Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

TIỂU LUẬN xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN và vấn đề dân CHỦ hóa xã hội ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.65 KB, 96 trang )

TIỂU LUẬN:
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
VÀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ HÓA XÃ HỘI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY


Xây dựng nhà nước pháp quyền là một yêu cầu tất yếu, khách quan và phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại. Thực hiện dân chủ là một trong những nội dung cơ
bản của nhà nước pháp quyền, đặc biệt là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân. Không có nhà nước pháp quyền thực sự thì không có nền
dân chủ rộng rãi và bền vững. Dân chủ đóng vai trò cơ sở, động lực thúc đẩy sự phát
triển của nhà nước pháp quyền. Đối với nước ta, dân chủ hoá xã hội vừa là điều kiện
tiên quyết để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vừa là
biện pháp căn bản để đẩy nhanh sự phát triển của đất nước.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là một đòi hỏi tất yếu, khách quan và phù hợp với xu
thế phát triển lịch sử chung của xã hội loài người, bởi nhà nước pháp quyền là một
giá trị chung của nhân loại trên con đường phát triển tiến bộ. Ở nước ta vẫn đang tồn
tại quan niệm xem nhà nước pháp quyền như là một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản,
do đó nó là cái đã lỗi thời, không tiến bộ, trái ngược và không thích dụng với chủ
nghĩa xã hội. Cũng giống như thái độ không đúng trước đây về kinh tế thị trường,
quan niệm sai trái như vậy về nhà nước pháp quyền đang gây cản trở đối với tiến
trình phát triển xã hội nói chung, cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân nói riêng.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Nhà
nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân”(1). Như vậy, đối với nước ta hiện nay, việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đang trở thành
vấn đề thời sự cấp bách. Bởi vì nhà nước luôn là "một trong những vấn đề phức tạp
nhất, khó khăn nhất"; đồng thời, là vấn đề "rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ hệ
thống chính trị"(2). Thậm chí, ở một góc độ nhất định, có thể nói, việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân ở nước ta có ảnh hưởng


rất lớn đến sự thành bại của chế độ, của Đảng Cộng sản. Điều này thể hiện rõ trong


thực tiễn đấu tranh chống tham nhũng, chống lại một trong bốn nguy cơ lớn của
Đảng và chế độ suốt nhiều năm qua cũng như trong việc kiện toàn, hoàn thiện, nâng
cao hiệu lực của bộ máy nhà nước. Có thể nói rằng, nếu chúng ta không tạo dựng
được một nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân, vì dân thì trong tương lai,
xã hội ta, dân tộc ta có thể sẽ phải chịu những hậu quả mà hiện nay khó lường được.
Xét cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân tất yếu phải kế thừa từ các hình thức nhà nước pháp quyền đã
có trong lịch sử những yếu tố còn giá trị, phù hợp với xu thế phát triển xã hội. Do
vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, một mặt, gắn
chặt với các hình thức nhà nước pháp quyền trước nó; mặt khác, phải vượt lên cao
hơn, tiến bộ hơn so với các hình thức nhà nước pháp quyền đó trên các phương diện
khác nhau.
Để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân tất yếu
phải vận dụng những thành quả, những mặt tích cực, những giá trị của các hình thức
nhà nước pháp quyền trước đây, trước hết là của các hình thức nhà nước pháp quyền
tư sản hiện đại. Trong điều kiện ngày nay, sự kế thừa như vậy là một yêu cầu khách
quan, bởi nhà nước pháp quyền là một giá trị chung, phổ biến của nhân loại; là một
công cụ, một phương thức tổ chức và quản lý xã hội có hiệu quả. Hơn thế nữa, nhà
nước pháp quyền còn là hình thức tổ chức quyền lực bảo vệ có hiệu quả các quyền
lợi chính đáng của con người và tạo điều kiện tốt cho việc phát triển những năng lực
thực tiễn của con người. Cùng với kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền đã tạo
nên đôi chân vững chãi cho nhiều quốc gia phát triển trên thế giới tiến những bước
dài trên con đường đi tới giàu có và văn minh của họ(3). Nhà nước pháp quyền đã trở
thành nhu cầu khách quan trong sự phát triển của xã hội hiện đại.
Đối với các nước đang phát triển hiện nay, kinh tế thị trường và nhà nước pháp
quyền càng phải là cứu cánh quan trọng để thoát nhanh ra khỏi tình trạng lạc hậu và
nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền là những

thành phần căn bản trong tổng thể các biện pháp hữu hiệu mà các nước đang phát
triển trên thế giới phải sử dụng để tăng tốc quá trình phát triển, nhằm nhanh chóng
tạo dựng một xã hội văn minh và thịnh vượng với những nét đặc trưng riêng của các
quốc gia dân tộc đó. Tuy nhiên, xét cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn, nhà


nước pháp quyền ở mỗi thời đại và mỗi quốc gia có nội hàm và mức độ đậm nhạt của
các yếu tố trong nội hàm cũng khác nhau.
Hiện nay, đại đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng, ít nhất, nội hàm của khái niệm
nhà nước pháp quyền có những yếu tố sau đây:
1- Trong nhà nước pháp quyền, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân
dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước do họ trực tiếp
bầu, hoặc bằng việc trực tiếp giám sát, kiểm tra (và các hình thức khác) đối với các
cơ quan nhà nước trong toàn bộ quá trình sử dụng quyền lực nhà nước mà nhân dân ủy
thác. Không một ai, không một tổ chức nào trong bộ máy nhà nước có thể đứng ngoài
hoặc đứng trên sự kiểm tra, giám sát đó của nhân dân. Về thực chất, đó là nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
2- Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân lập tam quyền minh bạch:
lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhằm đảm bảo tính hiệu quả của việc kiểm tra, giám
sát quá trình thực thi quyền lực, hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền hoặc xâm hại đến
những lợi ích hợp pháp của công dân từ phía các cơ quan nhà nước. Dĩ nhiên, giữa
các nhánh quyền lực nhà nước phải luôn có sự phối hợp trên nguyên tắc lợi ích
chung của cộng đồng dân tộc, quốc gia, giai cấp… Nhưng, một trong những điều
quan trọng là sự phân lập và phối hợp ấy đảm bảo loại trừ được sự độc quyền quyền
lực nhà nước của bất kỳ cá nhân, hoặc một nhánh quyền lực nào. Việc thực hiện
quyền lực và chức năng của các nhánh quyền lực được tiến hành một cách công khai
và minh bạch.
3- Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó nguyên tắc pháp luật giữ địa vị tối cao
được tuân thủ tuyệt đối. Pháp luật được xây dựng trên nền tảng các quyền thiêng
liêng của con người, nhằm bảo vệ các quyền đó và luôn giữ địa vị tối cao trong toàn

bộ đời sống xã hội. Tuy nhiên, đó phải là pháp luật có chất lượng tốt, phản ánh xu
thế phát triển tiến bộ chung của xã hội, phù hợp với hiện thực khách quan, thể hiện
đúng đắn ý chí của nhân dân và nhờ vậy, có tác dụng thúc đẩy tiến bộ xã hội.
4- Trong nhà nước pháp quyền, con người là giá trị cao quý nhất và là mục tiêu cao
nhất. Do vậy, việc tôn trọng, đảm bảo trên thực tế các quyền con người và các giá trị
xã hội, như công bằng, nhân đạo, dân chủ…, phải là định hướng căn bản trong tổ
chức và hoạt động thực tiễn của nhà nước, khiến cho quan hệ giữa quyền lực nhà


