Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thực trạng hoạt động của dịch vụ logistics của Việt nam trong điệu kiện hội nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.38 KB, 27 trang )

Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LOGISTICS .............. 4

OB
OO
K.C
OM

1.1. Tổng quan về Logistics ................................................................................. 4
1.2. Logistics trong giao nhận vận tải ................................................................. 5
1.3. Vai trò của Logistics ..................................................................................... 7
1.4. Nội dung môn học Quản trị Logistics ........................................................... 7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ LOSGISTICS Ở VIỆT
NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP WTO ...................................................... 9
2.1. Phân tích thị trường Logistics ở Việt Nam ................................................... 9
2.2. Thực trạng dịch vụ cung ứng của các Công ty giao nhận ở Việt Nam ....... 10
2.3. Thực trạng các hoạt động trong chuỗi Logistics xảy ra ngoài biên giới Việt
Nam .................................................................................................................... 10
2.4. Thực trạng hệ thống thông tin phục vụ cho dịch vụ Logistics ở Việt Nam 11
2.5. Những nhân tố tác động đến phát triển Logistics ở Việt Nam.................... 12
2.5.1. Những nhân tố khách quan ........................................................................ 12
2.5.2 Những nhân tố chủ quan ............................................................................. 14
2.6. Một số giải pháp phát triển dịch vụ Logistics ở Việt Nam ......................... 19
2.6.1. Xây dựng định hướng chiến lược phát triển Logistics trong các Công ty
giao nhận Việt Nam. ....................................................................................................... 19

KI L

2.6.2. Các giải pháp cụ thể để thực hiện các định hướng chiến lược phát triển
Logistics ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập. ......................................................... 21


2.6.3. Một số kiến nghị .......................................................................................... 23
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC ........................................... 24
3.1. Nhận xét ...................................................................................................... 25
3.2. Đánh giá ...................................................................................................... 26
KẾT LUẬN............................................................................................................ 27


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với đường lối đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện

OB
OO
K.C
OM

Việt nam gia nhập WTO, ngành giao nhận ngoại thương cũng đang trên bước
đường hội nhập với ngành giao nhận thế giới. Một trong những bước phát triển
lớn trong hoạt động giao nhận vận tải hiện đại là hoạt động Logistics. Trong vài
thập niên gần đây Logistics đã phát triển nhanh chóng và mang lại những kết quả
rất tốt đẹp ở nhiều nước, điển hình như các nước Tây Âu, Mỹ, tiếp sau đó là
Singapore, Đài Loan,… Tại Việt Nam các công ty giao nhận hàng đầu thế giới đã
có mặt và cung cấp dịch vụ Logistics toàn cầu. Trong khi đó các công ty giao
nhận Việt Nam dù là những tổng công ty lớn mạnh nhất cũng chưa có một Công
ty nào hoạt động trong lĩnh vực Logistics theo đúng nghĩa của nó. Theo từng
bước của tiến trình hội nhập, các hàng rào bảo hộ dần dần được dỡ bỏ, thị trường
giao nhận vận tải ngoại thương ở Việt nam vốn đã cạnh tranh gay gắt sẽ ngày
càng gay gắt hơn. Các công ty Logistics nước ngoài với công nghệ vượt trội chắc
chắn sẽ chiếm ưu thế hơn so với hoạt động giao nhận truyền thống của các công

ty trong nước. Nếu không có sự thay đổi trong hoạt động giao nhận, các công ty
giao nhận Việt Nam sẽ thất thế ngay trên thị trường của chính mình.
Chính vì tầm quan trọng trên của hoạt động Logistics, tác giả đã chọn môn
học “Quản trị Logistics” là chuyên đề nghiên cứu.

Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động

KI L

Logistics trong các Công ty giao nhận của Việt Nam trong điều kiện gia nhập
WTO để từ đó đưa ra giải pháp phát triển dịch vụ Logistics ở Việt Nam.
Thông qua đề tài, tác giả cũng mong đóng góp những ý kiến của mình để
môn học này ngày càng được cải thiện tốt hơn, trở nên hữu ích hơn với những
thế hệ sinh viên tiếp theo của khoa Quản trị kinh doanh.
Đề tài được trình bày gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về Logistics.

SVTH: Nguyễn Thị Châu

2


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
Chương 2: Thực trạng hoạt động của dịch vụ logistics của Việt nam trong
điệu kiện hội nhập WTO.
Chương 3: Nhận xét, đánh giá môn học

OB
OO
K.C

OM

Do điều kiện về thời gian cũng như kiến thức có hạn vì vậy đề tài không thể
tránh khỏi được những sai sót. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của thầy để

KI L

đề tài được hoàn thiện hơn.

SVTH: Nguyễn Thị Châu

3


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
LOGISTICS

OB
OO
K.C
OM

1.1. Tổng quan về Logistics
Logistics theo nghĩa đang sử dụng trên thế giới có nguồn gốc từ Logistique
trong tiếng Pháp. Logistique lại có gốc từ từ “Loger” nghĩa là nơi đóng quân.
Cho đến nay vẫn chưa tìm được thuật ngữ thống nhất, phù hợp để dịch từ
Logistics sang tiếng Việt. Có người dịch là hậu cần, có người dịch là tiếp vận
hoặc tổ chức dịch vụ cung ứng, thậm chí là vận trù. Theo một số chuyên gia

trong lĩnh vực này, tất cả cách dịch đó đều chưa thoả đáng, chưa phản ánh đúng
đắn và đầy đủ bản chất của Logistics. Chính vì vậy, trong đề tài này, tác giả xin
giữ nguyên thuật ngữ Logistics mà không dịch sang tiếng Việt. Theo ESCAP
(Economic and Social Commission for Asia and the Pacific – Ủy ban Kinh tế và
Xã hội châu Á – Thái Bình Dương) Logistics được phát triển qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Phân phối vật chất

Vào những năm 60, 70 của thế kỷ thứ 20, người ta bắt đầu quan tâm đến
vấn đề quản lý một cách có hệ thống những hoạt động có liên quan với nhau để
đảm bảo cung cấp sản phẩm, hàng hoá cho khách hàng một cách có hiệu quả.
Những hoạt động đó bao gồm: vận tải, phân phối, bảo quản hàng hoá, quản lý tồn
kho, bao bì đóng gói, phân loại, dán nhãn... những hoạt động nêu trên được gọi là
phân phối, cung ứng sản phẩm vật chất hay còn có tên gọi là Logistics đầu vào.

KI L

Giai đoạn 2: Hệ thống Logistics

Đến những năm 80, 90 của thế kỷ trước, các công ty tiến hành kết hợp quản
lý 2 mặt: đầu vào (gọi là cung ứng vật tư) với đầu ra (phân phối sản phẩm), để
tiết kiệm chi phí, tăng thêm hiệu quả của quá trình này. Sự kết hợp đó được gọi
là hệ thống Logistics.

