Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo vấn đề hôn nhân thực tế theo luật hôn nhân và gia đình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.45 KB, 6 trang )

nghiên cứu - trao đổi

Vấn đề hôn nhân thực tế theo
luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
thS. Nguyễn Văn Cừ *

1. Hôn nhân thực tế là thuật ngữ
pháp lí để chỉ những trờng hợp hai bên
nam nữ chung sống trong quan hệ vợ
chồng, đ đợc gia đình, x hội thừa nhận
nhng cha đăng kí kết hôn tại cơ quan
hộ tịch, cha đợc cấp giấy chứng nhận
kết hôn. Khi có tranh chấp, các đơng sự
thờng yêu cầu tòa án công nhận giữa họ
có hôn nhân thực tế để bảo đảm quyền
lợi của mình. Đ qua hàng chục năm áp
dụng Luật HN&GĐ nhng cho đến nay,
xét cả về mặt học lí và thực tế áp dụng
vẫn còn nhiều quan điểm, nhận thức khác
nhau về hôn nhân thực tế.
2. Do nhiều yếu tố, đặc biệt là thực tế
cuộc sống trong lĩnh vực HN&GĐ trong
mấy chục năm vừa qua, pháp luật
HN&GĐ của Nhà nớc ta đ ở mức độ
này hay mức độ khác, công nhận có hôn
nhân thực tế nhằm bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các đơng sự.
2.1. Do ảnh hởng của phong tục, tập
quán trong x hội phong kiến, theo tập
quán, các nghi lễ về giá thú ngày nay đại
thể đều là các nghi lễ đ đợc quy định từ


thời phong kiến. Trớc đây, luật nhà Lê
trù liệu bốn nghi lễ về giá thú nh sau:
- Lễ nghị hôn (nay gọi là lễ chạm mặt
hay lễ dạm);
- Lễ định thân (nay gọi là lễ vấn
danh);
- Lễ nạp chng (nay gọi là lễ hành
sính);
- Lễ thân nghinh (nay gọi là lễ nghinh
hôn).
Theo Bộ dân luật giản yếu (1883) áp
dụng ở Nam Kì, tại Thiên thứ V nói về

8 - tạp chí luật học

sự cử hành hôn lễ và bằng chứng giá
thú, nhà làm luật đ tuyên bố: Để cho
giá thú có giá trị, cần phải cử hành hôn
lễ theo tục lệ(1). Theo tập quán cho đến
ngày nay, trong đời sống HN&GĐ, quần
chúng nhân dân vẫn thờng tuân theo ba
lễ chính là:
+ Lễ dạm;
+ Lễ vấn danh hay ăn hỏi;
+ Lễ cới hay nghinh hôn.
Với quan niệm hôn nhân là việc quan
trọng của cả đời ngời, không những là
việc t riêng của hai bên nam, nữ mà còn
là việc chung của đại gia đình, dòng họ;
việc tuân theo những nghi lễ đó là bắt

buộc, là đạo hiếu với tổ tiên, cha mẹ,
dòng tộc... từ đó có nhận thức, coi trọng
lễ mà xem nhẹ luật; dẫn đến nhiều
việc kết hôn chỉ cới theo tập quán
mà không đăng kí kết hôn.
2.2. Do ý thức pháp luật của quần
chúng nhân dân còn hạn chế. Bên cạnh
đó, nhiều năm vấn đề kiện toàn cơ quan
nhà nớc có thẩm quyền đăng kí việc kết
hôn cha đợc tiến hành chặt chẽ (đặc
biệt là ở vùng đồng bào dân tộc miền núi,
vùng hải đảo xa xôi, đồng bào theo
đạo...); cha thấy hết giá trị pháp lí của
giấy chứng nhận kết hôn" và ý nghĩa của
thủ tục đăng kí kết hôn... đ dẫn đến ý
thức coi thờng quy định về thủ tục đăng
kí kết hôn, cũng là nguyên nhân của
nhiều việc "kết hôn" không đăng kí.
2.3. Do điều kiện lịch sử, chiến tranh
* Giảng viên Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi

lâu dài, trong thời gian chiến tranh, nhiều
đôi nam nữ thuận tình chỉ đợc hai bên
gia đình tổ chức lễ cới vội v theo tục lệ
mà không thể thực hiện thủ tục đăng kí
kết hôn tại ủy ban hành chính (nay là ủy

ban nhân dân) và sau ngày cới, ngời
chồng nhập ngũ; trong vùng địch tạm
chiếm, nhiều trờng hợp hai bên nam nữ
đợc tổ chức cách mạng cho phép "cới"
mà không thể đăng kí kết hôn... Sau ngày
đất nớc thống nhất, nhiều trờng hợp vợ
chồng đoàn tụ sum họp, chung sống hạnh
phúc nhng "không có đăng kí kết hôn",
có trờng hợp sau năm 1954, một số cán
bộ, bộ đội ở miền Nam tập kết ra miền
Bắc. Thời gian tập kết, dù đ có vợ,
chồng ở trong miền Nam nhng họ lại lấy
vợ, chồng ở miền Bắc, quyền lợi chính
đáng của các đơng sự cần đợc pháp
luật bảo vệ(2).
2.4. Các quan hệ HN&GĐ luôn có
yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể;
đời sống tình cảm trong quan hệ
HN&GĐ đa dạng, phức tạp và rất tế nhị.
Do tác động về mặt tình cảm, tâm lí,
hoàn cảnh éo le của đơng sự cũng dẫn
đến nhiều cuộc "kết hôn mà không đăng
kí". Có trờng hợp vợ chồng đ li hôn chỉ
vì tự ái, sĩ diện, nhng vì thơng con và
vì còn thơng nhau nên họ lại "tái hợp",
chung sống với nhau nhng ngại không
đăng kí kết hôn. Có trờng hợp vì cả hai
ông, bà đ cao tuổi cần nơng tựa vào
nhau mà làm ngơ thủ tục đăng kí kết
hôn...

Cho đến nay việc "kết hôn không
đăng kí" xảy ra khá phổ biến ở hầu khắp
các tỉnh, có địa phơng tỉ lệ chiếm từ
60% - 80%(3).
3. Trong quá trình thực hiện và áp
dụng luật, mặc dù Luật HN&GĐ 1959
(trớc đó là Sắc lệnh số 97-SL ngày
22/05/1950 về sửa đổi một số quy lệ và

chế định trong dân luật) và Luật HN&GĐ
1986 cha có quy định cụ thể về vấn đề
"hôn nhân thực tế" nhng Tòa án nhân
dân tối cao đ có nhiều hớng dẫn về
cách thức giải quyết vấn đề "hôn nhân
thực tế" để tòa án nhân dân các cấp vận
dụng.
3.1. Theo Thông t số 112-NCPL
ngày 19/8/1972 của TANDTC hớng dẫn
đờng lối xử lí việc kết hôn vi phạm luật
nh sau: Chỉ coi là hôn nhân thực tế việc
kết hôn cha đăng kí mà hai bên nam nữ
đ tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn
khác, chỉ vi phạm thủ tục đăng kí kết
hôn. Kể từ khi kết hôn đ thực sự chung
sống công khai, gánh vác chung công
việc gia đình, đợc họ hàng, x hội xung
quanh coi nh vợ chồng.
Có thể coi đoạn hớng dẫn này nh
định nghĩa về "hôn nhân thực tế". Quá
trình áp dụng, tùy vào điều kiện, hoàn

