Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý giáo dục – Một biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS Cát Hiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.39 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. Lời nói đầu 2
B. Nội dung nghiên cứu tiểu luận 4
I. Một số vấn đề lí luận chung 4
1. Khái niệm pháp chế XHCN 4
2. Những nguyên tắc của pháp chế XHCN 6
3. Pháp chế XHCN trong quản lý giáo dục 7
II. Thực trạng pháp chế XHCN trong quản lý giáo dục ở
Trường THCS Cát Hiệp 11
1. Đặc điểm chung 11
2. Thực trạng tình hình pháp chế trong quản lý giáo dục ở
Trường THCS Cát Hiệp, Phù Cát 14
III. Các giải pháp và kiến nghò 17
1. Cơ sở đề ra giải pháp 18
2. Các giải pháp 19
3. Các kiến nghò 24
C. Kết luận 26
D. Danh mục tài liệu tham khảo 28
1
A . LỜI NÓI ĐẦU
* Lý do chọn đề tài: Quá trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn quản lí Nhà
nước, bản thân tôi nhận thấy việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghóa để nâng
cao hiệu lực quản lí Nhà nước trong tình hình hiện nay là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới và trong quá trình
hình thành để phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghóa. Có nghóa là
Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghóa. Pháp chế xã hội chủ nghóa là một biện pháp hữu hiệu để duy trì
cho pháp luật ngày càng bền vững có hiệu lực quản lí xã hội của Nhà nước.
Thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghóa là mọi tổ chức và hoạt
động của cơ quan Nhà nước, mọi cán bộ nhân viên đều phải nghiêm chỉnh chấp


hành, triệt để việc tuân thủ pháp luật khi thi hành quyền hạn và nhiệm vụ của
mình, bộ máy Nhà nước phải thực hiện được việc quản lí xã hội bằng pháp luật.
Bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh.
Thực hiện đúng nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghóa trong các tổ chức
cũng như bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghóa là đảm bảo sự thống nhất và kỷ
cương, trật tự, bảo đảm dân chủ và công bằng xã hội, tránh khuynh hướng cục
bộ, tuỳ tiện vô chính phủ, ngăn chặn tệ nạn quan liêu, tham nhũng và các hiện
tượng khác như lạm quyền hoặc thoái thác không tuân thủ pháp luật.
Qua khoá học, dưới sự hướng dẫn và cung cấp thông tin của thầy cô giáo,
sự tiếp cận nghiên cứu giáo trình và quá trình thảo luận trao đổi với tổ, với tập
thể lớp… đã giúp cho bản thân lónh hội nhiều kiến thức bổ ích về lý luận chính trò
và kinh nghiệm xử lý tình huống trong thực tiễn công tác. Bản thân được nhận
thức sâu sắc hơn về Nhà nước và Pháp luật, về quản lý hành chính….Với tâm
nguyện mong muốn tất cả mọi người đều sống và thực hiện đúng theo Hiến
pháp , pháp luật; thực hiện đúng đắn các chủ trương chính sách của Đảng và
Pháp luật của Nhà nước; với tình hình thực tiễn của nhà trường hiện nay, còn có
2
nhiều trường hợp học sinh chưa chấp hành đúng nội quy của nhà trường, còn có
bộ phận cán bộ, giáo viên và nhân viên trong nhà trường chưa thực hiện đúng
các yêu cầu của quy chế chuyên môn quy đònh…. Đã phần nào làm cho chất
lượng giáo dục của nhà trường chưa đáp ứng được yêu cầu của đòa phương và xã
hội, chính vì vậy đã thôi thúc tôi chọn vấn đề :Tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghóa trong quản lý giáo dục – Một biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục ở
trường THCS Cát Hiệp. Đây là điều kiện để bản thân nâng cao nhận thức và tìm
biện pháp phù hợp để tác động vào nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục của nhà trường trong thời gian đến.
* Phương pháp dùng để nghiên cứu đề tài: sử dụng nhóm phương pháp
biện chứng, phương pháp di vật lòch sử, phương pháp điều tra, thống kê …
* Lời cảm ơn: xin chân thành cảm ơn sự cung cấp tài liệu và thông tin của
Đảng uỷ, Uỷ Ban Nhân Dân xã Cát Hiệp; cảm ơn sự tạo điều kiện thuận lợi của

Ban giám hiệu trường Trung học cơ sở Cát Hiệp; cảm ơn thầy giáo hướng dẫn
cho bản thân hoàn thành đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu ghi chép, chắc chắn không tránh khỏi sai sót,
rất mong sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ của quý thầy cô giáo để bản thân
hoàn thành tốt bài viết của mình.
3
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU TIỂU LUẬN
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG:
1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghóa ( XHCN):
1.1. Pháp chế xã hội chủ nghóa:
Pháp chế thường được hiểu là “ chế độ trong đó đời sống và hoạt động xã
hội được đảm bảo bằng pháp luật”. Nhà nước quản lý xã hội và điều hành các
quan hệ xã hội đều căn cứ vào pháp luật. Nhà nước nào thì pháp luật ấy, Nhà
nước xã hội chủ nghóa có pháp luật xã hội chủ nghóa, Nhà nước ta là Nhà nước xã
hội chủ nghóa nên có pháp luật xã hội chủ nghóa, vậy pháp chế ở nước ta là pháp
chế xã hội chủ nghóa.
Pháp chế xã hội chủ nghóa là chế độ của đời sống chính trò – xã hội trong
đó Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; các cơ quan nhà nước, đơn vò lực
lượng vũ trang nhân dân, các tổ chức chính trò xã hội, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp, các đơn vò kinh tế và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến
pháp, Pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
Như vậy, pháp chế xã hội chủ nghóa là sự tuân thủ và chấp hành một cách
thường xuyên, chính xác, đầy đủ và nghiêm minh những luật, những văn bản
dưới luật của các cơ quan Nhà nước, các nhà chức trách, các tổ chức xã hội, các
tập thể lao động và mọi công dân.
Xã hội là một cộng đồng người thường xuyên nảy sinh những quan hệ. Vì
vậy cần phải có những nguyên tắc, những tiêu chuẩn hợp lí để điều chỉnh tổ
chức đời sống xã hội. Trong hệ thống các vi phạm xã hội thì hệ thống quy phạm
pháp luật có vò trí quan trọng đối với việc bảo đảm lợi ích cơ bản và mục tiêu
kinh tế – xã hội.

