Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo vấn đề tình tiết hình sự trong bộ luật hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.5 KB, 6 trang )

nghiên cứu - trao đổi

Nguyễn Văn Hơng *

1. Khái quát chung
Từ tình tiết đợc sử dụng rộng r i không
chỉ trong ngôn ngữ hàng ngày, trong các lĩnh
vực khác nhau của đời sống x hội mà còn
đợc sử dụng rộng r i cả trong lĩnh vực pháp
luật. Khái niệm tình tiết hình sự chúng tôi
nêu trong bài viết này chỉ bao gồm những tình
tiết có ý nghĩa hình sự đợc quy định trong Bộ
luật hình sự (BLHS). BLHS năm 1999 bao gồm
344 điều luật thì đ có 12 điều luật với 25 lần
sử dụng thuật ngữ này. BLHS năm 1999 (cũng
nh BLHS năm 1985) còn dành riêng hai điều
luật quy định về các tình tiết giảm nhẹ và tăng
nặng trách nhiệm hình sự (TNHS).
Nh vậy, tình tiết hình sự bao gồm
những nội dung gì? Trong BLHS, các tình tiết
giảm nhẹ TNHS (Điều 46) và các tình tiết
tăng nặng TNHS (Điều 48) với sự quy định
cha đầy đủ đ có tới 66 tình tiết, cha kể
trong các điều luật về các tội phạm cụ thể còn
quy định nhiều tình tiết định khung hình phạt
khác nhau.
Hành vi đợc xác định là tội phạm thì
các tình tiết, biểu hiện của nó phải đợc làm
rõ để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm để
xử lí một cách thoả đáng. Hơn nữa, khi quyết
định hình phạt, toà án ... cân nhắc tính chất


và mức độ nguy hiểm cho x hội của hành vi
phạm tội, nhân thân ngời phạm tội, các tình
tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS (Điều 45
BLHS). Cân nhắc tính chất và mức độ nguy
hiểm cho x hội của tội phạm thực chất là việc
xem xét và đánh giá các tình tiết tạo nên tính
18

nguy hiểm của tội phạm. Những tình tiết đó
có thể là tình tiết thuộc về hành vi phạm tội,
thuộc về đối tợng tác động của tội phạm,
thuộc về nhận thức, thái độ của ngời phạm
tội đối với việc phạm tội, thuộc về những đặc
điểm riêng biệt, phẩm chất cá nhân của ngời
phạm tội... Những tình tiết đó có thể đợc quy
định là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS
(khoản 1 Điều 46 và khoản 1 Điều 48 BLHS).
Mặt khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 46
BLHS thì ... Toà án có thể coi các tình tiết
khác là tình tiết giảm nhẹ.... Nh vậy, để hiểu
và vận dụng đúng thì cần có một khái niệm
chung thống nhất về các tình tiết trong BLHS.
Nghiên cứu các tình tiết trong BLHS, đặc
biệt các tình tiết quy định tại Điều 46 và Điều
48 BLHS, chúng tôi tạm đa ra khái niệm
tình tiết hình sự nh sau: Tình tiết hình sự
là những biểu hiện của tội phạm bao gồm
những biểu hiện của hành vi phạm tội, những
điều kiện, đặc điểm của ngời phạm tội,
những hoàn cảnh, tình huống, đối tợng có

ảnh hởng trực tiếp đến việc thực hiện tội
phạm qua đó phản ánh tính nguy hiểm của tội
phạm, TNHS của ngời phạm tội phản ánh
quan điểm của Nhà nớc ta về tội phạm cũng
nh chính sách hình sự của Nhà nớc.
2. Phân loại tình tiết hình sự
Ngời ta có thể có nhiều cách phân loại
các tình tiết hình sự:
* Giảng viên Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội
Tạp chí luật học số 2/2003


nghiên cứu - trao đổi

+ Căn cứ vào các biểu hiện của tội phạm
thuộc các yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP),
có thể phân biệt:
- Tình tiết thuộc mặt khách quan của tội
phạm tội;
- Tình tiết thuộc khách thể của tội phạm;
- Tình tiết thuộc mặt chủ quan của tội
phạm;
- Tình tiết thuộc chủ thể của tội phạm và
nhân thân ngời phạm tội.
+ Căn cứ vào ý nghĩa, tầm quan trọng của
các tình tiết đối với CTTP cụ thể và hậu quả
pháp lí khi các tình tiết thoả m n dấu hiệu
CTTP cũng nh các điều luật quy định, có thể
phân biệt thành:

- Tình tiết định tội;
- Tình tiết định khung;
- Tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS;
- Tình tiết loại trừ TNHS;
- Tình tiết miễn TNHS;
- ...
+ Căn cứ vào ý nghĩa, tầm quan trọng của
các tình tiết đối với mỗi trờng hợp phạm tội
cụ thể, có thể phân biệt thành:
- Tình tiết giảm nhẹ TNHS;
- Tình tiết tăng nặng TNHS.
Nhng cách phân loại phổ biến và có ý
nghĩa nhất (hơn nữa theo cách quy định tại
khoản 3 Điều 46 và khoản 2 Điều 48 BLHS)
thì các tình tiết hình sự đợc phân thành ba
loại sau:
2.1. Tình tiết định tội
Tình tiết định tội là những tình tiết, biểu
hiện của tội phạm phù hợp với các dấu hiệu
định tội (dấu hiệu CTTP cơ bản) của tội cụ thể
trong BLHS.
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự,
khái niệm về định tội (định tội danh) còn cha
thống nhất.(1) Theo chúng tôi, định tội (hay
Tạp chí luật học số 2/2003

định tội danh) là hoạt động nhận thức, là quá
trình xem xét, xác định hành vi nguy hiểm
cho x hội đ thực hiện có là tội phạm hay
không (nếu có là tội gì) trên cơ sở đối chiếu

các tình tiết thực tế của hành vi với các dấu
hiệu của CTTP, tìm ra sự phù hợp giữa hành vi
nguy hiểm cho x hội đ thực hiện với CTTP
cụ thể trong BLHS. Nếu các dấu hiệu trong
CTTP cụ thể đợc thoả m n thì hành vi nguy
hiểm cho x hội đ thực hiện là hành vi phạm
tội và hành vi đó mang tội danh mà CTTP đó
phản ánh.
Tình tiết định tội là tình tiết thực tế của vụ
án cụ thể đợc sử dụng để xác định ngời
phạm tội trong vụ án đó đ phạm tội gì. Đó là
những tình tiết thoả m n dấu hiệu định tội đ
đợc quy định trong luật.(2)
Các tình tiết hình sự luôn gắn với sự
kiện phạm tội, phản ánh tính chất và mức độ
nguy hiểm cho x hội của hành vi phạm tội và
những đặc điểm riêng biệt của ngời phạm
tội. Khi các tình tiết phù hợp và thoả m n dấu
hiệu CTTP cơ bản của tội phạm cụ thể trong
BLHS sẽ cho phép xác định đợc ngời phạm
tội đ phạm tội gì, theo điều nào trong BLHS.
Ví dụ, xem xét trờng hợp ngời đ có hành vi
dùng vũ lực đối với ngời khác. Dùng vũ lực
đối với ngời khác là dùng sức mạnh vật chất
tấn công ngời khác; mặc dù hành vi dùng vũ
lực là hành vi có tính nguy hiểm đáng kể; mặc
dù bản chất của sự tấn công là bất hợp pháp.
Cho dù tình tiết dùng vũ lực, tấn công phù
hợp với dấu hiệu dùng vũ lực, tấn công
trong CTTP của tội hiếp dâm (Điều 111), tội

cớp tài sản (Điều 133)... nhng cái đó vẫn
cha nói lên điều gì. Khi xem xét, làm rõ
những tình tiết khác nh: Việc dùng vũ lực
đợc thực hiện bởi ngời là nam giới; việc
dùng vũ lực nhằm đè bẹp, làm tê liệt sự
19