nước và nhân dân luôn được xử lý hợp lý, đúng đắn, không chỉ công dân phải chịu
trách nhiệm trước nhà nước mà tất cả các cơ quan nhà nước và những người thực thi
quyền lực nhà nước cũng phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình trước
công dân.
Dân chủ ngày càng mở rộng là một trong những nội dung cơ bản của nhà nước pháp
quyền; đặc biệt, với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
thì nội dung đó càng phải trở thành nội dung căn bản và quan trọng hàng đầu. Quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân là nội dung căn bản và là hình thức biểu hiện tập
trung của dân chủ trong nhà nước pháp quyền. Không có một nhà nước pháp quyền
thực sự thì cũng không thể có nền dân chủ thực sự và bền vững. Bởi, chỉ có thông
qua nhà nước pháp quyền, nhân dân mới có thể cùng nhà nước tạo ra được những
thiết chế, cơ chế xã hội thích ứng đảm bảo dân chủ và tự do trong xã hội. Đến lượt
mình, dân chủ vừa là điều kiện, vừa là động lực thúc đẩy sự hình thành, phát triển và
hoàn thiện của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước pháp quyền là công cụ để một giai cấp, cộng đồng, dân tộc thực hiện và
bảo vệ dân chủ. Dân chủ đòi hỏi phải có pháp luật tốt, phản ánh đúng xu thế phát
triển xã hội, ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân và việc thực thi pháp luật
luôn nghiêm minh, có hiệu quả; đồng thời, không ngừng củng cố và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền. Nền dân chủ trong đời sống xã hội càng cao thì nhà nước pháp
quyền càng được củng cố và hoàn thiện. Vì thế, không ngừng mở rộng dân chủ là
nhiệm vụ cơ bản, thiết yếu của nhà nước pháp quyền.

Pháp luật là quy chế, công cụ hữu hiệu và quan trọng nhất để thực hiện dân chủ trong
xã hội. Bất cứ một nền dân chủ nào cũng cần có pháp luật và dân chủ càng cao, càng
được mở rộng thì pháp luật càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Quá
trình dân chủ hóa cũng là quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, khiến cho pháp
luật có chất lượng tốt hơn, đồng bộ, thống nhất, phản ánh đúng đắn hơn nguyện vọng
của nhân dân, thể hiện đầy đủ, chính xác, kịp thời xu thế phát triển khách quan của
xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của xã hội. Đây chính là một trong những nội
dung quan trọng trong nội hàm khái niệm nhà nước pháp quyền.
Như vậy, dân chủ là điều kiện và động lực để xây dựng nhà nước pháp quyền. Đồng
thời, nhà nước pháp quyền lại là cơ sở quan trọng để thực hiện và mở rộng nền dân


chủ. Sản phẩm cao của nền dân chủ là nhà nước pháp quyền. Do vậy, sẽ là sai lầm
nếu cho rằng có thể xây dựng nhà nước pháp quyền mà không cần thiết phải thực
hiện dân chủ hóa xã hội. Cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn đều chứng tỏ rằng,
cần phải thực hiện dân chủ hóa xã hội trước một bước để trên cơ sở đó, mới có thể
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền. Đồng thời, mỗi bước tiến trong việc
xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền cũng là một cơ hội để mở rộng và phát
triển nền dân chủ xã hội.
Dân chủ hóa xã hội là một nhu cầu tất yếu của sự phát triển xã hội. Trong lịch sử đã
tồn tại nhiều hình thức dân chủ khác nhau với những trình độ khác nhau. Trong thời
đại ngày nay, dân chủ trở thành điều kiện, cơ hội để phát triển. Xã hội càng dân chủ
càng tạo cơ hội cho sự phát triển đa chiều, đa hướng, làm phong phú thêm đời sống xã
hội, làm nẩy nở, giải phóng và phát triển được năng lực mọi mặt của quốc gia, dân tộc,
tạo nên sự hỗ trợ, bổ sung lành mạnh cho sự phồn thịnh và phát triển toàn diện của đất
nước, xã hội.
Đối với những nước đang phát triển, chưa trải qua dân chủ tư sản như nước ta, muốn
xây dựng thành công nhà nước pháp quyền càng cần phải thực hiện dân chủ hóa xã
hội trước một bước, thậm chí phải học cách thực hiện dân chủ hóa xã hội. Việt Nam
đang hướng đến mục tiêu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa, do vậy càng cần phải học cách dân chủ hóa xã hội, thực hiện
mở rộng dân chủ một cách kiên quyết, triệt để và nhất quán. Trong quá trình đó, cần
có sự chọn lọc, kế thừa và phát triển những yếu tố hợp lý khách quan của nền dân
chủ tư sản, của nhà nước pháp quyền tư sản với tính cách là những trình độ phát triển
của nhân loại trong lịch sử.
Trong thời đại ngày nay, dân chủ còn là biện pháp quan trọng để hội nhập và phát
triển, nhằm rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển. Thị trường và
dân chủ là những “xa lộ” chính của văn minh nhân loại, nhưng con đường đi đến thị
trường và dân chủ không đơn giản. Đến với thị trường đã khó, đến với dân chủ còn
khó hơn. Dân chủ là một trong những đảm bảo cho xã hội phát triển nhanh, giàu có
hơn, phong phú và đa dạng hơn; vì thế, hạn chế hoặc chậm mở rộng dân chủ là kìm
hãm sự phát triển.
Quan niệm về dân chủ hay nói rộng hơn, tư duy về dân chủ cần được hiểu một cách


biện chứng, đầy đủ và chính xác hơn, phản ánh được xu thế phát triển xã hội nhiều
hơn. Hiện nay, không nên lo lắng rằng dân trí thấp nên không mở rộng dân chủ được.
Không thể chỉ lo lắng rằng dân trí thấp mà cần phải và trước hết nên lo lắng rằng
"quan trí" thấp. Bởi vì, trong quan hệ với dân trí thì "quan trí" quan trọng hơn, có
tính chất quyết định hơn đến sự phát triển kinh tế, xã hội, đến việc xây dựng nhà
nước pháp quyền và dân chủ hóa xã hội. Nếu "quan trí" cao chắc chắn hệ thống pháp
luật và các văn bản dưới luật của nhà nước sẽ đồng bộ, thống nhất và hiệu quả hơn,
không có những bất cập, phi lý và mâu thuẫn. Có thể dẫn ra hàng loạt thí dụ về
những mâu thuẫn cả theo chiều dọc (giữa Hiến pháp, các đạo luật và các văn bản
dưới luật) lẫn chiều ngang (giữa các đạo luật hoặc giữa các văn bản dưới luật) trong
hệ thống luật pháp của nước ta. Để khắc phục điều đó, việc nâng cao "quan trí" cũng
như đảm bảo tính dân chủ trong xây dựng và thực thi pháp luật là rất quan trọng.
Điều này có nghĩa là dân chủ và nhà nước pháp quyền ở nước ta không thể tách rời
nhau. Nói xây dựng nhà nước pháp quyền, truớc hết phải nói đến dân chủ hóa xã hội.
Mặt khác, cũng không nên quá lo lắng rằng dân chủ hóa xã hội, xây dựng nhà nước