Như vậy, khái niệm pháp chế xã hội chủ nghóa thể hiện mối tương quan
giữa hoạt động của cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, hành vi xử sự của
công dân với những quy phạm pháp luật.
4
1.2. Mối quan hệ giữa pháp luật và pháp chế:
Pháp chế và pháp luật là hai khái niệm không đồng nhất với nhau nhưng
có quan hệ chặt chẽ tác động lẫn nhau. Không có pháp luật thì không có pháp
chế và ngược lại, không có pháp chế thì pháp luật không có ý nghóa gì. Pháp chế
đòi hỏi chủ thể pháp luật phải triệt để tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh.
Pháp luật chỉ điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội trên cơ sở có pháp chế
vững chắc. Ngược lại pháp chế chỉ được củng cố và tăng cường khi có một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh phù hợp với cơ sở kinh tế – văn hoá xã hội.
Điều 12 Hiến pháp năm 1992 của nước ta quy đònh: “Nhà nước quản lí xã
hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Như vậy, tình
trạng pháp chế phụ thuộc vào thái độ của các chủ thể pháp luật, các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức Đảng, các tổ chức xã hội phải thực hiện đúng thẩm
quyền, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quy đònh.
1.3. Pháp chế xã hội chủ nghóa với các hoạt động của các tổ chức
chính trò – xã hội , công dân và chế độ dân chủ XHCN.
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và các đoàn thể xã hội, sự
lãnh đạo ấy không tách rời nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghóa. Mỗi đoàn thể,
tổ chức đều có phương thức và nguyên tắc hoạt động riêng, song tất cả đều tuân
thủ theo nguyên tắc pháp chế XHCN.
Pháp chế XHCN là nguyên tắc xử sự theo pháp luật của công dân.
Trong quan hệ giữa công dân với Nhà nước, công dân với các tổ chức xã
hội và quan hệ giữa các công dân với nhau đều phải xử sự theo pháp luật. Sự tôn
trọng pháp luật của mọi tổ chức, mọi công dân là điều kiện cơ bản để đảm bảo
công bằng xã hội. Bình đẳng trước pháp luật cũng là điều kiện cho mọi người tự
do phát triển mối quan hệ này, dân chủ XHCN là cơ sở để củng cố tăng cường
pháp chế. Mặt khác, pháp chế XHCN là phương tiện cần thiết để bảo vệ, củng

cố mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Dân chủ
5
càng mở rộng càng tăng cường pháp chế. Vì pháp chế đảm bảo thực hiện
nguyên tắc dân chủ, xây dựng tính tổ chức, kỷ luật, trật tự kỷ cương xã hội, kỷ
luật Nhà nước và công bằng xã hội.
2. Những nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghóa:
Nguyên tắc pháp chế XHCN là những chỉ đạo cơ bản thể hiện bản chất và
đặc điểm của pháp chế XHCN. Vì vậy, Đảng và Nhà nước rất coi trọng vai trò
của pháp chế XHCN. Tư tưởng pháp chế của Đảng, Nhà nước ta được thể hiện
trong các nguyên tắc cơ bản sau:
2.1. Tôn trọng tính tối cao của Hiến Pháp.
Đây là yêu cầu quan trọng nhất trong quá trình xây dựng, thiết lập nền
pháp chế xã hội chủ nghóa. Hiến pháp là đạo luật gốc – cơ bản của cả hệ thống
pháp luật và có giá trò pháp lý cao nhất. Vì vậy, hoạt động xây dựng luật pháp
của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải căn cứ vào các quy đònh của Hiến
pháp. Hiến pháp có vò trí trung tâm và vai trò tối cao do đặc điểm về nội dung,
được cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước là Quốc hội ban hành theo một
trình tự và thủ tục đặc biệt. Do vậy, các luật hoặc đạo luật đều phải có đủ để cụ
thể hoá Hiến pháp và phù hợp với Hiến pháp. Khi xây dựng những văn bản dưới
luật, cần phải dựa vào Hiến pháp và luật. Chỉ có thực hiện tốt yêu cầu này mới
có thể xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ, tránh được
tình trạng tản mạn, trùng lắp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn.
2.2. Pháp chế phải thống nhất trên phạm vi cả nước:
Pháp chế phải thống nhất trên phạm vi cả nước. Đặc điểm này đòi hỏi
trước hết, trong khi thực hiện pháp chế phải thống nhất tuân thủ pháp luật, bảo
đảm tính nghiêm minh của luật, mặc dù các luật và các văn bản dưới luật rất
phong phú và đa dạng nhưng pháp chế thì phải thống nhất. Pháp chế thống nhất
đòi hỏi từ việc xây dựng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền đến việc chấp
hành pháp luật của các chủ thể pháp luật luôn luôn xuất phát từ luật, trên cơ sở
6

luật để thi hành luật. Thực hiện nguyên tắc pháp chế thống nhất trong hoạt động
quản lí nhà nước sẽ làm cho mọi chủ trương, chính sách của Đảng thể hiện trong
văn bản pháp luật được thực hiện đầy đủ, đúng đắn từ Trung ương đến cơ sở.
2.3. Các cơ quan xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật phải hoạt
động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả.
Pháp chế xã hội chủ nghóa yêu cầu các cơ quan Nhà nước, các tổ chức
trong hệ thống chính trò và toàn dân thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tích
cực, chủ động và hiệu quả. Các cơ quan xây dựng pháp luật là các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, phải có kế hoạch
làm pháp luật và thực hiện tốt kế hoạch đó. Các cơ quan hành chính nhà nước từ
Chính phủ đến Uỷ ban nhân dân các cấp phải chủ động trình các dự án luật lên
Quốc hội và có kế hoạch lập quy phù hợp với kế hoạch làm luật của Quốc hội.
Có như vậy, hệ thống pháp luật mới ngày càng hoàn thiện và đầy đủ, đáp ứng
nhu cầu khách quan, cần thiết của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội ngày càng
phát triển phong phú, đa dạng. Hệ thống pháp luật đầy đủ, có chất lượng cao là
cơ sở vững chắc để củng cố pháp chế xã hội chủ nghóa.
Tổ chức và thực hiện pháp luật là một yêu cầu chủ yếu của pháp chế. Để
pháp luật đi vào cuộc sống, được mọi tổ chức và công dân thực hiện một cách
nghiêm minh, chính xác triệt để, đòi hỏi các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật
phải hoạt động tích cực và có hiệu quả.
3. Pháp chế XHCN trong quản lý giáo dục:
Pháp chế là chế độ trong đó đời sống và hoạt động xã hội được đảm bảo
bằng pháp luật. Việc quản lý, điều hành các mối quan hệ, các hoạt động đều căn
cứ vào pháp luật.
Pháp chế trong lónh vực giáo dục chính là sự tuân thủ, chấp hành và thực
hiện đúng theo những quy đònh của Luật giáo dục; hệ thống các văn bản thuộc
về giáo dục.
7
Người cán bộ quản lý trong ngành giáo dục nói chung, người Hiệu Trưởng
trong nhà trường nói riêng, khi thực hiện nhiệm vụ và quyền của mình đều phải

