Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

TIỂU LUẬN về GIÁ TRỊ THỜI đại của KINH tế CHÍNH TRỊ học của c mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.69 KB, 129 trang )

TIỂU LUẬN:

VỀ GIÁ TRỊ THỜI ĐẠI CỦA KINH
TẾ CHÍNH TRỊ HỌC CỦA C.MÁC


Bài viết góp phần phân tích và luận giải nhằm làm sáng tỏ những giá trị thời đại
trong lý luận của C.Mác về kinh tế chính trị học. Theo tác giả, kinh tế chính trị học
của C.Mác mang nhiều giá trị thời đại sâu sắc, đó là giá trị khoa học, giá trị xây
dựng, giá trị thực tiễn và giá trị chính trị.

Khi cuộc khủng hoảng tài chính do khủng hoảng tín dụng thứ cấp của Mỹ gây trở
ngại nghiêm trọng cho sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc và cùng với khi năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên của con người
đang ngày càng nâng cao, thì một loạt vấn đề, như cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường, chênh lệch giàu nghèo, v.v. đã khiến toàn bộ giới lý luận thế giới phải nhận
thức lại và tìm kiếm những ý nghĩa, giá trị của kinh tế chính trị học của C.Mác.
Trung Quốc đã giành được thắng lợi cách mạng và thành tựu trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác. Đại hội Đảng Cộng sản
Trung Quốc lần thứ XVII đã đặt ra vấn đề thời đại hóa chủ nghĩa Mác, điều này càng
đòi hỏi giới lý luận chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm những giá trị thời đại của kinh tế
chính trị học của C.Mác.
1. Giá trị khoa học
Kinh tế chính trị học của C.Mác là hệ thống lý luận khoa học, bởi những phân tích
của nó về quy luật vận hành kinh tế của chủ nghĩa tư bản và những dự báo được đưa
ra dựa trên quy luật vận động đó đã được chứng minh bởi chính thực tế khách quan
trong phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản.(*)Có thể có người sẽ nói rằng, chủ
nghĩa tư bản tới nay vẫn tràn đầy sinh lực, nhưng thực ra, chủ nghĩa tư bản từ thời
của C.Mác đã suy yếu rồi. C.Mác tuy không đảm đương việc đưa ra phương thuốc
chữa chạy cho chủ nghĩa tư bản, nhưng trong việc phân tích một cách sâu sắc lôgíc



sự phát triển kinh tế và kết cấu bệnh tật của chủ nghĩa tư bản thì ông lại vừa kịp để
thúc đẩy cho sự cải cách của chủ nghĩa tư bản. Ai cũng biết rằng, từ khủng hoảng
kinh tế lần đầu xuất hiện năm 1825 tới nay, các nhà kinh tế học tư bản chủ nghĩa đã
bắt đầu tìm hiểu về nguyên nhân hình thành khủng hoảng, tìm kiếm đối sách thoát
khỏi khủng hoảng, tạo nên vài ba trăm loại lý luận về khủng hoảng, trong đó có loại
chỉ nhìn thấy hiện tượng bên ngoài (nhu cầu không đầy đủ), có loại chỉ mô tả quá
trình, thậm chí có loại lại hoàn toàn chỉ là sự đoán mò duy tâm (thuyết vùng đen mặt
trời – sunspot theory)(1).
C.Mác cho rằng, hình thức biểu hiện của khủng hoảng kinh tế là do sản xuất thừa,
vượt quá nhu cầu khiến không thể tiêu thụ hết số hàng hoá đã sản xuất, nhưng
nguyên nhân căn bản chính là chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và
do vậy, đã quyết định sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong chủ nghĩa tư bản. Các
nhà kinh tế học của giai cấp tư sản đã tham khảo và vay mượn những phân tích sâu
sắc của C.Mác về nguyên nhân khủng hoảng kinh tế, đề xuất lợi dụng sự can thiệp
của nhà nước để khắc phục phần nào sự mâu thuẫn giữa chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa với nền đại sản xuất xã hội hoá, đây chính là “Cuộc cách mạng Keynes”.
Chủ nghĩa tư bản sau chiến tranh thế giới đã dựa trên lý luận Keynes từ “bàn tay vô
hình” điều tiết đưa ra “bàn tay hữu hình” để tiến nhập vào giai đoạn kinh tế thị
trường hiện đại. Sự xuất hiện của thể chế này đã sửa chữa một cách rất có ý thức
những hậu quả kinh tế - xã hội bất công đầy rẫy nảy sinh trong quá trình vận hành
nền kinh tế thuần tư bản chủ nghĩa, điều chỉnh mang tính cải cách và thích ứng với
phương hướng mà C.Mác đã dự báo. Nhà kinh tế học phương Tây Sardoni đã thừa
nhận công khai: “Phát hiện Keynes: Sự coi trọng của C.Mác đối với lý luận chu
chuyển tư bản, sự nhấn mạnh của C.Mác về sự theo đuổi của các doanh nghiệp tư
bản chủ nghĩa là lợi nhuận tiền tệ chứ không phải là cái sự thực sản xuất ra hàng hoá
đã đem lại cho những người đi sau cách lý giải sự vận hành xã hội tư bản chủ nghĩa
và cách phê phán kinh tế học cổ điển, đặc biệt là gợi mở tốt nhất cho định luật Say
(Say’s Law)”. Jeffray Hodgson còn nói rõ hơn nữa: “Chỉ có nghiên cứu một cách
thực sự Tư bản, đặc biệt là quyển đầu tiên của nó, mới có thể bổ lấp vào cái khoảng

trống to lớn đã tạo ra khủng hoảng của lý luận kinh tế hiện đại”(2).
Sức sống mạnh mẽ của kinh tế chính trị học của chủ nghĩa Mác ngày nay không chỉ


bó hẹp trong các kết luận cụ thể của nó, mà còn ở phương pháp phân tích và nghiên
cứu vấn đề. Nhiệm vụ của khoa học là thông qua hiện tượng nhìn thấy được bản
chất, phát hiện bản chất trong hiện tượng, đồng thời xuất phát từ bản chất sự vật đưa
ra những giải thích khoa học về hiện tượng. Tính quan trọng của lý luận không phải
ở nghiên cứu mối quan hệ giữa vật với vật hay vật với người, mà ở mối quan hệ giữa
người với người sau những quan hệ trên. Xét từ góc độ này, kinh tế học Mác có thể
phản ánh bản chất lý luận của khoa học. Trong Tư bản, C.Mác chỉ rõ: “Đối tượng
nghiên cứu của tôi là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản
xuất và trao đổi thích ứng với phương thức ấy”, nhưng “mục đích cuối cùng của tác
phẩm này là tìm ra quy luật vận động kinh tế của xã hội hiện đại”(3). Cần nhận thấy
rằng, chính phương pháp phân tích sắc sảo đó khiến C.Mác có thể phát hiện ra bản
chất của những quy luật khách quan, như sự phát triển của lực lượng sản xuất chính
là sức mạnh quyết định sự phát triển xã hội. Jeffrey Hodgson cũng chỉ ra trong Chủ
nghĩa tư bản, giá trị và bóc lột – tác phẩm lý luận nền móng cho “chủ nghĩa Mác
mới”: “Nếu như tiến hành mổ xẻ một cách tỉ mỉ tư tưởng của C.Mác sẽ phát hiện nó
chứa đựng một hệ thống khái niệm mạnh mẽ và sâu sắc, hệ thống đó cung cấp một
phương pháp hữu hiệu nhất cho việc tiến hành phân tích kinh tế tại các nước phương
Tây phát triển hiện nay”. “Dẫu cho kinh tế học của C.Mác bị chỉ trích rất nhiều rằng
chưa thể kiểm nghiệm những dự báo về chính số phận mình, nhưng những thành
công mà nó đạt được trên lĩnh vực này lớn hơn nhiều so với chủ nghĩa tân cổ điển.
Chúng ta hãy cùng suy tư một số ví dụ. Trước hết, những dự báo của C.Mác rằng tư
bản sẽ ngày càng tích tụ trong tay một số ít doanh nghiệp lũng đoạn chính trị. Trên
thực tế, ngày nay chỉ vẻn vẹn mấy trăm doanh nghiệp đại tư bản đã chi phối toàn bộ
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới. Thứ hai, C.Mác dự báo sự phân tách dần giữa
quyền sở hữu và quyền khống chế trong các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa sẽ dẫn
tới sự xuất hiện một giai tầng xã hội mới hợp thành bởi các giám đốc điều hành công

ty, khác biệt với các chủ thể sở hữu cổ phiếu. Đó là một hiện thực mà bây giờ mọi
người đều thừa nhận. Thứ ba, C.Mác dự báo sự giải thể của kinh tế tiểu nông và các
hình thức sản xuất lạc hậu khác sẽ khiến cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
chiếm địa vị thống trị trong nông nghiệp, đồng thời khiến nhân khẩu từ nông thôn
chảy ra thành thị. Trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, quá trình này trên thực


