ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
LÊ CHÍ CÔNG
CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CHO HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH TRUYỀN HÌNH TRẢ TIỀN (PAY-TV)
CỦA ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ:
60 34 05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS NGUYỄN ĐĂNG NAM
HÀ NỘI – Năm 2006
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
6
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
6
2. Tình hình nghiên cứu
9
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
10
5. Phương pháp nghiên cứu
10
6. Những đóng góp mới của luận văn
11
7. Kết cấu luận văn
11
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CHẾ TÀI
CHÍNH VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRUYỀN HÌNH
1.1. Những vấn đề cơ bản về cơ chế tài chính
12
12
1.1.1. Cơ chế tài chính
12
1.1.2. Đổi mới cơ chế tài chính
14
1.2. Hoạt động kinh doanh truyền hình
1.2.1. Kỹ thuật truyền hình và các phương thức truyền dẫn
14
14
1.2.1.1. Kỹ thuật truyền hình:
15
1.2.1.2. Phương thức truyền dẫn:
17
1.2.2.Các hình thức kinh doanh truyền hình
18
1.2.2.1. Quảng cáo trên truyền hình:
18
1.2.2.2. Truyền hình trả tiền (Pay-TV):
18
1.2.3. Kinh doanh truyền hình trả tiền trên thế giới và ở Việt
Nam
19
2
1.2.4. Kinh nghiệm quốc tế về cơ chế tài chính cho hoạt động
truyền hình
26
1.2.4.1. Cơ chế tài chính được áp dụng như đối với các
doanh nghiệp
26
1.2.4.2. Có sự chuyên môn hoá rõ rệt giữa sản xuất và
phân phối chương trình
28
1.2.4.3. Nguồn thu cho hoạt động truyền hình phong phú,
đa dạng
30
Chương 2. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CHO HOẠT
ĐỘNG TRUYỀN HÌNH TRẢ TIỀN CỦA ĐÀI TRUYỀN
HÌNH VIỆT NAM
33
2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển của Đài Truyền
hình Việt Nam và cơ chế tài chính cho hoạt động truyền hình
33
2.1.1. Lịch sử ra đời; chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy
của Đài Truyền hình Việt Nam
33
2.1.1.1. Lịch sử ra đời:
33
2.1.1.2. Chức năng của Đài Truyền hình Việt Nam
34
2.1.1.3. Nhiệm vụ cơ bản của Đài Truyền hình Việt Nam:
35
2.1.1.4. Tổ chức bộ máy của Đài Truyền hình Việt Nam
36
2.1.2. Sự ra đời và phát triển của hoạt động kinh doanh
truyền hình trả tiền của Đài Truyền hình Việt Nam
37
2.2. Thực trạng cơ chế tài chính của hoạt động truyền hình và
truyền hình trả tiền của Đài Truyền hình Việt Nam.
40
2.2.1. Quá trình hình thành cơ chế tài chính cho hoạt động
truyền hình và truyền hình trả tiền của Đài Truyền hình Việt Nam.
40
2.2.1.1. Qúa trình hình thành cơ chế tài chính cho hoạt
động truyền hình.
40
2.2.1.2. Cơ chế tài chính của hoạt động kinh doanh truyền
hình trả tiền.
52
2.2.2. Những ưu điểm và hạn chế của cơ chế tài chính hiện
3
hành đối với hoạt động truyền hình và truyền hình trả tiền của Đài
Truyền hình Việt Nam.
53
2.2.2.1. Ưu điểm:
53
2.2.2.2. Hạn chế.
57
Chƣơng 3. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CHO HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH PAY-TV CỦA ĐÀI THVN
3.1. Chiến lược phát triển của Đài Truyền hình Việt Nam
64
64
3.1.1. Truyền hình Việt Nam trước thách thức của đời sống
và thời đại.
64
3.1.2. Chiến lược phát triển của Truyền hình Việt Nam đến
năm 2010
67
3.2. Cơ hội, thách thức và chiến lược phát triển truyền hình trả tiền
của Đài Truyền hình Việt Nam.
68
3.2.1. Những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển
truyền hình trả tiền của Đài Truyền hình Việt Nam.
68
3.2.1.1. Cơ hội.
68
3.2.1.2. Thách thức.
69
3.2.2. Chiến lược phát triển truyền hình trả tiền của Đài
Truyền hình Việt Nam
70
3.3. Xây dựng cơ chế tài chính cho hoạt động kinh doanh truyền
hình trả tiền của Đài Truyền hình Việt Nam
73
3.3.1. Các quan điểm chỉ đạo để xây dựng cơ chế tài chính
cho hoạt động kinh doanh truyền hình trả tiền của Đài Truyền hình
Việt Nam.
73
3.3.2. Xác định mô hình phát triển của Đài Truyền hình Việt
Nam trong tương lai và cơ chế tài chính cho hoạt động kinh doanh
truyền hình trả tiền.
76
3.3.2.1. Mô hình phát triển của Đài Truyền hình Việt Nam.
76
3.3.2.2. Cơ chế tài chính của Trung tâm Truyền hình Cáp
(VCTV).
83
4
3.3.3. Các điều kiện cần thiết để thực hiện cơ chế tài chính
cho hoạt động truyền hình trả tiền.
88
3.3.3.1. Điều kiện bên ngoài- sự hỗ trợ từ phía cơ quan
chủ quản.
88
3.3.3.2. Điều kiện bên trong- sự vận động, chuyển biến nội
tại.
90
Kết luận
92
Tài liệu tham khảo
95
Phụ lục
97
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thế kỷ XXI là thế kỷ mà thời cơ và thách thức cùng tồn tại. Cùng
với quá trình toàn cầu hoá kinh tế, quan hệ kinh tế giữa các nước ngày càng
trở nên mật thiết, đồng thời sự cạnh tranh trong các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, khoa học kỹ thuật, văn hoá và đặc biệt là thông tin ngày càng trở nên
gay gắt.
Thông tin ngày nay được xem như một nguồn lực quan trọng để phát
triển kinh tế- xã hội đất nước. Sự phát triển của thế giới trong những thập
niên gần đây cho thấy vai trò ngày càng tăng của thông tin trong quá trình
biến đổi khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Thành công hay thất
bại của một quốc gia tuỳ thuộc rất lớn vào khả năng chiếm được lợi thế
thông tin. Thiếu thông tin, các quyết định sẽ bị sai lệch, thiếu cơ sở khoa
học, không thực tiễn và trở nên kém hiệu quả. Chính V.I Lênin đã từng
khẳng định "Không có thông tin thì không có thắng lợi trong bất cứ lĩnh
vực nào, cả khoa học, kỹ thuật và sản xuất".