tuân thủ theo quy đònh của Pháp luật, Luật giáo dục, Điều lệ trường phổ thông….
Pháp chế xã hội chủ nghóa trong quản lý giáo dục chính là sự tuân thủ và
chấp hành một cách nghiêm ngặt về Hiến pháp, Pháp luật nhà nước; về Luật
giáo dục, về Điều lệ trường phổ thông và các văn bản chuyên ngành giáo dục …
của tất cả các đối tượng trong và ngoài nhà trường nói chung, và cán bộ quản lý
giáo dục nói riêng.
Tăng cường pháp chế trong quản lý giáo dục chính là tăng cường quá trình
triển khai và thực hiện đúng các quy đònh về chuyên ngành trong lónh vực giáo
dục nói riêng và các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước ta nói chung.
3.1. Khái niệm quản lý giáo dục:
Quản lý giáo dục là việc xây dựng, hoạch đònh các đường lối, chính sách
để giáo dục phát triển, đáp ứng mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước nói chung
và của một đòa phương , đơn vò nói riêng.
Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất xã hội
của lao động. Về cơ bản có thể coi: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Hoạt động dạy học và giáo dục là những hoạt động cơ bản trong nhà
trường phổ thông. Chủ thể quản lý các hoạt động này là Hiệu trưởng. Tập thể
giáo viên, học sinh và các lực lượng ngoài nhà trường, những nhân tố trực tiếp tổ
chức hoạt động dạy học và giáo dục là đối tượng quản lý.
Vậy, quản lý các hoạt động dạy học và giáo dục là những tác động có mục
đích, có kế hoạch của Hiệu trưởng đến tập thể giáo viên và học sinh, những lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ tham gia, cộng tác,
phối hợp trong các hoạt động của nhà trường giúp quá trình dạy học và giáo dục
vận động tối ưu tới các mục tiêu dự kiến.
8
3.2. Khái niệm về chất lượng giáo dục
Chất lượng giáo dục được hiểu là tổng hoà những phẩm chất và năng lực
được tạo nên trong quá trình giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng cho người học so với
những thang chuẩn giá trò của Nhà nước hoặc xã hội nhất đònh.

Có chất lượng giáo dục toàn diện và chất lượng giáo dục từng mặt,tuỳ theo
góc độ đánh giá. Chất lượng giáo dục có tính lòch sử, cụ thể và luôn luôn tuỳ
thuộc vào các điều kiện xã hội nhất đònh, vào các thiết chế, chính sách và lực
lượng tham gia giáo dục.
Chất lượng giáo dục không chỉ đơn thuần là trình độ học tập, rèn luyện
được đánh giá bằng những điểm số các môn thi, mà quan trọng hơn là bằng
những kết quả thực tế và bằng hiệu quả sử dụng những phẩm chất và năng lực
của học sinh trong hoạt động thực tiễn ở nhà trường, gia đình và xã hội.
3.3. Quan hệ giữa pháp chế với quản lý giáo dục và chất lượng giáo
dục:
Như đã trình bày ở trên, quản lý giáo dục là việc xây dựng, hoạch đònh các
đường lối, chính sách để giáo dục phát triển, đáp ứng mục tiêu kinh tế - xã hội
của đất nước nói chung và của một đòa phương , đơn vò nói riêng.
Việc xây dựng, hoạch đònh các đường lối, chính sách để giáo dục phát triển
phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghóa
Việt Nam; phù hợp với quy đònh của Luật giáo dục và mục tiêu phát triển giáo
dục Việt Nam. Đó là “ Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghóa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.”. Đảm bảo đúng tính chất, nguyên lý giáo dục: “1. Nền giáo dục Việt Nam
là nền giáo dục xã hội chủ nghóa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại,
lấy chủ nghóa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. 2. Hoạt động
9
giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp
với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.”
Pháp chế trong giáo dục đònh hướng cho quá trình hoạch đònh đường lối
phát triển giáo dục của các nhà quản lý giáo dục. Quá trình hoạch đònh đường
lối phát triển đúng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đất nước và của đòa

phương sẽ đảm bảo cho hoạt động giáo dục phát triển thuận lợi, có như vậy chất
lượng giáo dục mới được nâng cao.
Để thực hiện đúng pháp chế trong giáo dục cần phải xây dựng kỷ cương,
nền nếp trong ngành giáo dục, việc xây dựng ấy phải bắt đầu từ các cơ quan chỉ
đạo giáo dục và đào tạo; từng phòng, ban quán triệt các chủ trương, đường lối chỉ
đạo giáo dục; tiến đếùn các nhà trường, cấp học thể hiện nền nếp kỷ cương thông
qua hành động cụ thể từ việc soạn giảng, xây dựng hồ sơ, sổ sách, việc kiểm tra
đánh giá … đến các quy đònh cụ thể đến từng bộ phận, từng giáo viên và học sinh.
Một khi tính pháp chế trong ngành giáo dục nói chung và hoạt động quản
lý giáo dục nói riêng được quán triệt và thực hiện nghiêm, thì vấn đề cán bộ,
giáo viên, nhân viên trong ngành giáo dục sẽ không còn tình trạng vi phạm các
quy đònh về chuyên ngành; học sinh không còn hiện tượng vi phạm nội quy
trường, lớp … và như vậy quá trình đào tạo của các nhà trường lo gì đến việc
không đảm bảo chất lượng . Vì suy cho cùng, sự tuân thủ và chấp hành nghiêm
theo các quy đònh trong lónh vực giáo dục đã giải quyết được vấn đề về đổi mới
và cập nhật phương pháp quản lý, phương pháp giáo dục – giảng dạy trong nhà
trường, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của xã hội.
Như vậy, mối quan hệ về pháp chế với quản lý giáo dục và chất lượng
giáo dục là mối quan hệ nhân quả và bổ trợ phát triển: pháp chế thực hiện
nghiêm minh giúp cho hoạt động quản lý thực hiện tốt vai trò chức năng của
mình, khi quản lý thực hiện đúng vai trò, chức năng , nhiệm vụ thì tổ chức, đơn vò
10
sẽ hoạt động đảm bảo theo tiến trình, theo kế hoạch, đúng theo quy đònh của
ngành và như vậy hiệu quả công việc chắt chắn được nâng cao. Ngược lại, chất
lượng, hiệu quả công tác của cơ quan đơn vò, đáp ứng yêu cầu thực tiễn xã hội ,
hay nói cách khác chất lượng giáo dục của nhà trường cao phản ánh sự quản lý
có hiệu quả và khoa học của lãnh đạo, đồng thời nó cũng phản ánh sự chấp hành
nghiêm minh các quy phạm pháp luật trong lónh vực giáo dục.
Vì vậy, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghóa trong quản lý giáo dục là
tiền đề, là cơ sở cho việc nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo của các nhà