Giai đoạn 3: Quản trị dây chuyền cung ứng.
Đây là khái niệm mang tính chiến lược về quản trị chuỗi nối tiếp các hoạt
động từ người cung cấp - đến người sản xuất - khách hàng tiêu dùng sản phẩm,
SVTH: Nguyễn Thị Châu

4



Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
cùng với việc lập các chứng từ có liên quan, hệ thống theo dõi, kiểm tra làm tăng
thêm giá trị sản phẩm. Khái niệm này coi trọng việc phát triển các quan hệ với
đối tác, kết hợp chặt chẽ giữa người sản xuất với người cung cấp, với người tiêu

OB
OO
K.C
OM

dùng và các bên có liên quan, như: các công ty vận tải, kho bãi, giao nhận và
người cung cấp công nghệ thông tin (IT - Information Technology).
Trong lĩnh vực sản xuất, người ta đưa ra định nghĩa Logistics một cách đơn
giản, ngắn gọn nhất là cung ứng, là chuỗi hoạt động nhằm đảm bảo nguyên nhiên
vật liệu, máy móc, thiết bị, các dịch vụ .. cho hoạt động của tổ chức, doanh
nghiệp được tiến hành liên tục, nhịp nhàng và có hiệu quả; bên cạnh đó còn tham
gia vào quá trình phát triển sản phẩm mới.

Ngoài ra có thể định nghĩa “Logistics là quá trình tối ưu hoá về vị trí, vận
chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ điểm đầu tiên của dây chuyền cung ứng
cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh
tế”.

Ở Việt Nam hiện nay, khi nói đến Logistics người ta chú tâm vào cấp độ
hai - tức là khâu vận chuyển và lưu trữ.

1.2. Logistics trong giao nhận vận tải

Giao nhận, vận tải đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội và đây

cũng là lĩnh vực có hoạt động Logistics phát triển mạnh mẽ. Ngày nay nhiều
công ty vận tải giao nhận và khai thác cảng đã đổi tên gọi là Công ty kinh doanh
Logistics. Ví dụ: Hiệp hội giao nhận Singapore từ năm 2000 đã đổi thành hiệp

KI L

hội Logistics Singapore (SLA). Các hãng vận tải NYK Logistics, MOL
Logistics, Maersk Logistics, APL Logistics và các cảng Bus Logistics (Châu âu),
cảng ICS Logistics (Hoa Kỳ), Cảng Thượng Hải Logistics, cảng Klang Logistics
(Châu Á)… cũng đã hình thành và phát triển nhanh chóng.
Sự phát triển của Logistics trong giao nhận vận tải bắt nguồn từ sự thay đổi
trong sản xuất. Nhiều thập kỷ qua, cơ cấu công nghiệp và thương mại thế giới
trải qua những biến đổi sâu sắc, nói chung người bán hàng hoá không nhất thiết
là người sản xuất và người mua cũng không nhất thiết phải là người tiêu dùng
SVTH: Nguyễn Thị Châu

5


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
cuối cùng. Quá trình hàng hoá đi từ người sản xuất đến người tiêu dùng có nhiều
người trung gian lần lượt đóng vai trò người bán, người mua và là một bộ phận
của quá trình lưu thông hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Tính

OB
OO
K.C
OM

chất phong phú của hàng hóa và sự vận động phức tạp của chúng đòi hỏi sự quản

lý chặt chẽ đặt ra những yêu cầu mới đối với vận tải. Đồng thời để tránh đọng
vốn, các nhà sản xuất luôn tìm cách duy trì một lượng hàng trong kho nhỏ nhất.
Kết quả là hoạt động vận tải nói riêng và lưu thông phân phối nói chung, một mặt
phải đảm bảo yêu cầu đúng lúc (Just in Time), mặt khác tăng cường vận chuyển
những chuyến hàng nhỏ thực hiện mục tiêu không để hàng tồn kho (zero-stock).
Một hợp đồng như vậy có thể do một người kinh doanh vận tải đa phương thức
đảm nhiệm, nhưng người mua đó vẫn cần một người lên kế hoạch cung ứng mua
hàng hoá và giám sát mọi di chuyển hàng hoá để đảm bảo đúng loại hàng đến
đúng địa điểm, đúng thời gian. Hay nói cách khác, một người tổ chức dịch vụ
Logistics, người sẽ giúp tiết kiệm chí phí, thời gian, từ đó nâng cao hiệu qủa sản
xuất kinh doanh.

Dịch vụ Logistics chính là sự phát triển khéo léo của dịch vụ vận tải đa
phương thức. Toàn bộ hoạt động vận tải có thể được thực hiện theo một hợp
đồng vận tải đa phương thức và sự phối hợp mọi chu chuyển của hàng hoá do
người tổ chức dịch vụ Logistics đảm nhiệm. Điểm tương đồng là ở chỗ, trên cơ
sở nhiều hợp đồng mua bán giữa người mua và người bán, người tổ chức dịch vụ
Logistics sẽ nhận hàng tại cơ sở của từng người bán và gom hàng lẻ thành nhiều

KI L

đơn vị gửi hàng (consolidation) tại các nhà kho hay nơi xếp dỡ hàng hóa trước
khi chúng được gửi tới nơi đến trên những phương tiện vận tải khác nhau. Tại
nơi đến người tổ chức dịch vụ Logistics (Logistics Service Provider) thu xếp để
tách các đơn vị gửi hàng đó (các lô hàng lớn) và xếp hàng hoá thành các lô hàng
thích hợp (deconsolidation) để phân phối đến những địa chỉ cuối cùng. Người tổ
chức dịch vụ logistics không chỉ giao nhận mà còn làm các công việc như: lưu
kho, dán nhãn hiệu, đóng gói bao bì, thuê phương tiện vận tải, làm thủ tục hải
quan và có thể mua hộ cả bảo hiểm cho chủ hàng.
SVTH: Nguyễn Thị Châu


6


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
Như vậy trong lĩnh vực giao nhận vận tải Logistics không phải là một dịch
vụ đơn lẻ mà luôn luôn là một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hoá, như: làm
các thủ tục, giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho, lưu

OB
OO
K.C
OM

bãi, phân phát hàng hoá đi các địa điểm khác nhau, chuẩn bị cho hàng hóa luôn
luôn sẵn sàng ở trạng thái nếu có yêu cầu của khách hàng là đi ngay được
(Inventory level). Chính vì vậy khi nói tới Logistics bao giờ người ta cũng nói tới
một chuỗi hệ thống các dịch vụ (Logistics System Chain). .
1.3. Vai trò của Logistics

Từ những điều trình bày ở trên cho thấy Logistics là một chức năng kinh tế
có ảnh hưởng sâu rộng đến toàn xã hội. Trong thời đại ngày nay người ta luôn
mong muốn những dịch vụ hoàn hảo và điều đó sẽ đạt được khi phát triển
Logistics.

Logistics là một chuỗi các hoạt động liên tục, có liên hệ mật thiết với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau. Nếu xem xét ở góc độ tổng thể ta thấy Logistics là mối
liên kết kinh tế xuyên suốt gần như toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông và phân
phối hàng hoá. Mỗi hoạt động trong chuỗi đều có một vị trí và chiếm một khoản
chi phí nhất định.