cảnh của các đơng sự theo từng vụ việc
cụ thể để tòa án công nhận là có hay
không có "quan hệ vợ chồng thực tế tồn
tại", nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng
của các đơng sự. Hớng dẫn này không
xác định thời gian "vợ chồng" phải ăn ở,
chung sống với nhau đợc bao nhiêu năm
tháng thì mới có "hôn nhân thực tế".
Thông thờng khi vận dụng, tòa án nhân
dân căn cứ vào ý chí chủ quan của hai
bên nam nữ, họ thực sự thơng yêu nhau,
mong muốn xác lập quan hệ vợ chồng và
căn cứ vào thực tế (khách quan) là họ
chung sống công khai, đ thực hiện nghĩa
vụ vợ chồng, đ đợc gia đình và x hội
thừa nhận là vợ chồng và họ thờng đ có
con chung, có tài sản chung. Đó là các
yếu tố (điều kiện) để công nhận có quan
hệ vợ chồng thực tế.
Theo chúng tôi, hớng dẫn này của
Tòa án nhân dân tối cao rất phù hợp với
thực tế đời sống HN&GĐ, phù hợp cả với
Tạp chí luật học - 9


nghiên cứu - trao đổi

tập quán trong x hội.
Tiếp đó, Thông t số 81-DS ngày
27/4/1981 của TANDTC hớng dẫn giải

quyết các tranh chấp về thừa kế đ ghi
nhận: Trờng hợp hai bên nam nữ chung
sống nh vợ chồng có đủ điều kiện công
nhận "hôn nhân thực tế", khi một bên
chết trớc, ngời còn sống với t cách là
vợ góa, chồng góa của ngời chết, sẽ
đợc hởng thừa kế theo luật ở hàng thứ
nhất, cùng với cha, mẹ và các con của
ngời chết.
3.2. Điều 9 Luật HN&GĐ năm 1986
quy định: "Việc kết hôn vi phạm một
trong các điều 5, 6, 7 của Luật này là trái
pháp luật, tòa án nhân dân có quyền hủy
việc kết hôn trái pháp luật đó". Quy định
này theo chúng tôi, thực chất đ chấp
nhận có "hôn nhân thực tế"; vì tại Điều 8
(đoạn cuối) vừa quy định "mọi nghi thức
kết hôn khác đều không có giá trị pháp
lí". Chính vì kĩ thuật lập pháp nh vậy đ
dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về
"hôn nhân thực tế".
Dựa vào Điều 9 Luật HN&GĐ năm
1986, Nghị quyết số 01-NQ/HĐTP ngày
20/1/1988 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hớng dẫn TAND các cấp áp
dụng một số quy định của Luật HN&GĐ
năm 1986, ở mục kết hôn vi phạm Điều 8
đ chỉ rõ: Nếu việc kết hôn không trái với
một trong các điều 5, 6, 7 của Luật
HN&GĐ thì không bị coi là trái pháp

luật. Khi có tranh chấp, một hoặc hai bên
yêu cầu chấm dứt hôn nhân, tòa án không
hủy việc kết hôn đó mà áp dụng Điều 40
(về li hôn) để xét xử. Theo chúng tôi,
cách hớng dẫn này của TANDTC đ dẫn
đến nhiều cách hiểu khác nhau đối với
các thẩm phán trong quá trình vận dụng.
Hiểu nh thế nào là việc "kết hôn" dù
cha đăng kí kết hôn lại không bị coi là
trái pháp luật? Nếu việc "kết hôn" không

10 - tạp chí luật học

vi phạm một trong các điều 5, 6, 7 của
Luật HN&GĐ (cũng có thể hiểu là đ
tuân thủ các điều 5, 6, 7) thì đợc coi là
hợp pháp hay không? Thực chất, hớng
dẫn trên đây của TANDTC là công nhận
có hay không có "hôn nhân thực tế" để
giải quyết các hậu quả pháp lí nảy sinh từ
việc "chung sống nh vợ chồng" mà
không đăng kí kết hôn. Vậy, tại sao Nghị
quyết số 01 không sử dụng thuật ngữ
"hôn nhân thực tế" đ đợc áp dụng
nhiều năm mà lại sử dụng cụm từ "thì
không bị coi là trái pháp luật"?
Hớng dẫn này của Nghị quyết số 01NQ/HĐTP đ mở rộng điều kiện để công
nhận "hôn nhân thực tế", theo chúng tôi
là không sát thực nh Thông t số 112
ngày 19/8/1972 của TANDTC trớc đây.

