Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.27 KB, 7 trang )

nghiên cứu - trao đổi

Một số vấn đề về
tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam
Trần Hữu Tráng *

1.Tình hình tội phạm bao gồm hai bộ
phận là tình hình tội phạm rõ (tội phạm đ
đợc phát hiện) và tình hình tội phạm ẩn
(tội phạm cha phát hiện). Nghiên cứu tình
hình tội phạm không chỉ phân tích, đánh
giá các số liệu của tình hình tội phạm rõ
mà cần phải kết hợp với phân tích đánh giá
tình hình tội phạm ẩn. "Xu hớng ẩn là đặc
tính của tình trạng tội phạm nói chung
cũng nh mong muốn che giấu việc thực
hiện tội phạm là đặc trng của từng tội
phạm riêng biệt"(1). Về khái niệm và phân
loại tình hình tội phạm ẩn hiện nay vẫn còn
những quan điểm không thống nhất.Theo
quan điểm phổ biến hiện nay, khái niệm
tình hình tội phạm ẩn và phân loại tội phạm
ẩn nh sau: Tình hình tội phạm ẩn là tổng
quát những hành vi phạm tội cùng các chủ
thể của những hành vi đó thực tế đ đợc
thực hiện vào khoảng thời gian nhất định
và trong vùng l nh thổ hành chính nhất
định mà cha bị các cơ quan chức năng
phát hiện, cha bị xử lí hình sự hoặc cha
có trong thống kê hình sự.
Tình hình tội phạm ẩn gồm ba loại:


+ Tội phạm ẩn tự nhiên;
+ Tội phạm nhân tạo;
+ Tội phạm ẩn thống kê (2).
Theo quan điểm của chúng tôi, cách
phân loại và khái niệm về tình hình tội
phạm ẩn nh trên còn có điểm bất hợp lí.
Đó là không nên xem "tội phạm ẩn thống
kê" là một loại tội phạm ẩn vì những lí do
sau:
- Trớc hết khái niệm "ẩn" dùng để chỉ
những cái cha biết, cha bị phát hiện.
Trong từ điển tiếng Việt từ "ẩn" đợc giải
thích nh sau: "giấu mình vào nơi kín đáo
không cho lộ ra, cho khó thấy"(3).

Nh vậy, từ "ẩn" ở đây phải đợc hiểu
là tội phạm cha đợc phát hiện và xử lí.
Ta thấy "tội phạm ẩn thống kê" là loại tội
phạm đ hoàn toàn đợc phát hiện, đ bị
xử lí. Nó chỉ không đợc phản ánh trong số
liệu thống kê về tình hình tội phạm do sai
sót thống kê. Do vậy, không thể quan niệm
là "tội phạm ẩn" là "tội phạm cha biết"
đợc. Khái niệm ẩn phải đợc dùng để chỉ
tính chất cha đợc biết đối với việc phát
hiện và xử lí tội phạm.
- Quan điểm cho rằng "tội phạm ẩn
thống kê" là loại tội phạm ẩn bởi vì số
lợng tội phạm này không đợc phản ánh
trong số liệu thống kê về tình hình tội

phạm và do đó làm cho việc đánh giá tình
hình tội phạm không đúng. Quan niệm nh
vậy là rất phiến diện, bởi vì số lợng tội
phạm này chỉ "ẩn" đối với các số liệu tổng
hợp về tình hình tội phạm mà thôi còn thực
tế số lợng tội phạm này đ bị phát hiện,
đ bị xử lí bằng các chế tài hình sự thì chắc
chắn nó đ đợc phản ánh ở tài liệu của các
cơ quan chức năng (cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, tòa án, thi hành án) trong quá
trình tố tụng.
Trong quá trình tổng hợp số liệu, những
số liệu bị bỏ sót này trong thống kê nói
chung và thống kê hình sự nói riêng gọi là
những sai số thống kê hình sự.
- Xuất phát từ sự khác nhau về bản
chất, tội phạm ẩn tự nhiên và tội phạm ẩn
nhân tạo phải đợc khắc phục bằng rất
nhiều biện pháp khác nhau và chỉ có thể
làm giảm tối đa hai loại tội phạm ẩn này
chứ không thể triệt tiêu hoàn toàn. Còn tội
phạm ẩn thống kê hoàn toàn có thể khắc
* Giảng viên Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội
Tạp chí luật học - 51


