LUẬN VĂN:
Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn
giáo ở tỉnh Quảng Ngãi hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo luôn biến động phản ánh sự
biến đổi của lịch sử nhân loại. Thực tế đã chứng minh rằng, một tôn giáo cụ thể ở một
quốc gia có thể suy tàn hoặc hưng thịnh, song nhìn chung từ khi ra đời cho đến nay, tôn
giáo luôn tồn tại trong xã hội loài người. Vị trí, vai trò của mỗi tôn giáo ở từng khu vực,
từng quốc gia và các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng khác nhau. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, quá
khứ cũng như hiện tại, dù một quốc gia có thể chế chính trị như thế nào cũng cần quan
tâm đến tôn giáo, bởi vì tôn giáo tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tôn
giáo có khả năng liên kết con người trong một cộng đồng cùng tín ngưỡng, nhưng cũng có
thể đẩy người ta đến thái độ nghi kị, đối đầu, hận thù và xung đột gây nên những thảm hoạ
cho nhân loại, một khi nó bị các lực lượng xã hội phản động lợi dụng, kích động vì những
tham vọng mang tính chất chính trị phản tiến bộ.
Những thập kỷ gần đây, dường như tôn giáo được phục hồi và có nơi còn phát
triển, vì thế một số người đã dự đoán rằng "thế kỷ XXI là thế kỷ của tôn giáo". Điều tra về
sự phát triển của tôn giáo trên thế giới cho thấy. Nếu dân số thế giới trong vòng 10 năm từ
1990-2000 đã tăng 15%, thì Hồi giáo và đạo Tin lành tăng khoảng 23%. Công giáo là
13,7%, Phật giáo là 11,4%, Chính thống giáo 5,6%, Ấn Độ giáo 18,3%.
Việt Nam là một quốc gia nằm giữa ngã ba của Đông Nam châu Á, là nơi giao lưu
của các luồng tư tưởng, văn hoá khác nhau,một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng,
tôn giáo khác nhau đang tồn tại, là nơi hội tụ của hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới
như: Công giáo, Tin lành, Phật giáo và các tôn giáo bản địa như: Cao Đài, Phật giáo Hoà
hảo. Hiện nay, Việt Nam có khoảng gần 20 triệu tín đồ, chiếm gần 20% dân số của cả
nước, trong đó: Phật giáo khoảng 9,5 triệu tín đồ; Công giáo khoảng 5,7 triệu tín đồ; Đạo
Tin lành khoảng 900.000; Cao đài khoảng 2,3 triệu tín đồ; Phật giáo Hoà hảo khoảng 1,25
triệu tín đồ; Hồi giáo (Islam và Bàni) khoảng 64.000 tín đồ. Ngoài ra còn hàng chục vạn
tín đồ của các tôn giáo khác, đến nay chưa được công nhận tư cách pháp nhân như: Tứ Ân
Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tịnh Độ cư sĩ Phật hội và một số hệ phái khác của đạo
Tin lành. Nhà nước ta đang hướng dẫn các tôn giáo này đăng ký hoạt động, tiến tới công
nhận tư cách pháp nhân. Đại đa số các tín đồ tôn giáo đều là nhân dân lao động, có tinh
thần yêu nước, là lực lượng quần chúng quan trọng đóng góp vào sự ổn định và phát triển
đất nước.
Ở Việt Nam, từ khi Đảng ta khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng đã luôn thực
hiện nhất quán chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với từng thời kỳ lịch sử.
Chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, một mặt, được xây dựng dựa trên
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tín
ngưỡng, tôn giáo, mặt khác căn cứ vào tình hình quốc tế, đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam và nhu cầu của cách mạng trong từng thời kỳ lịch sử, vì thế cho nên chính sách,
pháp luật về tôn giáo đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách pháp luật
chung của Đảng và Nhà nước. Việc có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để quản lý đối
với hoạt động tôn giáo một cách có hiệu quả là một đòi hỏi khách quan, một mặt nhằm
đảm bảo bằng pháp luật quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, mặt khác là công
cụ hữu hiệu để đấu tranh ngăn chặn các hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo xâm hại đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, lợi ích công dân, lợi ích nhà
nước. Trong quá trình lập pháp của Việt Nam, các quy định về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân được ghi nhận và thể hiện xuyên suốt qua các Hiến pháp 1946, 1959, 1980,
1992 và một số văn bản pháp luật khác của Nhà nước. Tầm quan trọng của vấn đề tôn
giáo và sự cần thiết phải quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo thể
hiện rất rõ trong các chủ trương, quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà
nước về tôn giáo.
Ngày 16-10-1990 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TW về tăng cường công
tác tôn giáo trong tình hình mới, thì ngày 21-3-1991, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số
69-HĐBT quy định về hoạt động tôn giáo.
Ngày 2-7-1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 37 về công tác tôn giáo trong tình hình
mới thì ngày 19-4-1999 Chính phủ ban hành Nghị định 26/1999/NĐ-CP về các hoạt động
tôn giáo.
Ngày 12-3-2003 tại Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương khoá IX Đảng
ta ra Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo, sau khi có Nghị quyết này ngày 29/6/2004
Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội. Ngày 1-3-2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP
hướng dẫn thi hành pháp lệnh này.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành là cơ
sở pháp lý quan trọng đáp ứng nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, tạo môi
trường thuận lợi cho hoạt động tôn giáo. Trong những năm gần đây, lợi dụng chính sách
đổi mới, mở rộng dân chủ, đảm bảo nhân quyền, các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo đã
công khai đòi phục hồi hệ thống tổ chức giáo hội cũ, đòi lại các cơ sở vật chất, nơi thờ tự,
đất đai... do các cơ quan, đoàn thể đang quản lý, sử dụng; lợi dụng những sơ hở, thiếu sót
của Nhà nước ta trong việc thực hiện chính sách tôn giáo và quản lý nhà nước về tôn giáo
để gây sức ép đòi hỏi chính quyền chấp nhận các kiến nghị, yêu sách của chúng; đẩy
mạnh hoạt động từ thiện, đào tạo chức sắc, củng cố giáo hội cơ sở, mở rộng địa bàn tôn
giáo, đẩy mạnh các hoạt động lôi kéo, nắm tín đồ, tạo thành một lực lượng đông đảo, đủ
sức làm hậu thuẫn khi có tổ chức đối lập cần lực lượng đối trọng... Vì vậy, quản lý nhà nước
bằng pháp luật và bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động tôn giáo trong thực tế
gặp không ít khó khăn, nhiều vấn đề nảy sinh từ thực tiễn chưa được điều chỉnh kịp thời và
đồng bộ.