Truyền hình là một trong những phương tiện thông tin đại chúng có
tác động mạnh mẽ và sâu rộng nhất, đang ngày càng trở thành nhu cầu thiết
yếu trong đời sống xã hội, là công cụ để điều hành, quản lý đất nước; là
phương tiện trong việc mở rộng sự giao lưu, hiểu biết giữa các quốc gia,
dân tộc; là nguồn cung cấp tri thức một cách tương đối toàn diện cho công
chúng. Truyền hình ngày nay đã trở thành một ngành sản xuất công nghiệp
với đầy đủ các ý nghĩa, tính chất toàn cầu mà truyền hình mang lại khiến
nó trở thành đối tượng nghiên cứu trong cả lĩnh vực lý thuyết lẫn ứng dụng,
lợi ích mà truyền hình mang lại, cũng như tác hại của nó gây ra cho xã hội.
6
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm và chú ý đặc
biệt đến sự phát triển của ngành truyền hình. Nghị quyết Hội nghị BCHTW
Đảng lần thứ 5 (Khoá VIII) tháng 7/1998 về Xây dựng và phát triển văn
hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc đã khẳng định: "Chăm lo đặc biệt về
định hướng chính trị tư tưởng văn hoá cũng như về kỹ thuật hiện đại đối
với truyền hình là loại báo chí có ưu thế lớn, có sức thu hút quần chúng
đông đảo".
Nằm trong hệ thống các cơ quan thuộc Chính phủ, Đài Truyền hình
Việt Nam là một đơn vị sự nghiệp thực hiện chức năng thông tin, tuyên
truyền, góp phần nâng cao dân trí và phục vụ nhu cầu giải trí của nhân dân.
Cũng như những ngành kinh tế- kỹ thuật khác, Đài Truyền hình Việt Nam
cũng trải qua các giai đoạn thăng trầm cùng với quá trình phát triển của đất
nước, và cũng cực kỳ khó khăn vào giai đoạn khủng hoảng kinh tế đất nước
vào đầu những năm 90. Từ năm 1995 đến nay Truyền hình Việt Nam đã có
những bước chuyển biến cả về quy mô phát triển và chất lượng chương
trình.
Về cơ chế quản lý tài chính, giai đoạn trước năm 1995, mặc dù đất
nước đã trải qua hàng chục năm đổi mới, nhưng đối với hoạt động Truyền
hình thì khái niệm hạch toán thu, chi vẫn còn xa lạ. Đổi mới dường như chỉ
là công việc của các đơn vị kinh doanh, còn Truyền hình được coi là một
hoạt động đặc biệt, thuộc độc quyền nhà nước, vì thế theo suy nghĩ tự nhiên
là phải được hưởng cơ chế tài chính bao cấp đặc biệt của Nhà nước. Với cơ
chế bao cấp đặc biệt đó, sau 25 năm ra đời và phát triển, Đài Truyền hình
Việt Nam cũng chỉ ở quy mô một kênh chương trình, phát sóng 4 tiếng một
ngày và phủ sóng ở phạm vi đồng bằng sông Hồng.
Từ năm 2001, với việc thực hiện Quyết định 87/TTg ngày 01/6/2001
của Thủ tướng Chính phủ về khoán thu, khoán chi cho các hoạt động của
Đài Truyền hình Việt Nam và hiện nay theo Quyết định 124/TTg ngày
31/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ, hoạt động truyền hình dần thoát khỏi
cơ chế bao cấp, tạo điều kiện và động lực mới cho Truyền hình Việt Nam
7
phát triển mạnh mẽ. Ưu điểm cơ bản của cơ chế tài chính hiện hành là tạo
sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho Đài Truyền hình Việt Nam trong mọi
hoạt động. Tuy nhiên, Đài Truyền hình Việt Nam từ một đơn vị hành chính
sự nghiệp thuần tuý, chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu, cơ chế tài chính
hiện hành cũng bộc lộ nhiều điểm bất cập. Trước hết là sự khác biệt giữa
cơ chế tài chính của Đài THVN với cơ chế tài chính đang áp dụng chung
cho các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu nói chung. Hơn nữa trong nội
bộ Đài Truyền hình Việt Nam, việc áp dụng đồng nhất cơ chế tài chính
giữa các đơn vị có đặc điểm hoạt động khác nhau, giữa các đơn vị kinh
doanh và các đơn vị thuần tuý sự nghiệp thuộc Đài cũng bộc lộ những bất
hợp lý, làm mất đi lợi thế cạnh tranh và động lực phát triển của các đơn vị
kinh doanh dịch vụ này.
Theo quy hoạch phát triển Đài Truyền hình Việt Nam đến năm 2010
và những năm sau, Đài truyền hình Việt Nam sẽ trở thành đài quốc gia, một
tập đoàn truyền thông mạnh trong khu vực. Để làm được điều đó, vấn đề
kinh doanh dịch vụ truyền hình nói chung và kinh doanh dịch vụ truyền
hình trả tiền (Pay-TV) nói riêng có một vị trí quan trọng trong việc tạo
nguồn lực tài chính cho việc phát triển hoạt động truyền hình trong nền
kinh tế thị trường. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh Pay-TV là lĩnh vực
kinh doanh rất mới mẻ, đến nay vẫn chưa có được một cơ chế tài chính phù
hợp. Trung tâm Truyền hình Cáp (VCTV), đơn vị có chức năng kinh doanh
Pay-TV của Đài Truyền hình Việt Nam hiện vẫn áp dụng quy chế quản lý
tài chính như các đơn vị sự nghiệp thuần tuý phục vụ nhiệm vụ chính trị
(các ban biên tập). Các đơn vị làm nhiệm vụ kinh doanh khác cũng chưa có
quyền tự chủ tài chính trong việc thực hiện những quyết định kinh doanh
của mình.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu xây dựng cơ chế tài chính phù
hợp cho hoạt động kinh doanh truyền hình trả tiền (Pay-TV) trở thành
một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
8
2. Tình hình nghiên cứu
Từ 1995 trở về trước, Đài Truyền hình Việt Nam hoạt động hoàn
toàn theo cơ chế bao cấp, chưa có một đề tài nào nghiên cứu về cơ chế tài
chính và đổi mới phương thức hoạt động. Năm 1997, Đài Truyền hình Việt
Nam thực hiện và bảo vệ thành công đề tài cấp ngành về “Hệ thống định
mức đơn giá nhân công cho các chức danh truyền hình”. Mặc dù còn nhiều
hạn chế nhưng đề tài này đã giúp cho Đài có cơ sở để khoán sản phẩm
truyền hình và là tiền đề để đổi mới cơ chế tài chính sau này.