nghiên cứu - trao đổi

phục đợc bằng cách hoàn thiện chế độ

thống kê hình sự. Trong giai đoạn hiện nay,
khi hoạt động thống kê hình sự đ có sự trợ
giúp của hệ thống máy tính thì việc cập
nhật, nối mạng và tổng hợp các thông tin sẽ
cho chúng ta các số liệu tổng hợp tuyệt đối
chính xác, không còn tồn tại tội phạm ẩn
thống kê nữa.
Xuất phát từ những lí do trên, theo
chúng tôi, tội phạm ẩn chỉ bao gồm có hai
loại: Tội phạm ẩn nhân tạo và tội phạm ẩn
tự nhiên và do đó khái niệm tình hình tội
phạm ẩn đợc định nghĩa nh sau: Tình
hình tội phạm ẩn là tổng thể các hành vi
phạm tội cùng các chủ thể của những hành
vi đó thực tế đ thực hiện trong những điều
kiện thời gian và địa điểm cụ thể nhng
cha đợc phát hiện và cha bị xử lí hình
sự.
2. Tình hình tội phạm ẩn tồn tại do rất
nhiều nguyên nhân khác nhau.
a. Trớc hết, nguyên nhân của tình hình
tội phạm ẩn xuất phát từ chủ thể thực hiện
hành vi phạm tội (chủ thể của tội phạm).
Kẻ phạm tội với đặc tính tâm lí chung
là luôn tìm mọi cách che giấu tội phạm.
Các biện pháp che giấu tội phạm đợc thể
hiện ở cả giai đoạn chuẩn bị phạm tội, cả
trong và sau khi thực hiện tội phạm.
+ ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội
Nhằm tránh bị phát hiện, kẻ phạm tội

thờng lập kế hoạch tỉ mỉ, chuẩn bị chu
đáo công cụ phơng tiện phạm tội, tìm hiểu
kĩ quy luật hoạt động của nạn nhân, lựa
chọn địa điểm, thời điểm thực hiện tội
phạm thích hợp nhất, có ít khả năng bị phát
hiện nhất.
+ Trong giai đoạn thực hiện tội phạm.
Nhằm mục đích che giấu tội phạm, kẻ
phạm tội luôn tìm cách thực hiện tội phạm
một cách nhanh gọn nhất, ít để lại dấu vết
nhất. Mặt khác, kẻ phạm tội luôn thay đổi
phơng thức, thủ đoạn gây án, càng ngày
chúng càng sử dụng những phơng thức
thủ đoạn tinh vi hơn(4). Bên cạnh đó, để dễ
thực hiện trót lọt tội phạm, những kẻ phạm
52 - Tạp chí luật học

tội thờng cấu kết thành các băng nhóm,
trong đó một kẻ có vai trò thực hành,
những kẻ còn lại luôn tạo điều kiện cho
đồng bọn thực hiện tội phạm nh tạo hiện
trờng giả, gây sự chú ý của nạn nhân, đe
dọa uy hiếp những ngời xung quanh, cản
đờng cho kẻ thực hành trốn chạy...
+ Giai đoạn sau khi thực hiện tội phạm.
Để che giấu tội phạm, những kẻ phạm
tội thờng tìm mọi cách xóa dấu vết tội
phạm, tiêu hủy công cụ phơng tiện phạm
tội, mua chuộc, đe dọa uy hiếp nạn nhân,
nhân chứng. Đặc biệt trong các tội hiếp