pháp quyền (và cả việc tạo dựng xã hội dân sự) ở nước ta hiện nay sẽ dẫn đến tình
trạng bất ổn định xã hội. Có thể sẽ có một số người lợi dụng dân chủ để gây rối loạn
trật tự xã hội, nhưng bản thân dân chủ thì không thể làm rối loạn xã hội; trái lại, nó
làm cho xã hội phát triển nhanh, phong phú, đa dạng và toàn diện hơn. Thực tiễn
nhiều năm qua ở một số địa phương, đơn vị cho thấy, chính tình trạng mất dân chủ,
vi phạm dân chủ mới là nguyên nhân dẫn đến sự không ổn định, mâu thuẫn và thậm
chí, cả sự xung đột ở những nơi này.
Có thể khẳng định rằng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân trở thành một đòi hỏi chung của xã hội ta hiện nay. Nhiều năm qua, ở
nước ta, đã có những thay đổi lớn về dân chủ, thay đổi cả trong tư duy, trong cách
nghĩ về dân chủ lẫn trong việc thực hiện dân chủ hóa xã hội. Việc chuyển sang nền
kinh tế thị trường là một bước dân chủ hóa quan trọng, có tính cách mạng trong lĩnh
vực kinh tế của đất nước. Điều đó đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động, đa
dạng, phong phú, có tốc độ tăng trưởng khá nhanh và liên tục, tạo cơ sở cho việc tiếp
tục dân chủ hoá xã hội trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Bởi vậy, đất
nước đã có sự phát triển khá toàn diện, sức sản xuất của xã hội và tiềm năng sáng tạo


của nhân dân bước đầu được giải phóng, xã hội phát triển cởi mở hơn, thông thoáng
và năng động hơn.
Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, trước yêu cầu khách quan của sự phát
triển và trong bối cảnh quốc tế mới với xu thế toàn cầu hóa, những kết quả mà chúng
ta đạt được vừa qua vẫn còn rất nhỏ bé, nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới vẫn là một thách thức lớn. Trong lĩnh vực kinh
tế, tình trạng độc quyền, bao cấp vẫn tồn tại, dân chủ chưa được mở rộng đến mức
cần phải có; trong chính trị, việc bầu cử, miễn nhiệm, trưng cầu dân ý còn nhiều
vướng mắc; tổ chức và điều hành bộ máy Nhà nước còn yếu kém; hệ thống luật pháp
thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán và không ổn định; trong khoa học, không khí dân chủ,
tự do khi thảo luận các vấn đề học thuật và đặc biệt là những vấn đề bức thiết của xã
hội chưa được tạo lập, hoặc chưa thực sự phát huy tác dụng; trong xã hội, chưa có cơ

chế đảm bảo tôn trọng ý kiến của nhân dân v.v..
Sự yếu kém, hạn chế trong việc mở rộng dân chủ hiện đang đẻ ra hàng loạt những
hiện tượng tiêu cực xã hội, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của những giải pháp mà Nhà
nước sử dụng để xoá bỏ những tiêu cực ấy, để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội.
Tham nhũng là một thí dụ điển hình. Trong một xã hội mà dân chủ càng cao, nhân
dân thực sự được tham gia vào công tác quản lý nhà nước theo nguyên tắc “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, mọi sự đều công khai và minh bạch… thì tham
nhũng sẽ không có cơ hội để nẩy nở, sẽ bị ngăn chặn. Dân chủ có được mở rộng thì
các biện pháp chống tham nhũng mới có thể phát huy hiệu lực. Nói cách khác, dân
chủ hoá xã hội đồng thời là quá trình nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước. Yêu
cầu có tính nguyên tắc mà Đảng ta vạch ra là, “Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững
kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền,
giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật”(4).
Tóm lại, cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, nhà nước pháp quyền nói chung,
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng đều phải dựa trên nền tảng dân chủ
xã hội. Dân chủ là điều kiện, tiền đề và cũng là một nội dung trong nội hàm của khái
niệm nhà nước pháp quyền. Chính vì lẽ đó, để xây dựng nhà nước pháp quyền, cần
phải mở rộng nền dân chủ; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lại càng
cần mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ hóa xã hội là điều kiện tiên quyết để


xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là động lực thúc đẩy
sự phát triển của xã hội hiện đại. Đối với nước ta, dân chủ hoá xã hội còn là biện
pháp quan trọng để đẩy nhanh sự phát triển của đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt
hậu so với thế giới.r

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ khoa học, Phó viện trưởng Viện Triết học, Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131.

(3) Ngoài nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường, còn có những yếu tố khác tham
gia đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, xã hội, như cách mạng công nghiệp, cách
mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hóa, sự giúp đỡ của nước khác,v.v.. Nhưng,
nếu không có kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền thì những yếu tố trên không
thể hoặc khó có thể có được những tác động với hiệu quả lớn đến tốc độ phát triển
kinh tế, xã hội.
(2) V.I. Lênin. Toàn tập, t.39. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 75, 76.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Sđd.,
tr.135.

“HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC” – TÁC PHẨM ĐÁNH DẤU SỰ RA ĐỜI MỘT THẾ
GIỚI QUAN MỚI, MỘT QUAN NIỆM DUY VẬT VỀ LỊCH SỬ

ĐẶNG HỮU TOÀN (*)
Trên cơ sở phân tích và luận giải những luận điểm cơ bản mà lần đầu tiên, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã đưa ra và trình bày một cách tương đối hoàn chỉnh, có hệ thống,
sâu sắc để trên cơ sở đó, xây dựng một quan niệm mới, duy vật biện chứng về thế giới


và về lịch sử nhân loại, tác giả đã khẳng định rằng, cái làm nên giá trị trường tồn, sức
sống bền vững và ý nghĩa lịch sử lớn lao của “Hệ tư tưởng Đức” chính là thế giới
quan duy vật biện chứng và quan niệm duy vật về lịch sử. Bởi lẽ, đó là những thành tố
đã làm nên bước ngoặt cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại,
tạo ra một phương pháp luận thực sự khoa học cho việc nghiên cứu tiến trình phát
triển của xã hội loài người và bước đầu đặt cơ sở lý luận cho chủ nghĩa xã hội khoa
học với tư cách kết quả có tính quy luật của tiến trình lịch sử khách quan, một cuộc
vận động hiện thực trên cơ sở và nền tảng kinh tế - xã hội phát triển mà hiện đang
được chúng ta lấy làm nền tảng tư tưởng, làm cơ sở lý luận cho công cuộc đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


Trong sự hình thành và phát triển triết học Mác, Hệ tư tưởng Đức (tháng 11 năm
1845 - tháng 4 năm 1846) là tác phẩm chiếm vị trí đặc biệt quan trọng và mang một
ý nghĩa lớn lao. Trong tác phẩm này, những tư tưởng cơ bản về một thế giới quan
mới - thế giới quan duy vật biện chứng - đã được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày
một cách tương đối hoàn chỉnh. Cũng ở đây, một trong hai phát kiến vĩ đại tạo nên
bước ngoặt lịch sử trong các học thuyết xã hội và làm nên thực chất của cuộc cách
mạng trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại - quan niệm duy vật về lịch sử - lần
đầu tiên đã được các ông trình bày một cách toàn diện, chi tiết. Và, với việc đề xuất
một thế giới quan triết học mới, với việc phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử,
các ông đã bước đầu đặt ra cơ sở lý luận cho chủ nghĩa cộng sản khoa học - chủ
nghĩa duy vật thực tiễn. Chính vì vậy, 160 năm qua, kể từ khi ra đời đến nay, Hệ tư
tưởng Đức đã đi vào lịch sử hình thành và phát triển triết học Mác với tư cách nền
tảng, bước ngoặt cách mạng và cùng với nhiều tác phẩm khác của C.Mác và
Ph.Ăngghen, làm nên cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học và trở thành vũ khí
tinh thần không thế thiếu của giai cấp vô sản toàn thế giới trong công cuộc cải tạo xã
hội bằng thực tiễn cách mạng. Giờ đây, trong công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, ý nghĩa lớn lao này của Hệ tư tưởng Đức vẫn còn
nguyên giá trị.
Thật vậy, cái làm nên ý nghĩa lớn lao đó của Hệ tư tưởng Đức, trước hết bởi tác