Đề tài Cơ chế tài chính cho hoạt động truyền hình trả tiền là đề tài
nghiên cứu đầu tiên về lĩnh vực này.
Được tham gia đề tài xây dựng định mức đơn giá nhân công cho các
chức danh truyền hình và tham gia từ những ngày đầu xây dựng cơ chế mới
áp dụng cho Đài Truyền hình Việt Nam, tác giả có điều kiện hệ thống toàn
bộ quá trình đổi mới cơ chế tài chính của Đài, và trên cơ sở phát triển đề tài
định mức nói trên, tác giả tiếp tục nghiên cứu, phát hiện những bất cập làm
cản trở hoạt động của Đài, đồng thời đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế tài
chính cho hoạt động truyền hình nói chung và kinh doanh truyền hình trả
tiền nói riêng.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề cơ bản về hoạt động truyền
hình và kinh doanh truyền hình trả tiền (PAY-TV) và cơ chế tài chính cho
hoạt động truyền hình và kinh doanh truyền hình trả tiền; những kinh
nghiệm quốc tế về cơ chế tài chính cho các hoạt động này.
- Đánh giá thực trạng cơ chế tài chính hiện hành đối với hoạt động
truyền hình của Đài truyền hình Việt Nam nói chung, hoạt động kinh doanh
9
truyền hình trả tiền nói riêng; Đánh giá các ưu, nhược điểm của cơ chế tài
chính hiện hành.
- Đề xuất các phương án kinh doanh truyền hình trả tiền và cơ chế tài
chính cho hoạt động kinh doanh truyền hình trả tiền phù hợp với định
hướng chiến lược phát triển hoạt động Đài Truyền hình Việt Nam trong
giai đoạn mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động truyền hình và cơ chế tài chính cho
cho hoạt động của Đài Truyền hình Việt Nam nói chung, luận văn đặc biệt
đi sâu nghiên cứu hoạt động kinh doanh truyền hình trả tiền và xây
dựng cơ chế tài chính cho hoạt động này.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu tập trung vào hoạt động
truyền hình và cơ chế tài chính cho cho hoạt động của Đài Truyền hình
Việt Nam nói chung, hoạt động kinh doanh truyền hình trả tiền và cơ chế
tài chính cho hoạt động kinh doanh truyền hình trả tiền trong giai đoạn từ
năm 1995 đến 2006.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống kiến thức về kinh tế học, về thực tiễn hoạt động
của ngành cũng như cơ sở pháp lý được quy định trong những văn bản
pháp quy của Nhà nước về cơ chế tài chính cho hoạt động truyền hình, tác
giả sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê...
nhằm đánh giá, làm rõ các vấn đề liên quan mà luận văn nghiên cứu. Tác
giả cũng sử dụng các phương pháp trình bày bảng, biểu, đồ thị để làm rõ
thêm các luận điểm đó.
10
6. Những đóng góp mới của luận văn
Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động truyền hình nói
chung và truyền hình trả tiền nói riêng; so sánh những đặc thù của cơ chế
tài chính mà Đài Truyền hình Việt Nam đang áp dụng với khung khổ pháp
lý hiện hành, luận văn đưa ra những giải pháp hoàn thiện cơ chế tài chính
của hoạt động truyền hình, đồng thời xây dựng cơ chế tài chính áp dụng
cho hoạt động truyền hình trả tiền, giúp cho các đơn vị sự nghiệp đang kinh
doanh truyền hình trả tiền có được cơ chế tài chính phù hợp, đảm bảo
quyền tự chủ tài chính, nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh
tranh trên thị trường kinh doanh truyền hình.
Tác giả hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu đạt được trong luận văn sẽ
là những đóng góp thiết thực, làm căn cứ khoa học cho việc xây dựng đề án
về cơ chế tài chính áp dụng cho các đơn vị đang kinh doanh dịch vụ truyền
hình trả tiền trong hoạt động truyền hình ở Việt Nam.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cơ chế tài chính cho hoạt động
truyền hình
Chương 2: Thực trạng cơ chế tài chính cho hoạt động Truyền hình
trả tiền của Đài Truyền hình Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện cơ chế tài chính cho hoạt động kinh doanh
truyền hình trả tiền của Đài Truyền hình Việt Nam
11
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH
VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRUYỀN HÌNH
1.1. Những vấn đề cơ bản về cơ chế tài chính
1.1.1. Cơ chế tài chính
Thuật ngữ Cơ chế, Cơ chế tài chính được sử dụng khá phổ biến trong
những năm gần đây. Vậy, trước khi nói về Cơ chế tài chính, cần phải làm
rõ: Cơ chế là gì?
Từ "cơ chế" là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Từ
điển Le Petit Larousse (1999) giảng nghĩa "mécanisme" là "cách thức hoạt
động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau". Còn Từ điển Tiếng
Việt (Viện Ngôn ngữ học 1996) giảng nghĩa cơ chế là "cách thức theo đó
một quá trình được thực hiện". “Cơ chế” được dùng với hàm ý chỉ hiện
tượng ở trạng thái động chứ không phải ở trạng thái tĩnh, và con người hoạt
động trong đó như là những chi tiết không thể thiếu của bộ máy quản lý.
Con người tham gia thiết kế và vận hành cơ chế, song đến lượt nó lại bị cơ
chế điều khiển, chứ không nằm ngoài cơ chế và điều khiển cơ chế. Quan hệ
giữa cơ chế với con người là quan hệ giữa cục bộ với toàn bộ. Cho nên nó
không chỉ bao gồm những qui định về cách thức vận hành, mà còn bao gồm
cả con người hoạt động theo những cách thức đã được định sẵn trong thiết
kế cơ chế. Và chính hành động của tất cả con người cụ thể như thế tạo nên
cơ chế như một bộ máy quản lý đang vận hành.