dâm, loạn luân, kẻ phạm tội thờng xuyên
dụ dỗ, đe dọa, uy hiếp nạn nhân làm cho
nạn nhân không giám tố giác chúng. Điển
hình nh vụ Bùi Đức Minh ở Tiên Ngọc
Tiên Phớc Quảng Nam đ thực hiện hành
vi hiếp dâm hai con riêng của vợ là Đoàn
Thị A (14 tuổi) và Đoàn Thị V (12 tuổi).
Sau đó y luôn đe dọa, khống chế A và V để
tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội trong
nhiều năm khiến A phải bỏ nhà đi và đến
khi hành vi phạm tội bị phát hiện thì V đ
phải chịu nhục đến 20 năm mà không giám
tố cáo ngời cha dợng thú tính(5). Hay nh
vụ án Ly Sơn, kẻ phạm tội sau khi phạm tội
đ sử dụng nhiều thủ đoạn dọa dẫm, dụ dỗ,
kể cả tiền bạc để các nạn nhân không giám
tố cáo(6). D man hơn, có những kẻ phạm
tội xong đ giết nạn nhân, nhân chứng để
bịt đầu mối. Nh tên Nguyễn Văn La ở ấp
3 x An Thuyên, thị x Cà Mau, sau khi
thực hiện hành vi hiếp dâm em Lê Thị
Lũng 12 tuổi, tên La đ giết em Lũng để
bịt đầu mối(7). Cá biệt có những kẻ phạm
tội khi đ bị bắt vẫn tìm cách khống chế
nạn nhân và nhân chứng để chạy tội nh vụ
Sơn Điền, Phúc Bồ, Khánh Trắng khi bị bắt
đ chỉ đạo cho đàn em đe dọa, khống chế
nhân chứng, ngời bị hại nên khi những
ngời này đợc triệu tập, họ đ không dám
đến(8).

Bên cạnh thủ đoạn đe dọa khống chế
nạn nhân, nhân chứng, kẻ phạm tội còn
dùng nhiều thủ đoạn khác để trốn tránh


nghiên cứu - trao đổi

pháp luật nh tận dụng các mối quan hệ
anh em, họ hàng, làng xóm, quan hệ công
tác, học tập, quan hệ quen biết... để trốn
chạy. Tại những nơi này, kẻ phạm tội
thờng tạo những vỏ bọc nh bất hòa trong
gia đình, vỡ nợ... để tận dụng sự thông cảm
che chở. Lại có những kẻ sau khi gây án lại
thay hình đổi dạng, thay đổi họ tên, tạo nơi
c trú mới để trốn tránh. Chính vì vậy có
rất nhiều kẻ đ trốn tránh đợc pháp luật
trong thời gian dài từ vài năm đến hàng
chục năm gây rất nhiều khó khăn cho công
tác điều tra, truy bắt tội phạm. Nh vụ án
tên Võ Văn Thành sau khi giết ngời đ
trốn khỏi nơi giam ở trại K20 Bến Tre, y đ
chuyển toàn bộ gia đình đến An Giang sinh
sống. Từ khi y gây án đến khi bị bắt kéo
dài 14 năm(9).
b. Bên cạnh những nguyên nhân của
tình hình tội phạm ẩn tồn tại do chủ thể tội
phạm gây ra còn có những nguyên nhân
xuất phát từ bên bị hại.
Tội phạm luôn gây ra hoặc đe dọa gây

ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ
x hội là khách thể mà luật hình sự bảo vệ.
Để gây thiệt hại cho các quan hệ x hội
này, tội phạm đ gây thiệt hại cho đối
tợng tác động của tội phạm, qua đó gây
thiệt hại cho một số cá nhân, tổ chức đợc
gọi là bên bị hại.
Do bên bị hại là những cá nhân, tổ
chức, bị những hành vi phạm tội trực tiếp
xâm hại nên họ có liên quan trực tiếp đến
kẻ phạm tội. Họ là mắt xích rất quan trọng
trong việc điều tra, truy tố, xét xử kẻ phạm
tội. Tỉ lệ tội phạm ẩn phụ thuộc rất nhiều
vào tỉ lệ tố giác tội phạm của bên bị hại.
Tuy nhiên, hiện nay ở nớc ta và nhiều
nớc trên thế giới, tỉ lệ tố giác tội phạm rất
thấp. Tỉ lệ tố giác tội phạm trung bình trên
thế giới là 49,9%, trong đó một số nớc
đợc coi là có tỉ lệ tố giác tội phạm cao là
Scottlen 62,3%; Pháp 60,8%; Newzealand
59,7%(10). ở nớc ta theo khảo sát của
chúng tôi tiến hành trên 200 ngời đ từng
là nạn nhân của tội trộm cắp tài sản của

công dân (giá trị tài sản bị mất từ 300.000
đồng đến 200.000.000 đồng) ở 4 địa bàn
(Yên Bái, Bình Dơng, An Giang và thành
phố Hồ Chí Minh) thu đợc kết quả: Chỉ có
56/200 ngời tố giác (chiếm tỉ lệ 28%) còn
144/200 ngời (chiếm tỉ lệ 72%) không tố

giác tội phạm vì các nguyên nhân theo
bảng sau:
Bảng thống kê nguyên nhân không tố
giác tội phạm
STT