nghiên cứu - trao đổi

kháng cự của ngời là nữ giới để giao cấu
với ngời đó - giao cấu với ngời phụ nữ trái
với ý muốn của họ. Những tình tiết này cho
thấy hành vi dùng vũ lực (nói trên) phù hợp
và thoả m n các dấu hiệu CTTP của tội
hiếp dâm. Điều đó cho phép khẳng định
ngời có hành vi nói trên đ phạm tội hiếp
dâm (Điều 111). Trờng hợp trên đợc tiếp
tục xem xét và xác định nạn nhân của tội
phạm là em gái 15 tuổi - nạn nhân của tội
phạm là trẻ em thì hành vi phạm tội hiếp
dâm trong trờng hợp này phù hợp và thoả
m n các dấu hiệu CTTP của tội hiếp dâm
trẻ em (Điều 112).
Nh vậy, ý nghĩa định tội của các tình tiết
thể hiện ở chỗ các tình tiết của tội phạm phù
hợp và thoả m n dấu hiệu CTTP của tội cụ thể
trong BLHS. Các tình tiết đó cho phép xác
định đợc ngời phạm tội đ phạm tội gì, theo
điều nào trong BLHS.

2.2. Tình tiết định khung hình phạt
Tình tiết định khung hình phạt là những
tình tiết của tội phạm phù hợp và thoả m n
dấu hiệu định khung hình phạt (CTTP giảm
nhẹ hoặc tăng nặng) của những tội cụ thể
trong BLHS.
Do tính đa dạng của tội phạm, bên cạnh
CTTP cơ bản (của một loại tội) nhà làm luật
còn quy định thêm các dấu hiệu phản ánh tội
phạm có tính nguy hiểm cho x hội cao hoặc
thấp với những khung hình phạt nặng hoặc
nhẹ khác nhau so với khung hình phạt của
CTTP cơ bản. Những dấu hiệu đó đợc gọi là
dấu hiệu (yếu tố) định khung hình phạt. Khi
các tình tiết của tội phạm không những thoả
m n dấu hiệu định tội (CTTP cơ bản) mà còn
thoả m n dấu hiệu có thêm trong CTTP giảm
nhẹ hoặc tăng nặng sẽ cho phép chuyển khung
hình phạt áp dụng đối với ngời phạm tội từ
20

khung hình phạt của CTTP cơ bản sang khung
hình phạt của CTTP giảm nhẹ hoặc CTTP tăng
nặng. Ví dụ, các tình tiết trong hành vi phạm
tội giết ngời của A không những thoả m n
dấu hiệu mặt khách quan, mặt chủ quan,
khách thể, chủ thể của tội giết ngời (khoản 2
Điều 93) mà còn thoả m n dấu hiệu (có thêm
phản ánh tính nguy hiểm của tội phạm cao hơn)
quy định tại điểm a, b... khoản 1 Điều 93.

Trờng hợp này sẽ cho phép chuyển khung
hình phạt áp dụng đối với A từ khoản 2 sang
khoản 1 Điều 93 BLHS. Các tình tiết đó đợc
gọi là tình tiết định khung hình phạt. Nói cách
khác, đó chính là các tình tiết có ý nghĩa định
khung hình phạt đối với tội phạm.
2.3. Tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng
nặng TNHS
Ngoài ý nghĩa định tội, định khung hình
phạt, các tình tiết của tội phạm còn phản ánh
mức độ nguy hiểm khác nhau của các trờng
hợp phạm tội cụ thể (trong khung hình phạt);
phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục của ngời
phạm tội và qua đó phản ánh mức độ TNHS
của ngời phạm tội. Do vậy, các tình tiết này
đợc BLHS quy định làm căn cứ quyết định
hình phạt đối với ngời phạm tội.
Các tình tiết có ý nghĩa quyết định hình
phạt là các tình tiết đợc quy định tại Điều 46
và Điều 48 BLHS. Hành vi phạm tội cụ thể với
những tình tiết thực tế của nó thoả m n dấu
hiệu giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS đ đợc
quy định tại hai điều luật này thì mức độ
TNHS mà ngời phạm tội phải gánh chịu theo
đó cũng giảm xuống hoặc tăng lên đáng kể so
với các trờng hợp khác trong phạm vi khung
hình phạt áp dụng với ngời phạm tội. Ngoài
ra, một số tình tiết còn đợc quy định thành
nguyên tắc xử lí đối với tội phạm, bắt buộc toà
án phải xem xét khi quyết định biện pháp xử lí