Cần nhấn mạnh rằng cơ chế chỉ có thể vận hành theo những cách
thức định sẵn, trong đó mỗi chi tiết, bộ phận phải đóng được vai trò của
mình. Chỉ cần một chi tiết, bộ phận hư hỏng hay kém chất lượng, sự vận
hành của cơ chế sẽ lập tức trục trặc. Cho nên cơ chế tự nó có khả năng phát
12
hiện và đòi hỏi loại trừ những chi tiết, bộ phận không phù hợp với nó. Như
vậy là chính con người tạo ra cơ chế và cũng chính con người lại phải tuân
theo sự vận hành của nó. Cơ chế chỉ có thể vận hành một cách thông suốt
nếu đó là một cơ chế hoàn hảo và mỗi chi tiết, bộ phận của cơ chế luôn phù
hợp với nó.
Tài chính, về bản chất là một hệ thống phức tạp các mối quan hệ
kinh tế nảy sinh trong quá trình phân phối dưới hình thức giá trị các nguồn
lực tài chính để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm thực hiện các
mục tiêu nhất định của quá trình tái sản xuất xã hội.
Về cơ chế tài chính, theo từ điển thuật ngữ Tài chính – tín dụng thì
cơ chế tài chính được định nghĩa là “Hệ thống các hình thức, phương pháp,
biện pháp để tổ chức quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn lực
tài chính trong nền kinh tế quốc dân”. Phù hợp với quan niệm trên, đối với
mỗi tổ chức hoặc chủ thể kinh tế, cơ chế tài chính được coi là hệ thống các
hình thức, phương pháp để tổ chức quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng
các nguồn lực tài chính của tổ chức hoặc chủ thể kinh tế. Có nghĩa là mỗi
loại hình tổ chức đều tương ứng với một cơ chế tài chính nhất định được
điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật. Cơ chế tài chính của cơ quan
hành chính nhà nước khác cơ chế tài chính doanh nghiệp. Cơ chế tài chính
của doanh nghiệp nhà nước lại khác doanh nghiệp tư nhân. Ngay doanh
nghiệp nhà nước cũng có nhiều loại với những cơ chế tài chính khác nhau,
ví dụ cơ chế tài chính cho tổng công ty nhà nước khác với công ty, khác
với tập đoàn kinh tế v.v…
Khái niệm cơ chế tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu xuất hiện
trong quá trình thực hiện tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng
điều hành các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công để hoạt động theo các cơ chế
riêng, phù hợp, có hiệu quả. Và như vậy nó sẽ khác với cơ chế tài chính của
cho các cơ quan hành chính nhà nước mà trước đây các cơ quan hành chính
và cơ quan sự nghiệp thường được gộp làm một và gọi chung là các cơ
quan hành chính sự nghiệp.
13
1.1.2. Đổi mới cơ chế tài chính
Đổi mới cơ chế tài chính là hoạt động của chủ thể nhằm thay thế cơ
chế tài chính cũ (đổi mới hình thức, phương pháp tạo lập, phân phối và sử
dụng nguồn lực tài chính) bằng một cơ chế mới khác hẳn và tiến bộ hơn
nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu, trì trệ để phát huy tối đa mọi nguồn lực
tài chính phục vụ cho sự phát triển lớn mạnh của chủ thể. Như vậy, đổi mới
cơ chế tài chính là hết sức cần thiết, có thể nói là sống còn cho một chủ thể
đang hoạt động, vận hành theo một cơ chế tài chính được coi là lạc hậu làm
kìm hãm sự phát triển.
Đổi mới cơ chế tài chính là một trong 4 nội dụng chính trong
Chương trình cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2006- 2010. Đổi mới
cơ chế tài chính phải được tiến hành đồng bộ ở tất cả các khu vực của nền
kinh tế, đặc biệt là khu vực sự nghiệp, nơi có nhiều khả năng tự trang trải
được kinh phí hoạt động để giảm nguồn ngân sách khổng lồ mà Nhà nước
phải gánh hằng năm. Chính vì vậy, tại Hội nghị ngành Tài chính triển khai
Nghị quyết Đại hội Đảng X và xây dựng dự toán NSNN năm 2007, Bộ
trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh nhấn mạnh: “Đẩy mạnh xã hội hoá, đổi
mới cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực sự nghiệp là khâu đột phá
quan trọng để huy động nguồn lực xã hội cùng với tăng nguồn lực từ Nhà
nước, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các lĩnh vực giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hoá, thể thao... và là tiền đề để
cải cách tiền lương”.
1.2. Hoạt động kinh doanh truyền hình
1.2.1. Kỹ thuật truyền hình và các phương thức truyền dẫn
Kỹ thuật truyền hình và các phương thức truyền dẫn tín hiệu truyền
hình có ảnh hưởng quyết định đến hình thức kinh doanh truyền hình. Vì
14
vậy việc xác định chiến lược kinh doanh truyền hình trả tiền nhất định phải
căn cứ vào chiến lược phát triển truyền hình, trong đó xu hướng phát triển
kỹ thuật cũng như việc lựa chọn phương thức truyền dẫn là yếu tố quyết
định.
1.2.1.1. Kỹ thuật truyền hình:
Các chương trình mà khán giả cả nước có thể xem được hằng ngày
trên truyền hình là kết quả và sự kết hợp của hai khâu cơ bản nhất của
truyền hình là Sản xuất chương trình và Truyền dẫn phát sóng. Các chương
trình được các phóng viên thu thập, ghi hình tại hiện trường, hoặc trường
quay (giai đoạn tiền kỳ) sau đó được dựng hình, lồng tiếng, kỹ xảo (giai
đoạn hậu kỳ) tạo ra sản phẩm truyền hình và kết thúc khâu sản xuất ở trung
tâm kỹ thuật sản xuất chương trình. Các sản phẩm truyền hình được chuyển
thành tín hiệu truyền hình số (digital) hoặc tương tự (analog), phát sóng từ
máy phát mặt đất (truyền hình quảng bá), trực tiếp từ vệ tinh (DTH), hoặc
hệ thống cáp (truyền hình cáo) đến máy thu hình của người xem với phạm
vi, khoảng cách tùy thuộc vào hệ thống truyền dẫn phát sóng và kết thúc
khâu này khi máy thu hình nhận được tín hiệu truyền hình.
