Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo pháp luật yếu tố quan trọng bảo đảm tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.83 KB, 7 trang )

nghiên cứu - trao đổi

PGS.TS. Lê Minh Tâm *

T

ăng trởng kinh tế và phát triển bền
vững là ớc vọng của nhân dân, là
mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà
nớc ta đồng thời việc tham gia vào các
quá trình khác nhau để bảo đảm nhịp độ
tăng trởng kinh tế và phát triển bền vững
là nhiệm vụ thờng nhật của tất cả các cơ
quan, tổ chức và cá nhân. Để tăng trởng
và phát triển bền vững thì cần phải có
nhiều yếu tố và giải pháp đồng bộ. Xuất
phát từ góc nhìn của luật học, đặt pháp
luật trong mối quan hệ với kinh tế và x
hội, bài viết này phân tích một số vấn đề
lí luận và thực tiễn nhằm góp phần khẳng
định sự cần thiết phải coi pháp luật là một
trong những yếu tố quan trọng bảo đảm
tăng trởng và phát triển bền vững.
1. Tăng trởng kinh tế, phát triển kinh
tế là hai khái niệm có quan hệ rất mật
thiết nhng không đồng nhất với nhau.
Tăng trởng kinh tế là sự tăng thêm về
quy mô, sản lợng trong một thời gian
nhất định(1); còn phát triển kinh tế là sự
tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế
trong một thời kì nhất định(2). Tăng


trởng kinh tế là điều kiện, tiền đề cho sự
phát triển, không có tăng trởng kinh tế
thì cũng không có phát triển; đến lợt
mình, phát triển kinh tế là cơ sở, động lực
để bảo đảm và đẩy nhanh tốc độ tăng
trởng kinh tế. Tăng trởng và phát triển
kinh tế tác động làm thay đổi mọi mặt
của đời sống x hội, phản ánh những mức
độ khác nhau của sự tiến bộ x hội. Tuy
nhiên, đó cha phải là sự phát triển bền

vững. Phát triển bền vững là sự phát triển
kinh tế - x hội với tốc độ cao, liên tục
trong thời gian dài và trong không gian
rộng; x hội có sự tiến bộ không ngừng,
công bằng x hội đợc bảo đảm, mọi
ngời đợc tự do, bình đẳng, dân chủ; trật
tự và an toàn x hội đợc bảo đảm; quan
hệ x hội lành mạnh, nhân dân có điều
kiện để lao động, đi lại, học hành, chữa
bệnh và có điều kiện để hởng thụ các giá
trị văn hóa; các nguồn tài nguyên thiên
nhiên đợc sử dụng có hiệu quả, tiết
kiệm; môi trờng sinh thái đợc bảo vệ.
Đó là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện
nay nhng không làm ảnh hởng đến các
thế hệ mai sau. Vì vậy, Đảng và Nhà
nớc ta luôn đặt vấn đề tăng trởng, phát
triển kinh tế phải gắn liền với giải quyết
các vấn đề x hội và bảo vệ môi trờng

sinh thái(3).
2. Để tăng trởng và phát triển bền
vững thì phải sử dụng và phát huy tốt các
nguồn lực cho sự phát triển và phải chú ý
giải quyết tốt cả hai mặt kinh tế và x
hội; phải tạo ra các điều kiện cơ bản nh
sự ổn định về chính trị - x hội, sự đầu t
đúng hớng cho phát triển khoa học công nghệ, nâng cao trình độ văn hóa và
ý thức của nhân dân, nâng cao chất lợng
của đội ngũ lao động, sự hoàn thiện của
hệ thống pháp luật... Pháp luật là sự biểu
hiện của văn minh và văn hóa, là công cụ
quan trọng để bảo đảm an toàn x hội và
* Trờng đại học luật Hà Nội
Tạp chí luật học - 35


nghiên cứu - trao đổi

tự do của con ngời, bảo đảm bình đẳng
và công bằng x hội. Trong mối quan hệ
với kinh tế, pháp luật phản ánh và chịu sự
chi phối của kinh tế nhng đồng thời nó
có tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với
kinh tế, là công cụ để điều chỉnh các quá
trình kinh tế. Vì vậy, cần phải coi pháp
luật là một trong những yếu tố quan trọng
để bảo đảm tăng trởng kinh tế và phát
triển bền vững.
3. Vai trò của pháp luật với t cách là