Trên thực tế, nhiều trờng hợp hai bên
nam nữ ăn ở, chung sống với nhau nh vợ
chồng, không vi phạm một trong các điều
5, 6, 7 của Luật HN&GĐ nhng vẫn
không đủ điều kiện để công nhận có "hôn
nhân thực tế". Với những cách hiểu
không thống nhất, dễ dẫn đến tình trạng
vận dụng tùy tiện trong xét xử của các
cấp tòa án nh cùng một vụ việc với nội
dung nh nhau, có trờng hợp đợc tòa
án công nhận là "hôn nhân thực tế", có
trờng hợp lại bác đơn yêu cầu của đơng
sự!
3.3. Theo kết luận của Chánh án
TANDTC tại báo cáo tổng kết công tác
ngành tòa án năm 1995 đ hớng dẫn với
quan điểm: Sau nhiều năm thực hiện Luật
HN&GĐ, ý thức pháp luật của nhân dân
đ đợc nâng cao, tiến tới xu hớng xóa
bỏ tình trạng "hôn nhân thực tế". Giai
đoạn hiện nay chỉ công nhận có "hôn
nhân thực tế" đối với những trờng hợp
hai bên nam nữ đ chung sống với nhau
đợc hàng chục năm hoặc có con chung,
tài sản chung. Nh vậy, hớng dẫn này đ


nghiên cứu - trao đổi

"định lợng" về mặt thời gian chung sống

nh vợ chồng của nam nữ "kết hôn"
không đăng kí là "hàng chục năm", phần
nào đ bó hẹp điều kiện công nhận có
"hôn nhân thực tế'. Khi vận dụng, có
thẩm phán cho rằng chí ít đơng sự phải
chung sống trong quan hệ vợ chồng với
nhau từ 10 năm trở lên! Trái lại, nh
chúng ta đ biết, tình trạng nam nữ chung
sống nh vợ chồng mà không đăng kí kết
hôn xảy ra ngày càng phổ biến, với tỉ lệ
cao và thời gian chung sống cha nhiều(4).
3.4. Theo tinh thần của điểm 2, 3 mục
IV Văn bản số 16 ngày 1/2/1999 của
TANDTC hớng dẫn về việc li hôn không
có đăng kí kết hôn đ nêu rõ: Hớng dẫn
của Hội đồng thẩm phán TANDTC tại
Nghị quyết số 01 ngày 20/1/1988 và kết
luận của chánh án TANDTC tại Hội nghị
tổng kết công tác ngành tòa án năm 1995
hớng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật HN&GĐ về việc kết hôn không
đăng kí có vi phạm về thủ tục kết hôn
nhng không coi là trái pháp luật. Nếu có
một hoặc hai bên xin li hôn thì tòa án xử
nh việc li hôn theo Điều 40, chỉ đợc áp
dụng đối với những trờng hợp mà hai
bên nam nữ đ chung sống với nhau trớc
ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu
lực pháp luật (3/1/1987). Đối với những
trờng hợp nam nữ chung sống nh vợ

chồng từ sau ngày 3/1/1987 mà không
đăng kí kết hôn, nếu có yêu cầu công
nhận là "hôn nhân thực tế" hoặc yêu cầu
li hôn thì tòa án không giải quyết. Trờng
hợp có tranh chấp về tài sản, về con thì
tòa án áp dụng Điều 9 Luật HN&GĐ và
các quy định tơng ứng của BLDS.
Sau hơn 10 năm thực hiện Luật
HN&GĐ năm 1986, TANDTC đ có
nhiều hớng dẫn giải quyết vấn đề "hôn
nhân thực tế", chúng tôi thấy rằng những
hớng dẫn này đ không có tính nhất