Ở khâu sản xuất chương trình, hiện nay hầu hết các nước trên thế
giới đang ứng dụng mạnh mẽ kỹ thuật số (digital). Các thiết bị sản xuất
chương trình kỹ thuật số có ưu điểm là thực hiện được nhiều kỹ xảo phức
tạp, tạo ra hình ảnh và âm thanh trung thực, sinh động lại gọn, nhẹ, dễ thao
tác, chi phí thấp và có thể ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình sản
xuất. Việc thay thế và nâng tỷ trọng thiết bị kỹ thuật số trong dây chuyền
sản xuất đơn giản, không ảnh hưởng đến việc thu xem của người dân vì nó
chỉ xảy ra ở khâu sản xuất, trong phạm vi một đài truyền hình và có thể tiến
hành từng phần. Chính vì vậy, đến thời điểm này, Đài Truyền hình Việt
Nam đã thay thế gần hết các thiết bị trong dây chuyền sản xuất của mình
bằng các thiết bị sản xuất kỹ thuật số và có kế hoạch số hoá toàn bộ thiết bị
15
sản xuất trong vài năm tới. Trung tâm sản xuất mới của Đài Truyền hình
Việt Nam do Chính phủ Nhật Bản viện trợ trị giá hơn 300 triệu USD sẽ sử
dụng 100% thiết bị kỹ thuật số.
Ngược lại, ở khâu truyền dẫn phát sóng, phổ biến ở Việt Nam và cả
thế giới hiện nay vẫn sử dụng kỹ thuật tương tự. Từ vài năm nay, Công ty
VTC thuộc thuộc Đài Truyền hình Việt Nam (nay đã chuyển về Bộ Bưu
chính Viễn thông) đã tiến hành nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật số ở khâu
truyền dẫn phát sóng gọi là Truyền hình kỹ thuật số VTC. Tuy nhiên, đây
chỉ là bước thử nghiệm để theo dần kỹ thuật truyền hình thế giới và phạm
vi thử nghiệm cũng chỉ ở khâu máy phát sóng, còn máy thu hình của người
xem vẫn là máy analog nên phải có thiết bị giải mã kèm theo với chất
lượng chưa đạt yêu cầu so với tiêu chuẩn truyền hình số thế giới (dừng
hình, lệch tiếng...).
Lộ trình ứng dụng truyền hình số ở Việt Nam còn lâu dài, phụ thuộc
vào điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Để ứng dụng truyền
hình kỹ thuật số một cách đồng bộ, phải thay đổi toàn bộ hệ thống thiết bị
cả ở khâu sản xuất và truyền dẫn phát sóng với mạng lưới hàng trăm máy
phát hình trên cả nước từ kỹ thuật analog sang số với chi phí ước tính hàng
tỷ USD. Quan trọng hơn là toàn bộ máy thu hình của người xem cũng phải
là máy thu hình kỹ thuật số với giá hàng nghìn dollar/1 chiếc. Với 10 triệu
máy thu hình hiện nay nếu được thay toàn bộ bằng máy thu hình kỹ thuật
số thì chi phí xã hội cho việc chuyển đổi này sẽ là hàng chục tỷ dollar.
Ngay cả những nước giàu có như Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc... còn đặt
ra lộ trình ứng dụng truyền hình số kéo dài hàng chục năm nữa.
Hiện tại các kênh VTV của Đài Truyền hình Việt Nam và các đài
truyền hình địa phương đều phát sóng bằng kỹ thuật analog và phủ sóng
trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Riêng kênh truyền hình đối ngoại VTV4 và
các kênh truyền hình vệ tinh của Đài Truyền hình Việt Nam được phát
sóng bằng kỹ thuật số.
16
1.2.1.2. Phương thức truyền dẫn:
Hiện tại, Đài Truyền hình Việt Nam đang sử dụng đồng thời 3
phương thức khác nhau trong khâu truyền dẫn phát sóng, tạo ra các loại
hình truyền hình (xét về phương diện truyền dẫn) khác nhau:
i) Truyền hình quảng bá: được hình thành bởi phương thức truyền
dẫn phổ biến nhất hiện nay là sử dụng máy phát sóng mặt đất hay còn gọi
là truyền hình mặt đất. Với truyền hình quảng bá, mỗi kênh truyền hình
phải có một hệ thống truyền dẫn phát sóng riêng, bao gồm hàng trăm trạm
phát mặt đất đặt trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Các máy thu hình chỉ cần
dùng anten thông thường là có thể xem được 3 kênh của Đài Truyền hình
Việt Nam (VTV1, VTV2, VTV3) và các kênh truyền hình địa phương
khác.
ii) Truyền hình cáp: sử dụng phương thức truyền dẫn bằng hệ thống
cáp từ trung tâm cung cấp tín hiệu đến từng máy thu hình. Trước khi có
truyền hình cáp, Đài Truyền hình Việt Nam sử dụng phương thức truyền
dẫn bằng thiết bị viba được gọi là truyền hình MMDS (Multi chanel Multi
points Distribution System- Hệ thống truyền hình nhiều kênh đến nhiều
điểm). Khi kết hợp 2 hình thức này thường gọi là truyền hình cáp và
MMDS. Phương thức truyền hình MMDS hiện nay đang được loại bỏ dần
vì tính lạc hậu của nó (đặc điểm truyền hình MMDS là từ điểm phát sóng
đến điểm thu phải không bị vật cản như nhà cao tầng, vật kiến trúc, cây
cối... che chắn).
iii) Truyền hình vệ tinh: sử dụng phương thức truyền dẫn tín hiệu
truyền hình trực tiếp từ vệ tinh đến từng máy thu hình còn được gọi là
truyền hình DTH (Direct To Home). Tín hiệu truyền hình từ trung tâm
được phát lên vệ tinh và phủ sóng toàn lãnh thổ và các nước lân cận. Ở mỗi
17
nhà dân chỉ cần một anten parabol (chảo thu) nhỏ với đường kính khoảng
60 cm và một thiết bị giải mã là có thể xem được đồng thời nhiều kênh
truyền hình. Truyền hình cáp và DTH là sự kết hợp giữa phương thức
truyền hình cáp và phương thức thứ ba này.