yếu tố bảo đảm tăng trởng và phát triển
bền vững thể hiện ở những mặt sau đây:
3.1. Pháp luật thể chế hóa những quan
điểm, đờng lối phát triển kinh tế thành
hệ thống quy phạm, tạo ra cơ sở pháp lí
để xác lập, củng cố và định hớng phát
triển cho chế độ kinh tế.
Trong mỗi thời kì phát triển của mình,
mỗi quốc gia đều xác định rõ tính chất và
nội dung cơ bản của chế độ kinh tế. Nói
đến chế độ kinh tế là nói đến những vấn
đề cơ bản, cốt lõi của nền sản xuất x hội
nh mục tiêu, các hình thức sở hữu,
đờng lối phát triển kinh tế, những
nguyên tắc chủ đạo trong l nh đạo và
quản lí nền kinh tế... Đối với nớc ta
trong những năm thực hiện đờng lối đổi
mới kinh tế, nội dung cơ bản đợc xác
định gồm: Xoá bỏ cơ chế kinh tế cũ để
thiết lập cơ chế kinh tế thị trờng, trong
đó nhà nớc giữ vai trò quản lí bằng pháp
luật, không can thiệp vào hoạt động sản
xuất kinh doanh; thực hiện chính sách
dân chủ hóa đời sống kinh tế, bảo đảm
cho các chủ thể đợc tự do kinh doanh
trong khuôn khổ pháp luật, mọi chủ thể
kinh tế đều có quyền bình đẳng trong sản
xuất kinh doanh, liên doanh, liên kết trên
cơ sở của pháp luật; thực hiện chính sách
hội nhập kinh tế Việt Nam với đời sống

36 - Tạp chí luật học

kinh tế của khu vực và thế giới.
Những quan điểm, đờng lối đó đ
đợc quán triệt và thể chế hóa thành hệ
thống pháp luật kinh tế của nớc ta. Hiến
pháp, văn bản có giá trị pháp lí cao nhất
trong hệ thống pháp luật ở nớc ta đ
phản ánh đầy đủ những vấn đề trên thành
15 điều trong chơng Chế độ kinh tế. Đây
là những cơ sở pháp lí quan trọng làm nền
tảng cho sự đổi mới hết sức sâu sắc của
pháp luật kinh tế nớc ta trong những
năm vừa qua. So với Hiến pháp năm
1980, chơng Chế độ kinh tế của Hiến
pháp năm 1992 có 15 điều thì có tới 7
điều mới (các điều 15, 16, 19, 20, 22, 24
và 26), 8 điều còn lại đều có sửa đổi bổ
sung (các điều 17, 18, 21, 23, 25, 27, 28
và 29), không có điều nào của Hiến pháp
năm 1980 đợc giữ nguyên.
Thể hiện nhận thức mới về chủ nghĩa
x hội, về thực trạng của nền kinh tế đất
nớc trong giai đoạn đầu của thời kì quá
độ và những quy luật vận động, phát triển
của nền kinh tế, Hiến pháp đ khẳng
định: Nhà nớc phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế
thị trờng có sự quản lí của nhà nớc,
theo định hớng x hội chủ nghĩa. Đây

là t tởng xuyên suốt toàn bộ chế độ
kinh tế; nó đặt ra yêu cầu phải định ra
những nguyên tắc, quy định đồng bộ để
bảo đảm sự thống nhất hai mặt của sự
phát triển kinh tế: Một mặt, đó là sự phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trờng nhằm giải
phóng mọi năng lực sản xuất để tăng
trởng và phát triển kinh tế. Theo đó, một
loạt những nguyên tắc, quy định mới đ
đợc xây dựng nh kinh tế quốc doanh
đợc quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh (Điều 19); kinh tế tập thể đợc tổ


nghiên cứu - trao đổi

chức dới nhiều hình thức trên nguyên tắc
tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi (Điều
20); kinh tế cá thể, kinh tế t bản t nhân
đợc chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh, đợc thành lập các doanh nghiệp
không hạn chế về quy mô hoạt động trong
những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân
sinh; kinh tế gia đình đợc khuyến khích
phát triển (Điều 21); doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế đợc liên doanh,
liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong
và ngoài nớc theo quy định của pháp luật
(Điều 22); Nhà nớc khuyến khích các tổ