Nguyên nhân không tố
giác

1
2

Giá trị tài sản nhỏ
Không tin tởng cơ quan
pháp luật
Sợ mất thời gian
Ngại tiếp xúc với cơ quan
pháp luật
Sợ bị trả thù

3
4
5

Số
lợng
ngời
69
56


Tỉ lệ
%
48
39

42

29

18

12,5

04

2,8

Trên đây mới chỉ là những khảo sát nhỏ
ở một loại tội. Nó cha phản ánh đợc tình
hình chung song cũng cho thấy phần nào
thực trạng và lí do không tố giác tội phạm.
Chúng ta sẽ lần lợt xem xét lí do tội phạm
ẩn xuất phát từ bên bị hại.
+ Bên bị hại cho rằng hậu quả thiệt hại
mà tội phạm gây ra cho họ là không đáng
kể.
Nguyên nhân này chiếm 48% (69 trong
200 phiếu khảo sát của chúng tôi). Tâm lí
coi thiệt hại xảy ra là không đáng kể là tâm
lí phổ biến trong nhân dân, không chỉ đối

với các tội trộm cắp, cố ý gây thơng tích
mà nó có cả trong các tội khác nh cớp,
cớp giật, lừa đảo... Điều đó đ làm cho số
lợng lớn tội phạm không bị tố giác, không
bị phát hiện và do đó chúng không bị xử lí.
+ Bên thiệt hại không tin tởng vào cơ
quan pháp luật.
Đây cũng là lí do của đa số ngời bị
hại, nhất là của những ngời bị thiệt hại
không lớn. Họ cho rằng nếu có đến tố giác
tội phạm thì cũng không đợc giải quyết.
Tâm lí này không phải là không có cơ sở.
Theo khảo sát của chúng tôi 56/200 ngời
Tạp chí luật học - 53


nghiên cứu - trao đổi

đ tố giác tội phạm nhng trong số đó chỉ
có 14 ngời (chiếm 25%) là có nhận lại
đợc tài sản bị mất hoặc đợc bồi thờng
(mà phần lớn là những ngời bị mất tài sản
có giá trị lớn trên 10 triệu đồng đến 200
triệu đồng). Số còn lại 42/56 (chiếm tỉ lệ
75%) không đợc giải quyết. Điều này là
minh chứng cho vấn đề thiếu tin tởng vào
cơ quan pháp luật của một bộ phận ngời
bị hại.
+ Bên bị hại sợ mất thời gian khi phải
đi tố giác tội phạm.

Cùng với tâm lí thiếu tin tởng ở cơ
quan bảo vệ pháp luật là tâm lí sợ mất thời
gian. Nhiều nạn nhân khi đợc hỏi lí do
không tố giác tội phạm thì đều trả lời: Đi tố
giác tội phạm vừa không lấy lại đợc tài
sản vừa mất thời gian. Những ngời này
đều cho rằng thiệt hại do tội phạm gây ra là
"những rủi ro trong cuộc sống" là "của đi
thay ngời". Chính tâm lí này đ làm cho
một số lợng lớn tội phạm không bị phát
hiện mà theo khảo sát của chúng tôi tỉ lệ
này là 42/200 ngời chiếm tỉ lệ 29%.
+ Bên bị thiệt hại ngại tiếp xúc với các
cơ quan pháp luật.
Do ảnh hởng của truyền thống đạo
đức nhất là t tởng "an phận thủ thờng"
nên đa số ngời dân rất ngại tiếp xúc với cơ
quan pháp luật dù là đến để tố giác tội
phạm. Tâm lí này đặc biệt phổ biến ở các
vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa,
miền núi trung du những nơi trình độ văn
hóa của nhân dân còn thấp. Chính tâm lí
này đ làm cho những nạn nhân coi việc
tiếp xúc với cơ quan bảo vệ pháp luật là
những việc "cực chẳng đ " khi không còn
cách nào khác để giải quyết hoặc khi giá trị
tài sản thiệt hại quá lớn họ mới đến tố giác
tội phạm.
+ Tâm lí sợ bị trả thù, sợ mất nguồn
sinh lợi kiếm sống.