trường trong giai đoạn hiện nay và mai sau.
II. THỰC TRẠNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG QUẢN
LÝ GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CÁT HIỆP.
1. Đặc điểm chung:
1.1. Sơ lược về nhà trường.
Trường THCS Cát Hiệp nằm trong đòa bàn thôn Hòa Đại, Xã Cát Hiệp về
phía tây của Huyện Phù Cát, thuộc tỉnh Bình Đònh.
Cát Hiệp là xã trung du, có diện tích tự nhiên 4102 ha, gồm 1784 hộ với
7780 nhân khẩu, trong đó 90% dân số làm nghề nông, nguồn thu nhập chính từ
sản xuất nông nghiệp. Xã có điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế xã hội, với vùng bán sơn đòa có nền đất cát xám bạc màu,
không có hệ thống thủy lợi như những đòa phương khác, nguồn nước phụ thuộc
vào thiên nhiên là chính, hoạt động sản xuất chủ yếu của nhân dân là sản xuất
nông nghiệp. Điều kiện thiên nhiên không được ưu đãi, với vò trí đòa lí không
mấy thuận lợi nên nhìn chung đời sống của nhân dân trong đòa phương rất khó
khăn. Chính vì vậy, mức độ đầu tư cho giáo dục của đòa phương không cao, phụ
huynh học sinh chú trọng nhiều trong sản xuất, lo đi làm ăn xa để có nguồn thu
nhập, việc chăm lo học hành của con em ít được chú trọng.
11
Đơn vò trường mới được tách ra từ cơ sở chung trường Cấp I- Cấp II từ năm
học 2002 – 2003. Cơ sở trường mới xây dựng tại khu trung tâm của xã, với diện
tích khuôn viên trường khoảng 14 000 m
2
,đảm bảo cho hoạt động của thầy và trò,
cơ sở vật chất chưa đảm bảo, chỉ có 10 phòng học, và 2 phòng làm việc. Số lượng
lớp học trên dưới 19 lớp, Chính vì thế hoạt động ngoại khóa về chuyên môn của
nhà trường thường rơi vào ngày nghỉ trong tuần, hệ thống các phòng chức năng,
phòng bộ môn chưa có.
Các công trình phụ : nhà vệ sinh, nhà để xe, giếng nước, tường rào, cổng
ngõ tương đối đảm bảo phục vụ cho hoạt động dạy học của nhà trường.

Thành tích hoạt động của nhà trường còn khá khiêm tốn, số lượng học sinh
đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp tỉnh chưa có, giáo viên đạt danh hiệu giáo viên
dạy giỏi các cấp còn quá ít. Chỉ có hoạt đôïng phong trào của Đội thiếu niên tiền
phong Hồ Chí Minh được Hội Đồng Đội Huyện đánh giá là đơn vò mạnh trong
Huyện.
Năm học 2007 – 2008:
Tổng số cán bộ , giáo viên, nhân viên : 37 nữ: 18
Trong đó: Ban giám hiệu : 2 nữ: 0
Giáo viên biên chế: 33 nữ: 17
Giáo viên đạt trình độ trên chuẩn: 24 nữ: 7
Giáo viên chưa đạt trình độ chuẩn : 2 nữ : 0 (thuộc các bộ môn :
âm nhạc, thể dục)
Nhân viên : 2 nữ:1
Tổng số học sinh: 634 nữ : 292. Biên chế thành 18 lớp.
Trong đó: Khối lớp 6 : 188 học sinh, xếp thành 5 lớp
Khối lớp 7: 143 học sinh ‘’ 4 lớp
Khối lớp 8: 158 học sinh ‘’ 5 lớp
Khối lớp 9: 145 học sinh ‘’ 4 lớp
12
1.2 Thực trạng về chất lượng giáo dục của nhà trường ( từ năm học 2004
– 2005 đến nay):
*. Đối với giáo viên:
Trong 3 năm học tỉ lệ giáo viên được xếp loại tốt, khá, trung bình hầu như
không biến động mấy, loại tốt và loại khá luôn đạt ở mức từ 75% đến 80%.
Năm học 2004 – 2005 có 2 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp
Huyện, 1 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp Tỉnh.
Năm học 2005 – 2006 có 1 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp
Huyện.
Năm học 2006 – 2007 không có giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi
các cấp.