chức, cá nhân nớc ngoài đầu t vốn, công
nghệ vào Việt Nam (Điều 25); các cơ sở
sản xuất thuộc mọi thành phần kinh tế đều
bình đẳng trớc pháp luật (Điều 22), có
quyền hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Mặt khác, nền kinh tế thị trờng ở nớc ta
là nền kinh tế thị trờng định hớng x hội
chủ nghĩa. Để bảo đảm tính định hớng đó,
Hiến pháp đ xác lập hàng loạt nguyên tắc
và quy định quan trọng nh mục đích chính
sách kinh tế của Nhà nớc là làm cho dân
giàu, nớc mạnh, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân
dân (Điều 16); sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể là nền tảng (Điều 15); kinh tế quốc
dân giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân (Điều 19); Nhà nớc thống nhất
quản lí nền kinh tế bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách (Điều 26); bảo vệ quyền
lợi của ngời sản xuất, kinh doanh và tiêu
dùng, xử lí nghiêm minh mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh bất hợp pháp (Điều 28); sử
dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên và bảo
vệ môi trờng (Điều 29). Nh vậy, có thể
thấy rõ là đờng lối phát triển kinh tế thị
trờng do Đảng đề xớng đ lấy con ngời
làm vị trí trung tâm, phát huy khả năng của
con ngời và vì con ngời, kết hợp hài hoà
giữa hai mặt của chính sách nhất quán. Và,


hệ thống pháp luật nớc ta mà bắt đầu từ
Hiến pháp năm 1992 đ thể hiện đúng tinh
thần và nội dung của đờng lối đó.
Thể chế hóa đờng lối phát triển kinh tế
của Đảng, Hiến pháp năm 1992 ghi nhận sự
tồn tại khách quan, bình đẳng của nhiều
hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể và sở hữu t nhân), tạo cơ sở cho
việc hình thành và hoàn thiện hệ thống
pháp luật về sở hữu thể hiện trong các đạo
luật nh Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động,
Bộ luật thơng mại và nhiều văn bản pháp
luật khác có liên quan đến sản xuất, kinh
doanh và tiêu dùng. Pháp luật có tính thống
nhất, khi đờng lối, chủ trơng chính sách
của Đảng đ đợc thể chế hóa trong đạo
luật cơ bản thì toàn bộ hệ thống các văn bản
pháp luật đều có nội dung nhất quán trên
những điểm cơ bản: a) Mọi hình thức sở
hữu đều tồn tại khách quan; b) Mọi hình
thức sở hữu đều đợc đối xử bình đẳng; c)
Hệ thống chế tài sẽ đợc lập ra để bảo vệ
quyền sở hữu, trong đó có những chế tài bồi
thờng thoả đáng cho chủ sở hữu trong
trờng hợp lợi ích của họ bị xâm hại bất
hợp pháp.
3.2. Pháp luật tạo ra những khuôn khổ
pháp lí để điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa
pháp luật với kinh tế thì pháp luật phản ánh

những nhu cầu kinh tế điển hình, phổ biến
và có tính quy luật. Tuy nhiên, pháp luật
không phản ánh các nhu cầu đó một cách
thụ động, thông thờng mà bằng sự mô
hình hóa theo phơng pháp đặc thù, thông
qua quy trình chặt chẽ và kết quả là tạo ra
hệ thống các quy phạm có tính chặt chẽ về
hình thức và có hiệu lực cao vì đợc bảo
đảm thực hiện bằng sức mạnh của nhà
nớc. Nền kinh tế là một hệ thống hết sức
phức tạp và đầy biến động. Các hoạt động
kinh tế đều có mục đích lợi ích, vì vậy sự
Tạp chí luật học - 37


nghiên cứu - trao đổi

bất ổn, rủi ro, sự lấn lớt, xâm hại lợi ích
lẫn nhau có thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu
không có những quy tắc đủ mạnh để điều
chỉnh. Cũng chính từ yêu cầu điều chỉnh đó
mà cần phải có pháp luật và nó trở thành
công cụ không thể thay thế để bảo đảm cho
các quan hệ kinh tế diễn ra theo trật tự nhất
định. Trật tự các quan hệ kinh tế đợc xây
dựng trên cơ sở của hệ thống quy phạm
pháp luật (chủ yếu là hệ thống quy phạm
pháp luật kinh tế) mà trong đó các chủ thể
kinh tế đợc tự do thực hiện những quyền
của mình và đợc bảo vệ về lợi ích nhng