Đối với các doanh nghiệp Logistics có vai trò rất to lớn. Logistics giúp giải
quyết cả đầu ra lẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách hiệu quả. Nhờ có thể
thay đổi các nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa quá trình chu chuyển
nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ,… Logistics giúp giảm chi phí, tăng khả năng

KI L

cạnh tranh cho doanh nghiệp. Có nhiều doanh nghiệp thành công lớn nhờ có
được chiến lược hoạt động đúng đắn.
1.4. Nội dung môn học Quản trị Logistics
Chương 1: Những lý luận cơ bản về Logistics
Chương 2: Tổng quan về quản trị Logistics
Chương 3: Dịch vụ khách hàng
Chương 4: Hệ thống thông tin

SVTH: Nguyễn Thị Châu

7


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
Chương 5: Dự trữ
Chương 6: Quản trị vật tư
Chương 7: Xác định nhu cầu vật tư và dự báo nhu cầu

OB
OO
K.C
OM


Chương 8: Vận tải
Chương 9: Kho bãi
-

Tài liệu tham khảo chính: Quản trị Logistics – PGS – TS Đoàn Thị
Hồng Vân

-

Những tài liệu tham khảo hữu ích về Logistics, Quản trị chuỗi cung
ứng:

+ Quản trị chiến lược chuỗi cung ứng: 5 nguyên tắc đạt hiệu quả hoạt động
tốt nhất

+ Tạp chí Supply Chain Insight

KI L

+ Website: 360vietnam.com…

SVTH: Nguyễn Thị Châu

8


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ

LOSGISTICS Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP WTO

OB
OO
K.C
OM

2.1. Phân tích thị trường Logistics ở Việt Nam

Như trên đã đề cập, ngành Logistics là một ngành non trẻ không những ở
Việt Nam mà cả trên thế giới, tuy nhiên vì đặc điểm của hoạt động Logistics
mang tính toàn cầu, chính vì vậy các công ty hàng đầu về Logistics trên thế giới
cũng đã có mặt tại Việt Nam như Panalpina, TNT, DHL, Wilson,…. Các hãng
tàu lớn nước ngoài cũng đã lập bộ phận Logistics riêng của mình tại thành phố,
như: NYK Logistics, Maersk Logistics, APL Logistics,… điều này đã thúc đẩy
hoạt động Logistics tại Việt Nam phát triển mạnh. Chỉ một vài năm trước đây, từ
Logistics còn khá xa lạ ở Việt Nam, các công ty có tên là Logistics chỉ đếm trên
đầu ngón tay, nhưng hiện nay xu hướng chuyển sang hoạt động Logistics đang
rất rầm rộ trong các công ty giao nhận Việt Nam. Nhiều công ty giao nhận đã đổi
tên thành Logistics, tuy rằng hoạt động của các công ty này vẫn là các hoạt động
giao nhận truyền thống. Điều này có thể khẳng định hoạt động Logistics là
hướng phát triển của các công ty giao nhận trong tương lai ở Việt Nam, hứa hẹn
một thị trường Logistics phát triển mạnh.

Các công ty đa quốc gia cũng như một số công ty Việt Nam đang có xu
hướng giảm dần tự làm dịch vụ vận chuyển xuất nhập khẩu thay vào đó là thuê

KI L


nhà cung cấp dịch vụ ngoài công ty. Những công ty lớn có khả năng thì thiết kế
hoạt động Logistics cho riêng mình. Còn đa số các công ty liên kết chặt với một
công ty cung cấp dịch vụ Logistics trên thị trường hướng tới việc hoàn thiện hoạt
động phân phối sản phẩm cũng như cung cấp nguyên vật liệu trong sản xuất
nhằm giảm chi phí. Khách hàng của các công ty cung cấp Logistics có thể là các
công ty bán lẻ (nhất là trong thương mại điện tử, mà Việt Nam cũng sẽ phải phát
triển hoạt động này trong tương lai), các công ty điện tử, công nghệ cao, máy
tính, viễn thông cũng như các công ty sản xuất gia công hàng xuất khẩu…. Dự
SVTH: Nguyễn Thị Châu

9


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
báo nhu cầu về Logistics cao trong tương lai cũng là một yếu tố khiến thị trường
Logistics ở Việt Nam phát triển.
Mặt khác, tại Việt Nam trong thời gian gần đây có sự phát triển mạnh của

OB
OO
K.C
OM

các công ty vận chuyển hàng lẻ (consolidator) như M&P International,
Vinaconsol, ANC, Everich, Weixin,…. Qua các số liệu điều tra về hoạt động vận
chuyển hàng lẻ trong các công ty giao nhận Việt Nam cho thấy các công ty tham
gia vận chuyển hàng lẻ ngày càng nhiều.

2.2. Thực trạng dịch vụ cung ứng của các Công ty giao nhận ở Việt
Nam


Các dịch vụ cung ứng của các Công ty giao nhận ở Việt Nam gồm:
+ Dịch vụ vận tải ngoại thương đường biển, đường hàng không, đường
bộ… trong đó 100% các công ty có nhận vận tải đường biển;
+ Dịch vụ khai quan hàng hoá tại cảng đi và cảng đến;

+ Dịch vụ vận chuyển hàng hoá từ cửa đến cửa (xuất ex-work và giao
door);

+ Dịch vụ gom hàng và vận chuyển hàng lẻ (consolidation);
+ Dịch vụ đóng gói hàng hóa, kiểm đếm hàng hóa;
+ Dịch vụ kho bãi…

2.3. Thực trạng các hoạt động trong chuỗi Logistics xảy ra ngoài biên
giới Việt Nam

Các công ty giao nhận Việt Nam khi đã giao hàng lên tàu xem như giao lại

KI L

các công việc tiếp theo cho người chuyên chở và đại lý của mình. Với số liệu
trong quá trình điều tra cho thấy 100% công ty cho rằng mình có các hoạt động
Logistics tại nơi đến như khai quan hàng hóa, các dịch vụ khác và thậm chí giao
door, thực chất cũng là thuê lại những dịch vụ đó từ đại lý của mình ở nước
ngoài. Để hiểu bản chất thực sự của điều này, chúng ta xét trên góc độ khách
hàng, nếu khách hàng nhờ bên nhận hàng (consignee) thuê lại các dịch vụ này ở

SVTH: Nguyễn Thị Châu

10



Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
một công ty giao nhận tại đích đến thì các hoạt động cũng diễn ra tương tự, thậm
chí giá còn có thể rẻ hơn và dịch vụ tốt hơn.
Một vấn đề khác trong hoạt động Logistics đó chính là mạng lưới đại lý của

OB
OO
K.C
OM

các công ty giao nhận. Đa số các công ty giao nhận Việt Nam chỉ có đại lý ở một
số khu vực trên thế giới, đây cũng chính là hạn chế lớn của các công ty giao nhận
Việt Nam trong dịch vụ vận chuyển hàng hóa quốc tế. Theo số liệu điều tra thì có
tới 51,61% các công ty cho rằng mình có đại lý trên 100 thành phố, quốc gia trên
thế giới

2.4. Thực trạng hệ thống thông tin phục vụ cho dịch vụ Logistics ở
Việt Nam

Công nghệ thông tin là một trong những công cụ quan trọng nhất hỗ trợ
hoạt động Logistics. Tuy nhiên việc sử dụng công nghệ thông tin trong các công
ty giao nhận Việt Nam còn rất yếu cho dù máy tính được sử dụng khá rộng rãi
trong các công ty này. Theo số liệu điều tra thì 100% các công ty giao nhận Việt
Nam có máy tính trong đó 29,03% là 1 máy/1 nhân viên và 64,52% là 1 máy/2
nhân viên. Đây là điều kiện rất thuận lợi để xây dựng hệ thống EDI một cách hữu
hiệu.