tế đã hoàn thành. Thứ tư, C.Mác dự báo sẽ hình thành một hệ thống tư bản chủ nghĩa
trên phạm vi toàn cầu thống nhất và một giai cấp công nhân trên phạm vi toàn thế
giới. Tới nay, ngoài trận địa Trung Quốc, tư bản đã thẩm thấu ra toàn thế giới, hình
thành một hệ thống sản xuất thế giới thống nhất về mặt kinh tế, trong đó tuyệt đại đa
số người dựa vào việc bán sức lao động để sinh tồn. Thứ năm, C.Mác đã nhìn thấy sự
đối kháng trong chủ nghĩa tư bản vẫn đang tiếp tục và ngày càng kịch liệt, cùng với
sự hỗn loạn của nền kinh tế thế giới. ở một mức rất lớn, những nhân tố đó vẫn đang
đi cùng chúng ta”. (3)
2. Giá trị xây dựng
Đương nhiên, kinh tế học kinh điển của C.Mác chứa đựng ý thức phê phán mạnh mẽ.
Tiêu đề phụ của Tư bản là “Phê phán kinh tế chính trị”, mệnh đề trung tâm trong
toàn bộ lý luận kinh tế của C.Mác là vạch ra một cách khoa học sự bất hợp lý của chế
độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, tính chất không thể điều hoà giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản, đồng thời kết luận chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ diệt vong. Thực ra, kinh tế
chính trị học của C.Mác là hệ thống lý luận nghiên cứu phương thức sản xuất, nó
không chỉ khảo sát mang tính thực chứng về cơ chế vận hành xã hội của kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa, mà còn đưa ra rất nhiều dự báo khoa học cho tương lai của
chủ nghĩa xã hội. Bản thân điều đó đủ cho thấy giá trị xây dựng mạnh mẽ của lý luận
kinh tế chính trị học của C.Mác. Tư bản là bộ bách khoa toàn thư cho nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa thế kỷ XIX. Lý luận về hàng hoá - tiền tệ, lý luận về phân
công xã hội, lý luận về giá trị lao động, lý luận về giám đốc điều hành chuyên nghiệp
của ông đều có tác dụng xây dựng mạnh mẽ. Ông cũng khẳng định rất đầy đủ về lực
lượng sản xuất mà chủ nghĩa tư bản phát triển chưa đầy một trăm năm tạo ra là lớn

hơn gấp nhiều lần mọi thời đại gộp lại. Vì thế, người sáng tạo ra lý luận tăng trưởng
kinh tế hiện đại - E.Thomas – đã chỉ rõ: “Trong tất cả các học phái kinh tế, các nhà
chủ nghĩa Mác gần đây đã phát triển lý luận chân thực về tăng trưởng kinh tế”. Nhà
kinh tế học đại biểu cho chế độ mới – giáo sư North thừa nhận: “Trong mô hình của
C.Mác, sự biến đổi của kỹ thuật dẫn tới sự tiến bộ của công nghệ sản xuất,... Từ một
giai cấp mới lên đầy sức sống lật đổ thể chế hiện có, đồng thời tạo lập nên cái mà
giai cấp đó có thể đem tiềm lực của kỹ thuật mới chuyển hoá thành quan hệ sở hữu
tài sản mới”. Vì vậy, nhìn từ góc độ “trường kỳ biến thiên”, trong tất cả các lý luận


kinh tế học tân cổ điển thì phân tích của C.Mác là “có sức thuyết phục nhất”.
Hiện nay, các nước tư bản chủ nghĩa chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng
tài chính đang kêu gọi một cách phổ biến rằng cần phải phản tư và tìm kiếm những
chỉ dẫn của C.Mác trong lý luận về khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa, khiến cho
lượng phát hành bộ Tư bản gia tăng. “Từ cuộc khủng hoảng tài chính phố Wall của
nước Mỹ đã dẫn tới cuộc khủng khoảng kinh tế toàn thế giới, khiến cho châu Âu phát
sốt vì Tư bản. Tại Đức, giới thương gia chịu tổn hại nghiêm trọng bởi khủng hoảng
đang ra sức tìm kiếm căn nguyên tạo nên cuộc khủng hoảng tiền tệ này, khiến bộ Tư
bản bằng tiếng Đức bán rất chạy. Tờ Times của Anh nhận định, cuộc khủng hoảng
tài chính đã khiến người phương Tây đột nhiên coi trọng bộ Tư bản của C.Mác, điều
này trước hết cho thấy sự gia tăng số lượng phát hành của sách với lượng độc giả
rộng rãi. Nhà sách Các Mác tại Frankfurt của Đức kết hợp cùng một số nhà xuất bản
tại Berlin, Hamburg, trong mấy tháng đầu năm 2008 đã bán được 1000 bộ Tư bản,
gấp 100 lần so với lượng bán năm 1990. Trên vùng đất Đông Đức cũ, trong khoảng
10 tháng của năm 2008 đã bán được 1500 bản Tư bản, tăng gấp 3 lần so với năm
trước”(4).
Vai trò xây dựng kinh tế chính trị học của C.Mác không phải chỉ ở chỗ luận chứng
cho các loại nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là nhấn mạnh tới
quy luật vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở
kinh tế và thượng tầng kiến trúc, điều này thực ra chính là mệnh đề “chế độ quyết

định hành động” mà kinh tế học trong xã hội mới vốn có ảnh hưởng rất lớn trong
kinh tế học phương Tây nhấn mạnh. Đặc biệt, C.Mác đã phát hiện, dự báo xu thế
phát triển và những vấn đề có thể xuất hiện trong xã hội tương lai. C.Mác đã từng chỉ
rõ: “Mỗi một bước tiến của nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa không những là một
bước tiến trong nghệ thuật bóc lột công nhân, mà đồng thời còn là một bước tiến
trong nghệ thuật bóc lột đất đai; mỗi một bước tiến trong việc làm tăng độ màu mỡ
của đất đai trong một thời gian nhất định đồng thời cũng là một bước tiến trong việc
hủy hoại những nguồn lâu dài của sự màu mỡ đó. Một nước, như Hợp chủng quốc
Bắc Mỹ chẳng hạn, mà càng lấy đại công nghiệp làm cơ sở phát triển của mình, thì
quá trình phá hoại đó lại càng nhanh chóng. Do đó nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ
phát triển kỹ thuật và sự kết hợp của quá trình sản xuất xã hội bằng cách đồng thời


phá hoại các nguồn đẻ ra mọi của cải xã hội: đất đai và người lao động”(5). Điều này
thực ra chính là những luận giải đầu tiên cho sự ra đời của lý luận về phát triển bền
vững trong thời điểm hiện nay khi mà một loạt vấn đề phát triển kinh tế, như ô nhiễm
môi trường, phân hoá hai cực, v.v. xuất hiện. Về điểm này, các nhà kinh tế học
phương Tây cũng tán thành. Nhà kinh tế học nổi tiếng Joseph Alois Schumpeter cho
rằng, lý luận của chủ nghĩa Mác với tư cách một chỉnh thể thì tính hoàn bị của những
kiến giải của C.Mác trong từng chi tiết đều cho thấy sự chính xác, đồng thời trở
thành cội nguồn cho sự tiếp thu trí tuệ của những người kế tục ông và cả những
người coi ông là thù địch”(6).
3. Giá trị thực tiễn
Kinh tế học của chủ nghĩa Mác là một hệ thống khoa học hoàn chỉnh, nó được xây
dựng trên một hệ thống lôgíc chặt chẽ: hàng hoá – tiền tệ – quy luật giá trị – giá trị
thặng dư – lợi nhuận, v.v. và với phong cách trình bày từ trừu tượng tới cụ thể. Song,
cái trừu tượng đó không phải là sự khép kín mà luôn bắt nguồn từ thực tiễn. Bản thân
kinh tế chính trị học của chủ nghĩa Mác dựa trên nền tảng chủ yếu là kế thừa kinh tế
học cổ điển, đồng thời tổng kết, đúc rút và phát triển từ cơ sở thực tiễn đấu tranh
cách mạng của giai cấp vô sản đương thời.(6)Cho tới ngày làm việc cuối cùng của

mình, C.Mác lúc nào cũng thu thập đầy đủ các tư liệu trước khi đưa ra ý kiến trong
các trước tác. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản – tài liệu đánh dấu sự hình thành chủ
nghĩa Mác, là bản cương lĩnh chính trị do C.Mác, Ph.Ăngghen khởi thảo cho chính
đảng đầu tiên của giai cấp vô sản thế giới – Đồng minh của những người theo chủ
nghĩa cộng sản. Những lý luận sau này đều căn cứ vào đòi hỏi của cách mạng và
công cuộc xây dựng mà không ngừng được sửa đổi và phát triển, “mọi lúc mọi nơi
đều cần lấy điều kiện lịch sử thời điểm đó làm mốc chuyển đổi”. Năm 1872, C.Mác,
Ph.Ăngghen đã viết trong lời tựa Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Do đại cách
mạng công nghiệp 25 năm gần đây có sự phát triển to lớn mà tổ chức chính đảng của
giai cấp công nhân cũng phát triển lên, từ lúc ban đầu có kinh nghiệm thực tế của
Cách mạng tháng 2, đặc biệt là có kinh nghiệm thực tế của Công xã Pari mà giai cấp
vô sản lần đầu tiên nắm được chính quyền trong suốt hai tháng, vì thế mà trong bản
cương lĩnh này có một số chỗ đã lạc hậu”(7). “Kinh tế chính trị học, về bản chất, là
một môn khoa học về lịch sử, nó đề cập tới những tài liệu mang tính lịch sử thường