Tâm lí này phổ biến trong các tội cố ý
gây thơng tích, lừa đảo, chiếm đoạt tài
sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,
các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm.
54 - Tạp chí luật học

Nhất là những trờng hợp kẻ phạm tội là
những kẻ côn đồ hũng h n, có nhân thân
xấu hoặc kẻ phạm tội là ngời có chức, có
quyền ở nơi nạn nhân c trú, làm ăn sinh
sống. Lợi dụng tâm lí này mà kẻ phạm tội
sau khi thực hiện hành vi phạm tội luôn tìm
cách đe dọa khống chế nạn nhân.
+ Tâm lí e ngại d luận.
Đây là tâm lí khá phổ biến của các nạn
nhân bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm.
Sau khi bị kẻ phạm tội gây án, vì e ngại d
luận x hội mà họ không dám tố giác kẻ
phạm tội. Dựa vào yếu tố tâm lí này, kẻ
phạm tội sau khi gây án thờng khống chế
nạn nhân. Đa số nạn nhân của các vụ án
này không giám tố cáo kẻ phạm tội. ở Thái
Lan chỉ có 20% các vụ hiếp dâm, cỡng
dâm bị nạn nhân tố cáo với cảnh sát(11).
+ Một lí do nữa khiến cho nạn nhân
không muốn tố cáo kẻ phạm tội đó là nạn
nhân sợ việc tố giác tội phạm sẽ liên quan
đến những sai phạm thậm chí đến tội phạm
của nạn nhân.
Đây là những trờng hợp mà nạn nhân

là những ngời có vi phạm về đạo đức, về
pháp luật nh nạn nhân "cặp bồ", có quan
hệ bất chính hoặc có con riêng. Lợi dụng
những vi phạm này mà kẻ phạm tội đ tiến
hành tống tiền (cỡng đoạt tài sản) các nạn
nhân đó. Đa số các nạn nhân thuộc loại này
không giám tố giác tội phạm. Cá biệt có
những nạn nhân bị xâm hại những quyền
lợi mà những quyền lợi này lại do phạm tội
mà có. Ví dụ: Những ngời tham ô, nhận
hối lộ, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, những
ngời buôn bán hàng cấm, hàng giả, buôn
bán ma túy, những ngời hành nghề m i
dâm... Những ngời này khi bị cớp, bị
trộm cắp, cỡng đoạt tài sản, bị hủy hoại
tài sản... đều không muốn và không giám
tố giác tội phạm.
c. Một nguyên nhân khác của tình hình
tội phạm ẩn là xuất phát từ phía những
ngời chứng kiến hành vi phạm tội.
Bên cạnh nạn nhân - những ngời trực
tiếp liên quan đến kẻ phạm tội thì ngời


nghiên cứu - trao đổi

chứng kiến cũng là những ngời biết rất rõ
sự việc phạm tội. Nhiều khi ngời bị hại do
bị đe dọa, uy hiếp mà họ không thể nhận
biết sự việc rõ ràng nh những ngời chứng

kiến sự việc phạm tội. Chính vì vậy, những
ngời chính kiến sự việc phạm tội có vai
trò rất lớn trong việc phát hiện kẻ phạm tội
giúp làm giảm tội phạm ẩn. Tuy nhiên,
không phải những ngời chứng kiến sự
việc phạm tội lúc nào cũng sẵn lòng hợp
tác với cơ quan pháp luật vì những lí do
sau:
+ Cũng nh các nạn nhân, những ngời
này cũng có tâm lí sợ mất thời gian, ngại
tiếp xúc với cơ quan pháp luật, đặc biệt tâm
lí sợ bị trả thù, sợ mất nơi làm ăn sinh
sống... chính dựa vào tâm lí này mà kẻ
phạm tội nhất là các băng nhóm tội phạm
luôn đe dọa uy hiếp những ngời có mặt tại
nơi chúng gây án khiến họ không giám tố
giác, không giám làm chứng trớc tòa.
+ BLHS sự đ quy định tội không tố
giác tội phạm Điều 247 BLHS. Tuy nhiên,
việc tuyên truyền phổ biến điều luật này
còn rất hạn chế. Do vậy, đa số những ngời
biết tội phạm nhng không tố giác khi
đợc hỏi họ có biết đó là hành vi phạm tội
hay không thì họ đều cho rằng họ không
phạm tội mà đó chỉ là vấn đề đạo đức, d
luận x hội hay trách nhiệm công dân mà
thôi.
Lại có những trờng hợp, do thiếu hiểu
biết về pháp luật nói chung và luật hình sự
nói riêng mà một số ngời khi chứng kiến