Ngoài việc sử dụng máy tính nối mạng để nhận và gửi email, còn lại phần

lớn nhân viên các công ty sử dụng máy tính như máy đánh chữ, thậm chí cả việc
lưu trữ, sắp xếp dữ liệu hợp lý vẫn còn ít nhân viên làm được do trình độ tin học
trong các nhân viên còn khá yếu. Chỉ có một số ít công ty có những phần mềm

KI L

riêng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, chưa nói là những phần mềm đặc
biệt được thiết kế riêng cho hoạt động Logistics. Việc đầu tư để thiết kế phần
mềm cho riêng mình hầu như ít công ty chú trọng. Thêm vào đó cũng rất khó để
thiết kế được một chương trình hoàn hảo, thường các chương trình phần mềm
thiết kế hoạt động kém hiệu quả. Thứ nhất là do các kỹ sư phần mềm ít am hiểu
về vận tải, ngược lại các chuyên gia trong vận tải và Logistics thì lại không biết
viết phần mềm. Thứ hai là do công nghệ phần mềm của Việt Nam còn yếu, các
công ty lại không dám bỏ một khoản tiền lớn để thuê các công ty phần mềm
SVTH: Nguyễn Thị Châu

11


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
chuyên nghiệp nước ngoài viết phần mềm cho riêng mình. Mặt khác việc áp
dụng phần mềm mới đòi hỏi Ban giám đốc cũng như toàn bộ nhân viên công ty
phải có một quyết tâm lớn, chấp nhận đổi mới và có xáo trộn.

OB
OO
K.C
OM

Đa số các công ty có trang web riêng, chiếm 61,29% trong tổng số công ty

giao nhận Việt Nam. Nhưng trang web được thiết kế rất sơ sài, chủ yếu cung cấp
thông tin về công ty là chính. Các công ty cũng không cử người chăm sóc và cập
nhật thường xuyên, thậm chí ngay cả giám đốc công ty cũng ít khi nào truy cập
vào trang web của mình. Còn nhân viên nhiều khi đi làm cả năm cũng không biết
công ty mình có trang web hay không, và nhiều người cũng không biết mặt trang
web của công ty mình như thế nào. Việc phát triển hệ thống trao đổi thông tin
trên mạng đã và đang được nhiều công ty Logistics nước ngoài chú trọng phát
triển và việc ứng dụng đem lại rất nhiều thuận lợi cho hoạt động Logistics như
việc booking qua mạng, theo dõi lô hàng trong quá trình vận chuyển…. Thiết
nghĩ đây cũng là khả năng trong tầm tay của các công ty giao nhận Việt Nam so
với việc thiết kế những mạng EDI riêng biệt.

2.5. Những nhân tố tác động đến phát triển Logistics ở Việt Nam
2.5.1. Những nhân tố khách quan

- Logistics còn là một ngành khá trẻ trên thế giới và khá mới ở Việt nam.
Cho dù thuật ngữ Logistics đã xuất hiện từ lâu, nhưng hoạt động Logistics chỉ
phát triển trong khoảng vài thập niên gần đây.

Ở Việt nam Logistics vẫn còn khá mới mẻ, phần lớn các hoạt động

KI L

Logistics được thực hiện ở các công ty giao nhận và hầu hết những công ty cung
cấp dịch vụ Logistics là các công ty nước ngoài. Do yếu tố còn quá mới, nên
chính những người hoạt động và thậm chí quản lý trong ngành vận tải giao nhận
cũng còn chưa hiểu tường tận về hoạt động này. Trong khi các nước trên thế giới
đã đưa Logistics vào chương trình đào tạo ở các trường đại học và có riêng cả
những chuyên ngành về Logistics thì tại Việt Nam, ngay cả những trường đào tạo
chuyên ngành về vận tải ngoại thương cũng chưa có môn học Logistics trong


SVTH: Nguyễn Thị Châu

12


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
chương trình. Quản trị Logistics và tổ chức hoạt động Logistics hết sức phức tạp,
đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn sâu về chuyên ngành cũng như kinh
nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Ở Việt Nam, những chuyên gia như vậy chỉ

OB
OO
K.C
OM

đếm được trên đầu ngón tay.
Mặt khác ngay cả hoạt động giao nhận ngoại thương tại Việt nam vẫn còn
là một ngành non trẻ. Nếu các công ty trên thế giới đã có hàng trăm năm phát
triển hoạt động này thì ở Việt Nam, hoạt động giao nhận ngoại thương chỉ mới
phát triển sau thời kỳ mở cửa, nghĩa là chỉ trong vòng một vài thập niên trở lại.
Chính điều này là một cản ngại rất lớn trong quá trình hội nhập quốc tế về hoạt
động Logistics bởi cơ sở nền tảng để phát triển hoạt động Logistics của chúng ta
chưa được hình thành đầy đủ.

- Do thói quen và tập quán thương mại của Việt Nam đã cản trở đến phát
triển Logistics. Các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa nắm bắt các tập quán, luật
lệ buôn bán quốc tế. Hơn thế nữa, bước ra thị trường thế giới muộn, khi thị
trường thế giới đã ấn định rõ nét người mua và người bán, làm cho các doanh
nghiệp trong nước khó có thế mạnh, có sức cạnh tranh lớn để dành các điều kiện

thương mại có lợi cho mình. Vì vậy, thông thường đa số các doanh nghiệp Việt
Nam chủ yếu lựa chọn điều kiện thương mại để thực hiện các phương thức kinh
doanh bán tại cảng, mua tại cảng (của nước mình). Các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu trong nước chưa sử dụng có hiệu quả và vận dụng đúng các điều kiện
thương mại quốc tế (Incoterms). Xuất “FOB”, nhập “CIF” gần như là hiện tượng

KI L

phổ biến. Với các điều kiện thương mại này, việc xuất khẩu những sản phẩm vô
hình của ngành dịch vụ vận tải bị hạn chế. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến cản trở phát triển Logistics.

- Về vị trí địa lý: Nước ta có bờ biển dài, có biên giới với Trung Quốc, Lào,
Campuchia; với hệ thống sông ngòi chằng chịt và hệ thống đường bộ dọc theo đất
nước rất thuận lợi cho việc kết hợp nhiều phương thức vận tải, vận tải quá cảnh.
Trong đó vận tải đa phương thức là một phương thức vận tải rất quan trọng để
thiết lập nên chuỗi cung ứng dịch vụ logistics.
SVTH: Nguyễn Thị Châu

13


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics

2.5.2 Những nhân tố chủ quan
- Thị trường tiềm năng với những yếu kém cũ

OB
OO
K.C

OM

Sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới nền kinh tế thị trường đã được
hình thành ở Việt Nam và đang có tốc độ tăng trưởng cao so với khu vực. Việc
gia nhập khu vực Mậu dịch tự do với các nước ASEAN (1995), ASEM (1996),
APEC (1997), bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ, gia nhập WTO (2006), đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam đã mở ra một thời kỳ mới, tạo nhiều cơ hội phát
triển cho nền kinh tế nước ta, trong đó có dịch vụ logistics. Với hơn một thập
niên hội nhập kinh tế quốc tế, Việt nam đã có những chuyển biến tích cực trong
ngành vận tải giao nhận ngoại thương. Tuy nhiên, với những hoạt động giao nhận
truyền thống như hiện tại, các công ty giao nhận Việt Nam sẽ không thể đủ sức
cạnh tranh với các tập đoàn Logistics nước ngoài đang bành trướng hoạt động
của mình trên khắp thế giới. Một trong những mũi đột phá của ngành giao nhận
Việt Nam trong tương lai đó chính là phát triển hoạt động Logistics. Chỉ có điều
này mới giúp các công ty Việt Nam tăng sức cạnh tranh và giành lại thị trường
của mình.