Tạp chí luật học số 2/2003


nghiên cứu - trao đổi

đối với ngời phạm tội. Đó là các tình tiết
đợc quy định tại Điều 3, Điều 69 BLHS hoặc
các tình tiết nh phạm nhiều tội, phạm tội ở
giai đoạn chuẩn bị, phạm tội ở giai đoạn cha
đạt..., việc quyết định hình phạt đối với ngời
phạm tội có tình tiết này bắt buộc toà án phải
căn cứ vào những quy định tại Điều 50, Điều 52
BLHS... Các tình tiết hình sự trong trờng
hợp này chính là những căn cứ để toà án dựa
vào đó lựa chọn hình phạt phù hợp để hình
phạt đạt đợc mục đích khi áp dụng đối với
ngời phạm tội.
3. Vai trò và mối quan hệ của các tình
tiết hình sự
Các tình tiết hình sự bao gồm nhiều
loại, có nội dung phản ánh những biểu hiện
khác nhau của tội phạm. Nó phản ánh tính
chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm; phản
ánh điều kiện khách quan, chủ quan ảnh
hởng đến hành vi phạm tội; phản ánh không
gian, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh tội phạm
xảy ra. Mặt khác, các tình tiết của tội phạm
còn phản ánh những đặc điểm nhất định,
những phẩm chất cá nhân cũng nh hoàn cảnh
đặc biệt của ngời phạm tội...

Các tình tiết hình sự có vai trò quan
trọng trong việc xác định và xử lí tội phạm.
Các tình tiết đợc nhà làm luật sử dụng để
phản ánh tội phạm, xây dựng những CTTP với
những khung hình phạt khác nhau; xây dựng
các quy định về các tình tiết giảm nhẹ hay
tăng nặng TNHS, phản ánh mức độ TNHS
khác nhau của các trờng hợp phạm tội cụ thể
(trong khung hình phạt). Đồng thời các tình
tiết của tội phạm còn đợc nhà làm luật sử
dụng để xây dựng các chế định liên quan đến
tội phạm và hình phạt cũng nh những nguyên
tắc, đờng lối xử lí tội phạm.
Các tình tiết hình sự đợc nhà giải thích
Tạp chí luật học số 2/2003

luật sử dụng để phân biệt các tội phạm khác
nhau; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm
của các trờng hợp phạm tội trong cùng loại
tội; làm rõ mức độ nguy hiểm cũng nh mức
độ TNHS của các trờng hợp phạm tội cụ thể.
Các tình tiết hình sự đợc ngời áp
dụng luật sử dụng làm căn cứ để định tội, định
khung cũng nh quyết định hình phạt đối với
ngời phạm tội. Nếu thiếu những tình tiết cụ
thể, những căn cứ xác đáng có thể dẫn đến
việc định tội danh, định khung hình phạt
hay quyết định hình phạt không đúng,
không phù hợp, làm cho hình phạt không
đạt đợc mục đích khi áp dụng đối với

ngời phạm tội.
Trong BLHS, các tình tiết hình sự có sự
biểu hiện hết sức đa dạng. Mỗi tình tiết có ý
nghĩa cũng nh mức độ phản ánh khác nhau.
Mỗi tội phạm cụ thể bao giờ cũng là sự tổng
hợp của nhiều tình tiết khác nhau. Đối với vụ
án cụ thể cần phải xác định rõ vị trí, ý nghĩa
pháp lí của mỗi tình tiết hình sự là tình tiết
định tội, định khung hình phạt hay giảm nhẹ
hoặc tăng nặng TNHS để sử dụng chúng hợp
lí. Vận dụng không đúng các tình tiết này có
thể dẫn đến việc định tội hoặc định khung
hình phạt sai. Vận dụng không đúng các tình
tiết hình sự khi quyết định hình phạt có thể
dẫn đến hậu quả là hình phạt đ tuyên quá
nặng hoặc quá nhẹ đối với ngời phạm tội. Sự
phân biệt rõ các tình tiết hình sự là tình tiết
định tội, định khung hay giảm nhẹ hoặc tăng
nặng TNHS chỉ đối với tội cụ thể. Một tình tiết
có thể là tình tiết định tội của tội này nhng lại
là tình tiết định khung hình phạt của tội khác
và đối với tội khác nữa nó lại chỉ là tình tiết
giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS. Ví dụ: Tình
tiết gây hậu quả nghiêm trọng là tình tiết
định tội của tội trộm cắp, tội công nhiên
21