xuyên biến đổi”(8).
Kinh tế học của C.Mác không phải là giáo điều lý luận trừu tượng, mà là kim chỉ
nam cho hành động, là khoa học của sự kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Sự
hình thành và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác đều kết hợp chặt chẽ với thực tiễn
cách mạng và thực tiễn xây dựng của quần chúng trải qua sự mài giũa, khái quát,
thăng hoa của lý luận, hình thành và phát triển từ thực tiễn, thành quả của nó được
ứng dụng vào thực tiễn. Đó chính là sức sống mãnh liệt không bao giờ cạn kiệt của
chủ nghĩa Mác. Nó đòi hỏi người ta dựa vào nguyên tắc và phương pháp cơ bản của
nó, không ngừng kết hợp với thực tế đang biến đổi để tìm kiếm những đáp án giải
quyết cho vấn đề mới, đồng thời phát triển bản thân lý luận của chủ nghĩa Mác. Sau
C.Mác, lý luận về chủ nghĩa đế quốc của V.I.Lênin, lý luận chủ nghĩa cách mạng tân
dân chủ của Mao Trạch Đông, chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc của Đặng
Tiểu Bình và tư tưởng “ba đại diện” cùng quan điểm phát triển khoa học, v.v. đều là
sự phát triển kinh điển cho lý luận kinh tế của chủ nghĩa Mác. Chính bởi phẩm chất

khoa học của kinh tế học của chủ nghĩa Mác có thể tiến cùng thời đại mới khiến nó,
dù phải trải qua trắc trở và bị đả kích, thì vẫn phát triển về phía trước và luôn luôn
tươi mới. Đúng như Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào trong bài phát biểu tại Hội nghị báo
cáo “Học tập văn tuyển Giang Trạch Dân” đã chỉ ra: “Sức sống to lớn của chủ nghĩa
Mác là ở chỗ có thể đưa ra những chỉ đạo khoa học cho thực tiễn, khiến chúng ta trên
cơ sở nhận thức quy luật, nắm vững quy luật, vận dụng quy luật sẽ cải tạo một cách
tốt hơn thế giới khách quan và thế giới chủ quan”.
4. Giá trị chính trị
Kinh tế chính trị học của C.Mác là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách
mạng. Cần phải đánh giá một cách đúng đắn giá trị chính trị của kinh tế chính trị học
của C.Mác, bởi C.Mác công khai thừa nhận học thuật của mình không phải là thứ
khoa học siêu vượt khỏi giai cấp và không bênh vực bất cứ giai cấp nào, mà là cương
lĩnh hành động của giai cấp vô sản. Để bảo vệ quyền làm người của mình, giai cấp
vô sản phải phá bỏ “điều kiện sống của bản thân”, cũng tức là phá bỏ cái chế độ tư
hữu áp bức khiến người ta bị tha hoá(9), từ đó “tạo dựng nên một thể liên hợp mà ở
đó, tự do phát triển của mỗi người là điều kiện để tất cả mọi người tự do phát
triển”(10). Bởi vậy, với tư cách một nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta luôn nhấn mạnh


một cách rõ ràng lấy chủ nghĩa Mác làm chỉ đạo, nghiên cứu lý luận kinh tế học cũng
tất yếu phải lấy lý luận chủ nghĩa Mác làm chỉ đạo.
Đặc trưng bản chất của con người là tính xã hội. Từ khi con người bước vào đời sống
“loài” thì cần có một tư tưởng chung khiến họ thống nhất lại, làm cho con người có
chung chuẩn tắc hành vi. Đây chính là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự ra đời của
đạo đức học dù ở phương Đông hay phương Tây. Từ khi có sự xuất hiện của nhà
nước, mỗi một nhà nước đều xác lập, truyền bá một kiểu hình thái ý thức, bởi hình
thái ý thức mang nhiều chức năng quan trọng, như bảo vệ trật tự xã hội, hoàn thiện
nhân cách, thống nhất ý chí, tiết giảm chi phí giao dịch, hình thành sức mạnh hợp
tác, v.v.. North – đại biểu cho trường phái xã hội mới nhấn mạnh: Quyền tài sản, nhà
nước, hình thái ý thức là ba hòn đá tảng cho sự phát triển kinh tế. “Quan niệm hình

thái ý thức không ngừng biến đổi khiến cá nhân và tập thể sinh ra những quan điểm
trái ngược nhau về tính công bằng trong địa vị của chính mình, đồng thời khiến họ
dựa trên những quan điểm đó để hành động”(11). C.Mác cũng nhấn mạnh rằng, nếu
từ góc độ quan niệm để khảo sát thì sự giải thể của một hình thái ý thức nhất định
cũng đủ khiến cả một thời đại bị huỷ diệt(12). Hiện nay, mục đích thực sự của các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển như Mỹ là muốn lợi dụng toàn cầu hoá để thúc đẩy
sự lan tỏa hình thái ý thức của họ. Bản chất của kết luận cuối cùng về hình thái ý
thức mà các học giả phương Tây cổ suý là “trừ bỏ quan niệm giá trị xã hội chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa trong đầu óc người ta, xác lập địa vị "độc tôn" của hình thái ý
thức tư bản chủ nghĩa”(13).
Giá trị chính trị trong kinh tế học của chủ nghĩa Mác còn thể hiện tính nhân dân.
Trong xã hội có giai cấp, tuyệt đại đa số các khoa học đều có tính giai cấp. Mục đích
phát triển sức sản xuất vì lợi ích nhân dân có thể khiến cho nhân dân cùng được
hưởng những thành quả của sự phồn vinh kinh tế hay không là nguyên tắc hàng đầu
buộc chúng ta phải kiên trì để giữ vững kinh tế học của chủ nghĩa Mác.(11)Lập
trường cơ bản của kinh tế học của chủ nghĩa Mác là lập trường nhân dân. “Thực hiện
hạnh phúc hiện thực của nhân dân” và “tự do phát triển của con người” là định
hướng giá trị chung của nó. Có thể có người sẽ nói, Đặng Tiểu Bình coi lực lượng
sản xuất là tiêu chuẩn căn bản để đánh giá sự phát triển của sự vật. Thực ra, tiêu
chuẩn lực lượng sản xuất của Đặng Tiểu Bình là chỉ “lực lượng sản xuất xã hội chủ


nghĩa”. Nhiều lần ông nhấn mạnh rằng, cùng giàu có là nguyên tắc cơ bản của xã hội
chủ nghĩa, nếu như sự phát triển của chúng ta dẫn tới sự phân hoá hai cực thì như vậy
là đi vào con đường sai lầm. Tư tưởng cơ bản trong quan điểm phát triển khoa học,
một lần nữa, nhấn mạnh lấy lợi ích căn bản của nhân dân làm điểm xuất phát và mục
đích cuối cùng của sự phát triển kinh tế. Bất cứ sự phát triển nào xa rời và đi ngược
lại nhu cầu của nhân dân và sự phát triển toàn diện của con người đều không có ý
nghĩa.
Người dịch: ThS. Trần Thuý Ngọc

Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
********************
(*) Nguồn: In trong Kỷ yếu Hội thảo Kinh tế chính trị thế giới lần thứ 5, bản tiếng
Trung.
(**) Giáo sư, Viện trưởng, Học viện Chủ nghĩa Mác, Đại học Cát Lâm, Trung Quốc.
([1]) Thuyết vùng đen mặt trời là thuyết về vòng tuần hoàn thương mại được nhà
kinh tế học người Anh William Jevons (1835 - 1882) phát triển, cho rằng thương mại
có liên quan đến hiện tượng thường xuất hiện trên vùng cháy không đều của mặt trời,
hay vùng đen trên mặt trời vốn ảnh hưởng tới khí hậu và sản xuất nông nghiệp trên
Trái đất. Khủng hoảng được xem như vòng tuần hoàn tự nhiên của hoạt động tại các
vùng đen của mặt trời và của sản xuất nông nghiệp cho thấy tính chất giản đơn và
duy tâm của học thuyết này (ND.).
(2) Dẫn theo: Chu Chung Bỉnh. Nghiên cứu lý luận kinh tế chủ nghĩa Mác ngoài
nước hiện nay, Nxb Nhân dân, bản tháng 8 / 2004, tr.5.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.23. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993,
tr.19, 21.
(4) Báo sớm phương Đông, ngày 17 - 10 - 2007.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.23. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993,
tr.714 – 716.
(6) Dẫn theo: Maurice Herbert Dobb. Bộ Tư bản của C.Mác và địa vị của nó trong
lịch sử tư tưởng kinh tế, Tuyển tập các bài viết về kinh tế học nước ngoài hiện đại,
tập 3, Thương vụ thư quán, bản in năm 1982.
(7) Tuyển tập C.Mác và Ph.Ăngghen, quyển 1. Nxb Nhân dân, 1973, tr.228 - 229


(tiếng Trung).
(8) Tuyển tập C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd., quyển 3, tr.186 (tiếng Trung).
(9) Không còn là chính mình, không còn là người theo đúng nghĩa (ND.).
(10) Tuyển tập C.Mác và Ph.Ăngghen, quyển 1. Nxb Nhân dân, tr.246 (tiếng Trung).
(11) North. Kết cấu và đổi thay của lịch sử kinh tế, Tam Liên thư điếm Thượng Hải,

bản in năm 1991, tr.64 (tiếng Trung).
(12) Trần Chấn Minh. Chính trị học. Nxb Khoa học Xã hội Trung Quốc, bản in năm
1999, tr. 544 - 545 (tiếng Trung).
(13) Hồ Đức Hải. Nguyên lý giáo dục học. Nxb Giáo dục Cam Túc, 1998, tr.271
(tiếng Trung).