đồng thời cũng chịu sự ràng buộc, phải tôn
trọng quyền tự do tiến hành các hoạt động
của chủ thể khác và phải thực hiện những
nghĩa vụ nhất định.
Để kinh tế tăng trởng và phát triển thì
phải có hệ thống pháp luật kinh tế hoàn
chỉnh với các tiêu chí cơ bản đó là: 1) Có
đủ pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ
kinh tế cơ bản trên tất cả các lĩnh vực kinh
tế; 2) Pháp luật phải phù hợp với trình độ
phát triển của kinh tế - x hội, nó không thể
cao hơn hay thấp hơn trình độ đó; 3) Các
văn bản pháp luật và các quy phạm của nó
phải đồng bộ, không mâu thuẫn, chồng
chéo; 4) Các văn bản pháp luật phải đợc
xây dựng với kỹ thuật pháp lí cao, bảo đảm
tính ngắn gọn, chính xác, logic và một
nghĩa; 5) Các văn bản pháp luật phải đợc
ban hành kịp thời để điều chỉnh các quan hệ
kinh tế, không sớm quá hoặc không muộn
quá so với yêu cầu. Hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh là một trong những yếu tố bảo
đảm tăng trởng và phát triển kinh tế.
3.3. Pháp luật tạo cơ chế pháp lí để giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong sản
xuất, kinh doanh, đấu tranh chống các hiện
tợng tiêu cực nảy sinh trong quá trình vận
động của nền kinh tế, bảo vệ lợi ích hợp
pháp, chính đáng của ngời sản xuất và tiêu
38 - Tạp chí luật học


dùng.
Bên cạnh hệ thống pháp luật vật chất
(hệ thống quy phạm điều chỉnh các quan hệ
kinh tế), để giải quyết các tranh chấp phát
sinh cũng nh để giải quyết, xử lí những
trờng hợp tiêu cực, xâm hại đến lợi ích
kinh tế của các chủ thể, cần phải có hệ
thống các quy phạm mang tính tài phán,
nghĩa là những quy phạm thủ tục để giải
quyết các vấn đề nói trên. Trớc đây, hệ
thống tài phán kinh tế chỉ thực hiện thông
qua trọng tài kinh tế nhà nớc với phạm vi
hoạt động hẹp và cơ chế hoạt động cha
chặt chẽ, đồng bộ. Từ khi chuyển sang nền
kinh tế thị trờng, bên cạnh cơ chế trọng tài
(đ đổi mới), hệ thống toà án kinh tế, lao
động và hành chính đ đợc lập ra; đồng
thời hệ thống các văn bản pháp luật về tố
tụng cũng đang từng bớc đợc bổ sung và
hoàn thiện. Những cơ chế và cơ sở pháp lí
đó ra đời đ nhanh chóng phát huy tác dụng
trong việc giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong các quá trình kinh tế, góp phần
ổn định tình hình, tạo điều kiện cho tăng
trởng và phát triển.
3.4. Pháp luật là cơ sở pháp lí để giải
quyết các vấn đề x hội, bảo đảm bình đẳng
và công bằng x hội.
Trong nền kinh tế thị trờng ở nớc ta,

pháp luật không những thừa nhận sự tồn tại
của nhiều hình thức sở hữu mà còn tuyên
bố thừa nhận sự bình đẳng của tất cả các
thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu
tơng ứng. Pháp luật không những chỉ nêu
ra những nguyên tắc và quy định chung mà
còn nêu ra một cách chi tiết, cụ thể, hình
thành cơ chế pháp lí đồng bộ để bảo đảm
cho việc thực hiện chế độ bình đẳng trong
sản xuất, kinh doanh, lu thông, phân phối,
cạnh tranh lành mạnh... Nếu nh bình đẳng
x hội đợc xem là sự ngang bằng nhau về