nghiên cứu - trao đổi


chiếm đoạt tài sản hay nhiều tội phạm khác.
Nhng đối với tội cớp hay tội cớp giật tài
sản, nó chỉ là tình tiết định khung tăng
nặng (khoản 2 Điều 133, Điều 135 BLHS).
Còn đối với tội cố ý gây thơng tích hoặc
nhiều tội khác nữa thì tình tiết gây hậu
quả nghiêm trọng lại chỉ là tình tiết tăng
nặng TNHS.
Trong vụ án thờng có nhiều tình tiết,
thậm chí các tình tiết có ý nghĩa trái ngợc
nhau. Ví dụ: Trờng hợp vừa có tình tiết gây
hậu quả nghiêm trọng lại vừa có tình tiết tự
nguyện sửa chữa, bồi thờng thiệt hại hoặc
khắc phục hậu quả; hoặc trờng hợp vừa có
nhiều tình tiết tăng nặng nhng đồng thời lại
vừa có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS. Do
vậy, phải xác định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng
và ảnh hởng của các tình tiết đối với tội
phạm. Mỗi tình tiết cần đợc đánh giá riêng lẻ
đồng thời còn phải đợc đánh giá tổng hợp
trong mối liên hệ của toàn bộ vụ án. Bởi lẽ, tội
phạm là thể thống nhất không thể chia cắt, tất
cả các tình tiết - biểu hiện của tội phạm đều
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trờng hợp
vụ án có nhiều tình tiết thì tất cả các tình tiết
đó điều phải đợc xem xét, đánh giá tổng hợp;
các tình tiết có ý nghĩa trái ngợc nhau thì
phải xem xét xem tình tiết nào có ý nghĩa
nhiều hơn.
Mỗi tình tiết hình sự không có ý nghĩa

nh nhau đối với mọi tội phạm và mọi trờng
hợp phạm tội. Ví dụ, tình tiết phạm tội vì
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải
do mình tự gây ra. Hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn nói đến trong tình tiết này thờng là
khó khăn về kinh tế. Do vậy, ngời có khó
khăn đặc biệt về kinh tế mà phạm tội xâm
22

phạm sở hữu, có tính chiếm đoạt nh tội trộm
cắp, tội cớp giật... thì tình tiết vì hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn... có thể đợc xem xét
giảm nhẹ TNHS. Còn nếu vì hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn về kinh tế nhng ngời phạm
tội lại phạm tội huỷ hoại tài sản hay tội giết
ngời, tội cố ý gây thơng tích thì tình tiết vì
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn... trong trờng
hợp này không có ý nghĩa giảm nhẹ TNHS
cho ngời phạm tội.
Sự khác nhau giữa các tình tiết định tội,
định khung và tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
TNHS là ở chỗ: Các tình tiết định tội, định
khung chỉ riêng biệt cho từng tội phạm; các
tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS có thể áp
dụng cho tất cả các tội hoặc cho nhiều tội
khác nhau. Tình tiết định tội đợc phản ánh
trong CTTP cơ bản của mỗi loại tội. Tình tiết
định khung hình phạt đợc phản ánh trong
CTTP giảm nhẹ hay tăng nặng của mỗi loại
tội. Còn các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng

TNHS đợc quy định chung tại Điều 46 và
Điều 48 BLHS.
Đối với mỗi tội phạm cụ thể, tình tiết đ là
yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì
không còn đợc coi là tình tiết giảm nhẹ hoặc
tăng nặng TNHS. Bởi vì, tình tiết khi đ đợc
sử dụng (và sử dụng một cách triệt để) trong
việc xử lí tội phạm thì nó không còn cơ sở để
sử dụng cho lần tiếp theo. Nếu mỗi tình tiết
của tội phạm lại đợc sử dụng hai lần hoặc
nhiều hơn hai lần thì lần thứ hai và những lần
tiếp sau đều là việc sử dụng không có cơ sở.
Điều đó dẫn đến hậu quả là giảm nhẹ hoặc
tăng nặng TNHS đối với ngời phạm tội một
cách không có căn cứ. Và nh vậy cũng chính
là vi phạm nguyên tắc pháp chế và các nguyên
Tạp chí luật học số 2/2003