những hành vi phạm tội lại cho rằng đó chỉ
là các mâu thuẫn thông thờng, chứ không
phải là tội phạm. Nhất là các hành vi bạo
lực, ngợc đ i trong gia đình. Do vậy, họ
không có ý định tố giác tội phạm.
d. Nguyên nhân cuối cùng của tình
hình tội phạm ẩn xuất phát từ phía các cơ
quan bảo vệ pháp luật (cơ quan điều tra,
viện kiểm sát, tòa án).
Trong quá trình đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm, các cơ quan bảo vệ
pháp luật đóng vai trò rất quan trọng. Hoạt

động của những cơ quan này giúp cho việc
thực thi chính sách hình sự, đảm bảo việc
"phát hiện kịp thời, xử lí nhanh chóng,
công minh" những kẻ phạm tội(12). Hoạt
động của các cơ quan bảo vệ pháp luật giúp
cho việc làm giảm số lợng tội phạm ẩn.
Tuy nhiên, vẫn có những nguyên nhân xuất
phát từ chính các cơ quan này nên dẫn đến
tình hình tội phạm ẩn.
+ Số lợng tội phạm ẩn tỉ lệ nghịch với
hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ
pháp luật điều đó có nghĩa là ở nơi nào đó,
trong thời gian nào đó nếu nh các cơ quan
bảo vệ pháp luật hoạt động kém hiệu quả
sẽ tạo điều kiện tốt cho tội phạm có thể lẩn
tránh đợc sự phát hiện, trừng trị của pháp
luật.

+ Số lợng tội phạm ẩn còn tồn tại
ngay trong hoạt động của các cơ quan bảo
vệ pháp luật, khi mà các chủ thể này phạm
các tội xâm phạm hoạt động t pháp. Theo
Bộ luật hình sự hiện hành có các tội sau:
- Tội ra bản án hoặc quyết định trái
pháp luật (Điều 232), trong trờng hợp
ngời có tội vì những lí do nào đó mà hội
đồng xét xử tuyên vô tội làm cho ngời
phạm tội tránh đợc trừng phạt của pháp
luật.
- Tội ép buộc nhân viên t pháp làm
trái pháp luật (Điều 233) trong trờng hợp
các nhân viên t pháp bị buộc phải ra kết
luận điều tra vô tội hoặc buộc phải ra quyết
định không khởi tố, buộc phải tuyên bố vô
tội đối với ngời có hành vi phạm tội.
- Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều
236) trong trờng hợp các nhân viên t
pháp làm sai lệch hồ sơ vụ án từ có tội
thành vô tội;
- Tội thiếu trách nhiệm để ngời bị
giam trốn (Điều 237);
- Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn tha
ngời trái pháp luật (Điều 238);
- Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên
tài sản (Điều 244) trong trờng hợp ngời
phạm tội có mục đích đánh tráo, hủy hoại
Tạp chí luật học - 55



nghiên cứu - trao đổi

tang vật, phơng tiện để chạy tội cho ngời
có hành vi phạm tội.
BLHS năm 1999 còn quy định thêm ba
tội thuộc nhóm này là:
- Tội không truy cứu trách nhiệm hình
sự ngời có tội (Điều 294);
- Tội tha trái pháp luật ngời đang bị
giam giữ (Điều 302);
- Tội đánh tháo ngời bị giam giữ,
ngời đang bị dẫn giả, ngời đang bị xét xử
(Điều 312).
Trên đây là một số tội mà việc phạm
các tội này chính là nguyên nhân dẫn đến
tội phạm không bị phát hiện, không bị xử
lí. Những hành vi này không nhiều song
nó lại gây ra những ảnh hởng rất xấu
trong x hội, đặc biệt làm mất lòng tin của
nhân dân đối với sự nghiêm minh của pháp
luật, làm cho họ mất đi tính tích cực trong
việc hợp tác với cơ quan pháp luật để
phòng và chống tội phạm.
3. Xuất phát từ các nguyên nhân của
tình hình tội phạm ẩn, cần tiến hành một số
giải pháp nhằm hạn chế tình hình tội phạm
ẩn bao gồm:
- Tăng cờng công tác giáo dục pháp
luật, nhất là pháp luật hình sự