1.2.2.Các hình thức kinh doanh truyền hình
Ứng với mỗi loại hình truyền hình có hình thức kinh doanh phù hợp
với đặc điểm của nó:
1.2.2.1. Quảng cáo trên truyền hình:
Ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, quảng cáo trên truyền hình
là hình thức kinh doanh áp dụng cho Truyền hình quảng bá. Đây là hình
thức kinh doanh phổ biến với tất cả các đài truyền hình trên thế giới (trừ đài
quốc gia ở một số nước), chiếm tỷ trọng doanh thu lớn nhất trong các hình
thức kinh doanh truyền hình hiện tại bởi tính đại chúng của truyền hình
quảng bá. Hình thức kinh doanh này sẽ áp dụng cho cả truyền hình cáp,
DTH khi số lượng thuê bao đủ lớn. Ở những nước mà truyền hình cáp
chiếm đa số, như nước Mỹ chẳng hạn, thì quảng cáo trên truyền hình cáp
lại là chủ yếu.
1.2.2.2. Truyền hình trả tiền (Pay-TV):
Là hình thức kinh doanh áp dụng cho phương thức truyền hình cáp
và DTH. Truyền hình kỹ thuật số cũng có thể được coi là một hình thức
truyền hình trả tiền vì xét về mặt nội dung và khả năng khai thác giá trị gia
tăng trên hệ thống của nó như truyền hình cáp.
Truyền hình trả tiền là hình thức thu phí thuê bao tương tự như thu
cước điện thoại vì đặc điểm của Truyền hình trả tiền là có thể cung cấp
18
chương trình theo yêu cầu của khách hàng với số kênh không hạn chế và,
về kỹ thuật, có thể quản lý đến từng máy thu hình.
Ngoài 2 hình thức kinh doanh nói trên, một hình thức kinh doanh
khác đang ngày càng phát triển mạnh là Dịch vụ truyền hình. Hình thức
kinh doanh này bao gồm: Kinh doanh bản quyền các chương trình truyền
hình; Cung cấp các dịch vụ kỹ thuật truyền hình; Sản xuất các chương trình
truyền hình theo đơn đặt hàng; Sản xuất đồ lưu niệm mang thương hiệu và
các nhân vật truyền hình; Khai thác dịch vụ du lịch thông qua các cơ sở
truyền hình...
1.2.3. Kinh doanh truyền hình trả tiền trên thế giới và ở Việt Nam
Kinh doanh truyền hình trên thế giới mới phát triển trong khoảng
một thập kỷ trở lại đây và hiện đã trở thành một ngành kinh tế có nguồn thu
và tốc độ tăng trưởng lớn. Trong các hình thức kinh doanh truyền hình thì
truyền hình trả tiền, tuy mới xuất hiện, nhưng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn
về doanh thu so với các hình thức kinh doanh khác. Có nhiều nguyên nhân
khiến cho truyền hình trả tiền có tốc độ tăng trưởng mạnh, ở nhiều nước
còn vượt cả doanh thu quảng cáo và trở thành nguồn thu chủ yếu của
truyền hình vì lợi thế của nó.
Thứ nhất, do phương thức truyền dẫn là sử dụng cáp, thu trực tiếp từ
vệ tinh hoặc kỹ thuật số, truyền hình trả tiền có thể phục vụ đến từng khách
hàng thuê bao với số kênh không hạn chế và có thể cung cấp chương trình
theo yêu cầu. Truyền hình trả tiền còn có nhiều nguồn thu khác từ các dịch
vụ gia tăng như điện thoại, internet băng thông rộng (ADSL), TVshopping, truy vấn thông tin... Khi mức sống người dân được nâng lên thì
nhu cầu hưởng thụ văn hoá thông tin càng cao và việc sử dụng các dịch vụ
đa phương tiện sẽ trở thành trào lưu trong xã hội.
Thứ hai, khả năng thu quảng cáo trên truyền hình quảng bá ngày
càng hạn chế và bão hoà, trong khi thị trường quảng cáo ngày càng cạnh
19
tranh khốc liệt với sự xuất hiện của nhiều hình thức quảng cáo mới như
ITV (truyền hình internet), hệ thống bán hàng đa cấp... làm cho các nhà đầu
tư trong lĩnh vực truyền thông ngày càng chú ý hơn đến lĩnh vực truyền
hình trả tiền với lượng khách hàng tiềm năng có thể nói là lý tưởng.
Thứ ba, khi số lượng thuê bao đáng kể thì bản thân hệ thống truyền
hình trả tiền cũng thu được tài trợ, quảng cáo trên các kênh chương trình
trong hệ thống của mình.
Đó chính là những lý do khiến hình thức kinh doanh truyền hình trả
tiền trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Dưới đây xin được điểm qua tình hình phát triển truyền hình trả tiền
tại Mỹ, Châu Âu- những khu vực có nền truyền hình phát triển mạnh mẽ; ở
Trung Quốc- nước có nhiều nét tương đồng về kinh tế, văn hóa, chính trị
với Việt Nam và Truyền hình trả tiền ở Việt Nam.
- Kinh doanh Truyền hình trả tiền tại Mỹ
Là một nước dẫn đầu về công nghệ, truyền hình trả tiền ở Mỹ đã
được tính đến từ những năm 1950, trải qua một quá trình lịch sử dài với
nhiều trở ngại về kỹ thuật, cạnh tranh với truyền hình quảng bá và thậm chí
trở ngại cả từ Chính phủ Mỹ. Hệ thống truyền hình Cáp đầu tiên được thiết
lập năm 1948, chủ yếu sử dụng ở những vùng nông thôn, vùng núi của
Mỹ. Hệ thống này mở rộng dần trong những năm 50 và 60. Năm 1960, có
650.000 hộ dân đăng ký truyền hình Cáp, đến năm 1970 đã có 4,5 triệu
thuê bao.
Bắt đầu từ cuối những năm 70, Truyền hình Cáp ở Mỹ phát triển
mạnh mẽ: từ 10 triệu thuê bao năm 1975 đã lên đến 40 triệu thuê bao chỉ
trong 10 năm sau (1985). Các loại truyền hình trả tiền khác như truyền hình
vệ tinh hay MMDS cũng phát triển theo. Truyền hình trả tiền ở Mỹ bắt đầu
hướng đến thị trường ở nước ngoài như Châu Âu và Mỹ Latinh.