TƯ TƯỞNG KHOAN DUNG CỦA KHỔNG TỬ VÀ SỰ THỂ HIỆN CỦA NÓ Ở
NGUYỄN TRÃI
TRẦN NGUYÊN VIỆT (*)

Trong bài viết này, tác giả đã làm rõ thêm khái niệm khoan dung; trên cơ sở đó,
phân tích và so sánh tư tưởng khoan dung của Khổng Tử và tư tưởng khoan dung
của Nguyễn Trãi trên một số nội dung cơ bản. Theo tác giả, mặc dù chịu ảnh hưởng
sâu sắc của Nho giáo, song tư tưởng khoan dung của Nguyễn Trãi có ý nghĩa nhân
văn hơn, rộng mở hơn, thể hiện ở đạo lý nhân nghĩa, ở tư tưởng vì dân và theo dân,
ở sự chấp nhận các học thuyết ngoài Nho giáo

Dẫn nhập
Thuật ngữ khoan dung có nguồn gốc từ tiếng latinh tolerantia với nghĩa là sự chấp
nhận, sự dung nạp và tha thứ. ở nhiều nước phương Tây thuật ngữ này được sử dụng
với nghĩa chung là sự chịu đựng, tha thứ. Còn ở phương Đông, thuật ngữ khoan dung
được đề cập từ rất sớm, có thể lần đầu tiên nó được xuất hiện trong Kinh Thư, theo
đó “khoan” là khoan thứ, khoan hồng, rộng lượng; “dung” là bao dung. Thuật ngữ
khoan dung được sử dụng phổ biến hiện nay ở Việt Nam với nghĩa bao dung, khoan
hồng, lượng thứ, vị tha.


Khi nghiên cứu tư tưởng khoan dung của Khổng Tử cũng như của Nguyễn Trãi và
Hồ Chí Minh, chúng tôi dựa vào Công bố tiêu chuẩn khoan dung trong Văn kiện cơ
bản của UNESCO với một số nội dung đáng chú ý như sau:

“Thứ nhất, khoan dung là sự tôn trọng, chấp nhận và đánh giá cao sự phong phú, đa
dạng của các nền văn hóa trên thế giới của chúng ta, của những phương thức biểu
hiện và những cách thể hiện phẩm chất của con người… Khoan dung là hòa hợp
trong sự khác biệt… Nó không chỉ là một nghĩa vụ đạo đức, mà còn là yêu cầu chính
trị và pháp luật. Khoan dung là một đức tính khiến cho hòa bình có thể thực hiện
được trên trái đất và góp phần thay thế văn hóa chiến tranh bằng văn hóa hòa bình.
Thứ hai, khoan dung không phải là nhượng bộ, hạ cố hay chiều lòng. Khoan dung
trước hết là một thái độ ứng xử tích cực xuất phát từ việc thừa nhận các quyền phổ
quát của con người và thừa nhận sự tự do của người khác”([1]).
Từ những tiêu chuẩn cơ bản nói trên cho thấy, khái niệm khoan dung trong triết học
phương Đông so với tiêu chuẩn của UNESCO có nhiều điểm trùng hợp, đồng thời
trong nền triết học này cũng có những mặt tích cực và hạn chế của nó. Trong tư
tưởng của Khổng Tử (551 - 479 TCN.), người sáng lập trường phái Nho gia, khái
niệm khoan dung được đề cập trong nhiều tình huống ứng xử, đã trở thành triết lý
nhân sinh có ảnh hưởng lớn lao trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc và Việt Nam. Bài
viết của chúng tôi tập trung vào việc tìm hiểu nội dung tư tưởng khoan dung của
Khổng Tử và ảnh hưởng của nó tới tư tưởng của Nguyễn Trãi (1380 - 1442), nhà
Nho, bậc khai quốc công thần Việt Nam thế kỷ XV.
Tư tưởng khoan dung của Khổng Tử
Nói đến tư tưởng khoan dung của Khổng Tử, chúng ta lưu ý trước hết đến khẳng
định của ông về tính nhất quán của học thuyết do ông sáng lập, đó là trung thứ. Điều
này được dẫn ra từ cuộc trò chuyện giữa Khổng Tử và người học trò yêu của ông là
Tăng Sâm, rằng đạo của ông nhất quán từ đầu tới cuối. Tăng Tử hiểu được điều đó từ
ý của thầy và khẳng định với đám học trò đi cùng, rằng: “Đạo của thầy [Khổng Tử]
chỉ tóm tắt ở một điều “trung thứ mà thôi” (Luận Ngữ, Lý Nhân, 15)(2). Vậy, trung
thứ bao hàm những ý nghĩa nào?
Thứ nhất, trung thứ là suy ta ra người, được xem như một biểu hiện gần gũi nhất của
nhân.



Khổng Tử nói: “Ôi, người nhân là người muốn gây dựng điều gì cho mình cũng gây
dựng cho mọi người điều đó, muốn mình thông đạt ra sao cũng khiến người được
thông đạt như vậy. Khéo lấy bản thân làm mục tiêu so sánh [để hiểu lòng người] khá
gọi là phương pháp tốt để thực hiện điều nhân vậy” (Luận Ngữ, Ung Dã, 29). Không
dừng lại ở việc lấy bản thân làm mục tiêu so sánh, Khổng Tử kêu gọi người quân tử
phải có ý thức khuyến thiện và ngăn ngừa điều ác. Ông nói: “Quân tử giúp cho điều
tốt đẹp của người khác được thành tựu, không giúp cho điều xấu của người khác
được thành tựu. Kẻ tiểu nhân làm trái lại” (Luận Ngữ, Nhan Uyên, 15). Khổng Tử
còn đưa ra một câu cách ngôn về trung thứ cho mọi người thực hành trong suốt cuộc
đời: “Đó là chữ lượng thứ chăng? Điều gì mình không muốn [người khác làm cho
mình] chớ đem áp dụng với người” – (Luận Ngữ, Vệ Linh công, 23).
Từ quan điểm “suy ta ra người”, Khổng Tử khẳng định người ai cũng ham muốn
điều thiện luôn đến với mình. Vì vậy, ông cho rằng, “hãy thật lòng để chí vào điều
nhân, sẽ không phạm phải điều ác” (Luận Ngữ, Lý Nhân, 4), nghĩa là không gây ra
cho người khác những điều chẳng ai mong muốn.
Thứ hai, khoan thư sức dân để thực hiện mục đích chính trị huệ dân.([1])
Khổng Tử yêu cầu người cầm quyền phải biết tiết kiệm trong chi tiêu mà thương yêu
người, dùng sức dân đúng lúc, sao cho không ảnh hưởng đến thời vụ sản xuất (“sử
dân dĩ thời” - Luận Ngữ, Học Nhi, 5); đề bạt những người tốt, giáo dục những kẻ sai
lầm; thực hiện thứ, phú, giáo, làm cho người gần vui lòng, người xa tìm đến.
Khi Tử Trương hỏi Khổng Tử về việc áp dụng đạo nhân vào chính trị, Khổng Tử nói
rằng, “có thể làm được năm điều [đối với mọi người] trong thiên hạ, là thi hành nhân
chính([1]) vậy <…>. Đó là cung kính, khoan dung, thành tín, cần mẫn và có ân huệ.
Cung kính thì không khinh nhờn; khoan dung thì được lòng mọi người; thành tín thì
được người tín nhiệm; cần mẫn thì nên công; có ân huệ thì dễ sai khiến người” (Luận
Ngữ, Dương Hóa, 6). Như vậy, khoan dung vừa là phương pháp, vừa là phương tiện
để thực hiện mục đích huệ dân, không ngừng làm lợi cho dân, gia ơn cho dân thì dân
sẽ tin theo và dễ sai khiến dân.
Thứ ba, không chấp nhặt quá khứ bất hảo của người khác.
Khổng Tử đã lấy tấm gương của “Bá Di, Thúc Tề không nhớ tới những điều xấu cũ