Nh đ phân tích ở trên, vấn đề tham
gia tố giác tội phạm của một bộ phận nhân
dân cha cao. Tâm lí sợ mất thời gian,
không tin tởng ở cơ quan pháp luật, sợ bị
trả thù... đều xuất phát từ sự thiếu hiểu biết
về pháp luật. Một khi quần chúng nhân dân
hiểu rõ pháp luật, phong trào tố giác tội
phạm sẽ đợc đẩy mạnh và công cuộc đấu
tranh hạn chế tội phạm ẩn sẽ đạt hiệu quả
cao. Bên cạnh đó, cần nâng cao ý thức cảnh
giác của nhân dân đối với các biểu hiện
khác lạ nh thấy ngời lạ thờng xuyên
xuất hiện ở khu dân c, thấy ngời mới đến
c trú có biểu hiện nghi vấn về lối sống, về
sinh hoạt, về nguồn gốc...; cần làm tốt công
tác quản lí nhân khẩu, đăng kí tạm trú, tạm
vắng...
Các phơng tiện thông tin tuyên truyền
(phát thanh, truyền hình, báo chí...) cần
56 - Tạp chí luật học

tăng cờng tuyên truyền pháp luật, tuyên
truyền về cách thức, phơng thức, thủ đoạn
trốn tránh pháp luật mà tội phạm thờng áp
dụng. Cần tăng cờng trách nhiệm tố giác
tội phạm trong nhân dân để mọi ngời dân
hiểu rằng tố giác tội phạm là trách nhiệm
của mọi ngời vì cuộc sống yên lành của
chính mình. Cần xóa bỏ tâm lí coi thiệt hại
do tội phạm gây ra là không đáng kể, là rủi

ro trong nhân dân, giúp họ thấy rằng họ
phải có ý thức trách nhiêm hợp tác với các
cơ quan bảo vệ pháp luật để xử lí kẻ phạm
tội, không căn cứ vào thiệt hại nhiều hay ít
mà vấn đề ở chỗ đ phạm tội phải bị trừng
trị. Cần phát huy hơn nữa vai trò của các tổ
chức đoàn thể ở cơ sở (đảng, đoàn thanh
niên, hội phụ nữ, tổ dân phố...) trong việc
tố giác tội phạm hiện nay. Bên cạnh đó
cũng cần phải xây dựng chế độ khen
thởng, khuyến khích vật chất hợp lí nhằm
khuyến khích mọi ngời tham gia tố giác
tội phạm.
- Hoàn thiện các biện pháp bảo đảm
cho việc tố giác tội phạm.
Hoàn thiện hệ thống tiếp nhận và xử lí
thông tin về tội phạm. Bảo đảm xóa bỏ tâm
lí e ngại của nhân dân khi tiếp xúc với các
cơ quan pháp luật. Hiện nay ở các thành
phố lớn nh Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh đ xây dựng rất nhiều hình thức tiếp
nhận thông tin về tội phạm nh các hòm
th tố giác tội phạm, các hộp th nóng, các
số điện thoại nóng ở các báo nh Báo công
an nhân dân, Báo an ninh thủ đô, Báo công
an thành phố Hồ Chí Minh..., cần phải tổng
kết mà mở rộng các hình thức này và có cơ
chế phân loại xử lí thông tin kịp thời. Một
vấn đề nữa là cần xây dựng các biện pháp
bảo đảm an toàn cho ngời tố giác tội

phạm, cho nạn nhân và ngời làm chứng.
Hiện nay, ở nhiều nớc trên thế giới đ
thiết lập các tổ chức nh lực lợng cảnh sát
bảo vệ nhân chứng (Mĩ) hay tổ chức trợ
giúp nạn nhân tội phạm (Nhật Bản, úc).
Đây là các tổ chức rất cần thiết giúp xóa bỏ


nghiên cứu - trao đổi

tâm lí sợ trả thù, sợ mất nơi làm ăn sinh
sống của nạn nhân và ngời làm chứng
cũng nh tạo điều kiện cho các nạn nhân
trong các tội xâm phạm danh dự, nhân
phẩm có thể thay đổi nơi sinh sống làm ăn,
tránh d luận x hội.
- Tăng cờng hiệu quả hoạt động của
các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đây là biện
pháp hữu hiệu trong việc giảm số lợng tội
phạm ẩn. Cần phải "khắc phục những biểu
hiện hữu khuynh trong đấu tranh tội phạm
đồng thời chống tình trạng bắt và giam giữ
oan sai, xét sử công minh, vi phạm quyền
dân chủ của công dân"(13). Trớc hết cần
nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ
điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và
các chức danh t pháp khác. Nhà nớc cần
tạo điều kiện cần thiết hỗ trợ cho hoạt động
của họ nh chế độ tiền lơng, chế độ khen
thởng, công tác bảo vệ an toàn cho ngời