Quảng Ngãi là một tỉnh duyên hải miền Trung, nơi có nhiều tôn giáo và cơ sở thờ
tự đang hoạt động. Trong những năm vừa qua, trong quá trình đổi mới ở Quảng Ngãi hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo có chiều hướng phục hồi và có xu hướng phát triển.
Trong quá trình đổi mới, pháp chế xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động tôn giáo ở
tỉnh Quảng Ngãi trong những năm qua đạt được một số thành tựu trên các mặt sau: Việc
thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo
luôn được chú trọng; đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có đạo được cải thiện rõ
rệt và từng bước nâng cao theo tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh; các quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo được đảm bảo theo quy định của pháp luật. Các chức sắc, nhà tu hành,
tín đồ tôn giáo tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, có đóng góp nhất định vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương,
yên tâm hành đạo, tham gia vào các hoạt động xã hội - từ thiện ở địa phương theo phương
châm "sống tốt đời, đẹp đạo".
Bên cạnh những thành tựu đạt được, pháp chế xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động
tôn giáo ở tỉnh Quảng Ngãi còn bộc lộ một số bất cập như: Một số nơi hoạt động tôn giáo
còn diễn biến khá phức tạp, làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở
địa phương, điển hình như vụ Huyền Quang (Hoà thượng) cư trú tại chùa Hội Phước
(Nghĩa Hành - Quảng Ngãi) từ năm 1992 đã có những hoạt động đòi khôi phục lai Giáo
hội cũ có hành vi chống đối quyết liệt, phát tán hàng loạt các tài liệu xuyên tạc, vu khống,
kích động chống lại đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước ta. Từ
năm 2004 trở lại đây đạo Tin lành đã có những hoạt động truyền đạo trái phép ở một số
huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi; việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc
giải quyết các vấn đề tôn giáo chưa đồng bộ và hiệu quả; đội ngũ cán bộ làm công tác
quản lý nhà nước về tôn giáo còn kiêm nhiệm lại thường xuyên thay đổi, trong số ấy
không ít người chưa được đào tạo cơ bản về tôn giáo và nghiệp vụ quản lý tôn giáo.
Thực tiễn hoạt động tín ngưỡng tôn giáo trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, đang diễn ra
hết sức sôi động, đa dạng và có tác động không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh. Vì vậy, tác giả chọn đề tài "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Quảng Ngãi hiện nay" làm luận
văn tốt nghiệp cao học, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong xã hội hiện đại ngày nay, tôn giáo đang trở thành một trong những vấn đề
thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà khoa học cũng như những nhà hoạt động thực
tiễn. Cho đến nay, đã có nhiều tác giả có các công trình nghiên cứu, bài viết về tôn giáo,
liên quan đến tôn giáo như:
- Tôn giáo phương Đông, quá khứ và hiện tại, TS. Đỗ Minh Hợp, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội, 2006.
- Lý luận về chính sách tôn giáo ở Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Đức Lữ, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội, 2007.
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam, GS.Đặng Nghiêm Vạn,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
- Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận và thực tiễn, GS.TS Đỗ Quang
Hưng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Quản lý hoạt động tôn giáo cơ sở lý luận và thực tiễn, Bùi Đức Luận, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội, 2005.
- Quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay, Luận văn thạc sĩ của Lê
Minh Quang, 2001.
- Hoàn thiện pháp luật về tôn giáo ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học
của Nguyễn Xuân Diện, 2003.
- Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ
luật học của Trần Minh Thư, 2004.
- Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Công giáo ở Thanh Hoá
hiện nay, Luận văn cử nhân chuyên ngành tôn giáo của Nguyễn Văn Huệ, 2004.
- Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở Nam Định hiện nay,
thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ luật học, Nguyễn Tấn Cường, 2006.
- Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo trong pháp luật quốc tế, GS.TS Hoàng Văn
Hảo, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2005.
- Vấn đề tự do tôn giáo nhân quyền ở Việt Nam, GS.TS Đỗ Quang Hưng, Tạp chí
Cộng sản, số 11, tháng 6/2005.
Đối với việc nghiên cứu pháp chế xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực cụ thể có các
công trình sau:
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của lực lượng Công an
nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay, Luận án phó tiến sĩ
Luật học của Nguyễn Phùng Hồng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1994.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong quản lý nhà nước nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Luận án phó tiến sĩ
Luật học của Quách Sỹ Hùng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm soát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Luận
văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Chí Dũng, 2003.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi đua khen thưởng ở tỉnh Thanh Hoá
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Xuân Hà, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.
Các công trình nghiên cứu nêu trên, tập trung nghiên cứu vấn đề lịch sử tôn giáo;
quá trình phát sinh, phát triển, đặc điểm của tôn giáo, vai trò tích cực cũng như mặt hạn
chế của tôn giáo đối với xã hội, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật
của Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo, các âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực
thù địch, hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam. Đã có những công
trình đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo và
một số vấn đề về pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
những lĩnh vực cụ thể cũng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và làm sáng tỏ là nguồn
tư liệu tham khảo quan trọng của tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. Song, cho đến
nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, có hệ thống về gãi“pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở
tỉnh Quảng Ngãi”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Thông qua việc nghiên cứu của luận văn, đề xuất một số giải pháp
nhằm bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động tôn giáo ở tỉnh Quảng Ngãi.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích những cơ sở lý luận cơ bản về pháp chế xã hội chủ nghĩa nói chung và
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo
nói riêng.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở Quảng Ngãi.
+ Xây dựng những giải pháp góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Quảng Ngãi.
4. Phạm vi nghiên cứu
Pháp chế trong quản lý nhà nước về tôn giáo có phạm vi rộng,luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu trong phạm vi các vấn đề về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Quảng Ngãi từ khi có Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn:
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta về pháp chế xã hội chủ nghĩa nói chung và về pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo nói riêng.
+ Luận văn còn dựa trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật của Nhà nước, các
công trình khoa học liên quan đến tôn giáo.