Quá trình đánh giá, xếp loại của Ban giám hiệu đối với giáo viên nhìn
chung còn chưa thật sự chính xác, còn mang tính chất thành tích,hình thức.
*. Đối với học sinh:
- Về mặt hạnh kiểm mức độ biến động không lớn, năm học 2006-2007 tỉ lệ
học sinh xếp loại hạnh kiểm trung bình , yếu có tăng hơn các năm trước. Tỉ lệ
học sinh đạt hạnh kiểm tốt có giảm hơn.
- Về mặt học lực có sự thay đổi rõ nét: tỉ lệ học sinh đạt giỏi, khá giảm hơn
các năm trước. Tỉ lệ học sinh xếp loại yếu , kém tăng hơn các năm học trước.
( thể hiện qua bảng thống kê).
Có 1 học sinh đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp huyện.
- Số lượng học sinh sau khi tốt nghiệp thi đậu vào lớp 10 hệ công lập còn
thấp, dao động từ 32,5 % đến 41, 2 %.
Kết quả hai mặt giáo dục của học sinh từ năm học 2004 – 2005 đến năm
2006 – 2007 được thể hiện ở bảng thống kê .
Bảng thống kê 2 mặt giáo dục của trường THCS Cát Hiệp
( từ năm học 2004-2005 đến năm học 2006- 2007)
13
Hai mặt Giáo Dục Xếp Loại 2004 -2005 2005-2006 2006-2007
HẠNH KIỂM
Tốt
Số Lượng 280 320 227
Tỉ lệ (%)
41.4 47.0 36.2
Khá
Số Lượng 313 263 267
Tỉ lệ (%)
46.3 38.6 46.2
Trung
Bình
Số Lượng 83 96 130

Tỉ lệ (%)
12.3 14.1 20.7
Yếu
Số Lượng 2 3
Tỉ lệ (%)
0.3 0.5
HỌC
LỰC
Giỏi
Số Lượng 20 39 24
Tỉ lệ (%)
3.0 5.7 3.8
Khá
Số Lượng 177 162 125
Tỉ lệ (%)
26.2 23.8 19.9
Trung
Bình
Số Lượng 391 393 349
Tỉ lệ (%)
57.8 57.7 55.6
Yếu
Số Lượng 85 85 128
Tỉ lệ (%)
12.6 12.5 20.4
Kém
Số Lượng 3 2 2
Tỉ lệ (%)
0.4 0.3 0.3
2. Thực trạng tình hình pháp chế trong quản lý giáo dục ở trường Trung

học cơ sở Cát Hiệp, huyện Phù Cát:
2.1. Những kết quả đạt được:
Pháp chế trong giáo dục nói chung và trong quản lý giáo dục nói riêng là
sự triển khai và thực hiện các quy đònh, các văn bản của Nhà nước đối với lónh
vực giáo dục; các văn bản của ngành giáo dục quy đònh về phương hướng, nhiệm
vụ cách thức tiến hành các chủ trương chỉ thò của Nhà nước và của ngành cấp
trên trong lónh vực giáo dục.
Trong những năm qua, trường THCS Cát Hiệp đã triển khai và thực hiện
được các vấn đề sau:
* Đối với giáo viên:
14
- Triển khai và thực hiện kòp thời các chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về
các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
- Triển khai thực hiện đúng các quy đònh của ngành trong các lónh vực như:
tổ chức biên chế năm học, thực hiện đảm bảo yêu cầu về quy chế chuyên môn;
đề ra nội quy quy chế cơ quan, nội quy nhà trường….
- Tiến độ thực hiện kế hoạch năm học đúng theo quy đònh của ngành; chế
độ trực báo tổng hợp của ban giám hiệu kòp thời , không có trường hợp bò nhắc
việc của lãnh đạo ngành cấp trên.
* Đối với học sinh:
- Học sinh thực hiện đúng theo yêu cầu quy đònh của nhà trường, của lớp
và các đoàn thể trong nhà trường. Thể hiện được phẩm chất đạo đức của người
học sinh, người Đội viên Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh trong nhà
trường trung học cơ sở.
2.2 Những tồn tại:
- Vai trò lãnh đạo của Chi bộ đảng trong trường học chưa thật sự chưa phát
huy hết vai trò trách nhiệm của mình.
- Đồng chí Hiệu trưởng chưa được học qua chương trình đào tạo, bồi dưỡng
công tác quản lý giáo dục, nên trong quá trình xây dựng kế hoạch, điều hành xử
lý công việc, triển khai chỉ đạo thực hiện chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, còn

theo cảm tính, không kiên quyết dứt khoát dẫn đến sự chây ì trong tổ chức, sự
chấp hành và tuân thủ của cấp dưới quyền chưa triệt để.
- Tính dân chủ trong cơ quan thực hiện chưa triệt để, còn có trường hợp
người đứng đầu đoàn thể, tổ chức tự áp đặt kế hoạch hoạt động của tổ chức mình,
triển khai nhiều kế hoạch công tác một cách tuỳ tiện, chưa có sự bàn bạc thống
nhất trong tổ chức, đoàn thể dẫn đến sự chấp hành và thực hiện kế hoạch mang
tính gượng ép “bằng mặt, không bằng lòng”, chất lượng kế hoạch đạt được không
cao.
15
- Việc thực hiện đúng theo các quy đònh, quy chế của cơ quan chưa đảm
bảo: còn bộ phận giáo viên thực hiện chế độ báo cáo, tổng hợp chưa kòp thời; còn
có trường hợp thực hiện sai quy chế chuyên môn về vấn đề sửa chữa sổ sách, học
bạ; tình trạng đi muộn, dạy không đảm bảo thời gian vẫn còn tồn tại : nhất là đối
với các giờ học tự chọn, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp; tình trạng cán bộ
giáo viên vi phạm về nội quy cơ quan vẫn còn, nhất là việc chấp hành không hút
thuốc lá trong giờ làm việc tại cơ quan chưa thực hiện được, vẫn có nhiều trường
hợp vi phạm.
- Một bộ phận giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp chưa nhiệt tình,
không tận tâm với công việc của bản thân, tuyên truyền giáo dục học sinh chưa
đến nơi, không thể hiện sự ân cần bền bỉ trong công tác, phổ biến triển khai một
cách qua loa đại khái, chưa theo dõi kiểm tra giám sát, giúp đỡ sửa chữa kòp thời
đối với học sinh lớp mình phụ trách. Vì vậy, còn có hiện tượng học sinh vi phạm
về nội quy lớp học, vi phạm những quy đònh của nhà trường. Hiện tượng học sinh
vi phạm tác phong khi đến trường, điều khiển xe mô tô xe máy khi ở nhà vẫn
xuất hiện; học sinh bỏ giờ trốn học vẫn tồn tại.
- Sự kết hợp ba môi trường giáo dục ở đòa phương còn bộc lộ nhiều yếu
điểm khiếm khuyết. Nhận thức của phần lớn phụ huynh học sinh về giáo dục học
sinh là nhiệm vụ của thầy cô giáo trong nhà trường, nên có hiện tượng phụ huynh
phó thác cho nhà trường về việc học của con em, không quan tâm đến kết quả
học tập của con em .