Có rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển Logistics trong các
công ty giao nhận Việt Nam nhưng quan trọng nhất là các công ty vẫn chưa chú
trọng đầu tư và có chiến lược phát triển Logistics cho mình. Ngoài ra, hạn chế về
tài chính; chưa phát triển được hệ thống đại lý, chi nhánh; đội ngũ nhân viên còn

KI L

chưa vững về chuyên môn, yếu trong kinh doanh quốc tế và đặc biệt là việc áp
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động giao nhận và Logistics vẫn chưa được
tập trung đầu tư. Có thể trong hiện tại, với chính sách bảo hộ của nhà nước, các
công ty giao nhận Việt Nam bằng những hoạt động giao nhận truyền thống vẫn
tìm kiếm được lợi nhuận. Tuy nhiên với sự phát triển hết sức nhanh chóng của
hoạt động Logistics tiên tiến, trong một tương lai không xa nếu không có sự điều

chỉnh kịp thời, chắc chắn hàng loạt các công ty giao nhận Việt Nam sẽ đi đến phá
sản.
SVTH: Nguyễn Thị Châu

14


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
- Theo các ước tính, tiềm năng phát triển hàng hóa của Việt Nam rất lớn, với
tỷ lệ tăng trưởng trung bình 20%/năm và có thể tăng lên 25%/năm trong thời gian
ngắn (năm 2007, lượng hàng qua cảng Việt Nam là 320,17 triệu tấn hàng hóa, tăng
so

với

năm

2006,

theo

công

ty



vấn

Sprite).


OB
OO
K.C
OM

18%

Tuy nhiên, Việt Nam được xếp hạng thấp nhất về cơ sở hạ tầng vận chuyển hàng
hóa trong số các nền kinh tế trọng điểm ở khu vực Đông Nam Á. Ngành logistics
tại Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn khởi đầu, các dịch vụ vận tải, kho bãi và
phân phối không được thực hiện với một phương thức thống nhất.

- Và mỗi năm chi phí cho giao nhận kho vận (logistics) của Việt Nam vào
khoảng 8-11 tỷ USD mà chủ yếu là vận tải biển (chiếm 60%), nhưng gần như toàn
bộ số chi phí này rơi hết vào túi của các doanh nghiệp vận tải biển nước ngoài.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá từng bộ phận đã hình
thành các công ty cổ phần để kinh doanh Logistics nhưng chỉ đăng ký với số vốn
điều lệ khoảng 5 tỷ đồng (312.500 USD). Với vốn quy mô này không thể đáp ứng
được yêu cầu khi gia nhập thị trường logistics thế giới. Quy mô doanh nghiệp còn
thể hiện ở số nhân viên của từng công ty. Nhiều doanh nghiệp chỉ có 3-5 nhân viên
đáp ứng được một công việc đơn giản của khách hàng; khi khách hàng hết việc,
doanh nghiệp cũng hết việc làm và phải đóng cửa là điều tất yếu.

Về tổ chức bộ máy, do vốn và nhân lực ít nên việc tổ chức bộ máy của các
doanh nghiệp này rất đơn giản, tính chuyên sâu của các doanh nghiệp trong
logistics không có. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa có văn

KI L


phòng đại diện của chính công ty mình đặt tại nước ngoài. Các thông tin từ nước
ngoài, công việc phải giải quyết ở nước ngoài của một số công ty lớn hơn đều do
hệ thống đại lý thực hiện, cung cấp.
Trong khi đó các doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 80% trong tổng số các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics hiện nay ở Việt Nam. Các doanh
nghiệp này có số vốn rất nhỏ, thậm chí có doanh nghiệp chỉ đăng ký 300 - 500
triệu đồng (tương đương 18.750 USD - 31.250 USD). Ta ví dụ về những chi phí
của việc gia nhập thị trường Hoa Kỳ:
SVTH: Nguyễn Thị Châu

15


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
Để ký vận đơn vận tải đa phương thức theo quy định tại Nghị định
125/2003/NĐ-CP ngày 29/3/2003 thì doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp hay
bảo lãnh của ngân hàng tương đương 120.000 USD; đồng thời khi phát hành vận

OB
OO
K.C
OM

đơn này vào Hoa Kỳ thì phải ký quỹ tiếp 150.000 USD theo Luật vận tải biển Hoa
Kỳ (Surety bond - US Carriage of Goods by Sea Act - COGSA 1984, Revised
1998). Như vậy chi phí mất khoảng 300.000 USD gấp 10 lần so với vốn điều lệ
của các công ty Việt Nam. Điều đó cũng dễ hiểu tại sao các công ty kinh doanh
Logistics của nước ta lại không thể xâm nhập được vào thị trường Hoa Kỳ (bạn
hàng số 1 của nước ta).


Tại “Diễn đàn dịch vụ cảng biển và hậu cần thương mại VN 2007” TP Đà
Nẵng, các chuyên gia đầu ngành đã có cái nhìn tổng quát, hoạt động kinh doanh
logistics của các doanh nghiệp còn rời rạc, doanh nghiệp nào chỉ biết lợi ích doanh
nghiệp đó, thiếu sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau; nhiều khi, nhiều dịch vụ còn cạnh
tranh với nhau một cách không lành mạnh. Vì vậy đã làm giảm sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp VN với các đối tác nước ngoài ngay trên thị trường trong nước.
- Chi phí logistics tại Việt Nam gần như gấp đôi so với các nước công
nghiệp khác, xuất phát từ việc thiếu thốn về hạ tầng và năng lực vận tải yếu kém.
Phần lớn cảng biển tại Việt Nam không được thiết kế cho việc bốc dỡ hàng hóa
hiện đại, cụ thể, nhiều cảng nằm ngoài Tp.HCM chỉ được thiết kế cho hàng rời,
không có trang thiết bị bốc dỡ container chuyên dụng. Các cảng của Việt Nam
không có dịch vụ hàng hải trực tiếp kết nối Việt Nam với các cảng biển tại Châu

KI L

Âu hay Mỹ - vốn là những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam hiện nay.
Mặt khác, các sân bay trong nước cũng thiếu các thiết bị phù hợp để bốc
dỡ hàng hóa, thiếu sự đầu tư các kho bãi mới trong khu vực gần các sân bay. Còn
các kho bãi hiện tại trên cả nước lại không phù hợp với hàng hóa bốc dỡ nhanh,
trong đó có nhiều kho bãi đã được khai thác hơn 30 năm qua và không đáp ứng
được các tiêu chuẩn quốc tế. Chưa kể đến tình trạng thiếu điện và dịch vụ hỗ trợ
giao tiếp thông tin (viễn thông). Việt Nam có quá nhiều cảng nhỏ và hoạt động
không hiệu quả, nên trên thực tế vẫn thiếu cảng lớn có khả năng tiếp nhận tàu từ
SVTH: Nguyễn Thị Châu

16


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
30.000 tấn trở lên (tàu 30.000 DWT hoặc tàu container loại 2.000 TEU trở lên).