phẩm triết học này là một mẫu mực về sự kết hợp nhuần nhuyễn tính đảng vô sản với
tính khoa học trong nghiên cứu lý luận. Bằng bút pháp luận chiến tuyệt vời, trong tác
phẩm này, lần đầu tiên, C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất một thế giới quan triết học
mới dưới hình thức phê phán nền triết học sau Hêgen, trước hết là chủ nghĩa duy vật
nhân bản của Phoiơbắc và những quan điểm duy tâm chủ nghĩa của phái “Hêgen trẻ”
(Bauơ, Stiếcnơ). Vấn đề trung tâm mà các ông đặt ra trong cuộc luận chiến với các
đại diện tiêu biểu của nền triết học Đức sau Hêgen là làm thế nào để thay đổi hiện
thực đang tồn tại, để “cách mạng hoá thế giới hiện có”, “tấn công và thay đổi một
cách thực tiễn trạng thái sự vật hiện có”. Các ông cho rằng, việc Phoiơbắc và phái

“Hêgen trẻ” phê phán cái hiện tồn bằng lời nói và tiến hành sự phê phán đó một cách
gián tiếp, dưới hình thức phê phán tôn giáo chẳng qua chỉ là cuộc đấu tranh với “cái
bóng của hiện thực”, chứ không phải với bản thân hiện thực, và trên thực tế, họ thừa
nhận cái hiện tồn ấy nhưng lại cố giải thích nó một cách khác đi. Với đánh giá này,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt ra cho mình nhiệm vụ làm rõ thực chất của cuộc đấu
tranh triết học chống lại các ảo tưởng đó. Các ông chứng minh rằng, để thay đổi hiện
thực đang tồn tại mà chỉ phê phán thôi là không đủ, điểm mấu chốt để thay đổi cái
hiện tồn ấy là phải giải thích nó một cách đúng đắn và hơn nữa, phải cải tạo nó, biến
đổi nó bằng thực tiễn cách mạng.
Thực hiện nhiệm vụ này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày quan niệm của các ông
về lịch sử nhân loại - quan niệm duy vật về lịch sử. Trước hết, các ông đã chỉ rõ
những tiền đề cơ bản - những tiền đề xuất phát - của quan điểm duy vật về lịch sử và
cũng là những tiền đề của bản thân lịch sử. Những tiền đề đó là: Con người, hoạt
động con người và những điều kiện vật chất cho hoạt động đó.
Cũng như Hêgen, các đại diện tiêu biểu của nền triết học Đức sau Hêgen đã tuyên bố
một cách dứt khoát rằng, triết học của họ không cần bất cứ tiền đề nào, bởi theo họ,
mọi tiền đề đều có tính chất giáo điều. Bác bỏ quan niệm này, C.Mác và Ph.Ăngghen
công khai thừa nhận rằng, để xây dựng một thế giới quan triết học mới - thế giới
quan duy vật biện chứng, các ông đã xuất phát một cách có ý thức từ những tiền đề
nhất định, hơn nữa, đó không phải là những tiền đề giáo điều, tư biện, mà là những
tiền đề thực tế, hiện thực. “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi, - các ông khẳng


định, - không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền
đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá
nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ,
những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính
họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiệm nghiệm được bằng con đường kinh
nghiệm thuần túy”([i]).
Để khắc phục tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật cũ trong việc xem xét tự

nhiên một cách siêu hình và coi tự nhiên là cái bất biến, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ ra và luận giải tính lịch sử của những điều kiện tự nhiên mà trong đó, con người
tồn tại và hoạt động. Phân biệt những điều kiện tự nhiên sẵn có với những điều kiện
tự nhiên do hoạt động con người tạo nên, các ông cho rằng, trong xã hội hiện tồn,
bản thân môi trường vật chất đã trở thành sản phẩm hoạt động lịch sử của con người.
Và, khi phê phán Phoiơbắc đã không hiểu, không tính đến tác động trở lại tự nhiên
của con người, các ông đã khẳng định “hoạt động đó, lao động đó và sự sáng tạo vật
chất không ngừng đó, sự sản xuất đó là cơ sở của toàn bộ thế giới cảm giác được,
đúng y như thế giới hiện đang tồn tại, đến mức là nếu như nó bị ngưng lại dù chỉ một
năm thì Phoiơbắc không những sẽ thấy những biến đổi lớn lao trong thế giới tự
nhiên, mà toàn bộ thế giới loài người và năng lực quan sát của bản thân ông, thậm
chí cả sự tồn tại của bản thân ông cũng chẳng mấy chốc cũng sẽ không còn nữa”(2).
Với khẳng định này, các ông đã đi đến kết luận rằng, xã hội càng phát triển thì những
điều kiện tự nhiên ngày càng trở thành những sản phẩm lịch sử của hoạt động con
người. Rằng, môi trường tự nhiên là điều kiện vật chất khách quan cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người.
Khi coi kết cấu vật lý và thể chất của con người là cái quyết định mối quan hệ nhất
định giữa con người và tự nhiên bên ngoài, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung xem
xét hoạt động con người với tư cách nhân tố quyết định tiến trình phát triển lịch sử.
Hoạt động con người, theo các ông, có hai mặt: hoạt động sản xuất - quan hệ của con
người với tự nhiên, tác động của con người đến tự nhiên và hoạt động giao tiếp quan hệ giữa người với người, trước hết là trong quá trình sản xuất. Hai mặt hoạt
động này tác động lẫn nhau, nhưng cái đóng vai trò quyết định trong sự tác động qua


lại đó là hoạt động sản xuất. Rằng, toàn bộ lịch sử xã hội loài người bắt đầu từ sản
xuất vật chất. Sản xuất vật chất là cái phân biệt con người với động vật. Các ông viết:
“Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng
bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật
ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình”. Và, bằng
việc “sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình”, “con người đã gián tiếp sản

xuất ra chính đời sống vật chất của mình”(3). Đó là hành động lịch sử đầu tiên của
con người.
Khẳng định phương thức sản xuất là cái quyết định toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội
của một xã hội nhất định, còn những mặt cơ bản của hoạt động xã hội thì thể hiện ra
như là những hình thức khác nhau của hoạt động sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen
không chỉ phát triển toàn diện luận điểm mà trước đó các ông đã đưa ra về vai trò
quyết định của sản xuất vật chất trong đời sống xã hội, trong Hệ tư tưởng Đức, lần
đầu tiên, các ông còn luận giải một cách sâu sắc tính biện chứng trong sự phát triển
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (“sự giao tiếp vật chất”, “hình thức giao
tiếp”). Tính biện chứng đó là: lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và tùy
theo mức độ phát triển của lực lượng sản xuất mà quan hệ sản xuất trước đây không
còn phù hợp với chúng nữa và trở thành xiềng xích đối với chúng. Mâu thuẫn này
được giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội, cuộc cách mạng này tạo ra quan hệ
sản xuất mới, phù hợp với các lực lượng sản xuất phát triển hơn. “Tất cả mọi xung
đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình
thức giao tiếp”(4). Đó là kết luận mà các ông rút ra từ việc luận giải tính biện chứng
trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Kết luận này đã đưa C.Mác và Ph.Ăngghen đến những nhận thức mới, sâu sắc hơn
về các quy luật của sự phát triển xã hội. Nếu trước kia, các ông coi quan hệ kinh tế là
cái quyết định các quan hệ chính trị, pháp quyền, v.v., thì giờ đây, trong Hệ tư tưởng
Đức, các ông đã xác định rõ cái quyết định bản thân các mối quan hệ kinh tế ấy và
làm nên cơ sở sâu xa hơn của tiến trình phát triển lịch sử nhân loại là các lực lượng
sản xuất. Rằng, rốt cuộc, sự phát triển của các lực lượng sản xuất không chỉ là cái
quyết định tất cả những mối quan hệ giữa người với người, mà còn quyết định bước


chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác, cao hơn.
Và, nếu trước kia, các ông coi sản xuất vật chất là cơ sở của toàn bộ đời sống xã hội
thì giờ đây, trong Hệ tư tưởng Đức, các ông đã tìm thấy cơ cấu nội tại trong sự phát
triển của chính cơ sở đó và nhờ vậy, đã giải thích được mối quan hệ lệ thuộc giữa các

mặt chủ yếu của đời sống xã hội: những lực lượng sản xuất và các quan hệ sản xuất,
tổng thể các quan hệ sản xuất và thượng tầng kiến trúc chính trị, cũng như những
hình thái ý thức xã hội.
Với những nhận thức sâu sắc này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi đến quan niệm khoa
học về toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Các ông coi những cuộc
cách mạng xã hội giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
chính là những điểm nút của lịch sử, là cái phân chia lịch sử nhân loại thành những
giai đoạn chủ yếu và làm nên bước chuyển của các hình thái kinh tế - xã hội. Và, từ
quan niệm khoa học này, trong Hệ tư tưởng Đức, các ông đã tiến hành phân tích
những giai đoạn chủ yếu trong sự phát triển lịch sử của sản xuất mà cơ sở nền tảng
của nó là sự phát triển của các lực lượng sản xuất. Ở đây, lần đầu tiên, các ông đã chỉ
rõ, mỗi một nấc thang mới trong sự phát triển lịch sử của sản xuất đã làm nảy sinh
những hình thức phân công lao động mới và tương ứng với mỗi hình thức phân công
lao động ấy là những hình thức sở hữu mới và đến lượt mình, mỗi hình thức sở hữu
này lại sản sinh ra những quan hệ xã hội và chính trị tương ứng với nó. Quan niệm
khoa học này là cơ sở nền tảng của học thuyết về các hình thái kinh tế - xã hội mà
sau này, trong hàng loạt tác phẩm lý luận, các ông đã trình bày một cách chi tiết hơn,
đầy đủ hơn. Không chỉ thế, quan niệm khoa học này của các ông còn xé tan bức màn
thần bí che phủ lịch sử nhân loại, biến lịch sử thành một khoa học thực sự và đặt cơ
sở cho việc phân kỳ lịch sử phát triển xã hội một cách khoa học. Nói về quan niệm
này của ông, V.I.Lênin đã coi đó là “một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt
chẽ”, lý luận mà theo đó, chúng ta thấy rằng, “do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì
từ một hình thức tổ chức đời sống xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào
một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn”(5).
Từ việc xem xét sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen chuyển sang xem xét các quan hệ
xã hội, chế độ xã hội, kết cấu giai cấp của xã hội, quan hệ giữa các cá nhân, giai cấp


và xã hội. Trên cơ sở của những quan niệm mới về các vấn đề này, các ông đã tiến
hành phân tích lĩnh vực thượng tầng kiến trúc, luận giải mối quan hệ giữa nhà nước

và xã hội công dân, giữa nhà nước, luật pháp và chế độ sở hữu.
C.Mác và Ph.Ăngghen kết thúc sự trình bày quan niệm duy vật về xã hội và lịch sử
xã hội bằng việc xem xét các hình thái ý thức xã hội và đưa ra một giải pháp duy vật
cho vấn đề cơ bản của triết học về mối quan hệ giữa ý thức và tồn tại. Đó là: “Ý thức
không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức, và tồn tại của con
người là quá trình đời sống hiện thực của con người... Không phải ý thức quyết định
đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức”(6). Và, với giải pháp duy vật này, các
ông đã đưa ra một nhận thức hoàn toàn mới so với các nhà triết học duy vật tiền bối,
kể cả Phoiơbắc, về bản thân sự tồn tại của con người. Đó không phải là đơn thuần là
giới tự nhiên bên ngoài như Phoiơbắc quan niệm, mà trước hết, đó là sự tồn tại xã
hội với tư cách một quá trình hiện thực của đời sống con người, trong đó hoạt
động thực tiễn vật chất của họ là cái đóng vai trò quyết định. Các ông cũng đã chứng
minh rằng, việc giải thích nguồn gốc trần tục, vật chất của những sản phẩm này hay
khác của ý thức, mà như Phoiơbắc đã tự giới hạn trong đó, là không đủ. Rằng, để giải
thích nguồn gốc đó của ý thức, còn cần phải xem xét tất cả những hình thái và sản
phẩm của ý thức xã hội đã phát sinh, phát triển từ cơ sở vật chất, trần tục và từ những
mâu thuẫn của cơ sở đó như thế nào.
Như vậy, có thể nói, bằng việc áp dụng một cách triệt để chủ nghĩa duy vật vào việc
nghiên cứu mọi mặt, mọi hiện tượng của đời sống xã hội, trong Hệ tư tưởng Đức,
lần đầu tiên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày một cách toàn diện, chi tiết quan
niệm duy vật của các ông về lịch sử nhân loại. Và, khi tóm tắt thực chất của quan
niệm duy vật về lịch sử đó, các ông viết: “Quan niệm đó về lịch sử là: Phải xuất phát
từ chính ngay sự sản xuất vật chất ra đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện
thực của sản xuất và hiểu hình thức giao tiếp gắn liền với phương thức sản xuất ấy và
do phương thức sản xuất ấy sản sinh ra - tức là xã hội công dân ở những giai đoạn
khác nhau của nó – là cơ sở của toàn bộ lịch sử; rồi sau đó phải miêu tả hoạt động
của xã hội công dân trong lĩnh vực sinh hoạt nhà nước, cũng như xuất phát từ xã hội
công dân mà giải thích toàn bộ những sản phẩm lý luận khác nhau và mọi hình thái ý