- Phương pháp nghiên cứu: Quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng một số phương
pháp của triết học Mác - Lênin như quan điểm biện chứng, toàn diện, lịch sử cụ thể;
phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh, dự báo, lôgíc và tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối có hệ thống và toàn diện về pháp chế
xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở
Quảng Ngãi. Trên cơ sở lý luận chung về pháp chế xã hội chủ nghĩa và pháp chế đối với
hoạt động tôn giáo, đánh giá thực trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động tôn giáo
ở Quảng Ngãi, tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp góp phần
bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước bằng pháp luậtđối với hoạt động
tôn giáo ở tỉnh Quảng Ngãi.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thông qua kết quả nghiên cứu và việc đánh giá đúng thực trạng, luận văn đưa ra
những giải pháp và kiến nghị góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho việc bảo
đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
tôn giáo ở Quảng Ngãi đạt hiệu quả cao.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu và
giảng dạy về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
tại địa phương.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN
GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1.1. Các khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là hiện tượng xã hội được hình thành từ xa xưa và sẽ còn tồn tại lâu dài.
Mấy thập kỷ gần đây, vấn đề tín ngưỡng tôn giáo dược nhiều người quan tâm, theo dõi
nghiên cứu trên cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Có tình hình này không chỉ do
sự phục hồi, phát tirễn mạnh mẽ của các hình thức tín ngưỡng,tôn giáo ở một số nước mà
còn trong thời đại ngày nay, tôn giáo có liên quan chặt chẽ đến những cuộc xung đột dân
tộc, sắc tộc đang diễn ra ở nhiều nơi, không chỉ là nó có vai trò và tác động mạnh mẽ đến
các lĩnh vực của đời sống xã hội mà còn là biểu hiện của sự bảo lưu, giữ gìn bản sắc văn
hóa của từng cộng đồng dân tộc, Trước xu thế khu vực hóa, toàn cầu hoá hiện nay tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, nhưng lại liên quan đến
các lĩnh vực của đời sống xả hội, tác động đến văn hóa, đạo đức, kinh tế, an ninh quốc
phòng…
Việt nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo và đang có xu
hướng phát tirển. Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là một quá trình
lâu dài và đổi mới về công tác tôn giáo cũng là một quá trình lâu dài. Quá trình ấy đòi hỏi
phải từng bước được hoàn thiện, cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước, việc đổi
mới nhận thức, đánh giá và ứng xử với tôn giáo cũng cần đặt ra. Bởi vì, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là các quyền cơ bản của công dân đã được hiến pháp ghi nhận và quan
hệ xã hội về tôn giáo cũng là đối tượng điều chỉnh pháp luật. Vì vậy, để làm rõ cơ sở lý
luận về "pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo" trước hết phải làm rõ khái niệm về "tôn giáo".
Ngày nay việc đưa ra một khái niệm tôn giáo đầy đủ, khoa học vẫn được các nhà
tôn giáo học hiện đại quan tâm. Tôn giáo được các nhà khoa học nghiên cứu từ nhiều góc
độ khác nhau: Triết học, chính trị học, luật học, lịch sử tôn giáo... Cùng với những cuộc
khảo sát thực tiễn, những sách chuyên khảo, những tạp chí chuyên ngành cũng đã xuất
hiện các từ điển về tôn giáo. Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, xã hội xuất hiện từ rất
sớm.Song khái niệm về tôn giáo lại có nhiều cách hiểu khác nhau, có tài liệu cho rằng
hiện nay có khoảng 250 khái niệm tôn giáo [37, tr.9]. Ở đề tài này không có điều kiện
nghiên cứu chuyên sâu về tôn giáo. Tuy nhiên, để làm rõ nội hàm của tôn giáo cần phải
tiếp cận các quan niệm về tôn giáo dưới nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ dân tộc học, tôn giáo được Edward Tyler Nhà dân tộc học nổi tiếng
người Anh định nghĩa “Nên đặt tin tưởng vào các thực thể tâm linh như là một định nghĩa
tối thiểu về tôn giáo” [61, tr.127]. Khái niệm tôn giáo luôn gắn liền với vấn đề dân tộc:
“Những vị thần được tạo ra bằng cách nào đó ở mỗi dân tộc” [41,tr.445] “Tất cả các vị
thần ấy chỉ có thể tồn tại trong tâm trí tưởng tượng chừng nào dân tộc tạo ra các vị thần ấy
còn tồn tại, khi dân tộc tiêu vong các vị thần ấy tiêu vong theo [41, tr.445].
Dưới góc độ xã hội học, phải đề cập đến khái niệm tôn giáo của tác giả tiêu biểu đó
là Edurk kheim. Theo Ông: “Tôn giáo là một hệ thống cố kết các tín ngưỡng và thực hành
có liên quan tới các sự thiêng liêng, tức là những sự vật được tách riêng ra, bị cấm đoán,
đó là những tín ngưỡng và thực hành của những ai tin theo thành một cộng đồng tinh thần,
gọi là giáo hội" [61, tr.157]. Với cách hiểu như vậy, tôn giáo được coi là một tổ chức một
thực thể của xã hội của cộng đồng những người có chung niềm tin vào sự vật thiêng với
những thực hành được qui định thống nhất.
Dưới góc độ tôn giáo học ở Việt Nam trong tự điển tiếng việt tôn giáo được định
nghĩa như sau: Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội gồm những quan điểm đựa trên cơ sở tin và
sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên, có những lực lượng siêu tự nhiên quyết định số phận
con người, con người phải phục tùng và tôn thờ.
Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng tôn giáo, sùng bái một hay những vị thần
linh ào đó và những lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy [54, tr.976].
Các nhà nghiên cứu tôn giáo Việt Nam cũng đưa ra những khái niệm tôn giáo của
mình. Tác giả Trần Mạnh Đức đồng tình với khái niệm mà Byrne đưa ra. Theo tác giả:
Tôn giáo là một phong tục được định hình bởi sự kết hợp hết sức phức tạp
của bốn phương diện: Lý thuyết, thực hành, tính xã hội và tính thực nghiệm
được nhận biết bởi các đối tượng đặc thù (thần thánh hoặc các vật thiêng) mục
tiêu (sự cứu rỗi hoặc cái thiện cùng tột) và chức năng phong tục ấy đem lại ý
nghĩa chung cho cuộc sống hoặc một đặc tính chung, một chất liệu để cố kết xã
hội [58, tr.21].
