. Trái lại,
một sản phẩm mới nếu khó giữ được bí mật bí quyết kỹ thuật thì người sản
xuất sẽ đồng thời tăng khối lượng sản xuất lên rất lớn và giảm giá bán thấp
hơn mức giá thu được lợi nhuận bình quân để ngăn cản các đối thủ cạnh
tranh có thể xâm nhập vào thị trường.
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng loại sản phẩm mà sự cạnh tranh về giá
mãnh liệt hơn hay chất lượng mãnh liệt hơn. Ví dụ: đối với nhiều loại hàng
tiêu dùng, hàng lương thực, thực phẩm, dịch vụ...thì sự thay đổi chất lượng
thực tế chỉ chú trọng vào những thay đổi “màu mè” cách trình bày, hương vị,
sự tiện nghi...ở đây sự cạnh tranh giá cả nguy hiểm hơn đối với nhà sản xuất
kinh doanh. Trái lại, những mặt hàng mốt, thời trang...thì cạnh tranh mốt thời
trang, dáng kiểu lại mãnh liệt hơn cạnh tranh giá cả.
1.2.4. Nhận dạng các hình thái thị trƣờng
Trước khi đưa ra quyết định áp dụng các biện pháp kiểm soát giá hay
chống độc quyền trong một ngành nào đó, chúng ta phải nhận dạng chính
xác được hình thái cơ cấu thị trường trong ngành đó (tức là xác định được đó
là thị trường độc quyền, độc quyền nhóm hay cạnh tranh và cấp độ cạnh
tranh ở thị trường đó như thế nào). Nếu không các biện pháp mà Nhà nước
áp dụng có thể sẽ ít hiệu quả hoặc thậm chí gây ra những hậu quả tiêu cực.

21


×