Theo số liệu từ Cục Hàng hải thì cả nước hiện có 114 cảng biển, nhưng
chỉ có 14 cảng có quy mô lớn. Từ việc các cảng thiếu trang thiết bị bốc dỡ hiện

OB
OO
K.C
OM

đại, năng suất thấp, cộng thêm với hệ thống đường bộ kém phát triển sẽ kéo theo
tình trạng quá tải tại các cảng. Quy hoạch phát triển cảng biển chưa mang tính
đồng bộ và chặt chẽ nên cả cảng quốc gia và cảng địa phương đều phát triển theo
kiểu "mạnh ai lấy làm". Ví như vịnh Vân Phong, được coi là tài nguyên tuyến
nước sâu vô cùng quý giá để xây dựng cảng biển container với những cầu cảng có
thể tiếp nhận tàu trọng tải trên 100 nghìn DWT. Tuy nhiên vịnh này chỉ mới chính
thức được lập quy hoạch tổng thể từ đầu năm 2003 với tư cách một cảng trung
chuyển quốc tế và cho đến nay công nghệ vận chuyển mới nhất đang được sử
dụng tại đây là sang mạn (ship to ship) cho tàu chở xăng dầu, tiết kiệm được phần
chi phí lâu nay thuê tàu chở dầu Việt Nam đến nước thứ ba để nhận hàng do tàu
nước ngoài vận chuyển từ Trung Đông về!

- Thực trạng về sự phát triển của công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin
của Việt nam còn lạc hậu so với thế giới. Dịch vụ Logistics có thể thực hiện được
nhờ những tiến bộ trong công nghệ tin học (để tập hợp thông tin), hiện đại hóa
(đảm bảo tính linh hoạt cho sản xuất) và tiến bộ trong thông tin liên lạc cũng như
công nghệ xử lý thông tin (để hợp lý hoá hệ thống). Việc sử dụng hệ thống EDI
(Electronic Data Interchange - trao đổi dữ liệu bằng hệ thống máy tính điện tử) với
sự hỗ trợ của mạng lưới thông tin liên lạc và công nghệ xử lý thông tin đóng vai

hàng hóa.


KI L

trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự sống còn trong quản lý quá trình chu chuyển
- Thực trạng về nguồn nhân lực: Theo Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế
quốc tế nhận định, nước ta hiện chưa có một trường lớp nào chuyên đào tạo về
logistics, kiến thức mà cán bộ nhân viên tại các doanh nghiệp hiện có được là do
học từ nước ngoài, đọc từ sách vở hoặc một phần kiến thức tại các trường Đại học
GTVT, ĐH Hàng hải, ĐH Ngoại thương, Cao đẳng Hải quan, một số chương trình
đào tạo ngắn hạn do tổ chức kinh tế xã hội Châu Á -Thái Bình Dương
SVTH: Nguyễn Thị Châu

17


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
(UNESCAP). Trong các dự án này đối tượng đào tạo chủ yếu dành cho các công
chức nhà nước (Public Sector), số ít còn lại mới dành cho các doanh nghiệp
(Private Sector). Nhiều doanh nhân kinh doanh dịch vụ logistics ở VN đã phải gửi

OB
OO
K.C
OM

cán bộ đi đào tạo tại Australia, Hoa Kỳ hay những nước có ngành công nghệ
logistics cao. Chưa nói đến chi phí, chỉ tính đến chuyện học chuyên ngành
logistics ở nhiều nguồn tại nước ngoài, khi về VN số cán bộ này phải trang bị
thêm thực tiễn kinh doanh, pháp luật VN liên quan và nhất là cách kinh doanh
logistics tại VN.


- Về cơ sở pháp lý của hoạt động Logistics ở Việt Nam.

Dịch vụ Logistics ở Việt Nam chưa có được cơ sở phát lý để phát triển
mạnh. Cơ sở pháp lý của hoạt động Logistics liên quan đến nhiều hoạt động khác
như: vận tải, giao nhận, hải quan…….

- Thực trạng về cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng bao gồm: hệ thống cảng biển,
sân bay, đường bộ, các công trình, trang thiết bị phụ trợ như kho bãi, phương tiện
bốc xếp. Cơ sở hạ tầng là một trong những bộ phận cấu thành hoạt động giao
nhận vận tải nói chung và hoạt động Logistics nói riêng. Hệ thống cơ sở hạ tầng
cảng biển củaViệt Nam không đáp ứng được nhu cầu phát triển, chưa có những
cảng nước sâu hiện đại để đón nhận những con tàu có trọng tải lớn. Trang thiết bị
xếp dỡ còn hạn chế, lạc hậu, thiếu đồng bộ dẫn đến việc giải phóng hàng chậm,
tăng thời gian vận chuyển.

Cơ hội của ngành LOGISTICS khi gia nhập WTO

KI L

Nhìn nhận vào thực tế, mặc dù còn thực hiện theo lộ trình nhưng ngành
logistics của VN đã thực sự gia nhập WTO, một tổ chức thiết lập các nguyên tắc
và quy tắc nhằm tạo thuận lợi cho các nước đang phát triển trong thương mại dịch
vụ cũng như mở rộng xuất khẩu dịch vụ của các nước này thông qua việc tăng
cường khả năng cạnh tranh trong nước. Đó là mục tiêu gia nhập WTO của ngành
thương mại dịch vụ và như vậy logistics VN đã có cơ hội lớn hơn để xã hội hóa
dịch vụ của mình.

SVTH: Nguyễn Thị Châu

18



Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
Thực tế trong thời gian qua, một số doanh nghiệp logistics VN đã cung
cấp dịch vụ logistics ở các nước láng giềng như Lào, Campuchia và phối hợp với
bạn hàng nước ngoài để thắng thầu cung cấp dịch vụ logistics từ nước thứ ba quá

OB
OO
K.C
OM

cảnh VN đi Trung Quốc, Lào hay Campuchia. Đây thực sự là những sản phẩm
dịch vụ đã xuất khẩu và thu ngoại tệ về cho đất nước, cho doanh nghiệp VN. Tiếp
cận, hợp tác, liên kết với các bạn hàng nước ngoài một cách bình đẳng, đặc biệt là
những bạn hàng thuộc các nước đã có nghề logistics phát triển cao để học hỏi kinh
nghiệm về tổ chức, quản lý nghề nghiệp, chính là cơ hội để doanh nghiệp VN tiếp
cận

trực

tiếp

khách

hàng

nước

ngoài


ngay

trên

đất

nước

mình.

Để các công ty giao nhận Việt Nam có khả năng cạnh trạnh trong thị trường
vốn đã cạnh tranh gay gắt này, cần phải có một hệ thống giải pháp áp dụng các
phương thức giao nhận vận tải tiên tiến của thế giới mà trong đó Logistics là hoạt
động cần phải được ưu tiên phát triển

2.6. Một số giải pháp phát triển dịch vụ Logistics ở Việt Nam
2.6.1. Xây dựng định hướng chiến lược phát triển Logistics trong các
Công ty giao nhận Việt Nam.

- Chiến lược hình thành những tổng công ty, công ty mạnh đủ thế và lực
hoạt động trong lĩnh vực Logistics.