20
Đến đầu thập kỷ 90 thì Truyền hình trả tiền đã trở thành loại hình
truyền hình phổ biến nhất ở Mỹ, 79 chương trình truyền hình Quốc gia
được truyền qua vệ tinh với 60 triệu thuê bao, hơn 60% hộ gia đình ở Mỹ
sử dụng truyền hình trả tiền. Sự phát triển quá nhanh chóng này làm nhiều
chính trị gia ở Mỹ lo ngại sẽ dẫn đến sự độc quyền truyền hình. Truyền
hình quảng bá cũng bắt đầu lên tiếng lại, bảo vệ cho lợi ích của những
người dân ở những vùng núi, vùng xa mà theo họ là không thể chịu được
chi phí của truyền hình trả tiền.
Đến năm 1999, 85% hộ gia đình ở Mỹ sử dụng truyền hình trả tiền
(bao gồm cả truyền hình Cáp và truyền hình vệ tinh). Truyền hình Cáp lúc
này có khả năng truyền phát hơn 120 kênh cùng lúc, truyền hình kỹ thuật
số cũng bắt đầu được thực hiện. Trong những năm đầu của thế kỷ 21,
truyền hình trả tiền ở Mỹ tiếp tục phát triển vững chắc, thể hiện qua số
lượng thuê bao tăng đều đặn, nội dung chương trình phong phú và các dịch
vụ viễn thông như Internet, điện thoại qua đường Cáp cũng trở nên quen
thuộc với người xem truyền hình. Nói chung, truyền hình trả tiền ở Mỹ
luôn luôn dẫn đầu cả về công nghệ và nội dung chương trình.
- Kinh doanh Truyền hình trả tiền tại châu Âu (Anh, Pháp, Đức)
Truyền hình Cáp và DTH ở Anh rất gắn bó với nhau. Truyền hình vệ
tinh hiện đang chiếm ưu thế hơn, nhưng tương lai của truyền hình Cáp
cũng rất hứa hẹn vì tính đa dịch vụ của nó. Vì vậy ở Anh, các hãng truyền
hình trả tiền được ví như một hiệu sách, bán cả sách (các chương trình
truyền hình) và những sản phẩm tương tự như báo, tạp chí (các dịch vụ
viễn thông khác); được phép bán, nhưng lại không chịu trách nhiệm sản
xuất nội dung chương trình. Truyền hình Cáp bắt đầu có mặt ở Anh từ
những năm 50, đầu tiên là để phục vụ nhu cầu xem truyền hình ở những
nơi khó bắt được tín hiệu phát sóng bằng anten. Đến năm 1966, những dịch
vụ trả tiền đầu tiên mới được thử nghiệm ở London, dịch vụ này còn khá xa
21
lạ với người dân. Từ năm 1970, truyền hình Cáp bắt đầu phát triển cùng với
sự phát triển của kỹ thuật Cáp (khả năng truyền dẫn gấp 250.000 lần so với
đường điện thoại). Năm 1985, với sự cho phép của Chính phủ, các hãng
truyền hình Cáp nước ngoài, đặc biệt là Mỹ và Canada bắt đầu thâm nhập
vào thị trường truyền hình trả tiền ở Anh. Năm 1990, truyền hình Cáp ở
Anh được phép cung cấp dịch vụ điện thoại qua đường Cáp của mình và trở
thành hệ thống không thể thiếu, phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi giải trí của
người dân trên toàn nước Anh.
Truyền hình vệ tinh được xây dựng và phát triển đồng thời trên toàn
Châu Âu, đặc biệt là ba nước tiên phong Anh, Pháp, Đức. Năm 1980, ba
nước này ký một thoả thuận cùng xây dựng một vệ tinh liên lạc Châu Âu,
phục vụ cho truyền hình vệ tinh cũng như truyền hình Cáp ở cả ba nước.
Các hãng truyền hình trả tiền Pháp do tư nhân điều hành, ngoài ra, nhiều
hãng còn là sự hợp tác của tư nhân Anh, Pháp, Luxembourg và Hà Lan
cùng tham gia. Những kênh truyền hình được yêu thích nhất là hệ thống
kênh tổng hợp, phim truyện, tin tức từ TV1 đến TV6 (kênh tiếng Pháp TV5
cũng là một kênh khá quen thuộc với khán giả truyền hình Việt Nam).
Truyền hình trả tiền ở Châu Âu ban đầu cũng gặp những trở ngại lớn
từ sự độc quyền của truyền hình công cộng như hãng Bundenspost ở Đức
và BBC của Anh. Nhưng với những chính sách hợp lý, hướng tới công
nghệ hiện đại, truyền hình Cáp và vệ tinh được khẳng định vị trí của mình.
Các hãng truyền hình quốc gia cũng sử dụng công nghệ mới để phát triển,
nâng cao hơn nữa chất lượng và uy tín của mình ở Châu Âu và trên toàn thế
giới.
- Kinh doanh Truyền hình trả tiền tại Trung Quốc
Vệ tinh viễn thông đầu tiên của Trung Quốc được phóng lên vào
năm 1970. Năm 1972, đài thu sóng vệ tinh đầu tiên được xây dựng để thu
nhận các chương trình trong nước và quốc tế. Trong suốt những năm 80,
22
Trung Quốc phóng thêm năm vệ tinh, đáp ứng yêu cầu phát sóng từ Bắc
Kinh đến các tỉnh thành. Bắt đầu từ thập kỷ 90, ngành Truyền hình và đặc
biệt là Truyền hình trả tiền ở Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, gắn liền với
những nỗ lực cải cách và mở cửa của đất nước.
Đầu năm 1990, chế độ làm việc 5 ngày/1 tuần được áp dụng thay thế
cho 6 ngày/1 tuần dẫn đến thời gian nghỉ ngơi giải trí của người dân được
tăng lên gấp đôi. Chế dộ này đã đem lại những thách thức và cơ hội mới
cho truyền hình. Người dân muốn được xem nhiều chương trình truyền
hình hơn, với nội dung và chất lượng tốt hơn.
Năm 1990, có khoảng hơn 100 trung tâm Cáp ở Trung Quốc, nhưng
chủ yếu là thử nghiệm và số người người sử dụng rất ít. Đầu năm 1991,
Chính phủ Trung Quốc thừa nhận “Truyền hình Cáp là một bộ phận quan
trọng của ngành Truyền hình Trung Quốc, cần được quan tâm phát triển
ngang bằng với truyền hình quảng bá” (Theo Niên giám phát thanh truyền
hình Trung Quốc-1992, 1993). Ngay sau đó, tháng 3/1991, Trung tâm
Truyền hình Cáp quốc gia đầu tiên- Đài Truyền hình Cáp Bắc Kinh, được
thành lập và bắt đầu đi vào hoạt động, hỗ trợ cho truyền hình quảng bá để
phục vụ nhân dân.