nghiên cứu - trao đổi

mọi phơng diện(4) thì công bằng x hội
cũng là sự ngang bằng giữa ngời với ngời
nhng không phải về mọi phơng diện,
cũng không phải về phơng diện bất kì, mà
chính là về phơng diện quan hệ giữa
nghĩa vụ và quyền lợi theo nguyên tắc thực
hiện nghĩa vụ (cống hiến) ngang nhau sẽ
đợc hởng quyền lợi (hởng thụ) ngang
nhau(5). Công bằng là dạng biểu hiện cụ
thể của bình đẳng x hội và thực hiện công
bằng x hội chính là bớc tiến trên con
đờng nhằm đạt tới bình đẳng x hội hoàn
toàn.
Trong lĩnh vực kinh tế, bình đẳng x hội

có nội dung rất rộng, phản ánh ở các quyền
lợi và nghĩa vụ của các chủ thể (nhà sản
xuất, kinh doanh, ngời lao động và Nhà
nớc với t cách là chủ thể đặc biệt) trên tất
cả các bình diện hoạt động kinh tế. Còn
công bằng x hội thể hiện chủ yếu ở lĩnh
vực phân phối, hởng thụ và phân phối lại
để thực hiện chính sách x hội, trong đó
nguyên tắc phân phối và hởng thụ theo
mức lao động đóng góp có ý nghĩa chủ đạo.
Tuy nhiên, để bảo đảm phát triển bền vững
thì còn cần phải thực hiện nguyên tắc phân
phối lại một cách hợp lí để thực hiện các
chính sách x hội. Thiết lập nguyên tắc
bình đẳng và công bằng x hội, kết hợp với
việc điều tiết thu nhập thông qua hệ thống
luật thuế và hệ thống pháp luật bảo vệ, pháp
luật sẽ tạo ra khả năng thủ tiêu các nguy cơ
xung đột về lợi ích và sự phân hóa sâu sắc
giữa các tầng lớp dân c, bảo đảm tăng
trởng và phát triển ổn định.
Cùng với sự tăng trởng và phát triển,
những vấn đề x hội rất nan giải và bức xúc
luôn đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết để bảo
đảm sự phát triển bền vững. Vai trò của
Nhà nớc và pháp luật trong lĩnh vực này
hết sức quan trọng. Vai trò đó thể hiện ở

chỗ, trên cơ sở khảo sát thực tiễn về những
vấn đề x hội phát sinh, Nhà nớc sẽ có

chơng trình, kế hoạch để giải quyết kịp
thời thông qua việc quy định thành pháp
luật về các biện pháp giải quyết cụ thể.
Thực tế đ cho thấy rằng, trong bất cứ
chế độ kinh tế nào cũng cần có sự điều tiết
của nhà nớc bằng pháp luật để giải quyết
những vấn đề mà tự thân cơ chế kinh tế
không thể giải quyết đợc. Sự điều tiết đó
nhằm ba mục tiêu cơ bản là: Bảo đảm hiệu
quả kinh tế, giảm bớt bất công x hội và tạo
ra sự ổn định, bảo đảm cho kinh tế phát
triển. Sự can thiệp của Nhà nớc vào việc
giải quyết các vấn đề phát sinh không hoàn
toàn giống nhau về quy mô và mức độ mà
tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể của tình hình
trong từng thời kì. Tuy nhiên, những vấn đề
sau đây luôn là những điểm nổi cộm mà
các quốc gia đều phải quan tâm, đó là:
Chống thất nghiệp, chống thất học, chống ô
nhiễm môi trờng, chống độc quyền, tăng
cờng tính cạnh tranh lành mạnh, chống
lạm phát, cân bằng x hội, giảm căng thẳng
và bất bình x hội, bảo đảm an toàn x hội,
điều tiết giá các loại hàng hóa nh điện,
điện thoại, giao thông công cộng...
Những vấn đề này chỉ có thể giải quyết
đợc một cách có hiệu quả khi Nhà nớc
có chính sách đúng và phải thể hiện rõ
ràng, cụ thể trong pháp luật. Ví dụ, để có
đợc những khoản tiền chi phí cho các