Ngành vận tải giao nhận có tiềm lực kinh tế mạnh. Để tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển nhanh chóng ngành vận tải giao nhận và tạo lập những công

KI L

ty có đủ khả năng cạnh tranh khi hội nhập, Chính phủ chủ trương xây dựng các
tổng công ty lớn trong vận tải như: Tổng công ty hàng hải, Tổng công ty hàng

không, trong đó được kinh doanh đa ngành nghề. Sự hình thành các tổng công ty
trong vận tải đã tăng nhanh chóng khả năng tích tụ và tập trung vốn, đồng thời
điều phối vốn một cách có hiệu quả hơn. Tuy nhiên một số tổng công ty chưa đạt
được mục đính để tạo thành những tập đoàn kinh tế mạnh mà chỉ là hình thành
thêm một tầng lớp trung gian trong quản lý, việc điều hành trong hoạt động kinh
doanh chưa hợp lý dẫn đến nhiều vấn đề, thậm chí phát sinh cạnh tranh, triệt tiêu
SVTH: Nguyễn Thị Châu

19


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
lẫn nhau trong nội bộ của các doanh nghiệp thành viên. Có nhiều nguyên nhân,
trong đó nguyên nhân cơ bản là tổ chức bộ máy hoạt động thiếu hiệu quả, quá
cồng kềnh, thiếu tính năng động dẫn đến quan liêu và năng lực quản lý không đạt

OB
OO
K.C
OM

đến những yêu cầu cơ bản của thực tế tình hình thị trường.
- Chiến lược liên doanh liên kết trong hoạt động Logistics

Tuy là hoạt động dịch vụ, nhưng ngành Logistics đòi hỏi phải có những
điều kiện rất cao để tổ chức và thực hiện. Điều này đòi hỏi về vốn đầu tư cũng
như áp dụng công nghệ hiện đại. Đối với các công ty giao nhận Việt Nam vừa và
nhỏ có kinh nghiệm trong hoạt động giao nhận nhưng chưa có đủ thế và lực hoạt
động Logistics cần liên doanh liên kết với nhau, chuyên môn hoá theo mặt mạnh
của mỗi công ty để thành một công ty mạnh toàn diện trong hoạt động Logistics.

Các công ty có ưu thế về giao nhận quốc tế với mạng lưới đại lý rộng khắp cần
liên kết với các công ty mạnh về giao nhận nội địa có trang bị xe tải, kho bãi,…
để cung cấp các dịch vụ Logistics nội địa, ngược lại các công ty thuần giao nhận
nội địa nhờ vào mạng lưới toàn cầu của các công ty giao nhận quốc tế để gởi
hàng đi. Bên cạnh đó, Nhà nước còn cho phép đa dạng hóa các loại hình sở hữu
trong ngành giao nhận. Chính vì vậy có thể hình thành một công ty Logistics
theo dạng cổ phần hoặc công ty liên doanh mà theo đó các cổ đông/ đối tác có
thể là các công ty mạnh về từng mảng trong chuỗi Logistics. Mỗi công ty sẽ đầu
tư phát triển, củng cố lại thế mạnh của mình để cung cấp một chuỗi Logistics
hoàn hảo. Một công ty giao nhận mạnh về gom hàng và vận tải hàng lẻ có thể

KI L

đứng ra thành lập công ty cổ phần, kêu gọi vốn góp của một đơn vị kinh doanh
cảng để thành lập một trung tâm phân phối tại cảng. Mặt khác để đầu tư nâng cấp
kho bãi hiện đại, đầu tư đội xe để vận chuyển nội địa, áp dụng công nghệ thông
tin,… công ty cổ phần này có thể kêu gọi sự góp vốn từ các công ty tài chính,
hoặc từ các tổng công ty, công ty sản xuất kinh doanh lớn (vừa có vốn đầu tư lại
vừa tạo được nguồn khách hàng ổn định), thậm chí từ các công ty phần mềm…
nhằm tạo nên được tiềm lực mạnh để phát triển hoạt động Logistics.

SVTH: Nguyễn Thị Châu

20


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
2.6.2. Các giải pháp cụ thể để thực hiện các định hướng chiến lược phát
triển Logistics ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập.
- Thiết kế chuỗi Logistics cho công ty giao nhận Việt Nam


OB
OO
K.C
OM

Như đã đề cập ở trên, Logistics đối với nước ta chỉ mới xuất hiện trong thời
gian gần đây. Do đó rất nhiều công ty giao nhận vẫn còn rất bỡ ngỡ với hoạt
động này, thiếu kinh nghiệm trong phương pháp tổ chức cũng như trong nghiệp
vụ. Theo kết quả điều tra cho thấy rằng 100% công ty giao nhận Việt Nam cho
rằng triển khai hoạt động Logistics sẽ đem lại lợi ích cho cả bên cung cấp dịch vụ
và bên khách hàng, nhưng hầu hết các công ty đều lúng túng trong việc triển khai
ứng dụng, vì vậy nên thành lập các trung tâm tư vấn về Logistics hoạt động độc
lập (tương tự như các trung tâm tư vấn về quản trị hệ thống chất lượng ISO)
- Đổi mới công nghệ thông tin trong hoạt động Logistics

Muốn quản trị Logistics thành công thì trước hết phải quản lý được hệ
thống thông tin rất phức tạp.

- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động Logistics
Cần đầu tư để đào tạo, đào tạo lại, nâng cao năng lực của nhân viên và thu
hút nhân tài từ xã hội. Phát triển nguồn nhân lực có trình độ và chuyên môn cao
là nhân tố quan trọng quyết định sự sống còn và thành công trong hoạt động
Logistics – một hoạt động mang tính chất toàn cầu. Cần tập trung vào các mục
tiêu sau đây trong việc phát triển nguồn nhân lực của công ty:
+ Nâng cao năng lực quản lý lãnh đạo;

KI L

+ Đào tạo về chuyên môn trong hoạt động Logistics;


+ Phát triển nguồn nhân lực có trình độ và chuyên môn cao; thu hút nhân tài
từ xã hội.

- Mở rộng và củng cố hệ thống đại lý, xây dựng các đại lý độc quyền, tiến
tới đặt văn phòng đại diện và chi nhánh ở các nước trên thế giới.
- Xây dựng các trung tâm phân phối hiện đại
+ Đa dạng các dịch vụ giá trị gia tăng trong hoạt động kho CFS và kho
ngoại quan.
SVTH: Nguyễn Thị Châu

21


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
+ Xây dựng các trung tâm phân phối (DC – Distribution Center) của riêng
các công ty giao nhận, hoặc những trung tâm phân phối, kho đa năng (Cross –
docking) hiện đại để kinh doanh cho thuê. Các công ty giao nhận thành lập các

OB
OO
K.C
OM

trung tâm phân phối hàng (Distribution center) tại Việt Nam để tập trung hàng
xuất khẩu và phân phối hàng nhập khẩu hay thành phẩm. Thực hiện giao nhận
các bộ phận, chi tiết máy móc, hay nguyên liệu giữa các nhà máy lắp ráp xe hơi,
điện tử, sản xuất công nghiệp trong và ngoài nước, hoặc phân phối thành phẩm
tiêu thụ trên thị trường. Sản phẩm chế biến, lắp ráp được tạo thành từ nhiều chi
tiết phức tạp, hay qua nhiều công đoạn chế biến, hay được tạo từ nhiều chi tiết

cung cấp từ những nhà máy khác nhau. Lúc đó bản thân nhà sản xuất trong nước
gặp những khó khăn trong phân loại, điều phối các bán thành phẩm giữa các đơn
vị trực thuộc. Vì vậy, cần xây dựng một mạng lưới phân phối giữa chủ hàng công ty giao nhận - hệ thống chi nhánh nơi phân phối cuối cùng. Toàn bộ hàng
được tập trung về trung tâm Logistics và được các công ty giao nhận thực hiện
việc phân phối.