[của người khác] nên ít ai oán ghét” (Luận Ngữ, Công Dã Tràng, 22). Hơn nữa, khi


“việc đã thành rồi, chớ nói đi nói lại. Việc nhất định xẩy ra, chớ can gián. Việc đã
qua, chớ nên trách” (Luận Ngữ, Bát Dật, 21).
Cũng tương tự, khi có cậu bé người làng Hỗ là một làng có nhiều người ngang ngược
đến xin nhập lớp của Khổng Tử, các học trò của ông tỏ ra không đồng tình tiếp nhận
vì theo họ, những người làng Hỗ có tính hùng sẽ, không biết lẽ phải. Khổng Tử nói:
“Hoan nghênh người tới, không hoan nghênh người lui. Sao khắt khe thế? Người ta
thành tâm tới đây, ta hoan nghênh chỗ thành tâm đó, chẳng dám đảm bảo chuyện quá
khứ của người ta” (Luận Ngữ, Thuật Nhi, 28). Điều này cũng giống như ngạn ngữ
của Việt Nam cho rằng, “đánh kẻ chạy đi chứ không bao giờ [có chuyện] đánh kẻ
chạy lại”. Đó là sự khoan dung, độ lượng của Khổng Tử đối với những người muốn
“cải tà quy chính”. Theo Khổng Tử, “người hăng hái mà chán ghét cảnh nghèo khó
ắt gây loạn vậy. Biết người đó là bất nhân, mà ghét bỏ quá đáng là xúi người ta gây
loạn vậy” (Luận Ngữ, Thái Bá, 11). Điều đó có nghĩa là người bất nhân thì ai cũng
ghét, nhưng nếu không biết cảm hóa họ, lại đẩy người ta vào chỗ chân tường thì họ
sẽ làm bậy chẳng khác gì ý nghĩa của câu ngạn ngữ: “Chó cùng cắn dậu”.
Có lần Phàn Trì cùng thầy Khổng Tử dạo chơi dưới đền Vũ Vu, Phàn Trì hỏi thầy về
việc tu dưỡng đức tính, tu sửa lỗi lầm và phân biệt rõ điều lầm lẫn. Khổng Tử nói:
“Câu hỏi hay lắm! Phải gắng làm điều thiện mới mong được điều thiện, đó chẳng là
tu dưỡng tính tình hay sao? Đả kích điều xấu của mình, không đả kích điều xấu của
người, đó chẳng phải là tu sửa lỗi lầm hay sao? Giận dữ trong một lúc, đến nỗi quên
cả thân mình, lại làm lụy tới song thân, đó chẳng là điều lầm lẫn hay sao?” (Luận
Ngữ, Nhan Uyên, 20). Quan điểm tự phê bình, “tiên trách kỷ, hậu trách nhân” là thái
độ đúng đắn của người có ý thức tu thân.
Từ những cử chỉ và thái độ khoan dung của Khổng Tử, học trò của ông đã ca ngợi
ông là người rộng lượng, thể hiện ở bốn điều: “Không có ý riêng, không chắc trước,
không cố chấp, không ích kỷ” (Luận Ngữ, Tử Hãn, 4). Không cố chấp và không ích
kỷ là minh triết sống hòa hợp trong quan hệ giữa con người với con người để thực

hiện việc xây dựng một xã hội lý tưởng, ở đó “những người già cả đều được an vui,
bạn bè tin cậy ta, và trẻ thơ đều được thương yêu, dạy dỗ” (Luận Ngữ, Công Dã
Tràng, 25).
Tuy nhiên, tư tưởng khoan dung của Khổng Tử không phải là sự nhượng bộ, hoặc


đơn phương thực hiện những nội dung căn bản của nó như trên chúng tôi đã nêu, mà
ở đó còn bao hàm cả sự hòa hợp trong sự khác biệt. Sở dĩ như vậy là vì trong xã hội
bao giờ cũng tồn tại hai hạng người đối lập nhau về đạo đức, một bên là người quân
tử với những phẩm chất tốt đẹp - nhân, trí và dũng; một bên là kẻ thấp hèn chỉ biết
vụ lợi hại người, không điều gì là không dám làm. Chính vì vậy, ngoài mục đích giáo
huấn để “cải tà quy chính”, dù điều đó là khó, Khổng Tử luôn kêu gọi phải kiên định
nguyên tắc trung dung. Trung dung là chí đức, kiên trì nghĩa, giải quyết mọi vấn đề
thuộc quan hệ người cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Có trường hợp cần có sự kết
hợp khoan dung với nghiêm khắc, được gọi là “khoan mãnh tương tế”.
Có người hỏi: “Lấy đức báo oán, chủ trương đó như thế nào?”, Khổng Tử nói: “Vậy
lấy gì để báo đức đây? Phải lấy lòng ngay thẳng mà đối xử với kẻ gây oán thù, và lấy
lòng tốt đáp lại lòng tốt của người” (Luận Ngữ, Hiến vấn, 36). Lấy đức báo oán
thường gặp ở chủ trương của Phật giáo, song trong thực tế cuộc sống, điều đó nhiều
khi chỉ mang tính lý tưởng. Vấn đề là ở chỗ, làm thế nào để con người sống với nhau
không có thù oán, nghĩa là trong hoạt động sống của mình, con người phải biết tránh
những điều bất cập khi nó còn manh nha để ngăn chặn kịp thời sự bùng phát của nó
thành thảm họa. Khi được hỏi về việc xử kiện, Khổng Tử nói: “Xử kiện thì ta cũng
như người khác. Sao cho không kiện cáo kìa” (Đại học, 5). Qua đó cho thấy, Khổng
Tử không lý tưởng hóa hoạt động sống của con người tới mức “lấy đức báo oán”, mà
ông chỉ ra phương pháp tìm kiếm sự hòa giải dựa trên lòng chân thành, thẳng thắn
của các mối quan hệ xã hội.
Vốn là người có tư tưởng khoan dung sâu sắc, Khổng Tử cũng không hoàn toàn đề
cao vai trò của tư tưởng đó trong quản lý và điều hành xã hội. Ông từng nói: “Chính
trị khoan dung thì dân nhờn, nhờn thì phải sửa lại bằng nghiêm khắc. Nghiêm khắc

thì dân bị tàn hại, tàn hại thì lại thi hành khoan dung. Khoan dung giúp cho nghiêm
khắc, nghiêm khắc giúp cho khoan dung, chính trị đạt đến chỗ hài hòa”([1]). Đó
không phải là quan điểm cải lương của Khổng Tử trong quản lý xã hội, mà là chủ
trương khoan mãnh tương tế nhằm khắc phục tính bất cập, thái quá của khoan hoặc
mãnh.
Việc tìm hiểu tư tưởng khoan dung của Khổng Tử qua một số nội dung nêu trên, theo
chúng tôi, là chưa hoàn toàn đầy đủ, bởi khoan dung là phương diện đạo đức của các


mối quan hệ người, nó còn phải được xem xét trong mối liên hệ với lễ, nghĩa, v.v..
Qua các nội dung ấy, chúng ta thấy do xuất thân từ tầng lớp quí tộc, nên tư tưởng
khoan dung của Khổng Tử vẫn toát lên tinh thần chủ yếu là người cầm quyền làm thế
nào để được lòng dân, để dễ bề sai khiến dân. Song, dù sao đi nữa, tư tưởng trung thứ
của ông vẫn luôn mang tính triết lý sâu sắc, đó là triết lý của chủ nghĩa nhân văn
chưa đạt đến mức đầy đủ vào thời của ông. Tư tưởng khoan dung của Khổng Tử đã
có ảnh hưởng rất lớn đối với các nhà Nho Việt Nam trong lịch sử, như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, v.v.. Hồ Chí Minh cũng là người chịu ảnh hưởng
sâu sắc của nền giáo dục Nho học. Tuy nhiên, tư tưởng khoan dung của Người không
chỉ chịu ảnh hưởng từ Khổng Tử, mà còn chịu ảnh hưởng từ chính truyền thống
khoan dung của dân tộc.
3. Khoan dung trong tư tưởng Nguyễn Trãi
Khi đề cập đến tư tưởng Nguyễn Trãi, nhà nghiên cứu Nho giáo nổi tiếng của Việt
Nam cuối thế kỷ XX, GS. Trần Đình Hượu cho rằng, “hệ tư tưởng chi phối Nguyễn
Trãi trong suốt cuộc đời là Nho giáo, nhưng ở từng thời kỳ, trong từng phạm vi, bên
cạnh Nho giáo luôn có những nét khác, có khi là trái Nho giáo <…>. Nguyễn Trãi
nhấn mạnh đức nhưng không phải không chú ý đến tài trí, đề cao đạo lý nhân nghĩa
nhưng không cự tuyệt quyền mưu; nói đến nợ quân thân, tấc lòng trung hiếu nhưng
lại nhấn mạnh “ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”, trách nhiệm theo lòng dân, vì thương
sinh”(5). Nhận định về tư tưởng Nguyễn Trãi như vậy là hoàn toàn đúng; đồng thời,
theo chúng tôi, có thể lấy đó làm định hướng cho việc nghiên cứu tư tưởng khoan