Các kênh truyền hình giải trí trên thế giới như HBO, ESPN, MTV
(Mỹ) hoặc NHK (Nhật)… đều nhận thấy Trung Quốc là một thị trường tiêu
thụ đầy tiềm năng, tuy nhiên, những dịch vụ truyền hình của nước ngoài
này đều chưa được Chính phủ Trung Quốc chấp nhận, vẫn chỉ có những đài
Truyền hình của Trung Quốc mới được phép phát sóng và cung cấp các
dịch vụ truyền hình. Nhưng chính những người dân Trung Quốc lại tìm
cách tiếp cận những kênh truyền hình nước ngoài này mà không cần sự
đồng ý của Chính phủ. Đầu năm 1991, ở Trung Quốc có khoảng 25.000
chảo thu tín hiệu vệ tinh, chủ yếu được dùng để phục vụ cho công tác giáo
dục, quốc phòng và khoa học. Sau đó, chính phủ Trung Quốc cho phép
người dân ở những vùng sâu, vùng núi xa được phép mua chảo vệ tinh để
có thể bắt sóng và xem những kênh truyền hình Quốc gia. Trung Quốc
23
cũng tiến hành xây dựng những nhà máy riêng để sản xuất chảo thu phục
vụ cho người dân. Từ đó, người dân Trung Quốc, không chỉ ở vùng sâu,
vùng xa, cũng mua chảo từ chợ đen với lý do để thu sóng tốt hơn… Đến
năm 1993, đã có khoảng 2 triệu chảo thu sóng được dùng với mục đích cá
nhân. Người dân bắt đầu tiếp xúc với chương trình truyền hình giải trí nước
ngoài, đặc biệt là những chương trình được phát sóng từ Hồng Kông với
năm kênh Star-TV được dịch sang tiếng Trung Quốc, phát sóng 24h một
ngày, không thu phí. Người dân có nhiều lựa chọn hơn với nhu cầu thưởng
thức cao hơn, họ không còn quá “trung thành” với những kênh truyền hình
trong nước nữa. Ngành Truyền hình Trung Quốc gặp thử thách lớn, phải
đổi mới nội dung và cách thể hiện.
Ngành Truyền hình, Truyền hình trả tiền của Trung Quốc bắt đầu
phát triển nhanh chóng. Cuối năm 1997, các hệ thống truyền hình cáp ở
Trung Quốc tăng lên đến 1.285 hệ thống trên toàn quốc và số thuê bao là
55,91 triệu. Đến cuối năm 1998, Trung Quốc đã có trên 1.300 hệ thống cáp
với số thuê bao cáp vượt 80 triệu, hơn cả những dự đoán trước đó của
những người làm truyền hình. Ở các vùng đô thị như Bắc Kinh, Quảng
Châu, Thượng Hải, truyền hình cáp đã đạt được mức sử dụng của hơn một
nửa số hộ gia đình, còn số lượng kênh truyền hình có thể thu được qua cáp
tăng từ dưới mười hồi đầu những năm 1990 đã lên hằng trăm vào cuối thập
kỷ này.
Năm 1998, các mạng truyền hình cáp địa phương khác nhau đã được
nối vào mạng cáp quang đường trục quốc gia của Cơ quan Quản lý nhà
nước về Phát thanh, Truyền hình và Phim SARFT (State Administration of
Radio, Film and Television). Lúc này tại Trung Quốc, chính quyền địa
phương là chủ sở hữu duy nhất các hệ thống cáp và các hệ thống cáp đều
được gọi là "đài truyền hình cáp".
Đến năm 1999, truyền hình Cáp Trung Quốc đã có 85 triệu thuê bao,
năm 2003, con số này lên tới gần 100 triệu. Hãng Truyền hình Cáp lớn nhất
24
Trung Quốc là Hãng Truyền hình Cáp Thượng Hải, đây cũng là một hãng
đi đầu về công nghệ.
Trung Quốc cũng nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao chất
lượng chương trình sản xuất trong nước để đẩy mạnh xuất khẩu chương
trình truyền hình ra nước ngoài. Bước vào thế kỷ 21, Trung Quốc trở thành
nhà xuất khẩu truyền hình chủ yếu ở Hồng Kông, Đài Loan, Singapore,
Thái Lan và Việt Nam. Tuy vẫn còn hạn chế ở các phần còn lại của thế giới
vì sự khác biệt về văn hoá, Trung Quốc cũng đang hướng tới các thị trường
Châu Âu và Mỹ.
Trong năm 2005, Trung Quốc cho phép mở cửa hơn nữa thị trường
viễn thông, đưa ra các điều kiện thông thoáng hơn đối với các chương trình
nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài. Những công ty nước ngoài như Walst
Disney, HBO, và MTV có thể cung cấp miễn phí một số chương trình cho
các hãng truyền hình Trung Quốc để đổi lại quyền được phát một vài phút
quảng cáo. Chính phủ Trung Quốc cũng khuyến khích sự trợ giúp của các
nhà sản xuất nước ngoài để sản xuất các chương trình hấp dẫn hơn, hướng
tới Olympic Bắc Kinh 2008 tất cả các thành phố trên cả nước sẽ chuyển
sang sử dụng cáp kỹ thuật số.
- Kinh doanh Truyền hình trả tiền tại Việt Nam
Hiện nay cả nước có 20 đơn vị trên 25 tỉnh, thành phố đang hoạt
động trong lĩnh vực truyền hình trả tiền với tổng số trên 600.000 thuê bao
truyền hình cáp. Nếu so với hơn 70.000 thuê bao vào cuối tháng 9/2003
(chủ yếu ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) thì chỉ trong vòng 3 năm số
lượng thuê bao truyền hình cáp đã tăng gấp hơn 8 lần. So với nhiều ngành
kinh doanh khác, truyền hình trả tiền đang trở thành một trong những
ngành kinh doanh có tốc độ phát triển nhanh nhất. Thành phố Hồ Chí Minh
hiện là thị trường hấp dẫn nhất, thứ hai là Hà Nội, tiếp đến là các thành phố
25