Theo giáo sự Đặng Nghiêm Vạn, có một khái niệm tôn giáo chung nhất chung cho
cả tôn giáo phương đông lẫn phương tây là: “Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu
nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động
qua lại một cách siêu học (hay hư ảo) với con người, nhằm lý giải những vấn trên trần thế,
cũng như thế giới bên kia,niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào những
thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý vận hành khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn
giáo, được vận hành bằng nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng
xã hội hoặc tôn giáo khác nhau” [58, tr.23]
Dưới góc độ quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, trong các văn bản pháp luật
tính đến trước tháng 6 năm 2004 chưa có một văn bản nào đề cập khái niệm này. Gần đây,
ngày 18/6/2004 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo,
tại Điều 3 của Pháp lệnh này đã đề cập đến khái niệm tôn giáo “Tôn giáo là tập hợp
những người cùng tin theo một hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo mọt cơ
cấu nhất định được nhà nước công nhận”[55, tr.8]
Qua cách tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, mục tiêu nghiên cứu khác nhau,
hoàn cảnh lịch sữ địa lý khác nhau các nhà nghiên cứu cũng có những quan niệm khác
nhau về tôn giáo. Tuy nhiên, vẫn có thể rút ra được một số tiêu chí cơ bản của một tôn
giáo đó là: tín ngưỡng (niềm tin) của cộng đồng người về thế lực siêu nhiên, niềm tin đó
được thể hiện thông qua các nghi thức (lễ nghi) được xây dựng theo hệ thống lý thuyết
(giáo lý, giáo luật) của tôn giao; và tổ chức giáo hội ra đời để hướng dẫn cố kết cộng đồng
này.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra những khái niệm về tôn giáo như sau:
Tôn giáo là tín ngưỡng của những người cùng chung một tổ chức có hệ thống
giáo lý, giáo luật và lễ nghi.
Bàn về khái niệm tôn giáo không thể không bàn đến khái niệm “tín ngưỡng” và “Mê
tín dị đoan” bởi vì đây là hai hiện tượng xã hội gần gũi với tôn giáo.
Tín ngưỡng: là niềm tin của con người vào các điều thiêng liêng huyền bí vượt
khỏi thế giới tự nhiên [39, tr.8].
Mê tín dị đoan: là tin một cách mù quáng vào những điều nhảm nhí gây tổn hại về sức
khỏe, tài sản, tính mạng và tốn phí thời gian cho cá nhân [39, tr.9].
Hiện tượng mê tín dị đoan là hiện tượng xã hội tiêu cực nhưng lại thường gắn với
các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng,tôn giáo nên cần phải đấu tranh loại bỏ dần để lành
mạnh hóa xã hội
1.1.2. Đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia nằm ở ngã ba của Đông Nam Châu Á, lại gần hai nền
văn minh lớn của loài người đó Trung Quốc và Ấn Độ, nên tín ngưỡng,tôn giáo có ảnh
hưởng sâu đậm từ hai nền văn minh này.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống lại ngoại xâm và torng những cuộc kháng chiến
vệ quốc ấy những người có công trong việc giúp dân, cứu nước đã được cộng đồng tôn
sùng và đời đới nhớ ơn thờ phụng. Trong tâm thức của người Việt luôn tiềm ẩn, chứa
đựng đạo lý “uống nước, nhớ nguồn”. Điều đó thể hiện khá rõ rệt trong đời sống sinh hoạt
tín ngưỡng tôn giáo của họ.
Đặc điểm tự nhiên, lịch sử và văn hóa đó có ảnh hưởng lớn đến đặc điểm tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có một số đặc điểm sau:
Một là, Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác
nhau đang tồn tại.
Nước ta là nơi thuận lợi cho việc giao lưu của nhiều luồng văn hóa khu vực và thế
giới lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền văn minh lớn là Trung Quốc và Ấn Độ, Đồng
thời là một nước có nhiều dân tộc cư trú ở nhiều khu vực với điều kiện tự nhiên, khí hậu,
lối sống, phong tục tập quán tìn ngưỡng tôn giáo khác nhau. Hơn nữa, người Việt bản tính
vốn cởi mở, khoan dung chứ không kỳ thị, khép kín. Vì thế cùng một lúc họ có thể tiếp
nhận nhiều hình thức tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Từ những hình thức tín ngưỡng, tôn
giáo sơ khai đến hiện đại - tất cả đã và đang cùng tồn tại bên cạnh tín ngưỡng dân gian,
bản địa của nhiểu dân tộc khác nhau.
Hai là, tính đan xen, hòa đồng khoa dung của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Bản tính của người Việt Nam là cởi mở, bao dung chứ không hẹp hòi, kỳ thị, khép
kín. Dù là tín ngưỡng nào, tôn giáo gì? Từ đâu đến thì cộng đồng người ở đây cũng sẳn
sàng chấp nhận miễn là nó không vi phạm đến lợi ích quốc gia và đi ngược truyền thống
văn hóa của dân tộc. Khổng giáo và Đạo giáo từ Trung Hoa lan xuống, Phất giáo từ Ấn độ
truyền sang nước ta từ rất sớm vẫn song song tồn tại cùng nhau một cách hòa bình cùng
với tín ngưỡng bản địa mà không xảy ra một cuộc chiến tranh tôn giáo nào. Kể cả về sau
một số tín ngưỡng tôn giáo Phương Tây thâm nhập vào Việt Nam, Tuy có xa lạ với truyền
thống văn hóa dân tộc nhưng vẫn được chấp nhận. Nếi có giai đoạn lịch sử nào đó, tôn
giáo ở nước ta bị cộng đồng dân tộc mặc cảm, định kiến là khi nó bị lực lượng phản động
lợi dụng đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam là hóa đồng,
đan xen, nương tựa hỗ trợ lẫn nhau. Truyền thống “Tam giáo Đồng nguyên”, “ Ngũ chi
hợp nhất” được kết tinh trong đạo cao đài. Những tôn giáo độc thần như Công giáo, Tin
lành, Hồi giáo du nhập vào Việt Nam cũng như tôn giáo nội sinh như Cao đài, Hòa Hảo ít
nhiều đều có tính đan xen, hòa đồng, dung hợp với nhau và với tín ngưỡng bản địa. Nhờ
có tính khoan dung đã khiến cho một đất nước đa dân tộc và đa tôn giáo như Việt Nam
vẫn giữ được truyền thống đoàn kết toàn dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo.