dung của ông.
Nếu như nội dung căn bản của khoan dung trong tư tưởng Khổng Tử là trung thứ, thì
ở Nguyễn Trãi, đạo lý nhân nghĩa đóng vai trò chủ đạo trong việc trừ bạo an dân.
Chính vì vậy mà ông không chống lại tư tưởng quyền mưu. Quyền mưu của người
đứng đầu quốc gia phong kiến có mục đích chống lại kẻ phản loạn, gây rối và làm
ảnh hưởng xấu đến đời sống của nhân dân. Ông nói: “Quyền mưu bản thị dụng trừ
gian, Nhân nghĩa duy trì quốc thế an”(6). Quốc thế an là thước đo trị bình của một
nước. ở đây, trong văn cảnh đất nước bị đô hộ, nhà Minh lấy cớ chinh phạt để cướp
nước ta, tư tưởng nhân nghĩa đối với Nguyễn Trãi đã trở thành công lý cho cuộc
kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Tư tưởng khoan dung, như chúng ta đã


biết, biểu hiện như là sự không nhượng bộ chủ quyền quốc gia, quyền tự do chân
chính của con người Việt Nam đang bị bóc lột, đọa đày: “Thui dân đen trên lò bạo
ngược, Hãm con đỏ xuống dưới hố tai ương. Dối trời lừa người, kế gian đủ muôn
nghìn khóe, Cậy binh gây hấn, ác chứa gần hai chục năm”(7). Tư tưởng khoan dung
của Nguyễn Trãi không dừng lại ở nội dung “trung thứ” của “nhân”, mà ông còn đòi
hỏi phải huy động “nhân” hết mực để cứu dân, cứu nước: “Đem đại nghĩa để thắng
hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo” (Chúng tôi nhấn mạnh – TNV.).
Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi cảnh áp bức, hủy diệt trong lịch sử
dân tộc ta rõ ràng là những cuộc kháng chiến chính nghĩa; nó vừa là mục đích, vừa là
phương pháp để đạt tới giá trị nhân văn phổ biến toàn nhân loại. Từ một lực lượng
vừa yếu, vừa thiếu thuở ban đầu khởi binh, chủ trương “tâm công” của Bộ chỉ huy
Lam Sơn có mục đích xoáy sâu vào những nội dung chính nghĩa sáng ngời, làm cho
kẻ thù nao núng tinh thần, bị phân hóa cao độ. Cho đến khi có binh hùng lực mạnh,
chủ trương ấy vẫn được tiếp tục duy trì nhất quán. Nghệ thuật “tâm công” được vận
dụng một cách linh hoạt cho từng hoàn cảnh cụ thể, cho từng đối tượng [tướng lĩnh]
của kẻ thù. Nó thể hiện mục đích nhân văn cao cả, trong đó tư tưởng khoan dung là
cốt lõi nhằm làm cho "bốn phương biển cả thanh bình", hơn thế nữa, còn góp phần
làm cho “Hồ Việt nhất gia kim hạnh đổ, Tứ minh tòng thử tức kình ba” (Hồ Việt

mừng nay về một cõi, Sóng kình bốn biển bặt im lỳ!)(8). Như vậy, kỳ vọng về một
nền hòa bình giữa hai dân tộc là hoàn toàn chính đáng, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân hai nước. Bản thân ông luôn muốn có một nền hòa bình vĩnh cửu, dân cùng
vua được nghỉ ngơi và nền văn trị được áp dụng vào đường lối trị nước: “Lòng trên
muốn với dân cùng nghỉ, Văn trị rồi nên nếp thái bình” (Thánh tâm dục dữ dân hưu
tức, Văn trị chung tu trí thái bình)(9).
Cũng nhờ có tâm thế chí nhân mà Nguyễn Trãi đã khuyên Lê Lợi - không nên giết
hàng binh, lại còn cấp lương thảo và phương tiện cho chúng về nước. Đó là tinh thần
khoan dung, tha thứ, đồng thời tạo ra sức mạnh thần kỳ để cảm hóa kẻ thù, cảm hóa
cả những người lầm đường lạc lối trót làm tay sai cho giặc để cải tà quy chính.
Nếu như Khổng Tử chủ trương huệ dân thì Nguyễn Trãi chú trọng đến tư tưởng vì
dân và theo dân. Quan điểm của Nguyễn Trãi có thể xem là gần gũi với quan điểm
của Lý Công Uẩn, vị vua đầu tiên của triều Hậu Lý. Song, nếu xét về mặt hệ tư


tưởng thời đại theo điều kiện lịch sử cụ thể thì quan điểm của Nguyễn Trãi có tinh
thần quả cảm hơn. Bởi lẽ từ thế kỷ XV, các triều đại đều lấy Nho giáo làm bệ đỡ hệ
tư tưởng, ở đó mọi quyền hành đều tập trung vào tay vua, đất đai và dân chúng tất cả
đều là của vua và do vậy, quan điểm vì dân và theo ý dân của Nguyễn Trãi rõ ràng là
không thích hợp. ở Nguyễn Trãi, tư tưởng thân dân, thương sinh còn được nâng cao,
bổ sung, vì thế mà sự “chật hẹp” của Nho giáo được giải tỏa bởi ông nhắc mình và
răn đời, rằng “ăn lộc phải biết đền ơn kẻ cấy cày”.(8)
Sự bổ sung cho tâm thế sống của nhà Nho chân chính ở Nguyễn Trãi còn được thể
hiện ở quan điểm của ông về mối quan hệ tam giáo. Quả thực, con đường tiến thân
của nhà nho theo thang bậc tu, tề, trị, bình cũng có lúc trở nên bất cập trước hoàn
cảnh lịch sử cụ thể. Nguyễn Trãi là bậc khai quốc công thần, song cũng vì công lao
to lớn mà ông và những người “đồng chí” của ông gặp phải những rắc rối, thậm chí
đe dọa đến tính mạng của họ và những người thân. Nguyễn Trãi có những lúc chán
nản, muốn trở thành dật sĩ tàng ẩn, thành đạo sĩ sống an nhàn như ông tiên trên cõi
trần, thậm chí thành cư sĩ tu hành theo thiền thượng thừa: “Già rồi hay nói cuồng,

đừng lạ ta; từ biệt nhau rồi thì ta cũng sẽ tu đạo thiền thượng thừa” (Lão khứ cuồng
ngôn hưu quái ngã, lâm kỳ ngã diệc thượng thừa thiền)(10). Trong bối cảnh Nho giáo
được độc tôn dưới thời Lê Sơ (thế kỷ XV), việc tiếp nhận tư tưởng Phật giáo một
phần do hoàn cảnh cuộc sống đầy trắc trở của Nguyễn Trãi, phần khác là sự thể hiện
tinh thần chấp nhận một triết thuyết tôn giáo vốn có chủ trương xa rời thế sự như
Phật giáo. Đó là tinh thần quả cảm của ông dám chấp nhận cái khác biệt với học
thuyết Nho giáo đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ tới bản thân ông, mà tới
cả thời đại ông lúc bấy giờ.
Tóm lại, tư tưởng khoan dung của Nguyễn Trãi thấm đậm đạo đức nhân nghĩa của
Nho giáo, nhờ đó ở ông chủ nghĩa nhân văn được biểu hiện một cách rõ nét, đó là
tình thương yêu con người, lòng trắc ẩn của ông đã vượt ra khỏi phạm vi yêu thương
con người thân tộc, ruột thịt của Khổng Tử để cứu dân binh hai nước thoát khỏi cuộc
chiến tranh đẫm máu, thực hiện mục đích “Hồ Việt nhất gia”. Mặt khác, tinh thần cởi
mở, chấp nhận các học thuyết ngoài Nho giáo cũng là mặt tiến bộ trong tư tưởng
khoan dung của Nguyễn Trãi.
Tư tưởng khoan dung của Nho giáo cũng như của Nguyễn Trãi đã ảnh hưởng rất lớn


tới tinh thần khoan dung của nhiều nhà Nho Việt Nam trong lịch sử. Tư tưởng Hồ
Chí Minh là sự kết tinh của văn hóa dân tộc với văn hóa nhân loại về tinh thần khoan
dung. Người đã tiếp thu tư tưởng khoan dung truyền thống và bổ sung cho nó những
yếu tố cách mạng mới để hình thành nên tư tưởng nhân văn sâu sắc. Do khuôn khổ
của bài viết, chúng tôi sẽ đề cập tới tư tưởng khoan dung của Hồ Chí Minh thành một
chuyên đề riêng và cụ thể hơn(10).
Trong xu thế hội nhập và phát triển đất nước ta hiện nay, nhiều giá trị phổ biến toàn
nhân loại về đạo đức, pháp luật, dân chủ và nhân quyền, v.v., đã được chúng ta tiếp
nhận, đồng thời những giá trị của dân tộc cũng đang ngày càng góp phần làm phong
phú thêm cho văn hóa nhân loại. Vấn đề căn bản nhất là cần nhận thức đầy đủ hơn về
tư tưởng khoan dung để con người sống hòa hợp với nhau, không tàn sát lẫn nhau và
mục đích cuối cùng là chung sống hòa bình và phát triển bền vững trong ngôi nhà

chung của thế giới. Khoan dung còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong hoàn cảnh
đất nước đang cần đến sự hòa giải để con người Việt Nam cùng dòng máu Lạc Hồng
yêu thương nhau hơn và cùng nhau góp sức xây dựng một nước Việt Nam ngày càng
giàu mạnh, dân chủ và văn minh. Chính vì vậy, nghiên cứu tư tưởng nhân văn
phương Đông và Việt Nam, trong đó chủ đề khoan dung đang thu hút sự quan tâm
của các học giả nước ta và chúng tôi tin tưởng rằng, kết quả nghiên cứu thuộc lĩnh
vực này sẽ làm sáng tỏ hơn tư tưởng nhân văn Việt Nam trong truyền thống và hiện
đại.