hoạt động mang lợi ích chung đó thì
Chính phủ phải dùng đến biện pháp mang
tính cỡng bức là chính sách thuế. Thuế
chỉ có thể thu đợc nếu có văn bản pháp
luật về các sắc thuế, trong đó có quy định
một cách chi tiết, cụ thể. Các sắc thuế sau
khi đợc ban hành có sức mạnh cỡng
chế buộc các chủ thể sản xuất kinh doanh
hay ngời tiêu dùng phải chấp hành và
Tạp chí luật học - 39


nghiên cứu - trao đổi

nhờ có thuế mà Nhà nớc có thể điều tiết
cho việc giải quyết những vấn đề nói trên
một cách có hiệu quả.
4. Trong những năm vừa qua, nền
kinh tế nớc ta đ có sự tăng trởng và
phát triển tơng đối cao, liên tục và pháp
luật đ trở thành một trong những yếu tố
góp phần tạo ra những thành tựu nói trên.
Có thể nói, từ khi có đờng lối đổi mới
của Đảng, hệ thống pháp luật nớc ta,
nhất là hệ thống pháp luật kinh tế, đ có
những bớc phát triển vợt bậc, phát huy
vai trò to lớn của mình trong việc thể chế
hóa đờng lối chính sách của Đảng và
Nhà nớc, đa các đờng lối, chính sách
đó đi vào đời sống một cách nhanh chóng

và có hiệu quả. Sự phát triển của hệ thống
pháp luật kinh tế nớc ta thể hiện trên
nhiều phơng diện, trong đó có những
mặt cơ bản là số lợng các văn bản pháp
luật đợc ban hành nhanh hơn và ngày
càng đầy đủ hơn, hệ thống pháp luật kinh
tế đ vơn tới các lĩnh vực mới mà trớc
đây cha có pháp luật điều chỉnh đồng
thời bớc đầu đ thể hiện quan điểm hội
nhập pháp luật nớc ta với pháp luật quốc
tế và khu vực; tính thống nhất, đồng bộ
của hệ thống pháp luật kinh tế tuy cha
cao nhng đ có tiến bộ nhiều so với
trớc đây; mức độ phù hợp của pháp luật
đối với trình độ phát triển của kinh tế - x
hội đợc bảo đảm tốt hơn; bên cạnh đó
các thiết chế tài phán kinh tế và hệ thống
pháp luật về thủ tục giải quyết các tranh
chấp cũng đợc xây dựng và ngày càng
hoàn thiện hơn...
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật kinh tế
nớc ta cũng còn những nhợc điểm cần
phải khắc phục nh vẫn còn thiếu nhiều
văn bản pháp luật quan trọng mà nếu
chậm ban hành thì sẽ không có đủ cơ sở
40 - Tạp chí luật học

pháp lí để giải quyết các vấn đề mà sự
phát triển kinh tế đòi hỏi (Luật bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp, Luật cạnh

tranh và chống độc quyền, Luật chứng
khóan và thị trờng chứng khóan, Luật về
quản lí ngoại hối, Luật thơng phiếu,
Luật về đấu thầu, Luật về trng mua,
trng dụng tài sản của cá nhân và tổ chức,
Luật trợ cấp thất nghiệp..); các văn bản cụ
thể hóa, hớng dẫn thi hành ban hành còn
chậm, các quy định pháp luật không phù
hợp với thực tiễn cha đợc sửa đổi, bổ
sung kịp thời, nhiều thủ tục phiền hà
không phù hợp với các nguyên tắc tự do
kinh doanh, tự do hợp đồng, chủ thể kinh
tế bình đẳng trớc pháp luật vẫn cha bị
hủy bỏ; mức độ hoà nhập với pháp luật
của các nớc trong khu vực và quốc tế
còn hạn chế... Tình trạng đó có những
nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Trong tình hình hiện nay, việc nhanh
chóng khắc phục những nhợc điểm, tồn
tại của hệ thống pháp luật kinh tế là yêu
cầu khách quan và hết sức bức xúc.
5. Để khắc phục những nhợc điểm,
tồn tại và để phát huy vai trò của pháp
luật trong việc thúc đẩy tăng trởng kinh
tế và phát triển bền vững, phải có những
phơng hớng và giải pháp đồng bộ,
trong đó cần chú trọng thực hiện tốt những
phơng hớng và giải pháp cơ bản sau:
5.1. Về phơng hớng, cần đẩy mạnh
công tác xây dựng pháp luật và hoàn thiện