Ba là, yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam người phụ nữ có vai trò
vô cùng quan trọng trong xã hội, không chỉ vì họ phải gánh vác công việc nặng nề ở hậu
phương, mà có người còn trực tiếp cùng nam giới xông pha trận mạt ,không chỉ có Bà
Trưng, Bà Triệu phất cơ khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm vào những thế kỷ đầu công
nguyên mà ở giai đoạn nào cũng có phụ nữ tiêu biểu trên các lĩnh vực.
Ở nước ta, dù mẫu quyền đã được thay thế bởi phụ quyền từ lâu, song chế độ mẫu
quyền vẫn còn kéo dài đeo đẳng đến tận ngày nay vẫn chưa kết thúc. Ở một xứ trồng cây
lúa nước thuộc nền văn minh nông nghiệp vẫn coi trọng yếu tố âm - đất- mẹ. Người mẹ
biểu tượng cho ước muốn phong đặng, phồn thực, hình tượng của sự sinh sôi, nãy nở, sự
trường tồn của nòi giống, sự bao dung của lòng đất.
Vì vậy, một trong những đặc điểm đáng quan tâm của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam là truyền thống tôn thờ yếu tố nữ. Từ Bắc chí Nam đâu đâu cũng có đền thờ nữ thần:
Phật Bà, Thánh mẫu, Đền thờ Bà Chúa Kho (Bắc Ninh), Bà Chúa Đen (Tây Ninh), Bà
Chúa Xứ (An Giang).
Bốn là, thần thánh hóa những người có công với gia đình, làng nước.
Con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, trọng đạo lý “Uống nước, nhớ
nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, nên tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam cũng thấm đượm
tinh thần ấy, truyền thống ấy được thể hiện trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và được ghi
nhận rõ nét trong hệ thống đền chùa, lăng miếu, phủ… ở nước ta.
Từ xa xưa ở Việt Nam đã hình thành 3 cộng đồng gắn bó chặt chẽ với nhau là gia
đình, làng cóm và quốc qia.
Gia đình là tế bào của xã hội, dù nghèo hèn hay giàu sang có thể khác nhau, nhưng
nhà nào cũng có bàn thờ ông bà, cha mẹ, những người đã khuất. Đối với người Việt, thờ
cúng tổ tiên không đơn thuần là chỉ biểu hiện tình cảm, nhớ ơn những người có công sinh
thành mà còn được quan niệm ông bà, tổ tiên như những vị thần hộ mệnh cho con cháu
mạnh khỏe, hưởng phúc, tránh họa ở ngay thế giới hiện hữu.
Các vị anh hùng dân tộc có công chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc cũng được
thờ cúng như một vị thần của dân tộc.
Làng xóm Việt Nam có cơ cấu, thiết chế rất chặt chẽ, trong phạm vi làng xã từ lâu
đã hình thành tấp tục thờ cúng thần địa phương và việc thờ cúng này trở nên phổ biến ở
nhiều tộc người. tục thờ Thành Hoàng, thần bản, thần Mường ở đâu cũng có, Mỗi làng
bản đều có một vị thần nhưng cũng có làng đến năm hoặc bảy vị thành hoàng. Những vị
thành hoàng ấy được xem như vị thần bản mệnh của cộng đồng làng xã.
Năm là, tín đồ các tôn giáo Việt Nam hầu hết là nông dân.
Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm tỷ lệ rất lớn nên tín đồ hầu hết là
nông dân. Dù tín đồ của tôn giáo nào, bản chất của người nông dân vốn là cần cù lao
động, có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù bọn ngoại xâm và bọn bóc lột. Trong bao cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đồng bào có đạo luôn gắn bó lợi cách
mạng. Trong cuộc đổi mới hiện nay họ có nguyện vọng thiết tha là sống “tốt đời, đẹp đạo”
cùng toàn dân phấn đấu vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Sáu là, một số tôn giáo bị các thế lực phản động trong và ngoài nước lợi dụng vì
mục đích chính trị.
Nhìn chung tôn giáo nào cũng có hai mặt: nhận thức tư tưởng và chính trị. Lịch sử
dân tộc ta đã trãi qua thời kỳ chống ngoại xâm triền miên,liên tục và kéo dài. Tuy mức độ
có khác nhau, nhưng giai đoạn lịch sử nào, các giai cấp thống trị bóc lột cũng chú ý sử
dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo. Thực tế ấy làm cho nhân dân ta phải cảnh giác
chống âm mưu lợi dụng tôn giáo vì mục đích chính trị phản động.Ngày nay, các thế lực
phẩn động trong và ngoài nước đang âm mưu sử dụng ngọn cờ nhân quyền gắn với tôn
giáo hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, một mặt phải đáp ứng nhu cầu tín
ngưỡng tôn giáo chính đáng của nhân dân mặt khác phải luôn cảnh giác chống lại mọi âm
mưu lợi dụng tôn giáo của kẻ địch.
1.2. KHÁI NIỆM ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG TÔN GIÁO
1.2.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý Nhà nước bằng
pháp luật đối với hoạt động tôn giáo
Bàn về khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý Nhà nước bằng pháp
luật đối với hoạt động tôn giáo trước tiên chúng ta không thể không đề cập đến các khái
niệm “Quản lý Nhà nước”, “Hoạt động tôn giáo” và “Quản lý Nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động tôn giáo”
1.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học trong đó có khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội. Mỗi ngành khoa học nghiên cứu về quản lý từ góc độ riêng của
mình và đưa ra định nghĩa riêng về quản lý, trong đó định nghĩa chung nhất về quản lý là
định nghĩa của điều khiển học. theo điều khiển học thì “ Quản lý là điều khiển chỉ đạo hệ
thống hay một quá trình, căn cứ vào những qui luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng
để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt dược
những mục đích đã định trước”.
Định nghĩa trên thích hợp với tất cả mọi trường hợp từ sự vận động của một cơ thể
sống, một vật thể cơ giới, một thiết bị tự động hóa đến hoạt động của một tổ chức xã hội,
một đơn vị kinh tế hay cơ quan Nhà nước.
Vấn đề chúng ta đang nghiên cứu là quản lý xã hội, quản lý Nhà nước. Các Mác đã
coi “quản lý là một chức năng đặc biệt nãy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động”
[42, tr.59]. Nhấn mạnh nội dung trên, Ông viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay
lao động chung nào tiến hành trên qui mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng đều cần đến một
sự chỉ đạo để điều hòa những chức năng chung…Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều
khiển lấy mình, còn dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng” [40, tr.480].