- Một bộ phận không nhỏ học sinh hiện nay xác đònh không đúng động cơ
học tập, vì vậy sự tích cực trong học tập rèn luyện ở nhà trường của các em
không có. Mặc khác, tác động mặt trái của cơ chế thò trường và sự phát triển của
công nghệ thông tin … đã làm cho nhiều học sinh thái hoá suy giảm đạo đức của
người học sinh.
2.3. Những nguyên nhân tồn tại:
16
- Nguyên tắc tập trung dân chủ trong nhà trường thực hiện chưa nghiêm.
- Bản thân người đứng đầu nhà trường là Hiệu trưởng chưa học qua chương
trình quản lý giáo dục.
- Sự tập trung chú ý của giáo viên trong khi lãnh đạo nhà trường triển khai
các văn bản chỉ đạo về chuyên môn chưa cao; giáo viên chưa thật sự đầu tư
nghiên cứu , tìm hiểu kỹ hệ thống văn bản thuộc về quy đònh của ngành.
- Ý thức tự giác chấp hành trong một bộ phận giáo viên chưa cao.
- Lòng nhiệt thành tận tâm với nghề, lòng yêu nghề mến trẻ của một bộ
phận thầy cô giáo bò tác động mặt trái của cơ chế thò trường chuyển hoá.
- Quá trình tuyên truyền giáo dục của giáo viên, các tổ chức, đoàn thể
trong nhà trường đến học sinh chưa thật sâu rộng; nhiều giáo viên chủ nhiệm
chưa làm tốt công tác chủ nhiệm lớp.
- Một bộ phận giáo viên có tư tưởng “an phận thủ thường” , không thể hiện
vai trò tiên phong, tích cực trong hoạt động và công tác của nhà trường.
- Một bộ phận cha mẹ học sinh chưa quan tâm đến con em, có thành phần
quá cưng chiều con không đúng; còn có sự giao phó con em cho nhà trường, phụ
huy đi làm ăn xa để con em ở nhà tự do tự tại, thiếu người nhắc nhở …
- Sự quan tâm, phối hợp làm công tác giáo dục của các tổ chức xã hội
ngoài nhà trường chưa được chú trọng, chưa có biện pháp hữu hiệu, hoạt động
phối hợp chỉ mới thể hiện trong hội họp và văn bản báo cáo.
III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ:
1. Cơ sở đề ra giải pháp:
Theo chỉ thò số 40/CT-TW ngày15-6-2004 của Ban Bí thư về việc xây

dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
“ … tăng cường xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một
cách toàn diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang
tính chiến lược lâu dài, nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển
17
giáo dục 2001 – 2010 và chấn hưng đất nước …”. Mục tiêu Chiến lược phát
triển giáo dục 2001 -2010 : “ Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lónh chính trò,
phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản
lý, phát triển đúng đònh hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng
cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.” Chỉ thò ghi rõ:
“ Để đạt được mục tiêu trên, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng
chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ :
-Củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống các trường sư phạm, các trường
cán bộ quản lý giáo dục.
-Tiến hành rà soát, sắp xếp lại đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo
dục để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo đủ số lượng và cân đối về
cơ cấu; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức cho đội ngũ nhà
giáo, cán bộ quản lý giáo dục.
- Đẩy mạnh việc đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo
dục theo hướng hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục.
- Xây dựng và hoàn thiện một số chính sách, chế độ đối với đội ngũ nhà
giáo, cán bộ quản lý giáo dục.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục.
- ….”.

2. Các giải pháp:
Trong thực tiễn của đất nước hiện nay, vấn đề nâng cao chất lượng giáo
dục là yêu cầu rất cần thiết và cấp bách đặt ra đối với ngành giáo dục và đào
18
tạo. Để đáp ứng cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội hiện nay, ngành giáo dục –
đào tạo cần cung cấp cho xã hội đội ngũ những công dân đảm bảo yêu cầu về
đức, trí, thể mỹ và các kó năng lao động - hoạt động xã hội. Chính vì vậy, nâng
cao chất lượng giáo dục là yêu cầu cần thiết và vô cùng quan trọng đối với ngành
giáo dục và đào tạo của ta trong giai đoạn hiện nay. Sở dó có yêu cầu như vậy, là
do “ sản phẩm” của ngành giáo dục – đào tạo tạo nên, tuy có đáp ứng phần nào
nhu cầu trong nước nhưng so với trong khu vực và quốc tế ta còn thua kém xa họ.
Đối với lónh vực giáo dục trung học cơ sở, cũng không rời khỏi tình trạng
chung đó, sau khi rời ghế nhà trường trung học cơ sở, học sinh học lên bậc học
cao hơn, hoặc tham gia vào các lónh vực học ngành nghề khác, số lượng học sinh
đáp ứng yêu cầu môi trường mới thường rất thấp. Chính vì vậy, nâng cao chất
lượng giáo dục ở bậc học trung học cơ sở nói chung, và nâng cao chất lượng giáo
dục ở trường trung học cơ sở Cát Hiệp nói riêng cũng là nhiệm vụ cần thiết và
cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Một trong những biện pháp góp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
trong nhà trường cơ sở hiện nay đó chính là sự quản lý có kế hoạch, có phương
thức khoa học, có tầm nhìn thời đại của người cán bộ quản lý. Người cán bộ quản
lý muốn đạt được mục tiêu của mình cần vận dụng hài hoà nhiều phương pháp
khác nhau, trong đó vấn đề “ đả thông tư tưởng” của đối tượng mình quản lý là
một vấn đề vô cùng quan trọng cần phải chú ý. Hay nói cách khác, đối tượng
quản lý của người cán bộ quản lý cần phải được giác ngộ ,giáo dục họ nắm vững
những chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nắm
vững những quy đònh, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ thuộc lónh vực họ
phụ trách; nghóa là đảm bảo tính pháp chế trong giáo dục.
Chính vì vậy, để tăng cường tính pháp chế trong quản lý giáo dục nói
chung và quản lý giáo dục ở trường trung học cơ sở Cát Hiệp nói riêng cần tiến