**********************
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trưởng phòng Triết học Việt Nam, Viện Triết học, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Trích từ nguồn: />(2) Từ đây, các tư liệu liên quan đến tư tưởng Khổng Tử được trích từ Tứ thư tập chú
do Chu Hy biên soạn. Bản dịch ra tiếng Việt của Nguyễn Đức Lân. Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, 1998.
(3) Nhân chính là thuật ngữ được dùng để chỉ đường lối chính trị nhân nghĩa của
Mạnh Tử (372 - 289). Trong trường hợp của Khổng Tử, nhân chính có thể hiểu là sự
áp dụng đạo nhân vào chính trị.


(4) Lao Tử, Thịnh Lê (Chủ biên). Từ điển Nho Phật Đạo. Nxb Văn học, Hà Nội,
1999, tr.622.
(5) Trần Đình Hượu. Nguyễn Trãi và Nho giáo // Nguyễn Trãi. Về tác gia và tác
phẩm. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr.121.
(6) Nguyễn Trãi. Toàn tập. Hạ qui Lam Sơn 1, bài 20, tr. 290.
(7) Nguyễn Trãi. Sđd., Bình Ngô đại cáo, tr.77.
(8) Nguyễn Trãi. Sđd., Quá Thần Phù hải khẩu, tr.314.
(9) Nguyễn Trãi. Sđd., Quan duyệt thủy trận, tr.288.
(10) Nguyễn Trãi. Sđd., Tống tăng Đạo Khiêm qui sơn, tr.353.


TƯ DUY TRIẾT HỌC TRẦN ĐỨC THẢO VÀ TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ
CHÍ MINH
CÙ HUY CHỬ (*)

Điểm lại những mốc chính trong cuộc đời và những công trình chủ yếu trong sự
nghiệp nghiên cứu và sáng tạo lý luận của Giáo sư Trần Đức Thảo, trong bài viết
này, tác giả đã đưa ra những đánh giá của mình về quan điểm của Giáo sư Trần
Đức Thảo trong việc lý giải và phát triển tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh và xa
hơn là tư tưởng nhân văn của C.Mác. Tác giả đã khẳng định sự trung thành của
Giáo sư Trần Đức Thảo đối với quan điểm của C.Mác, đặc biệt là tư tưởng về con
người, tư tưởng nhân văn rộng lớn trong đó được thể hiện đậm nét ở Hồ Chí Minh,
khẳng định sự nhất quán của Giáo sư trong việc tiếp thu và phát triển chủ nghĩa
Mác trên một số vấn đề.

Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng lớn
đối với Giáo sư Trần Đức Thảo. Tư tưởng, cuộc đời cao đẹp của Hồ Chí Minh được
Trần Đức Thảo chiêm nghiệm, vận dụng trong hoạt động sáng tạo khoa học cho đến
cuối đời, đặc biệt là tư tưởng nhân văn.


Trần Đức Thảo, như chúng ta đã biết, là một nhà trí thức yêu nước, một nhà khoa
học lớn. Trong tự thuật của mình, ông đã viết như sau: “Trong hành trình của tôi,
tôi đã đến với chủ nghĩa Mác qua hai con đường: Thứ nhất, đó là cuộc đấu tranh đòi
tự do cho dân tộc của chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, nghiên cứu triết học và lịch sử triết
học đã cho tôi thấy rằng chỉ có duy nhất chủ nghĩa Mác – Lênin mới vạch ra con
đường đúng đắn để giải quyết những vấn đề cơ bản về phần lý luận khoa học.
Trong những năm sau chiến tranh, lần đầu tiên khi được làm quen với những chính
văn (tác phẩm nguyên bản) của chủ nghĩa Mác, tôi rất ngạc nhiên bởi những lời
nhận xét trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản về khả năng chuyển qua
giai cấp vô sản của một bộ phận trí thức tư sản, trong thời kỳ khủng hoảng toàn bộ

của chủ nghĩa tư bản qua việc nghiên cứu lịch sử thế giới. Điều này đã định hướng
các nghiên cứu triết học của tôi từ những vấn đề đơn thuần là trừu tượng đến việc
suy xét một cách toàn diện về tính chân thực của vận động của lịch sử, của tự nhiên,
lý, hóa đối với cuộc sống, xã hội và ý thức.(*)
Vào thời kỳ mà cuộc đấu tranh giai cấp đã đi đến lúc quyết định thì quá trình tan rã
bên trong tầng lớp thống trị, bên trong toàn bộ xã hội cũ mang một tính chất mạnh
mẽ và triệt để đến mức một bộ phận của tầng lớp thống trị sẽ tự rời bỏ giai cấp mình
và liên kết với tầng lớp, với giai cấp cách mạng, tầng lớp nắm giữ tương lai trong
tay họ.
Cũng tương tự như trước đây, một bộ phận quý tộc chuyển qua giai cấp tư sản, ngày
nay cũng tương tự như vậy, một bộ phận tư sản sẽ chuyển qua giai cấp vô sản. Đặc
biệt hơn, một bộ phận những nhà tư tưởng tư sản với sức mạnh công việc của mình,
họ có thể nổi lên do am hiểu về lý luận toàn bộ quá trình vận động của lịch sử”(1).
Trần Đức Thảo coi triết học của mình là “triết học duy vật biện chứng nhân
bản”(2), là cái góp phần sáng tạo chủ nghĩa Mác, gắn bó mật thiết với tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh. Có thể khái quát một số nét cơ bản như sau :
Một là, chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn lớn. Hồ Chí Minh
đã chiến đấu không ngừng để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đây là gốc rễ của tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, bởi tư tưởng nhân văn luôn luôn lấy con người làm
trung tâm, làm mục đích. Nhưng con người luôn luôn tồn tại trong điều kiện tự


nhiên (Mác), nghĩa là phải tồn tại vừa chủ quan, vừa khách quan trong một đất nước
nhất định và một cộng đồng xã hội, dân tộc nhất định. Hồ Chí Minh đã nhận thức
một cách biện chứng sự thống nhất giữa quyền con người và quyền độc lập dân tộc
như trong lời mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945. Tư tưởng này là chân
lý; nó đã cuốn hút, thuyết phục Trần Đức Thảo ngay từ đầu.
Trần Đức Thảo nhận bằng thạc sĩ triết học (1943) tại Trường Cao đẳng Sư phạm
phố Ulm, một trong những trường đại học danh giá nhất của Pháp và Âu - Mỹ. Ông

cũng là sinh viên ngoại quốc duy nhất học ở trường này, từ khi nó được thành lập
cho đến lúc ấy, được cấp bằng thạc sĩ, và đó là bằng thủ khoa. Năm 1944, ông đến
Bỉ để nghiên cứu về Husserl và Hêghen. Đây cũng là cơ sở khoa học để sau này,
ông nắm được tinh thần căn bản của chủ nghĩa Mác, sáng tạo và chính xác hóa chủ
nghĩa Mác.(1)Tháng 12-1944, Trần Đức Thảo bắt đầu hoạt động đấu tranh giải
phóng dân tộc trong phong trào Việt kiều tại Pháp. Trong báo cáo chính trị tại Đại
hội Đông Dương, ở Avignon, ông đã giới thiệu chương trình xây dựng nền dân chủ
ở Đông Dương. Tại đây, ông đã tiếp xúc với các nghị sĩ thuộc Đảng Cộng sản Pháp
phụ trách nghiên cứu các vấn đề chính trị. Đầu năm 1945, nhân danh Tổng phái
đoàn của người Đông Dương, ông cùng kỹ sư Lê Viết Hường và một số người khác
đã gặp và làm việc với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Pháp - Maurice Thorez. Tháng
9-1945, ông viết truyền đơn, họp báo ủng hộ Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh
mới được thành lập. Trên tờ Le Monde, khi một nhà báo hỏi: “Người Đông Dương
sẽ làm gì khi quân đội viễn chinh Pháp tới?”, Trần Đức Thảo đã trả lời: “Phải nổ
súng”. Vì thế mà ông đã bị bắt và bị bỏ tù. Tháng 2-1946, do sự đấu tranh của trí
thức Pháp và của Việt kiều, nhà cầm quyền Pháp đã phải thả ông. Trong xà lim nhà
tù, ông đã viết bài báo nổi tiếng - Sur L’Indochine (Về Đông Dương), khẳng định
quyết tâm giành độc lập của các nước Đông Dương, đăng trên tờ Les Temps
Modernes, số 5 năm 1946. Về sau, bài báo này đã được dịch ra tiếng Việt, đăng trên
báo Tiền phong, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng trong
nhà tù, do chiêm nghiệm và ý thức rõ về sự đối nghịch sâu sắc giữa chủ nghĩa tư
bản, đế quốc với các nước dân tộc thuộc địa, Trần Đức Thảo đã hướng tới chủ
nghĩa Mác, sau này được thể hiện trong tác phẩm Matérialisme Dialectique (Hiện
tượng học và Chủ nghĩa duy vật biện chứng)(3). Đây là tác phẩm được các nhà triết