nghiên cứu - trao đổi

tắc khác của luật hình sự.
Đối với mỗi tội phạm cụ thể, các tình tiết
có ý nghĩa độc lập trong việc phản ánh tội
phạm. Tuy nhiên, trong nhiều trờng hợp, một
số tình tiết cụ thể chỉ có ý nghĩa hay thể hiện
đầy đủ ý nghĩa của nó khi kết hợp với các tình
tiết khác. Ví dụ: Tình tiết phạm tội lần đầu và
thuộc trờng hợp ít nghiêm trọng. Đây là
trờng hợp có hai tình tiết cụ thể kết hợp với

nhau tạo thành một tình tiết có ý nghĩa về mặt
hình sự. Tình tiết phạm tội lần đầu chỉ có ý
nghĩa giảm nhẹ TNHS đối với ngời phạm tội
nếu việc lần đầu phạm tội đó thuộc trờng
hợp ít nghiêm trọng. Cũng tơng tự nh vậy,
tại Điều 95 BLHS, tình tiết phạm tội trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chỉ có
ý nghĩa định tội khi kết hợp với tình tiết do
hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân đối với ngời đó hoặc đối với ngời thân
thích của ngời đó...
Mỗi tội phạm đều là thể thống nhất của
các tình tiết. Các tình tiết của tội phạm luôn
có quan hệ chặt chẽ, ảnh hởng lẫn nhau. Các
tình tiết phải đợc xem xét, đánh giá một cách
độc lập, riêng rẽ nhng đồng thời cũng phải
cân nhắc, đánh giá chúng trong mối liên hệ
biện chứng của toàn bộ vụ án. Có nh vậy mới
xác định đợc rõ vị trí, ý nghĩa cũng nh ảnh
hởng của chúng đối với tội phạm để từ đó có
biện pháp xử lí thoả đáng, đúng ngời, đúng
tội, đúng pháp luật.
4. Phân biệt tình tiết hình sự và dấu
hiệu pháp lí của tội phạm
Tình tiết hình sự là những tình tiết thực
tế của tội phạm. Nó là những biểu hiện cụ thể
của tội phạm hoặc những biểu hiện có liên
quan trực tiếp đến hành vi nguy hiểm cho x
Tạp chí luật học số 2/2003


hội có ý nghĩa về mặt hình sự khi giải quyết
TNHS đối với ngời thực hiện. Còn dấu hiệu
của tội phạm là những tình tiết cụ thể của tội
phạm đợc quy định trong BLHS, là dấu hiệu
pháp lí bắt buộc của tội phạm.
Hành vi phạm tội có thể bao gồm rất
nhiều tình tiết thực tế khác nhau (có ý nghĩa
về mặt hình sự) nhng không phải tất cả
những tình tiết ấy đều là dấu hiệu pháp lí (bắt
buộc) của tội phạm. Tuy nhiên, có những tình
tiết thực tế của hành vi phạm tội giống nhau
hay phù hợp với dấu hiệu CTTP, dấu hiệu định
khung hình phạt của loại tội phạm đó hoặc
dấu hiệu giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đ đợc
quy định trong BLHS. Trờng hợp này, tình
tiết hình sự và các dấu hiệu của tội phạm là
trùng nhau. Đó chính là trờng hợp có sự
đồng nhất giữa các tình tiết thực tế của hiện
tợng khách quan với các dấu hiệu của khái
niệm pháp lí trong luật hình sự. Nhà làm luật
khi quy định tội phạm đ lựa chọn những
tình tiết thực tế điển hình của hiện tợng x
hội điển hình phản ánh vào trong luật hình
sự. Thông qua nhà làm luật, một số tình tiết
đặc trng, điển hình của tội phạm trở thành
những dấu hiệu định tội, dấu hiệu định
khung hình phạt hay dấu hiệu giảm nhẹ
hoặc tăng nặng TNHS./.
(1).Xem: - TSKH. Lê Cảm, Các nghiên cứu chuyên
khảo về phần chung luật hình sự, Nxb. Công an nhân

dân, năm 2000, tr.11.
- PGS.TS Nguyễn Ngọc Hoà (chủ biên), Từ
điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân
dân, năm 1999, tr.47.
(2).Xem: - PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà (chủ biên), Từ
điển giải thích thuật ngữ luật học", Nxb. Công an nhân
dân, năm 1999, tr.116.
23



×