hành các biện pháp sau:
19
- Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
pháp chế xã hội chủ nghóa. Đó là lãnh đạo chỉ đạo việc tổ chức thực hiện pháp
luật; kiểm tra việc thực hiện pháp luật của Chi bộ Đảng và Đảng viên. Lãnh đạo
công tác cán bộ, công chức trong cơ quan, ban ngành của nhà trường. Đảng viên
trong Chi bộ nhà trường phải thể hiện tốt vai trò tiên phong gương mẫu, hoàn
thành đúng và sớm hơn thời gian quy đònh về chế độ báo cáo thống kê, thực hiện
đầy đủ và đúng các quy đònh của ngành; bản thân Đảng viên phụ trách lónh vực,
bộ phận nào phải hoàn thành một cách xuất sắc các nhiệm vụ được phân công.
Ngoài ra còn phải biết động viên , lôi kéo các thành phần khác trong nhà trường
cùng thực hiện tốt như mình.
- Không ngừng hoàn thiện hệ thống nội quy quy chế cơ
quan, đó là các quy đònh đối với cán bộ giáo viên và học sinh trong nhà trường.
Phát hiện những quy đònh lỗi thời, chồng chéo, mâu thuẫn để có kế hoạch sửa
đổi, bãi bỏ, bổ sung.
- Trước khi bước vào năm học mới, cần tổ chức cho
giáo viên và học sinh học nội quy, quy chế cơ quan trường học; thông qua tổ chức
đội trong nhà trường, tổ chức hội thi: nhận thức về nội quy trường học; tìm hiểu
những điều cấm đối với học sinh… qua đó nâng cao tầm nhận thức và ý thức chấp
hành của học sinh.
- Thứ hai: Giáo dục và đào tạo là lónh vực mang tính
xã hội rộng lớn, quản lý giáo dục là một hoạt động mang tính nghiệp vụ, tính chỉ
đạo. Vì vậy, cần nâng cao năng lực cán bộ quản lý giáo dục ở cơ sở mà cốt lõi là
cán bộ quản lý ở các trường học, đó chính là các Hiệu trưởng,có như vậy hiệu
quả, chất lượng quản lý giáo dục mới được nâng cao và có hiệu quả. Để đạt được
vấn đề này cần triển khai chương trình hành động: tổ chức hội thảo, trao đổi kinh
nghiệm trong công tác quản lý trường học của các hiệu trưởng theo các cấp; mở
lớp đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn nghiệp vụ quản lý hành
20

chính, quản lý trường học trong điều kiện thông tin hiện đại …. Bên cạnh đó, cần
xử lý, giải quyết phù hợp đối với những cán bộ quản lý không đáp ứng yêu cầu
công việc trong điều kiện hiện tại và tương lai.
- Đồng chí Hiệu trưởng cần tích cực học hỏi, trao đổi
kinh nghiệm quản lí trường học đối với các trường bạn; đầu tư nghiên cứu và tìm
giải pháp phù hợp trong quản lí thực tiễn của nhà trường. Cần thay đổi cách điều
hành quản lí, kiểm tra đánh giá giáo viên nhân viên trong nhà trường; cần minh
bạch, cụ thể, rõ ràng trong việc đánh giá xếp loại thi đua trong cơ quan.
- Thứ ba: Người Hiệu trưởng nhà trường cần quan tâm,
chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cốt cán để nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ và hiệu lực quản lý Nhà nước, giúp cán bộ giáo viên có đủ năng lực
chỉ đạo, điều hành trong quản lý bằng pháp luật. Thực hiện nghiêm pháp chế xã
hội chủ nghóa. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên, công chức có năng lực quản
lý Nhà nước, nắm vững pháp luật, có phẩm chất chính trò và phẩm chất đạo đức
tốt, tận t tận tâm với nghề, phát huy cao độ lòng yêu nghề mến trẻ. Để làm
được vấn đề này, người cán bộ quản lý, người Hiệu trưởng cần gần gũi , kòp thời
giúp đỡ những vướng mắc trong quá trình công tác của cấp dưới mình, đồng thời
qua đó nắm vững năng lực công tác của từng thành viên để có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng lâu dài.
- Vào đầu mỗi năm học, nửa đầu tháng 9: cần tổ chức
triển khai việc giáo viên học tập, nghiên cứu, thảo luận và trao đổi, quán triệt
quy chế chuyên môn, phân phối chương trình các môn học do Sở giáo dục ban
hành, có như vậy mới giúp giáo viên hệ thống lại, hoặc kòp thời tiếp cận nắm
vững các văn bản quy đònh về chuyên môn nhằm khắc phục tình trạng giáo viên
vi phạm quy chế chuyên môn.
- Thứ tư: Kiên quyết xử lý những giáo viên nhân viên
chây ì, làm việc không hết trách nhiệm, thường xuyên làm sai và chậm trễ thành
21
hệ thống trong công việc. Không xét đề nghò nâng bậc lương đối với diện giáo
viên nhân viên này khi đến kỳ hạn nâng bậc lương.

- Thứ năm: Tăng cường giáo dục ý thức, tinh thần trách
nhiệm, sự làm gương của người thầy trong công tác để học sinh noi theo. Mỗi
một thầy giáo, cô giáo cần trau dồi bản thân để trở thành một “thần tượng” quý
cho học sinh. Thể hiện rõ vấn đề này chính là biểu hiện hằng ngày của bản thân
mỗi thầy giáo, cô giáo; chỉ rõ cho mỗi cán bộ giáo viên , nhân viên trong nhà
trường ý thức được rằng mọi hành vi cư xử của bản thân đều có sự nhìn nhận
quan sát của học sinh; vì vậy bất cứ việc gì từ nhỏ đến lớn, đều phải cân nhắc và
cẩn trọng trước khi tiến hành thực hiện, nhất là khi lên lớp không được để tác
phong lề mề, quá trình giảng dạy không được sai nhầm kiến thức, cần khách
quan công bằng và chính xác trong việc đánh giá khen chê trách phạt học sinh,
tuyệt đối không có trường hợp cán bộ giáo viên vi phạm nội quy, quy chế cơ
quan.
- Thứ sáu: Phối kết hợp thực hiện tốt ba môi trường
giáo dục. Làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo ngành đòa phương, tranh thủ
sự hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài đòa bàn về nhân lực, tài lực để
xây dựng cơ sở nhà trường ngày càng khang trang hiện đại. Hiệu trưởng tích cực
tham mưu với các cấp lãnh đạo để nhà trường được xây dựng thêm đủ số phòng
học bộ môn, phòng chức năng, trang bò đảm bảo nhu cầu tối thiểu về cơ sở vật
chất phục vụ cho hoạt động dạy và học của nhà trường trong thời gian đến.
- Tuyên truyền, tác động đến từng phụ huynh học sinh,
“ đả thông tư tưởng” cho phụ huynh học sinh, để họ nhận thức lại cho đúng về
trách nhiệm của họ trong việc học hành của con em . Mỗi một năm học, tối thiểu
phải tổ chức 3 kỳ họp cha mẹ học sinh: kỳ họp thức nhất vào tuần đầu tiên của
năm học, trọng tâm công việc trong kỳ họp này là triển khai kế hoạch giáo dục
của nhà trường, các quy đònh của nhà trường, các kế hoạch cảu tập thể lớp … thực
22
hiện trong năm đối với học sinh, bầu ban chấp hành cha mẹ học sinh tứng lớp; kỳ
họp thứ hai vào tuần đầu tiên của học kỳ II, kỳ họp này báo cáo kết quả học tập
rèn luyện của học sinh trong thời gian qua, bàn biện pháp và triển khai kế hoạch
giáo dục của lớp trong thời gian tới; kỳ họp thứ ba vào thời gian trước khi nhà