quán về các điều kiện để xác định là có
"hôn nhân thực tế" hay không đ dẫn tới
nhiều cách hiểu khác nhau của các cấp
tòa án trong quá trình áp dụng. Ví dụ: Tại
Báo cáo tổng kết công tác ngành tòa án
năm 1995 đơn cử vụ kiện về "hôn nhân
thực tế" của một cặp vợ chồng đợc gia
đình tổ chức lễ cới theo tục lệ (không
đăng kí kết hôn) mới đợc 24 ngày thì
ngời chồng chết. Cả hai cấp tòa án sơ
thẩm và phúc thẩm đều công nhận có
"hôn nhân thực tế". Bản án có hiệu lực
pháp luật này của TAND thành phố Hồ
Chí Minh đ bị phó chánh án TANDTC
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
với quan điểm không có "hôn nhân thực
tế" trong trờng hợp này vì họ chung

sống với nhau đợc rất ít ngày (24 ngày)!
Với những quan điểm khác nhau (áp
dụng theo hớng dẫn nào của TANDTC)
của các cấp tòa án dễ dẫn đến việc tùy
tiện trong xét xử và nh vậy sẽ ảnh hởng
trực tiếp tới quyền lợi của đơng sự, sự
ổn định của các quan hệ HN&GĐ. Chúng
ta biết rằng theo nguyên tắc chung việc
tòa án công nhận là có hay không có
"hôn nhân thực tế", tức là có hay không
quan hệ vợ chồng, là cơ sở để giải quyết
các quan hệ về tài sản, về cấp dỡng, về
con cái, về thừa kế, về các món nợ của vợ
chồng đối với ngời khác, về hủy việc kết
hôn trái pháp luật... Vì trong lĩnh vực
HN&GĐ, các quan hệ nhân thân quyết
định nội dung của các quan hệ tài sản
giữa các thành viên trong gia đình.
3.5. Theo Báo cáo tổng kết công tác
của ngành tòa án năm 1999, một lần nữa
TANDTC chỉ rõ: Vấn đề kết hôn không
đăng kí xảy ra ngày càng phổ biến ở nớc
ta, nhất là giai đoạn hiện nay khi đời sống
x hội đang phát triển và chịu tác động
của cơ chế thị trờng... "Một số tòa án,
vẫn thụ lí và giải quyết theo tinh thần của
Tạp chí luật học - 11


nghiên cứu - trao đổi


Nghị quyết số 01-NQ/HĐTP ngày
20/1/1988 là trờng hợp vợ chồng không
đăng kí kết hôn, vi phạm Điều 8 nhng
không vi phạm các điều 5, 6, 7 của Luật
HN&GĐ thì tòa án không hủy việc kết
hôn theo Điều 9 mà xử li hôn theo Điều
40 Luật HN&GĐ. Xét về nguyên tắc pháp
luật thì Nghị quyết của Hội đồng thẩm
phán TANDTC là văn bản có giá trị pháp
lí cao hơn".
Trong Báo cáo tổng kết công tác
ngành tòa án năm 1999 cũng đ khẳng
định: Để góp phần ổn định x hội, trong
khi chờ hớng dẫn liên tịch của
TANDTC và VKSNDTC cũng nh việc
chờ Nhà nớc sửa đổi bổ sung luật
HN&GĐ mới, các tòa án các cấp cần
thực hiện đúng tinh thần của Nghị quyết
số 01-NQ/HĐTP ngày 20/1/1988 và kết
luận của Chánh án TANDTC năm 1995.
Cụ thể là tòa án không thụ lí để giải
quyết theo Điều 40 Luật HN&GĐ mà thụ
lí và giải quyết theo quy định tại Điều 9
Luật HN&GĐ; coi việc kết hôn không
đăng kí là vi phạm pháp luật và xử hủy
việc kết hôn này đồng thời giải quyết việc
nuôi con và tài sản chung (nếu có yêu
cầu)(5).
Theo chúng tôi, hớng dẫn này của