thức, tôn giáo, triết học, đạo đức, v.v., và theo dõi quá trình phát sinh của chúng trên
cơ sở đó; nhờ vậy mà tất nhiên là có thể miêu tả được toàn bộ quá trình (và do đó
cũng có thể miêu tả được cả sự tác động qua lại giữa những mặt khác nhau của quá
trình đó). Khác với quan niệm duy tâm về lịch sử, quan niệm đó về lịch sử không đi
tìm một phạm trù nào đó trong mỗi thời đại, mà nó luôn luôn đứng trên miếng đất hiện
thực của lịch sử; nó không căn cứ vào tư tưởng để giải thích thực tiễn, nó giải thích sự
hình thành của tư tưởng căn cứ vào thực tiễn vật chất, và do đó, nó đi tới kết luận rằng...
không phải sự phê phán mà cách mạng mới là động lực của lịch sử, của tôn giáo, của
triết học và của mọi lý luận khác”(7).
Với quan niệm duy vật về lịch sử này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi đến kết luận về
tính tất yếu lịch sử của cuộc cách mạng vô sản. Phê phán quan niệm của các nhà “xã
hội chủ nghĩa chân chính” Đức (Gruyn, Ghétxơ) và trái với quan niệm của các nhà
xã hội chủ nghĩa không tưởng, các ông khẳng định chủ nghĩa cộng sản không phải là
một kế hoạch được vạch ra một cách tư biện về xã hội lý tưởng trong tương lai, mà là
kết quả có tính quy luật của quá trình lịch sử khách quan. Rằng, “chủ nghĩa cộng sản
không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà
hiện thực phải khuôn theo... Chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa
bỏ trạng thái hiện nay”(8). Và, sau khi đã luận giải về tính tất yếu của cuộc cách
mạng này, về những tiền đề vật chất của nó, về lực lượng và phương thức tiến hành
cuộc cách mạng này, các ông đã phác thảo ra trên những nét chung nhất về những
đặc trưng của xã hội tương lai trên cơ sở phân tích những khuynh hướng hiện thực
của sự phát triển xã hội. Xã hội đó một khi được thiết lập thì theo các ông, nó sẽ trở
thành một sự kết hợp thực sự của con người, trở thành sự thống nhất thực sự của
những con người “có tự do cá nhân” và nó sẽ tạo ra những điều kiện thiết yếu cho sự
giải phóng con người, cho sự “phát triển toàn diện” của mọi thành viên xã hội.
Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, cái làm nên giá trị trường tồn
và ý nghĩa lịch sử cho Hệ tư tưởng Đức là ở chỗ, đây là tác phẩm mà lần đầu tiên,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra và trình bày một cách tương đối hoàn chỉnh, chi tiết
với những luận cứ khoa học sâu sắc những tư tưởng cơ bản về một thế giới quan mới
- thế giới quan duy vật biện chứng và quan niệm duy vật về lịch sử với tư cách một



thành tố làm nên bước ngoặt cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng triết học nhân
loại, một phương pháp luận thực sự khoa học cho việc nghiên cứu tiến trình phát
triển của xã hội loài người và bước đầu đặt cơ sở lý luận cho chủ nghĩa cộng sản
khoa học mà hiện chúng ta đang lấy làm nền tảng tư tưởng, làm cơ sở lý luận cho
công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.

(*) Phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó tổng biên tập Tạp chí Triết học.
([i]) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t. 3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.
28 – 29.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr. 63.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr. 29.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr. 107.
(5) V.I.Lênin. Toàn tập, t. 23. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 53.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr. 37 - 38.
(7) C. Mác và Ph. Ăngghen. Sđd., tr. 54.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.51.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI TRONG "HỆ TƯ TƯỞNG
ĐỨC"

LÊ THỊ THANH HÀ (*)
Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận chứng một cách khoa học
những vấn đề triết học về con người. Các ông cho rằng, cần phải bắt đầu từ những
con người hiện thực, cụ thể; rằng, hoạt động sản xuất là điều kiện nền tảng cho sự
tồn tại, phát triển của con người. Với tính cách một thực thể sinh học - xã hội, có ý


thức và năng lực sáng tạo, con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quá trình

phát triển lịch sử. Con người là lực lượng sáng tạo nên lịch sử. Những nhu cầu của
con người trở thành động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Với những quan niệm như vậy,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt nền móng vững chắc cho việc nghiên cứu, nhận thức
triết học về con người và con đường để hoàn thiện bản chất người.
Hệ tư tưởng Đức là một trong những tác phẩm đánh dấu sự trưởng thành của chủ
nghĩa Mác. Trong tác phẩm này, những vấn đề triết học về con người đã được C.Mác
và Ph.Ăngghen đề cập và giải quyết trên lập trường duy vật biện chứng triệt để.
Chúng ta đều biết rằng, những vấn đề liên quan đến con người là những vấn đề đã
được đề cập từ lâu và được các nhà triết học thuộc nhiều trường phái khác nhau tìm
cách giải quyết.
Khắc phục tất cả những thiếu sót, cũng như tiếp thu, kế thừa những điểm hợp lý của
những nhà triết học đi trước trong vấn đề triết học về con người, trong Hệ tư tưởng
Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xuất phát từ con người hiện thực, từ cá nhân đang
hoạt động thực tiễn để nghiên cứu về con người. Đó là con người, cá nhân sống trong
một thời đại nhất định, với các điều kiện tự nhiên, những mối quan hệ phức tạp và
ngày càng phong phú cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Các ông
viết: "Hoàn toàn trái với triết học Đức là triết học từ trên trời đi xuống đất, ở đây
chúng ta từ dưới đất đi lên trời, tức là chúng ta không xuất phát từ những điều mà
con người nói, tưởng tượng, hình dung, chúng ta cũng không xuất phát từ những con
người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của
người khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương bằng thịt; không, chúng
ta xuất phát từ những con người đang hành động, hiện thực và chính là cũng xuất
phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của
những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của quá trình đời sống ấy. Ngay cả
những ảo tưởng hình thành trong đầu óc con người cũng là những vật thăng hoa tất
yếu của quá trình đời sống vật chất của họ, một quá trình có thể xác định được bằng
kinh nghiệm và gắn liền với những tiền đề vật chất"(1).
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, quá trình sản xuất ra đời sống vật chất cũng làm nảy
sinh ra sự sản xuất đời sống tinh thần của con người. Ý thức, tinh thần của con người
suy cho cùng chỉ là phản ánh đời sống hiện thực của họ (tức phản ánh đời sống vật



chất của họ). Các ông cho rằng, "chính con người là kẻ sản xuất ra những ý niệm, ý
thức, v.v. của mình, song đây là những con người hiện thực, đang hành động, đúng
như họ bị quy định bởi một sự phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất của
họ và bởi sự giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy, kể cả những hình thức rộng rãi
nhất của những sự giao tiếp đó. Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự
tồn tại được ý thức, và tồn tại của con người là quá trình đời sống hiện thực của con
người"(2).
Như vậy, có thể nói, khi xuất phát từ tiền đề con người hiện thực, C.Mác và
Ph.Ăngghen không những đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học - vật chất
có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, mà các ông còn khẳng định vai
trò của con người trong tiến trình lịch sử - vai trò chủ thể sáng tạo lịch sử. Chân lý
này tưởng như đơn giản, nhưng tất cả các trường phái triết học trước Mác đều không
giải quyết triệt để.
Con người hiện thực mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập là con người hoạt động, sản
xuất ra của cải vật chất trong những giới hạn tiền đề và điều kiện vật chất nhất định. Nói
cách khác, con người hiện thực hoạt động sản xuất ra đời sống của họ trong giới hạn của
sự phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và các quan hệ sản xuất phù hợp với sự
phát triển ấy.
Sau khi khẳng định tiền đề xuất phát để nghiên cứu con người, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chứng minh đời sống hiện thực của con người. Theo các ông, đầu
tiên là con người phải có khả năng sống, sau đó mới có thể làm ra mọi sản phẩm vật
chất và tinh thần. "Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức
uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa"(3). Vì vậy, con người phải tham gia
vào sản xuất ra những thứ đó. Quá trình sản xuất hay quá trình lao động ra của cải
vật chất đáp ứng nhu cầu tối thiểu đầu tiên của con người đã giúp con người trở
thành "Người" theo đúng nghĩa của nó. Nhờ lao động, con người đã sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình và đó là điểm khác biệt giữa con người và con vật.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng, "bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt

với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình"(4). Trong quá trình đó, con người làm ra lịch sử - xã hội của chính mình.
Trong quá trình sản xuất, trước hết con người phải trao đổi chất với tự nhiên, khai