Luận điểm trên của Mác có thể áp dụng đối với hoạt động chung của con người
trong xã hội. Khẳng định vấn đề này Lênin viết: “Muốn quản lý tốt mà chỉ biết thuyết
phục không thôi thì chưa đủ, mà còn phải biết tổ chức tốt về mặt thực tiển nữa” [35,
tr.473].
Để điều khiển, phối hợp hoạt động của tập thể những con người chúng ta cần phải
có những phương tiện buộc con người phải hành động theo những nguyên tắc nhất định,
phải phục tùng những khuôn mẫu, những mệnh lệnh nhất định, cơ sở của sự phục tùng
hoặc là uy tín hoặc là quyền uy. Trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định, uy tín đóng vai
trò là cơ sở rất quan trọng của sự phục tùng nhưng nhìn chung quyền uy vẫn là cơ sở chủ
yếu. Quyền uy là sự sắp đặt ý chí của con người này đối với con người khác buộc người
đó phải phục tùng. Quyền uy là phương tiện rất quan trọng để chủ thể quản lý buộc đối
tượng quản lý phải phục tùng, là yếu tố không thể thiếu trong quản lý, không có nó hoạt
động quản lý sẽ không đạt hiệu quả.
Chủ thể quản lý của con người hay tổ chức của con người. Những cá nhân hay
tổ chức của con người phải là những người đại diện có quyền uy, có quyền hạn và
trách nhiệm liên kết, phối hợp những hoạt động riêng lẽ của từng cá nhân hướng tới
mục tiêu chung nhằm đạt được kết quả nhất định trong quản lý.
Khách thể của quản lý là trật tự quản lý. Trật tự này được qui định bởi nhiều loại
qui phạm khác nhau.
Như vậy: “Quản lý là sự tác động có mục đích của các chủ thể quản lý đối với các
đối tượng quản lý [51, tr.11]
Khi xã hội đã phân chia thành các giai cấp đối lập nhau , luôn luôn mâu thuẫn và
đấu tranh giai cấp gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, thì tổ chức thị tộc
trở thành bất lực, không còn phù hợp nữa. Xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ
sức giữ sự xung đột đó trong vòng trật tự, tổ chức đó là Nhà nước. Một trong những đặt
điểm cơ bản của Nhà nước,là Nhà nước ban hành pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp
luật, Nhà nước là tổ chức duy nhất ban hành pháp luật và áp dụng pháp luật để quản lý xã
hội, các công việc xã hội đều do Nhà nước quản lý.Vậy “quản lý nhà nước” là gì?
Theo TS.Trần Minh Hương: “Quản lý Nhà nước là hoạt động của Nhà nước trên
các lĩnh vực lập pháp hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối
ngoại của Nhà nước” [51, tr.11].
Nói cách khác, quản lý Nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực
nhà nước chủ yếu bằng pháp luật, tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng
đối nội và đối ngoại của Nhà nước. Như vậy, tất cả các cơ quan Nhà nước đều thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước.
1.2.1.2. Khái niệm hoạt động tôn giáo
Theo khoản 5 Điều 3 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 quy định thì: “Hoạt
động tôn giáo là việc tuyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của
tôn giáo” [55, tr.9].
Hoạt động truyền bá giáo lý và giáo luật (gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền về
sự ra đời, về luật (giáo luật) của tôn giáo. Thông qua hoạt động này, niềm tin tôn giáo và
tín độ được củng cố, giáo luật được tín đồ thực hiện. Đối với những người chưa theo bất
kỳ một tôn giáo nào thì hoạt động này cũng giúp họ hiểu biết về một tôn giáo nào đó. Các
tôn giáo thông qua hoạt động này để phát triển lực lượng tín đồ. Như vậy, truyền đạo là
hành vi, phương pháp, phương tiện của chức sắc và tín đồ trong tôn giáo nhằm duy trì và
phát triển tôn giáo của mình.
Thực hành giáo luật, lễ nghi hay còn gọi là hành đạo là hoạt động của tín đồ, nhà tu
hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật, thỏa mãn đức tin tôn giáo của cá
nhân tôn giáo hay cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo nhằm thực hiện qui định của giáo luật, thực
hiện Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo đảm bảo duy trì, trật tự hoạt động trong tổ
chức tôn giáo.
Trong các hoạt động này việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền đạo và
hoạt động hành đạo cũng chỉ tương đối, có không ít trường hợp hoạt động hành đạo bao
gồm cả hoạt động truyền đạo.
Thực tiễn hoạt động tôn giáo rất đa dạng, phong phú, luôn được điều chỉnh cho sự phù
hợp với sự biến đổi của xã hội và thích ứng với tâm lý của tín đồ.
1.2.1.3. Khái niệm quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo
Từ khái niệm “Quản lý Nhà nước” và khái niệm “Hoạt động tôn giáo” đã phân
tích ở trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động tôn giáo như sau:
Quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo là họat động của các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo qui định của Pháp luật nhằm đảm bảo quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hướng các
hoạt động tôn giáo đến mục đích phục vụ lợi ích chính đáng của các tín đồ và phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Nhà nước qui định các hoạt động tôn giáo nhằm bảo đảm sự bình đẳng giữa các
công dân, các tổ chức xã hội trước pháp luật, hình thành khung pháp lý làm cơ sở để các
tôn giáo chủ động thực hiện các sinh hoạt tôn giáo, đồng thời thực hiện tốt các nghĩa vụ
đối với Nhà nước.
- Quản lý nhà nước đối với việc thành lập và gia nhập các tổ chức tôn giáo
Thủ tướng Chính phủ công nhận đối với tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động ở
nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh công
nhận tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động chủ yếu ở một tỉnh, đối với thành phố trực
thuộc trung ương [55, tr.15-16].
Thủ tướng Chính phủ cho phép tổ chức tôn giáo có tôn chỉ, mục đích, đường hướng
hành động, cơ cấu tổ chức phù hợp với pháp luật được hoạt động. Những tổ chức được
Thủ tướng Chính phủ cho phép hoạt động thì được pháp luật bảo hộ. Tổ chức tôn giáo
hoạt động trái tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức đã được Thủ
tướng Chính phủ cho phép thì bị đình chỉ hoạt động. Những cá nhân chịu trách nhiệm về
những vi phạm đó bị xử lý theo pháp luật.