TANDTC là cha chính xác. Vì Nghị
quyết số 01- NQ/HĐTP đ hớng dẫn:
Nếu việc kết hôn không vi phạm một
trong các điều 5, 6, 7 của Luật HN&GĐ
thì không bị coi là trái pháp luật, chỉ vi
phạm thủ tục đăng kí kết hôn; một hoặc
hai bên yêu cầu chấm dứt hôn nhân, tòa
án không hủy việc kết hôn đó mà xử li
hôn theo Điều 40.
4. Theo quan điểm của chúng tôi,
trong giai đoạn hiện nay, vấn đề "hôn
nhân thực tế" không nên công nhận. Bởi
lẽ, việc thực hiện Luật HN&GĐ (kể từ
khi có Luật HN&GĐ năm 1959) cho đến
nay đ trên 40 năm; ý thức pháp luật của

12 - tạp chí luật học

nhân dân không ngừng đợc nâng cao;
những quy định của Luật HN&GĐ trong
đó có quy định về thủ tục đăng kí kết hôn
dần trở thành tập quán tốt đẹp trong x
hội...
Nếu còn thừa nhận tình trạng "hôn
nhân thực tế" sẽ dẫn đến những diễn biến
phức tạp trong đời sống x hội và thực
tiễn áp dụng pháp luật; ý thức coi thờng,
không tuân thủ quy định của luật về thủ
tục đăng kí kết hôn; Nhà nớc khó kiểm
soát đợc vấn đề kết hôn liên quan tới các

thủ tục hành chính khác; và nh vậy, ảnh
hởng tới sự ổn định của các quan hệ x
hội trong lĩnh vực HN&GĐ. Việc công
nhận "hôn nhân thực tế" còn dẫn đến
nhiều cách hiểu và áp dụng pháp luật
khác nhau của các cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền, đ ảnh hởng trực tiếp đến
quyền lợi của đơng sự.
Mặt khác, xét về mặt học thuật, công
nhận "hôn nhân thực tế" còn ảnh hởng
đến việc giải thích pháp luật, làm hạn chế
tính nhất quán của hệ thống khái niệm,
thuật ngữ pháp lí. Ví dụ: Khi "hôn nhân
thực tế" đợc tòa án công nhận thì quan
hệ vợ chồng phát sinh từ khi nào? Từ
ngày... tháng... năm hai bên nam nữ về ăn
ở, chung sống với nhau hay là từ ngày
phán quyết của tòa án công nhận "hôn
nhân thực tế" có hiệu lực pháp luật? vì nó
còn liên quan đến việc xác định tài sản
chung của vợ, chồng, quyền và nghĩa vụ
cấp dỡng, xác định cha cho con... Và
con đợc sinh ra trong quan hệ vợ chồng
thực tế đợc xác định là con trong hay
con ngoài giá thú. Việc xác định con
trong hay con ngoài giá thú chỉ phản ánh
tình trạng hôn nhân của cha mẹ là hợp
pháp hay không hợp pháp. Nếu chúng ta
thừa nhận có "hôn nhân thực tế" thì phải
ghi nhận có "thời kì hôn nhân" (là

khoảng thời gian quan hệ vợ chồng tồn
tại tính từ khi kết hôn cho đến khi hôn
nhân chấm dứt trớc pháp luật). Mà theo


nghiên cứu - trao đổi

cách giải nghĩa một số từ ngữ của Luật
HN&GĐ năm 1986 về con trong và con
ngoài giá thú thì con đợc sinh ra trong
"hôn nhân thực tế", theo chúng tôi là con
sinh ra "trong thời kì hôn nhân" nhng lại
là "con ngoài giá thú"! Xét về thuật ngữ
pháp lí đ không có sự nhất quán.
5. Vừa qua, Quốc hội khóa X, kì họp
thứ 7 ngày 9/6/2000 đ thông qua dự thảo
Luật HN&GĐ (sửa đổi) (gọi là Luật
HN&GĐ năm 2000). Luật gồm 13
chơng, 110 điều là bớc phát triển hoàn
thiện hệ thống pháp luật HN&GĐ của
Nhà nớc ta. Luật sẽ có hiệu lực pháp
luật từ ngày 01/01/2001. Trong đó vấn đề
"hôn nhân thực tế" đ đợc "giải quyết".
Theo khoản 1, đoạn 3, Điều 11 Luật
HN&GĐ năm 2000 quy định: "Nam, nữ
không đăng kí kết hôn mà chung sống với
nhau nh vợ chồng thì không đợc pháp
luật công nhận là vợ chồng".
Nh vậy, theo quy định này, "hôn
nhân thực tế" sẽ không đợc công nhận.