thác những sản phẩm có trong tự nhiên phục vụ cho nhu cầu tối thiểu của mình. Sau
đó, con người tác động vào tự nhiên không chỉ để khai thác nó, mà còn làm biến đổi
bộ mặt của nó, "sản xuất", "chế tạo" thêm những cái mà nó không có. Trong quá trình
đó, con người tạo ra một thiên nhiên thứ hai như là tác phẩm nghệ thuật của chính
mình. Đó là quá trình biến tự nhiên thuần tuý thành tự nhiên - xã hội.
Trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, con người là một thực thể nhu cầu. Vì
vậy, khi nhu cầu tối thiểu được đáp ứng, trước sự vận động của thực tại và do tác
động của hoàn cảnh, ở cá nhân con người lại xuất hiện những nhu cầu mới. Nhu cầu
này được thực hiện lại xuất hiện những nhu cầu khác cao hơn, tạo cho con người
những khả năng sáng tạo hơn để tiếp tục thoả mãn nhu cầu. Nếu không có nhu cầu
mới, con người chỉ tự thoả mãn với những "tư liệu" vốn có ban đầu thì đương nhiên,
xã hội sẽ dừng lại ở trạng thái không phát triển. Theo các ông, những nhu cầu mới
làm cho cá nhân luôn phát huy tính năng động của bản thân, khơi dậy trong họ ý thức
tư duy sáng tạo tìm ra những "phương thức" để thoả mãn nhu cầu: "Bản thân cái nhu
cầu đầu tiên đã được thoả mãn, hành động thoả mãn với công cụ để thoả mãn mà
người ta có được -đưa tới những nhu cầu mới"(5). Vì vậy, nhu cầu đã trở thành động
lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ xã hội và quá trình lao động sản xuất để thoả mãn nhu
cầu con người là quá trình con người tạo ra lịch sử xã hội của chính mình.
Cùng với việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt
của con người và sự xuất hiện những nhu cầu mới, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, còn
có một "quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hằng
ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những con
người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó
là gia đình"(6). Sự tái tạo ra bản thân con người thông qua việc "sinh con đẻ cái"
cũng là nhu cầu sống còn để duy trì nòi giống và đảm bảo sự tồn tại, phát triển bình

thường của xã hội. Bởi lẽ, mỗi một thế hệ không thể tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử.
Sự tái tạo ra bản thân con người và sự kế tiếp nhau giữa các thế hệ là dòng chảy liên
tục, từ quá khứ đến tương lai. Thông qua sự phát triển kế tiếp nhau này, hoạt động
của con người đã thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa kế thừa và đổi mới và qua
đó, con người tạo ra lịch sử - xã hội của mình: "Lịch sử chẳng qua chỉ là sự nối tiếp
của những thế hệ riêng rẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật liệu, những tư


bản, những lực lượng sản xuất do tất cả các thế hệ trước để lại"(7). Việc tái sản sinh
ra bản thân con người không chỉ đơn thuần để duy trì nòi giống, tái sản xuất ra sức
lao động nhằm tiếp tục quá trình sản xuất, mà điều quan trọng hơn là, thông qua việc
tái sản sinh ra bản thân con người, các thế hệ có thể kế thừa những thành tựu của quá
khứ để phát triển trong hiện tại và tương lai.
Coi quá trình sản xuất để đáp ứng những nhu cầu đầu tiên nhằm duy trì sự sống của
mỗi cá nhân, cũng như việc "sản xuất" ra đời sống của người khác thông qua việc sinh
con đẻ cái là quan hệ cùng tồn tại, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: "Như vậy là sự
sản xuất ra đời sống - ra đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời
sống của người khác bằng việc sinh con, đẻ cái - biểu hiện ngay ra là một quan hệ song
trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội"(8).
Trong quá trình lao động sản xuất, con người không chỉ tác động vào tự nhiên, mà
còn tác động lẫn nhau và nhờ vậy, hình thành nên các quan hệ xã hội. C.Mác và
Ph.Ăngghen viết: "Ngay từ đầu, đã có mối liên hệ vật chất giữa người với người, mối
liên hệ này bị quy định bởi những nhu cầu và phương thức sản xuất và cũng lâu đời
như bản thân loài người, - một mối liên hệ không ngừng mang những hình thức mới,
và do đó, là "lịch sử"”(9). Bằng hoạt động thực tiễn và lao động sản xuất ra "thế giới
vật thể", cải tạo giới tự nhiên, con người đã tỏ ra là một sinh vật có tính loài, có ý
thức. Với tư cách là một cá thể, một chủ thể có ý thức, con người không tách rời khỏi
môi trường tự nhiên, càng không thể tách khỏi môi trường lịch sử - xã hội. Khác với
những sinh vật thuần tuý bản năng, con người thực sự là một sinh vật - xã hội, đứng
trên đỉnh cao của sự tiến hoá giống loài. Là một sinh vật, con người cũng có bản

năng như mọi sinh vật khác. Song, là một sinh vật - xã hội, con người có ý thức, có
năng lực tự giác và sáng tạo - sức mạnh mà chỉ riêng con người mới có.
Ở con người cái sinh vật và cái xã hội thống nhất hữu cơ với nhau, là tiền đề và điều
kiện của nhau trong sự sinh thành, phát triển và hoàn thiện bản chất Người của con
người xã hội. Nhờ ưu thế của tính có ý thức, ý thức điều khiển bản năng, nên bản
năng của con người không còn là bản năng thuần tuý như động vật. Nó được cải biến
theo hướng xã hội hoá, nhân tính hoá để ngày càng có tính Người nhiều hơn. Nhưng,
xã hội không phải là một cái gì trừu tượng, bất biến, mỗi một hình thái kinh tế - xã
hội chỉ thích ứng với một phương thức sản xuất nhất định và khi phương thức sản


xuất biến đổi, xã hội cũng biến đổi theo. Nhân tố quyết định phương thức sản xuất
phát triển là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thì bao gồm con người và công
cụ lao động. Như vậy, không phải cái gì khác mà chính con người cùng với công cụ
lao động do nó chế tạo ra đã quyết định sự thay đổi của xã hội. Thông qua hoạt động
sản xuất vật chất, con người sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Bằng hoạt động thực
tiễn của mình, con người cải tạo tự nhiên, cải tạo hoàn cảnh, phát triển lực lượng sản
xuất và qua đó, hoàn thiện chính bản thân mình. Nói cách khác, không có con người
thì không có lịch sử - xã hội, cũng không có bất cứ một sự phát triển nào. Điều đó có
nghĩa là, con người đã tồn tại, đang tồn tại và sẽ tồn tại với hai tư cách con người vừa
là chủ thể, vừa là đối tượng của quá trình phát triển lịch sử. Con người là sản phẩm
của hoàn cảnh, nhưng chính con người lại là chủ thể của tất cả những biến đổi to lớn
của hoàn cảnh. Bằng hoạt động thực tiễn năng động và sáng tạo của mình, con người
không chỉ làm cho bộ mặt thiên nhiên thay đổi, mà cả bộ mặt xã hội cũng thay đổi và
ngày một hoàn thiện. Với quan niệm đó, C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng,
không phải lịch sử sử dụng con người như một phương tiện để đạt tới mục đích của
mình, mà lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi những mục
đích nhất định. Rằng, con người vừa là tiền đề thường xuyên của lịch sử, vừa là sản
phẩm, là kết quả của lịch sử.
Con người là sản phẩm của tự nhiên, song chính con người lại là tác giả của tất cả