học Pháp và thế giới đánh giá cao, được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Năm 1946, tháng 5 và tháng 6, tại Pháp, Trần Đức Thảo đã tiếp xúc với Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhiều lần, xin Người cho về nước để xây dựng Tổ quốc. Nhưng Hồ
Chí Minh đã khuyên Trần Đức Thảo ở lại Pháp tiếp tục học tập, nghiên cứu khoa

học, hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước, tranh thủ sự ủng hộ của các trí
thức Pháp đối với nước ta, nhất là trí thức trong Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1946,
Phái đoàn của Chính phủ ta tại Pháp đã chụp ảnh Trần Đức Thảo để làm tư liệu, để
kỷ niệm và khi về nước, đã trao tặng một số trong những bức ảnh ấy cho cụ Trần
Đức Tiến, thân sinh của GS. Trần Đức Thảo.
Năm 1946 - 1947, Trần Đức Thảo đã viết nhiều bài ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Đảng
Cộng sản Đông Dương, chống các lực lượng phản cách mạng, chống bọn thực dân
Pháp quay lại xâm lược Đông Dương. Tháng 9-1948, ông đăng một bài báo nổi
tiếng trên tạp chí Les Temps Modernes, số 36: Nội dung và thực chất của hiện
tượng luận tinh thần. Với bài báo này, Trần Đức Thảo được giới triết học coi như đã
tạo lập một trường phái mới về Hêghen, một xu hướng triết học tiến bộ.(3)
Ngày 4-9-1949, Trần Đức Thảo được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử làm thành viên Hội
đồng Giáo dục Quốc gia. Khi đó, Trần Đức Thảo đang ở Pháp.
Cuối năm 1949 - đầu năm 1950, Trần Đức Thảo đã có cuộc tranh luận nổi tiếng với
Jean Paul Sartre về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa hiện sinh. Sartre công nhận chủ
nghĩa Mác về chính trị và lịch sử, nhưng không coi trọng về triết học. Ông coi chủ
nghĩa hiện sinh có giá trị triết học hơn. Trần Đức Thảo khẳng định chủ nghĩa Mác
có giá trị toàn diện, cả triết học, cả lịch sử - xã hội. Cuộc tranh luận không đi đến
kết thúc, vì Sartre chưa đọc hết các tác phẩm của Husserl và C.Mác. Cuộc tranh
luận ấy đã đưa Trần Đức Thảo đến sự đoạn tuyệt với chủ nghĩa hiện sinh để
nghiêng hẳn về phía chủ nghĩa Mác.
Năm 1951, Trần Đức Thảo cho xuất bản cuốn Hiện tượng học và Chủ nghĩa duy vật
biện chứng, sau đó ông về nước tham gia kháng chiến. Ông nói: “Về nguyên tắc, tôi
khẳng định là đứng hẳn về phía chủ nghĩa Mác. Từ đó, tôi quyết định trở về Việt
Nam. Cần phải làm cho cuộc đời ăn nhập với triết học, thực hiện một hành động
thực tế là điều đáp trả những kết luận, những lý thuyết của cuốn sách của tôi”(4).
Về nước, Trần Đức Thảo đã tham gia những công tác chủ yếu sau đây:


- Từ 1952 đến đầu 1953, làm việc tại văn phòng Tổng Bí thư Trường Chinh.

- Năm 1953-1954, nghiên cứu thực tế trong quân đội, trong các trường đại học,
trung học chuyên nghiệp ở Việt Bắc, tham gia cải cách ruộng đất ở Phú Thọ.
- Năm 1954, tham gia Ban nghiên cứu Văn - Sử - Địa, tiền thân của ủy ban Khoa
học Xã hội và Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng sau này. Trong thời gian này, ông
đã công bố nhiều tác phẩm trên Tạp chí Văn - Sử - Địa.
- Ngày 27-11 đến 8-12-1954, dự hội nghị và phát biểu nhiều ý kiến về vấn đề đại
học, nêu lên những quan điểm đúng và sáng tạo, có tầm nhìn xa: Phải cân bằng và
chủ động cả hai mặt giáo dục chuyên nghiệp và nghiên cứu khoa học để nâng cao
chất lượng đào tạo, bảo vệ uy tín của khoa học Việt Nam trên thế giới, nhất là khoa
học xã hội, tiếp cận với thành tựu khoa học hiện đại của thế giới, khẳng định vị trí
và uy tín của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế về triết học, lịch sử, văn hóa,
nghệ thuật, ngoại giao…, đào tạo các nhà khoa học, nghệ sĩ, cán bộ có tài năng
phục vụ xây dựng đất nước và phát triển khoa học (Xem: Kỷ yếu về Hội nghị trên,
được in trong: Nguyễn Văn Huyên. Toàn tập, t.3, Nxb Giáo dục).
- Từ 1954 đến 1956 là Giáo sư Đại học Hà Nội, Phó giám đốc, Trưởng Khoa Lịch
sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
- Sau sự kiện Nhân văn - Giai phẩm, theo gợi ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phạm
Văn Đồng, Trường Chinh và Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo
dục Nguyễn Văn Huyên đã bố trí Trần Đức Thảo về công tác tại Nhà xuất bản Sự
thật để có điều kiện tiếp tục nghiên cứu, sáng tạo triết học, liên hệ, trao đổi khoa
học với các nhà triết học các nước, đặc biệt là các nhà triết học Pháp. Từ đây, công
việc chủ yếu của Trần Đức Thảo là nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin, sáng tạo khoa học. Nhiều tác phẩm đã được ông trực tiếp gửi
cho cơ quan lý luận của Trung ương Đảng, cho các đồng chí lãnh đạo của Đảng.
- Hàng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn gửi thiếp chúc tết đến Trần Đức Thảo. Ông
đặc biệt trân trọng, quý giá và giữ gìn thiếp chúc tết mùa xuân 1968.
- Từ tháng 3-1991 đến tháng 4-1993, Ban bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam cử Trần Đức Thảo đi Pháp để nghiên cứu một số vấn đề khoa học. Thời gian
này, ông tiếp tục sáng tạo chủ nghĩa Mác, viết nhiều tác phẩm có giá trị. Ngày 24-41993, Trần Đức Thảo qua đời tại Paris. Ông được Nhà nước ta tặng thưởng Huân



chương Độc lập hạng Nhì.
Mấy nét khái quát trên đây về cuộc đời và sự nghiệp của GS.Trần Đức Thảo là
minh chứng hiển nhiên cho điều ông là một trí thức yêu nước, một nhà khoa học đi
đúng con đường mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra: chiến đấu và sáng tạo cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa thực dân, thực hiện một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh.
Nhưng, điều quan trọng là, với tư cách một nhà khoa học, Trần Đức Thảo đã sáng
tạo những tác phẩm để phát huy chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh.
- Từ khi về nước đến năm 1955, trên Tạp chí Văn - Sử - Địa, GS.Trần Đức Thảo đã
công bố những công trình nghiên cứu: Tìm hiểu giá trị văn chương cũ(5), Bài Hịch
tướng sỹ của Trần Hưng Đạo và xã hội Việt Nam trong thời kỳ thịnh của chế độ
phong kiến(6), Nội dung xã hội Truyện Kiều(7), …
- Từ năm 1957 đến năm 1990, Trần Đức Thảo đã viết những tác phẩm: Sự biện
chứng của xã hội dân tộc, Bàn về thời dựng nước (8-1977), Về những cái cơ bản
chung của lịch sử dân tộc (11-1977)(8)… Trong những tác phẩm này, ông đã phân
tích mối quan hệ biện chứng và sự chuyển hóa giữa tình cảm yêu nước và tư tưởng
yêu nước trong mối liên hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế qua các thời kỳ và
cuộc đấu tranh của dân tộc ta chống sự xâm lược của nước ngoài.
- Trong nhiều thư gửi cho các ông Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Nguyễn Văn
Linh, Trần Đức Thảo đã đề nghị tăng cường nghiên cứu lịch sử dân tộc, tái bản các
tác phẩm lịch sử có giá trị để nhận thức về lịch sử dân tộc không bị gián đoạn, để
lịch sử dân tộc không trở thành vườn không nhà trống, “để nhận thức về Tổ quốc,
về dân tộc không dừng lại ở những tình cảm cao đẹp, mà còn được phân tích một
cách sâu sắc về mặt lý luận”(9).
Chính vì xuất phát từ tinh thần yêu nước mà Trần Đức Thảo đã rời Paris hoa lệ, khi
ông đang ở đỉnh cao của giới triết học Pháp, trở về Tổ quốc tham gia kháng chiến,
cần mẫn nghiên cứu, sáng tạo khoa học cho đến tận cuối đời.
Hai là, một khía cạnh khác của tư tưởng nhân văn lớn của Hồ Chí Minh là Người
luôn khẳng định khả năng sáng tạo văn hóa (văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần)

của con người. Trong Mục đọc sách, ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942-1943),
Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người


×