Tuy nhiên, để giải quyết hậu quả tình
trạng "hôn nhân thực tế" trong x hội,
Nghị quyết về việc thi hành Luật
HN&GĐ của Quốc hội đ quy định:
"3. Việc áp dụng quy định tại khoản 1
Điều 11 của Luật này đợc thực hiện nh
sau:
a. Trong trờng hợp quan hệ vợ
chồng đợc xác lập trớc ngày 3/1/1987,
ngày Luật HN&GĐ 1986 có hiệu lực mà
cha đăng kí kết hôn thì đợc khuyến
khích đăng kí kết hôn; trong trờng hợp
có yêu cầu li hôn thì đợc tòa án thụ lí
giải quyết theo quy định về li hôn của
Luật HN&GĐ năm 2000.
b. Nam và nữ chung sống với nhau
nh vợ chồng từ sau ngày 3/1/1987 đến
ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết
hôn theo quy định của Luật này thì có
nghĩa vụ đăng kí kết hôn trong thời hạn

hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực
cho đến ngày 01/01/2003; trong thời hạn
này mà họ không đăng kí kết hôn nhng
có yêu cầu li hôn thì tòa án áp dụng các
quy định về li hôn của Luật HN&GĐ
năm 2000 để giải quyết.
Từ sau ngày 01/1/2003 mà họ không
đăng kí kết hôn thì pháp luật không công
nhận họ là vợ chồng;

c. Kể từ ngày 01/01/2001 trở đi, trừ
trờng hợp đợc quy định tại điểm a, b
khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ
chung sống với nhau nh vợ chồng mà
không đăng kí kết hôn đều không đợc
pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có
yêu cầu li hôn thì tòa án thụ lí và tuyên
bố không công nhận quan hệ vợ chồng;
nếu có yêu cầu về con và tài sản thì tòa
án áp dụng khoản 2, 3 Điều 17 của Luật
HN&GĐ năm 2000 để giải quyết"(6). Nh
vậy, theo các quy định trên đây, Nghị
quyết của Quốc hội đ dành khoảng thời
gian hợp lí, tạo điều kiện cho các cặp
nam nữ chung sống với nhau nh vợ
chồng "hợp pháp hóa" quan hệ hôn nhân
của mình. Đó còn là cơ sở pháp lí để tòa
án giải quyết các tranh chấp về hôn nhân
thực tế cũng nh về hậu quả pháp lí của
nó đợc chính xác, bảo đảm sự thống
nhất khi áp dụng pháp luật./.
(1).Xem: Vũ Văn Mẫu - Việt Nam dân luật lợc
khảo, Quyển I, gia đình, xuất bản 1959.
(2).Xem: Thông t số 60/DS ngày 22/21978 của Tòa
án nhân dân tối cao hớng dẫn giải quyết các tranh
chấp về HN&GĐ của cán bộ, bộ đội ở miền Nam, đ
có vợ, có chồng, sau khi tập kết ra miền Bắc lại lấy
vợ, lấy chồng khác.
(3).Xem: "Báo cáo tổng kết 8 năm kiểm sát thực hiện
Luật HN&GĐ" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

(4), (5).Xem: "Báo cáo tổng kết công tác của ngành
tòa án năm 1999".
(6).Xem: "Nghị quyết về việc thi hành Luật HN&GĐ"
của Quốc hội khóa X, kì họp thứ 7.

Tạp chí luật học - 13



×