hệ thống pháp luật kinh tế, nhanh chóng
khắc phục tình trạng thiếu pháp luật hiện
nay; đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật
để giải quyết các vấn đề x hội, đảm bảo
công bằng x hội; tăng cờng công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm
nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ và
nhân dân, tạo điều kiện cho việc thực hiện có
hiệu quả hệ thống quy phạm pháp luật luật


nghiên cứu - trao đổi

đ đợc ban hành; tăng cờng công tác tổ
chức và thực hiện pháp luật; tăng cờng
công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện
pháp luật, xử lí kịp thời và nghiêm minh các
trờng hợp vi phạm pháp luật; đẩy mạnh
công tác t vấn và dịch vụ pháp luật.
5.2. Về các giải pháp, cần thực hiện
đồng thời nhiều giải pháp, trong đó có những
giải pháp chính nh nhanh chóng hoàn thiện
các chính sách kinh tế và chính sách pháp
luật để làm cơ sở cho xây dựng, hoàn thiện
pháp luật kinh tế và phát triển kinh tế; tiến
hành mạnh mẽ công tác rà soát và hệ thống
hóa pháp luật kinh tế để loại bỏ những mâu
thuẫn, chồng chéo, bất cập; tăng cờng các
hoạt động lập pháp của Quốc hội, đẩy mạnh
công tác lập quy của Chính phủ và các cơ

quan có thẩm quyền đồng thời thực hiện dân
chủ hóa quá trình xây dựng pháp luật, phát
huy tính chủ động sáng tạo của nhiều tầng
lớp nhân dân, của đội ngũ chuyên gia thuộc
các lĩnh vực trong việc đa ra sáng kiến pháp
luật và tham gia trực tiếp vào quá trình xây
dựng pháp luật; tăng cờng công tác giải
thích, tuyên truyền phổ biến, giáo dục để
nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ và
nhân dân; tăng cờng công tác tổng kết thực
tiễn, mở rộng các hoạt động bồi dỡng, tập
huấn kiến thức pháp luật cho các nhà quản lí,
các nhà doanh nghiệp và các chủ thể pháp
luật khác đồng thời tăng cờng các hoạt
động có tính kinh tế - pháp lí của các tổ chức
nh câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp, hiệp
hội ngời tiêu dùng; cải cách các thủ tục và
công khai hóa các hoạt động áp dụng pháp
luật để tránh phiền hà, làm chậm nhịp của
các hoạt động kinh tế và chống tiêu cực
trong các cơ quan áp dụng pháp luật; đào tạo
và bố trí cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực

làm việc trong các cơ quan áp dụng pháp
luật; đẩy mạnh các hoạt động kiểm tra, giám
sát các hoạt động pháp luật có liên quan đến
các hoạt động kinh tế để phát hiện, chấn
chỉnh và xử lí kịp thời các hiện tợng vi
phạm, tiêu cực...
6. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nớc vấn đề nghiên cứu mối
quan hệ giữa pháp luật với kinh tế để thấy rõ
bản chất, nội dung của mối quan hệ đó đồng
thời kiểm chứng trên thực tế - hiệu quả tơng
tác giữa chúng, từ đó tìm ra những giải pháp
phù hợp để không ngừng xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật kinh tế, phát huy
vai trò của pháp luật trong việc thúc
đẩy tăng trởng và phát triển kinh tế;
kết hợp giải quyết tốt các vấn đề kinh tế
và x hội trên cơ sở của pháp luật để tạo
ra sự phát triển bền vững có ý nghĩa rất
quan trọng. Tuy nhiên, đó là vấn đề lớn,
cần đợc tiếp tục xem xét trên nhiều
bình diện và nhiều khía cạnh khác
nhau./.
(1), (2).Xem: Kinh tế học phát triển. Nxb. CTQG,
H.1998, tr.17-18.
(3).Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng
cộng sản Việt Nam lần thứ VIII. Nxb. CTQG, H.1996,
tr.32.
(4),(5).Xem: Lê Hữu Tầng, Về công bằng x hội,
Tạp chí cộng sản, số 19/1996, tr.33.

Tạp chí luật học - 41



×