thân trong gia đình họ. Việc trang bị các
phơng tiện phục vụ công tác điều tra phá
án, truy bắt tội phạm, cũng nh trong công
tác xét xử, thi hành án là rất cần thiết.
Những năm qua, tình hình tội phạm trở nên
rất nghiêm trọng và phức tạp cả về quy mô
và tính chất phạm tội nhất là các tội giết
ngời, cớp, nhóm tội liên quan đến ma
túy... do kẻ phạm tội thu lợi bất chính lớn
nên chúng có điều kiện trang bị những
phơng tiện hiện đại để trốn tránh hoặc
chống trả quyết liệt các lực lợng thi hành
công vụ. Nếu các cơ quan bảo vệ pháp luật
không đợc trang bị đầy đủ thì khó có thể
hoàn thành tốt công tác phát hiện, điều tra,
truy bắt tội phạm đồng thời sẽ rất nguy
hiểm khi phải đối mặt trực tiếp với kẻ
phạm tội liều lĩnh và có trang bị đầy đủ.
Cần có chế độ đ i ngộ đặc biệt đối với
ngời có công, những ngời hi sinh hay bị
thơng khi đang làm nhiệm vụ để động
viên, khuyến khích phong trào đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm nói chung.

Bên cạnh việc tạo các điều kiện vật
chất, trang thiết bị cho các cơ quan bảo vệ
pháp luật, Nhà nớc cũng cần phải xử lí
nghiêm minh những cá nhân phạm các tội
xâm phạm hoạt động t pháp, bởi hành vi
phạm tội này không chỉ làm ảnh hởng đến

uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật,
ảnh hởng đến pháp chế XHCN làm mất
lòng tin trong nhân dân mà còn tạo điều
kiện cho số lợng lớn tội phạm trốn tránh
đợc sự trừng trị của pháp luật.
Tóm lại, công cuộc đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm nói chung, cũng nh
phòng chống tội phạm ẩn nói riêng cần
đợc tiến hành đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau.
Đây là cuộc đấu tranh chung của toàn
Đảng, toàn dân và chỉ trên cơ sở phối hợp
chặt chẽ hoạt động của các cơ quan hành
pháp với sự tham gia đông đảo của nhân
dân mà trong đó phải kể đến các nạn nhân,
những ngời làm chứng thì mới đạt đợc
hiệu quả cao nhất, từ đó mới có thể làm
giảm tối đa số lợng tội phạm ẩn./.
(1).Xem: V.M. Cogan - Các đặc tính x hội của tình
trạng phạm tội. Nxb. Matxcơva, 1977, tr.48.
(2).Xem: Tội phạm học, luật hình sự, luật tố tụng hình
sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1955; "Giáo
trình tội phạm học", Khoa luật - Đại học KHXH&NV.
(3).Xem: Từ điển tiếng Việt, Nxb.KHXH, H.1994.
(4).Xem: Bốn kiểu cớp mới của bọn tội phạm. Đặc
san Báo công an thành phố Hồ Chí Minh số ra ngày
13/09/1997, tr.30.
(5); (7). Xem: Đặc san Báo công an thành phố Hồ Chí
Minh số ra ngày 09/08/1997, tr.35.
(6).Xem: Báo pháp luật số 42 ngày 13/03/2000.
(8).Xem: Tạp chí tòa án nhân dân số 1/1998, tr.26.

(9).Xem: Đặc san Báo công an thành phố Hồ Chí
Minh số ra ngày 26/07/1997, tr.33.
(10).Xem: Viện nghiên cứu khoa học pháp lí - Bộ t
pháp. T pháp hình sự so sánh, H.1999, tr.41.
(11).Xem: Đặc san Báo công an thành phố Hồ Chí
Minh số ra ngày 13/09/1997.
(12).Xem: Điều 3 BLHS
(13).Xem: Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện hội
nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ơng khóa VIII,
Nxb. CTQG, H.1997, tr.56.

Tạp chí luật học - 57



×