Tổ chức tôn giáo được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức trực
thuộc theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo. Việc thành lập, chia, tách, sáp nhập,
hợp nhất tổ chức tôn giáo cơ sở phải được sự chấp thuận của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;
các trường hợp khác phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ [55, tr.16].
Hội đoàn tôn giáo là hình thức tập hợp tín đồ do tổ chức tôn giáo lập ra nhằm phục
vụ hoạt động tôn giáo. Các hội đoàn tôn giáo được hoạt động sau khi tổ chức tôn giáo
đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc đăng ký hội đoàn tôn giáo được thực
hiện trên cơ sở quy định về phân cấp như sau:
- Hội đoàn tôn giáo có phạm vi hoạt động trong một huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh đăng ký với Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi hội đoàn hoạt động;
+ Hội đoàn tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố
trong một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi
hội đoàn hoạt động;
+ Hội đoàn tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương đăng ký với Ban tôn giáo Chính phủ.
Các dòng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể khác của tôn giáo muốn hoạt
động phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
+ Nếu dòng tu, tu viện và tổ chức tu hành tập thể của tôn giáo hình thành và hoạt
động trong phạm vi một tỉnh hoặc thành phố thì người đứng đầu dòng tu phải đăng ký và
được sự chấp thuận của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;
+ Nếu dòng tu, tu viện hoặc tổ chức tu hành tập thể khác của tôn giáo hình thành và
hoạt động trên phạm vi liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì
người đứng đầu dòng tu phải đăng ký và được sự chấp thuận của Trưởng Ban tôn giáo của
Chính phủ.
Người đứng đầu dòng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể khác của tôn giáo
chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của dòng tu, tu viện và tổ chức tu hành
tập thể.
Đặc biệt, để bảo đảm an ninh, trật tự và bảo đảm sự bình đẳng giữa người theo đạo
và người không theo đạo, Nhà nước cấm không cho nhập tu những người trốn tránh pháp
luật và các nghĩa vụ công dân.
- Quản lý nhà nước đối với việc tiến hành các nghi lễ tôn giáo và hoạt động tôn
giáo khác
Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ
cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và
học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo. Người tham gia hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
phải tôn trọng quy định của cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, của lễ hội và hương ước, quy ước
của cộng đồng. Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải bảo đảm an toàn, tiết kiệm, phù hợp
với truyền thống, bản sắc dân tộc, giữ gìn, bảo vệ môi trường [55, tr.12-13].
Hàng năm, người phụ trách tổ chức tôn giáo cơ sở phải đăng ký với chính quyền
(Uỷ ban nhân dân cấp xã) chương trình hoạt động tôn giáo diễn ra tại cơ sở đó, đặc biệt các
ngày lễ trong năm. Nếu có sự thay đổi quan trọng trong chương trình phải báo cáo và được sự
đồng ý của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Các hoạt động tôn giáo tại cơ sở tôn giáo (các buổi cầu
nguyện, hành lễ, giảng đạo, học tập giáo lý) đã đăng ký hàng năm, được sự chấp thuận của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã và thực hiện trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải
xin phép.
Những hoạt động tôn giáo vượt ra ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc chưa đăng
ký hàng năm phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
Chức sắc, nhà tu hành chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động tôn giáo
trong phạm vi phụ trách.
Đại hội, hội nghị của tổ chức tôn giáo cơ sở được tiến hành sau khi có sự chấp
thuận của Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi diễn ra đại hội, hội nghị; việc tổ chức hội nghị,
đại hội cấp trung ương hoặc toàn đạo của tổ chức tôn giáo được tiến hành sau khi có sự
chấp thuận của Ban Tôn giáo Chính phủ. Đối với các trường hợp khác việc tổ chức hội
nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo được tiến hành sau khi có sự chấp thuận của Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh nơi diễn ra hội nghị, đại hội.
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bị đình chỉ nếu htuộc một trong các trường hợp
sau:
+ Xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng hoặc
môi trường;
+ Tác động xấu đến đoàn kết, đến truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc;
+ Xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác;
+ Có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác.
Nhà nước cho phép các tổ chức tôn giáo được in, xuất bản các loại sách kinh, các ấn
phẩm tôn giáo; được sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm tôn giáo, đồ dùng
việc đạo. Việc in, xuất bản các loại kinh, sách và các xuất bản phẩm tôn giáo, việc sản xuất,
kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm tôn giáo, đồ dùng trong việc đạo thực hiện theo các
quy chế của Nhà nước về in, xuất bản, sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm,
hàng hoá [55, tr.22-23].
Nhà nước cấm in, sản xuất, kinh doanh, lưu hành, tàng trữ sách báo, văn hoá phẩm
có nội dung chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây chia rẽ tôn
giáo, chia rẽ dân tộc, gây mất đoàn kết trong nhân dân.
Những trường hựop xuất bản, kinh doanh, lưu hành, tàng trữ, xuất nhập khẩu văn
hoá phẩm trái quy định của pháp luật thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị xử
phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Quản lý nhà nước đối với hoạt động quốc tế của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu
hành, chức sắc
Tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc có quyền thực hiện các hoạt động
quan hệ quốc tế theo quy định của hiến chương, điều lệ hoặc giáo luật của tổ chức tôn
giáo phù hợp với pháp luật Việt Nam. Khi thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế, tổ
chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc phải bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng
độc lập, chủ quyền và công việc nội bộ của các quốc gia [55, tr.23-24].
Nhà nước hướng dẫn các chức sắc tôn giáo nắm vững và thực hiện đúng các quy
định của Nhà nước về hoạt động đối ngoại của các tôn giáo, về việc cử các chức sắc hoặc
các đoàn tôn giáo ra nước ngoài hoặc đón các đoàn tôn giáo nước ngoài vào Việt Nam.
Các hoạt động sau đây phải được sự chấp thuận của Ban tôn giáo Chính phủ:
+ Mời tổ chức, người nước ngoài vào Việt Nam hoặc triển khai chủ trương của tổ
chức tôn giáo nước ngoài ở Việt Nam;
+ Tham gia hoạt động tôn giáo, cử người tham gia khoá đào tạo về tôn giáo ở nước
ngoài [55, tr.24].
Tổ chức, chức sắc tôn giáo báo cáo với Ban tôn giáo Chính phủ về những hướng
dẫn của tổ chức, chức sắc tôn giáo ở nước ngoài và thực hiện những hướng dẫn đó theo sự
chấp thuận của Ban tôn giáo Chính phủ.