- Xây dựng chiến lược Marketing trong hoạt động Logistics

- Cần có những bổ sung, sửa đổi trong Luật quy định về hoạt động
Logistics, mà cụ thể là Luật Thương mại.

Luật thương mại cũng như các nguồn luật khác được tu chỉnh bổ sung hợp
lý, vừa thể hiện nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật Việt Nam vừa phù hợp
với các thông lệ quốc tế chắc chắn sẽ có sức thuyết phục lớn hơn với các nước

KI L

đang muốn nhanh chóng phát triển quan hệ thương mại với Việt Nam. Ngoài ra
việc tu chỉnh bổ sung các quy định của luật pháp về hoạt động Logistics cũng
góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp Việt Nam trên thương
trường quốc tế.

- Thủ tục hải quan cần cải tiến để tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động
xuất nhập khẩu, các quy định liên quan xuất nhập khẩu cần đạt sự thống nhất cao
giữa hải quan, và các ban ngành liên quan để tránh tình trạng mâu thuẫn về nội
dung các văn bản. Luật hải quan cần phải có các quy định làm cơ sở để thực hiện
SVTH: Nguyễn Thị Châu

22



Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
cải cách thủ tục hải quan theo phương hướng: đơn giản hóa hồ sơ hải quan, công
khai hoá và thuận tiện hóa việc khai hải quan, quy định dịch vụ khai hải quan,
điều kiện giải phóng hàng cho từng loại hình hàng hóa xuất nhập khẩu; quyền và

OB
OO
K.C
OM

nghĩa vụ của người làm thủ tục hải quan trong việc lựa chọn áp dụng quy định ưu
tiên hơn về thủ tục hải quan (phân luồng hàng hóa, tỷ lệ kiểm tra và phương pháp
kiểm tra, khai báo một lần); giải quyết khiếu nại phát sinh, cho phép khai hải
quan bằng phương tiện điện tử công khai hoá tất cả các quyền và trách nhiệm của
người làm thủ tục hải quan tại các bước làm thủ tục hải quan trên cơ sở nguyên
tắc tự khai, tự tính thuế và tự chịu trách nhiệm; đảm bảo yêu cầu quản lý, thu
thuế và lệ phí đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất nhập
cảnh.

2.6.3. Một số kiến nghị

Những năm gần đây, logistics bắt dầu thu hút sự chú ý của các ngành quản lý
nhà nước cũng như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao nhận trong và
ngoài nước. Nhà nước ta cũng đã đầu tư nhiều vào sơ sở hạ tầng. Tuy nhiên hạ
tầng cơ sở và các trang thiết bị dành cho logistics còn yếu kém, lạc hậu, thiếu đồng
bộ, hệ thống kho bãi quy mô nhỏ, rời rạc . . . . nói chung còn thô sơ. Những hạn
chế này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động logistics. Mặt khác, đa số các doanh
nghiệp có quy mô tài chính vừa và nhỏ, ít hiểu biết về luật pháp quốc tế.
1. Nhà nước cần đầu tư hợp lý cho các cảng, sân bay, cảng thông quan nội

địa (ICD), đường bộ, đường sắt, đường sông, kho bãi, trang thiết bị, ngân hàng . .

KI L

.. . theo kế hoạch tổng thể, có khả năng tương tác và hỗ trợ qua lại lẫn nhau một
cách hiệu quả. Đầu tư và nâng cấp hạ tầng giao thông vận tải, khuyến khích vận
tải container đường sắt, chú trọng đầu tư xây dựng cảng nước sâu trung chuyển
khu vực.

2. Chuẩn hóa các quy trình dịch vụ logistics, thống kê logistics.
3. Xây dựng hành lang, khung pháp lý mở cửa chọn lọc, đảm bảo tính
nhất quán, thông thoáng và hợp lý trong các văn bản, quy định liên quan đến lĩnh

SVTH: Nguyễn Thị Châu

23


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics
vực logistics với mục đích tạo cơ sở cho 1 thị trường logistics trong sạch và minh
bạch.
4. Đẩy mạnh công tác đào tạo logistics tại các trường cao đẳng, đại học,

OB
OO
K.C
OM

trên đại học.
5. Phát triển công nghệ thông tin để tận dụng thế mạnh của công nghệ để

nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, giảm tiêu cực, gian lận.
6. Nên thành lập các tập đoàn lớn về logistics để có thể đủ sức cạnh tranh

KI L

với các công ty đa quốc gia.

SVTH: Nguyễn Thị Châu

24


Chuyên đề môn học: Quản trị Logistics

CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC
3.1. Nhận xét

OB
OO
K.C
OM

Như nội dung trình bày bên trên, Logistics là hoạt động rất quan trọng đối
với nền kinh tế quốc gia nói chung và tình hình hoạt động của các doanh nghiệp
nói riêng. Tuy nhiên, đây lại là một lĩnh vực khả mới mẻ tại Việt Nam, và vì thế,
việc bổ sung những kiến thức về ngành nghề này vào mội trường giáo dục là rất
quan trọng, rất cần thiết.

Tuy nhiên, môn học này vẫn một vài điểm cần nhìn nhận xem xét như sau:
-


Cần phân biệt rõ ràng giữa quản trị Logistics và quản trị chuỗi cung

ứng. Hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau. Trong đăng ký môn học thì có tên
gọi là “Quản trị chuỗi cung ứng”, tuy nhiên thực tế bài giảng lại thay đổi thành
“Quản trị Logistics”, trong khi tên tiếng Anh “Supply Chain Management” vẫn
được giữ nguyên, điều này là không hợp lý, có thể dẫn tới những suy nghĩ lệch lạc
của người học về hai phạm trù trên.

- Nội dung bài giảng cũng gây ra những hiểu lầm về chuỗi cung ứng và
Logistics. Hai khái niệm trên được thay thế cho nhau khiến người học lầm tưởng
chúng là một.

- Nhìn nhận về môn học, nếu xét trên góc độ chuỗi cung ứng thì nội dung
cung cấp của giảng viên còn thiếu, và chưa được cập nhật (chuỗi cung ứng hiện
nay được nhìn nhận thông qua 5 quy trình: hoạch định, mua hàng, sản xuất, giao

KI L

hàng và thu hồi; Logistics được nhắc tới trong chuỗi cung ứng như là một chất keo
kết dính các quy trình lại với nhau!). Còn nếu xét trên góc độ của Logistics thì một
số điều là thừa, và một số điểm chưa được đào sâu ở mức cần thiết (Logistic tại
Việt Nam hiện nay chủ yếu là những hoạt động như: giao nhận, vận tải, tồn kho,
các thủ tục hải quan, tư vấn...)

- Đây là một môn học khó với nhiều thuật ngữ và những kiến thức mới,
tương đối khó hiểu. Thời lượng chương trình cần bố trí nhiều hơn, nội dung cung

SVTH: Nguyễn Thị Châu


25


×