những biến đổi to lớn diễn ra trong tự nhiên. Chính con người, bằng hoạt động lao
động của mình đã tạo ra những điều kiện sinh sống tự nhiên và xã hội cho mình. Con
người không chỉ là diễn viên, mà còn là tác giả của vở kịch do mình dàn dựng. Hoàn
cảnh cũng chỉ có thể tạo ra con người trong chừng mực con người tạo ra hoàn cảnh
mà thôi. Do vậy, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, hoạt động sống của con người như thế
nào thì họ là như thế ấy. Chính con người phải nhân đạo hoá hoàn cảnh, tạo ra "hoàn
cảnh hợp tính Người" để phát triển bản chất Người, hoàn thiện nhân cách của mỗi cá
nhân, trở thành chủ thể phát triển và hoàn thiện chính bản thân mình, sáng tạo ra lịch
sử của chính mình, của nhân loại. Nói cách khác, theo các ông, thực chất của tiến
trình phát triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì sự phát triển con người,
giải phóng con người, đưa con người "từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc
của tự do". Đó cũng chính là quá trình mà nhân loại tự tạo ra những hoàn cảnh, điều


kiện, những khả năng cho chính mình nhằm đạt tới sự phát triển, sự tự do cho mỗi
con người trong cộng đồng nhân loại, tạo ra năng lực làm chủ bản thân mình, làm
chủ tiến trình phát triển lịch sử của chính mình.
Như vậy, có thể nói, triết học Mác đã không tách rời, không đối lập mặt sinh học với
mặt xã hội trong con người. Hai mặt đó có quan hệ xoắn xít với nhau, nếu như mặt
sinh học (tự nhiên) là điều kiện cần thì mặt xã hội là điều kiện đủ để con người trở
thành Người theo đúng nghĩa của nó. Với quan niệm như vậy về con người, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã đặt nền móng vững chắc cho việc nghiên cứu con người, góp phần
xứng đáng vào việc nhận thức triết học về con người và con đường để hoàn thiện bản
chất con người. Mặc dù trong các tác phẩm sau này, các ông đã bổ sung và hoàn
thiện hơn quan niệm triết học về con người, giúp chúng ta có được một phương pháp
luận đúng đắn để nghiên cứu con người, song với Hệ tư tưởng Đức, chúng ta cũng đã
nhận được ý nghĩa lý luận lớn lao đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Những gợi ý quan trọng rút ra từ quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con
người, theo chúng tôi, là: Thứ nhất, chúng ta phải luôn quan tâm đến lợi ích, trước
hết là lợi ích vật chất của những cá nhân cụ thể, đồng thời chú ý cải thiện điều kiện

và môi trường sống cho họ. Thứ hai, cần tạo môi trường thuận lợi để mọi người đều
có thể cống hiến hết khả năng sáng tạo của mình. Cần phải thấy rằng, con người
không dừng lại ở sự thoả mãn nhu cầu sinh học, mà luôn có xu hướng vươn tới
những "tầng" nhu cầu cao hơn. Khi nhu cầu cống hiến được đáp ứng, nó sẽ trở thành
động lực kích thích bản chất sáng tạo của mỗi con người và trên cơ sở đó, bản chất
người cũng dần dần được hoàn thiện hơn. Thứ ba, chúng ta không những phải tích
cực xây dựng môi trường xã hội trong sạch, mà còn phải chủ động giữ gìn, bảo vệ tài
nguyên và môi trường tự nhiên, bởi đó là một trong những điều kiện căn bản để phát
triển bền vững./.

(*) Viện Kinh điển mácxít, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.37 - 38.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.37.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.40.


(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.29.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr. 40.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.41.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.65.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.42.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.43.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC ĐẶT RA Ở CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG
HIỆN NAY

TRẦN ĐỨC CƯỜNG (*)
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Toàn cầu hoá là một hiện tượng phức tạp, có tác động sâu rộng đến mọi quốc gia,

dân tộc trên thế giới. Trong bối cảnh đó, các nước thuộc khu vực châu Á - Thái
Bình Dương có thái độ như thế nào đối với vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc; phải
giải quyết các vấn đề quốc gia dân tộc, chủ quyền dân tộc, tính tự quyết dân tộc,
phân tầng xã hội, giá trị người và đời sống con người… như thế nào? Đặc biệt,
phải làm gì để chống lại sự huỷ hoại về mặt giá trị của toàn cầu hoá…? Đó là
những vấn đề triết học cần được làm sáng tỏ của khu vực châu Á - Thái Bình
Dương trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá không phải là hiện tượng mới, mà có cả một quá trình lịch sử lâu
dài. Quá trình đó được bắt đầu bằng sự mở rộng thuộc địa và thị trường của chủ
nghĩa tư bản từ thế kỷ XV và diễn ra mạnh mẽ hơn ở cuối thế kỷ XIX.
Trong một vài thập niên gần đây, quá trình toàn cầu hoá ngày càng tác động một
cách rộng lớn và sâu sắc đến mọi quốc gia dân tộc trên thế giới. Những mối dây


liên hệ chằng chịt, trước hết là trên lĩnh vực kinh tế, đã thắt chặt các quốc gia lại
với nhau, góp phần tạo nên xu hướng đồng nhất hoá thế giới.
Nói đến toàn cầu hoá, trước hết, người ta nói đến toàn cầu hoá kinh tế. Bởi vì lĩnh
vực kinh tế là một trong những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Sự thay đổi
nhanh chóng của công nghệ, đặc biệt là công nghệ viễn thông và tính chất của thị
trường đã làm cho thị trường không chỉ mang tính quốc gia mà còn mang tính
quốc tế. Sau lĩnh vực kinh tế, mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, từ chính trị
đến văn hoá, cũng đều chịu ảnh hưởng với mức độ khác nhau của cơn lốc toàn cầu
hoá. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, sự biến động ở một quốc gia này rất có
thể ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến hàng loạt quốc gia khác. Có lẽ bản thân
những nước đã trải qua cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế ở châu Á năm 1997
hiểu rõ điều đó hơn ai hết.
Hiện nay, toàn cầu hoá là một quá trình diễn ra không đồng đều cả về cường độ,
nhịp điệu lẫn tính chủ động ở các nước khác nhau. Ngay cả thái độ đối với quá
trình toàn cầu hoá cũng hết sức khác nhau. Có một nghịch lý đang diễn ra là, trong
khi các chính phủ ở nhiều nước, cả những nước phát triển và đang phát triển,

muốn tìm cách đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hoá thì ngay tại các nước đó, nhiều
người dân của họ lại tìm đủ mọi cách để ngăn chặn quá trình này dưới các hình
thức khác nhau, từ tuyên truyền, diễu hành, biểu tình đến đập phá và thậm chí là
có cả bạo loạn. Không ít các tổ chức phi chính phủ, các nghiệp đoàn, các nhà hoạt
động xã hội của các nước coi Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) như kẻ thù. Không ít các học giả trong và ngoài khu vực châu Á – Thái
Bình Dương ngày càng nói nhiều hơn về những mặt trái mà quá trình toàn cầu hoá
đang mang lại cho các nước trong khu vực này.
Rõ ràng là, bên cạnh những cơ hội, toàn cầu hoá đang tạo ra những thách thức vô
cùng to lớn cho các nước đang phát triển; không phải mọi quốc gia đều thu được
lợi như nhau từ quá trình này. Sự bất công bằng trong toàn cầu hoá, chủ nghĩa bảo
hộ mậu dịch của các nước phát triển cùng với hố sâu ngăn cách dường như không
thể xoá nhoà về khoa học - kỹ thuật đã làm trầm trọng thêm khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia. Người dân của các nước giàu ngày càng giàu hơn, người
dân của các nước nghèo ngày càng nghèo hơn. Chính quyền ở một số nước trong


×