trường tiến hành lễ tổng kết năm học, kỳ họp này báo cáo cụ thể kết quả học tập
của từng học sinh, các thành tích của tập thể lớp trong năm học, triển khai chi tiết
cụ thể việc ôn tập rèn luyện thêm trong hè đối với diện học sinh yếu …
- Thứ bảy:Kiên quyết xử lý đối với diện học sinh cố
tình vi phạm nội quy, quy chế nhà trường; diện học sinh vi phạm có hệ thống
không có chiều hướng tiến bộ, không có sự quan tâm của gia đình. Nhà trường
cần có phối hợp một cách chặt chẽ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà
trường, cùng tác đôïng vào đối tượng học sinh này, liên hệ đến công an đòa
phương can thiệp khi cần; nếu học sinh không chuyển biến phải gửi đến trung
tâm giáo dưỡng để tiếp tục giáo dục.
- Thứ tám: Hiệu trưởng và cán bộ giáo viên đứng đầu
các ban ngành đoàn thể trong nhà trường, cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tập trung dân chủ trong trường học. Để cho các thành viên trong nhà
trường có tiếng nói của mình, thể hiện bộc lộ quan điểm xây dựng phát triển cơ
quan công tác của họ đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay.
- Bất kỳ mỗi hoạt động nào, dù nhỏ hay lớn có liên
quan đến tổ chức đoàn thể, nhà trường cần phải có sự bàn bạc thống nhất của tổ
chức đoàn thể ấy, người đứng đầu tổ chức đoàn thể không được tự ý quyết đònh
nội công việc của tổ chức mình phụ trách khi chưa bàn bạc lấy ý kiến của tập
thể. Đối với việc xây dựng kế hoạch năm học và chiến lược phát triển giáo dục
của nhà trường, cần phải có sự bàn bạc thống nhất trong nội bộ nhà trường và
tham mưu ý kiến của lãnh đạo cấp trên .
23
- Thứ chín: Hiệu trưởng cần trực tiếp tác động đến người đứng đầu các đòa
bàn xóm, thôn để họ nhận thức rõ rằng: chăm lo việc học hành của con em trong
đòa bàn là nhiệm vụ chính trò cao cả của họ, họ cần tác động đến từng hộ gia
đình cùng quan tâm đến việc học tập của con em; có chính sách khen thưởng,
biểu dương kòp thời các học sinh, hộ gia đình có con em đạt thành tích cao trong
học tập và rèn luyện vào dòp lễ, tết .
Hiệu trưởng và lực lượng nòng cốt của nhà trường cư trú trên đòa bàn xã

tích cực tham gia sinh hoạt cùng với nhân dân qua các buổi họp thôn, xóm, khu
dân cư … qua đó kòp thời báo cáo tình hình học tập, rèn luyện của con em trong
đòa bàn thôn xóm, đồng thời nắm bắt tình hình, hoàn cảnh và điều kiện tự học
của học sinh, các phản ánh của học sinh và cha mẹ học sinh về phía nhà trường.
Cuối mỗi tháng cần họp ban giám hiệu mở rộng để tổng hợp, phân tích xử lí các
thông tin, đề ra giải pháp kòp thời trong thời gian tiếp theo.
3. Các kiến nghò:
Nhằm tăng cường thực hiện pháp luật và duy trì công tác bảo vệ pháp chế
để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước ở cơ sở, góp phần thực hiện tốt chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần cải thiện về chất
lượng giáo dục của nhà trường trong tình hình hiện nay, hoàn thành nhiệm vụ mà
xã hội, nhân dân các bậc cha mẹ học sinh uỷ thác, tôi có các kiến nghò sau:
- Một là: Công tác cán bộ khi tuyển dụng, bổ nhiệm Đảng Uỷ, chính quyền
cần phải có quan điểm tốt, rõ ràng, “ vì việc mà bố trí người, không nhìn người
mà bố trí việc”, phải đảm bảo các tiêu chuẩn: phẩm chất đạo đức,trình độ văn
hoá và năng lực công tác, lý lòch rõ ràng. Đồng thời hàng năm phải có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ, về pháp luật cho
cán bộ quản lý các nhà trường trên đòa bàn xã.
- Hai là: Cấp trên cần quan tâm, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát các hoạt động
của các nhà trường, uốn nắn kòp thời những lệch lạc của cấp dưới. Cần cung cấp
24
những tài liệu, văn bản pháp luật kòp thời để đơn vò cơ sở nắm bắt và triển khai
thực hiện tốt.
- Ba là: Nhà nước cần quan tâm hơn nữa về chế độ chính sách đối với cán
bộ quản lý, với nhà giáo, có chính sách hỗ trợ thích hợp đối với việc học tập bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
- Bốn là: Các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường cần quan tâm phối hợp
chặt chẽ với nhà trường, lực lượng công an xã cần can thiệp kòp thời trong việc
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của học sinh trong những ngày các em
không đến trường.

C . KẾT LUẬN
Pháp chế xã hội chủ nghóa là sự đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức
xã hội và mọi công dân phải triệt để chấp hành thường xuyên nghiêm chỉnh
những luật, văn bản dưới luật. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghóa là một
25

×