Hoạt động quốc tế của tổ chức, cá nhân tôn giáo phải tuân thủ pháp luật và phù hợp
với chính sách đối ngoại của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở
tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và hữu nghị.
Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước mời tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài
vào Việt Nam phải được sự chấp thuận của Ban tôn giáo Chính phủ.
Tổ chức, cá nhân ở trong nước tham gia làm thành viên của tổ chức tôn giáo ở
nước ngoài, tham gia các hoạt động tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo ở nước ngoài
thực hiện theo quy định của Ban tôn giáo Chính phủ.
Chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo của Việt
Nam sau khi được Ban tôn giáo Chính phủ chấp thuận. Họ phải tuân thủ quy định của tổ chức tôn
giáo của Việt Nam và pháp luật Việt Nam [55, tr.24].
Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được tạo điều kiện sinh hoạt tôn
giáo tại cơ sở tôn giáo như tín đồ tôn giáo Việt Nam; được mang theo xuất bản phẩm tôn
giáo và các đồ dùng tôn giáo khác để phục vụ nhu cầu của bản thân theo quy định của
pháp luật Việt Nam; được mời chức sắc tôn giáo là người Việt Nam để thực hiện các nghi
lễ tôn giáo cho mình; phải tôn trọng quy định của tổ chức tôn giáo Việt Nam [55, tr.2425].
Tổ chức, cá nhân nước ngoài, kể cả tổ chức, cá nhân tôn giáo vào Việt Nam để hoạt
động ở các lĩnh vực không phải là tôn giáo thì không được tổ chức, điều hành hoặc tham
gia tổ chức, điều hành các hoạt động tôn giáo, không được truyền bá tôn giáo.
Các hoạt động viện trợ của các tổ chức tôn giáo nước ngoài hoặc có liên quan đến
tôn giáo nước ngoài đều tuân theo chính sách, chế độ quản lý viện trợ hiện hành và thông
qua các cơ quan được Chính phủ Việt Nam giao phụ trách công tác quản lý viện trợ.
Các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước muốn nhận viện rợ thuần túy tôn giáo
phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
- Quản lý nhà nước đối với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo và tài sản của các tôn giáo.
Nhà nước bảo hộ tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo và nghiêm cấm
việc xâm phạm các tài sản đó. Cụ thể là chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất, đình, đền,
miếu, trụ sở tổ chức tôn giáo, các cơ sở đào tạo của tổ chức tôn giáo, những cơ sở tín
ngưỡng, tôn giáo hợp pháp khác, kinh bổn và các đồ dùng thờ cúng được pháp luật bảo hộ
[55, tr.20-21].
Đất có các công trình do cơ sở tôn giáo sử dụng gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, thánh
thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, trụ sở
của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động
được sử dụng ổn định lâu dài. Đất có các công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà
thờ họ cũng được sử dụng ổn định lâu dài. Nhà, đất và các tài sản khác đã được tổ chức,
cá nhân tôn giáo chuyển giao cho các cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng do thực hiện
chính sách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc
tặng, hiến cho Nhà nước thì đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Cơ sở thờ tự của tổ chức tôn giáo đã hiến cho nhà nước để sử dụng vào
các công việc công ích (trường học, bệnh viện, cơ sở từ thiện nhân đạo...) thì không đặt
vấn đề trả lại. Cơ sở thờ tự của các tổ chức tôn giáo cho mượn có thời hạn đến khi hết thời
hạn thì phải trả lại cho tổ chức tôn giáo đó. Nếu có nhu cầu sử dụng tiếp phải thoả thuận
với các tổ chức tôn giáo. Khi trả lại phải giải quyết thoả đáng lợi ích của các bên liên quan
theo chính sách, pháp luật hiện hành.
Việc quản lý, sử dụng, cải tạo, nâng cấp công trình thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn
giáo là di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh thực hiện theo quy định của pháp
luật về di sản văn hoá và pháp luật có liên quan.
Nhà nước cho phép tu sửa cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo bị hư hỏng, xuống cấm.
Những cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo mà trước đây cơ quan nhà nước đã mượn sử dụng vào
việc khác, nay cần xem xét nếu sử dụng không đúng thì trả lại cho tổ chức tôn giáo hoặc
người chủ trì cơ sở ấy. Đối với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo đã bị chiến tranh hoặc thiên tai
tàn phá, khi các chức sắc tôn giáo yêu cầu thì có thể xem xét cho phép xây lại trên cơ sở
các quy định của Luật đất đai và các quy định về quản lý xây dựng. Trong việc xây dựng,
sửa chữa các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo không được huy động dân góp tiền của, sức lực
quá nhiều ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất.
Việc sửa chữa lớn làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công trình tại cơ sở tín ngưỡng,
tôn giáo, việc khôi phục công trình bị hoang phế, bị hủy hoại do chiến tranh, thiên tai, rủi
ro; việc tạo lập cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo và xây dựng công trình tín ngưỡng, tôn giáo
(nhà, tượng, bia, đài, tháp và các công trình nhằm mục đích tín ngưỡng, tôn giáo) phải
được sự chấp thuận của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh [55, tr.22].
Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến,
tặng, cho trên cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân ngoài
nước theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc tổ chức quyên góp phải công khai, rõ
ràng mục đích sử dụng và trước khi quyên góp phải thông báo với Uỷ ban nhân dân nơi tổ
chức quyên góp. Nhà nước ta nghiêm cấm lợi dụng việc quyên góp để phục vụ lợi ích cá
nhân hoặc thực hiện những mục đích trái pháp luật [55, tr.21].
- Quản lý nhà nước đối với việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc,
nhà tu hành tôn giáo.
Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có quyền:
+ Được thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo của mình trong phạm vi trách nhiệm
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận;
+ Được Nhà nước xét khen thưởng công lao đóng góp trong sự nghiệp đoàn kết
toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
+ Được hưởng các quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của công dân;
Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có nghĩa vụ:
- Thực hiện đúng chức trách, chức vụ tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm tôn giáo
đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp thuận và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về mọi hoạt động tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm đó;
- Động viên tín đồ chấp hành nghiêm chỉnh chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Người mạo danh chức sắc, nhà tu hành tôn giáo bị xử lý hành chính hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Người đang chấp hành án phạt tù hoặc bị quản chế hành chính không được thực
hiện chức trách, chức vụ tôn giáo, không được chủ trì lễ nghi tôn giáo, truyền đạo, quản lý